1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kinh Dịch: Sắc Màu Thời-Không Tâm Lý (học) hiện đại

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Hoailong, 02/06/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Câu sau đây tương truyền là về mối tình của Đường Bá Hổ - Điểm Thu Hương :

    十口心(思/恖)(思/恖)国(思/恖)家(思/恖)社稷 (3*)
    Thập khẩu tâm tư, tư quốc, tư gia, tư xã tắc
    八目尚賞賞风賞月賞秋香 _
    Bát mục thượng thưởng thưởng phong thưởng nguyệt thưởng Thu Hương.
    ( Chữ thập 十 nằm trong chữ khẩu 口thành chữ điền 田, chữ điền 田trên chữ tâm心 thành chữ 思 tư ( nhớ), nhớ nước, nhớ nhà, nhớ xã tắc/ Chữ mục 目trên chữ bát 八thành chữ bối貝, chữ 貝 nằm dưới chữ thượng thành chữ thưởng (thưởng thức), thưởng gió, thưởng TRĂNG, thưởng Thu Hương (Thu Hương là người tình của Đường Bá Hổ).

    (3*) -Câu này còn một dị bản nữa, tương truyền là của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi – Việt Nam:
    十口心思 思国思家思社稷
    ( Thập khẩu tâm tư, tư quốc, tư gia, tư xã tắc,
    寸心言谢, 谢天谢地谢君王 _
    Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên tạ địa, tạ quân vương)
    ( Chữ thập 十 nằm trong chữ khẩu 口thành chữ điền 田, chữ điền 田trên chữ tâm心 thành chữ 思 tư( nhớ), nhớ nước, nhớ nhà, nhớ xã tắc/ Bộ thốn 寸bên chữ thân 身 thành chữ xạ 射, chữ xạ射 đứng bên chữ言 thành chữ tạ 谢 (ơn), ơn trời, ơn đất, ơn vua).

    Hay một câu thơ HỢP_TỰ(Tích Hợp Hoá) (ghép chữ) về Bác Hồ như sau:
    “....TRĂNG xưa dọi tỏ lòng người
    Treo gương nhật nguyệt cho đời soi chung _
    Tiếp cận một cách sơ lược cứ tưởng đây là một bài ca dao đề cập đến tình yêu nam nữ nhưng khi dùng phép CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) *Chữ Hán (chữ_viết TQ), ta sẽ giúp học sinh khám phá ra những điều lí thú về nghệ thuật chơi chữ của tác giả dân gian:
    TRĂNG xưa dịch từ chữ Cổ nguyệt古 月, cổ 古và nguyệt 月ghép lại thành chữ Hồ胡; lòng người là thầm nói đến chữ sĩ士 và tâm 心, ghép hai chữ này lại ta có chữ Chí 志; còn chữ nhật日 và chữ nguyệt 月ghép lại thành chữ Minh 明Vậy ba chữ CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) từ câu ca dao ra là Hồ Chí Minh. Thật tinh diệu làm sao! Mà cũng thật tài hoa làm sao! (14*)

    Như vậy, khi CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) chữ Hồ, bao giờ cũng xếp chữ “cổ” rồi mới đến chữ “nguyệt”, đúng theo nguyên tắc từ trái sang phải thành “cổ-nguyệt” chứ không phải là từ phải sang trái thành chữ “nguyệt-cổ” như nhà văn Đinh Quyền CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)

    Ví dụ bài thơ CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tập Nhật ký trong tù mà trong bài Đôi điều bàn lại, nhà văn Đinh Quyền đã dẫn:
    折 字
    囚人出去或為國
    患過頭時始見忠
    人有憂愁優點大
    籠開竹閂出真龍
    Phiên âm:
    CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)
    Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc, _
    Hoạn quá đầu thời thủy kiến trung.
    Nhân hữu ưu sầu, ưu điểm đại, _
    Lung khai trúc sản xuất chân long.
    Giải nghĩa:
    Chữ tù (囚giam cầm) bỏ chữ nhân (人) thay chữ hoặc (或) thành chữ quốc (國nước)
    Chữ họan (患 hoạn nạn) bớt (中) phần trên, thành chữ trung (忠 hết lòng vì nghĩa)
    Thêm bộ nhân (亻) vào trước chữ ưu (憂ưu sầu) thành chữ ưu (優ưu điểm) _
    Chữ lung (籠nhà lao) bỏ bộ trúc (竹cây tre), thành chữ long (龍 Rồng)

    Thực tế, trong bốn câu thơ trên của Bác Hồ,i
    câu đầu tiên vừa CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) (bẻ chữ bỏ đi một phần), rồi sau đó lại “HỢP_TỰ(Tích Hợp Hoá)” (ghép chữ, thêm vào một phần).
    Câu thứ hai và thứ tư là dùng phép “CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)” ) bẻ chữ rồi bỏ đi một phần).
    Câu thứ ba là dùng phép “HỢP_TỰ(Tích Hợp Hoá)” ( ghép hai chữ lại với nhau thành chữ mới).

    日月明朝昏, 山风岚自起, 石皮破仍坚, 古木枯不死。
    可人何当来, 千里重意若, 永言詠黄鹤, 士心志未已。
    Nhật nguyệt minh triều hôn, sơn phong lam tự khởi, thạch bì phá nhưng kiên, cổ mộc khô bất tử

    Khả nhân hà đương lai, thiên lý trọng ý nhược, vĩnh ngôn vịnh hoàng hạc, sĩ tâm chí vị dĩ
    (HỢP_TỰ(Tích Hợp Hoá): Chữ nhật 日bên chữ nguyệt 月thành chữ minh 明, chữ sơn山 bên chữ phong 风 thành chữ lam 岚 (mây mù), chữ thạch 石 bên chữ bì 皮 thành chữ phá 破 (phá vỡ), chữ cổ 古 bên chữ mộc木 thành chữ khô枯 (khô hạn), chữ khả 可 bên chữ人 thành chữ hà 何 (từ nghi vấn), chữ thiên千 trên chữ lý 里 thành chữ trọng重 (còn có khi lại gọi là chữ trùng), chữ vĩnh永 bên chữ ngôn言thành chữ vịnh詠 ( ngâm vịnh), chữ sĩ 士 trên chữ tâm 心 là chữ chí志)
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Đôi điều về CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ):
    Như nhà văn Đinh Quyền đã giới thiệu, chữ “chiết折” trong tiếng Hán có nhiều nghĩa,
    nhưng trong tất cả các Từ điển, nghĩa thứ nhất bao giờ cũng là: gãy, bẻ, bẻ gãy, làm gãy 1 (*) 2--CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ): Phân tích *Chữ Hán (chữ_viết TQ) ra từng nét, từng bộ, căn cứ vào nghĩa của chúng mà đoán định lành dữ. theo mê tín.; 2- Dựa theo nghĩa của các thành tố cấu tạo mà giải nghĩa của từ hoặc tổ hợp từ.(Đại từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý chủ biên-Nhà XB VHTT-1998(*),
    từ “CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)”2(*). Tham khảo trên mạng internet, mở trang Google, đánh chữ “CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)” mà tìm, sau 0, 43 giây, sẽ có 59500 kết quả xuất hiện. Đa số đều coi CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) là một cách chơi chữ theo kiểu bẻ chữ. Họ giải thích: “Chiết: Bẻ gãy. Tự: chữ, ý nói chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ). CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) là phân tách một chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ) ra làm nhiều thành phần, giải thích ý nghĩa của mỗi thành phần, và sau rốt giải thích ý nghĩa của toàn chữ.” (caodaism.org). Nếu đánh chữ “ 折字 – CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)”, sau 0, 41 giây sẽ có 234.000.000 kết quả. Tuy nhiên, các kết quả này không chỉ riêng nói về chữ “折字”, mà còn nói về các chủ đề liên quan đến chữ “折- chiết” và chữ “字- tự”, nhưng với con số hàng trăm triệu như vậy cũng có thể nói là quá nhiều.

    Theo Đại Từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý chủ biên (Nhà XB VHTT-1998) thì “CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)” có hai nghĩa.
    Nghĩa thứ nhất là Phân tích *Chữ Hán (chữ_viết TQ) ra từng nét, từng bộ, căn cứ vào nghĩa của chúng mà đoán định lành dữ. theo mê tín.Ngày xưa, các thày xem bói thường dùng phương pháp CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) danh tính hoặc một chữ ngẫu nhiên mà khách hàng viết ra để đoán vận mệnh. Nhưng ngày nay ít dùng hơn.
    Nghĩa thứ hai của “ CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)” là : “Dựa theo nghĩa của các thành tố cấu tạo mà giải nghĩa của từ hoặc tổ hợp từ.” Thực tế đây là một trò chơi chữ, người ta ứng dụng trong thơ, văn, câu đối, hò, vè, ca dao, câu đố…giúp giải trí và tạo điều kiện cho người học *Chữ Hán (chữ_viết TQ) nhớ mặt chữ lâu.

    Ví dụ câu:
    “ Chim chích mà đỗ cành tre/Thập trên tứ dưới, nhất đè chữ tâm” là nói về chữ “Đức - 德”.
    Còn câu “ Chữ lập đập chữ viết, chữ viết ức hiếp chữ thập” là nói về chữ “Chương-章”.
    Câu đố: “ Hỡi anh cắp sách đi thi, Ba xe chập lại chữ gì hỡi anh?” là câu đố về chữ “Oanh - 轟”.
    ----------------------
    (*)1- Tham khảo nghĩa của từ 折Chiết:
    折: Chiết: nghĩa đầu tiên :1-Gãy, bẻ, bẻ gãy, làm gãy; 2-Tổn thất; 3- cong; quanh co; 4- quay lạil; 5- gấp lại. xếp lai… (Từ điển Trung Việt – GS Lê Đức Niệm, NXB Giáo dục 1993
    折: Chiết: 1-Gãy, bẻ, bẻ gãy, làm gãy; 2.tổn thất, hao tổn; 3.cong, quanh co, vòng vèo; 4.Quay lại, quay về, trở lại, chuyển; 5. thuyết phục, tin phục; 6. đổi ra, đổi thành, 7; chiết khấu, giảm giá, chiết giá; 8 màn, lớp kịch; 9, xếp lại, gấp lại; 10- quyển sổ tay, sổ gấp; 11.chết, chết yểu, tử vong, bỏ mạng;12, phán đoán, xem xét, quyết định; 13. ngăn chặn, chặn; 14- giày vò, dằn văt; 15- hủy hoại, phá hoại, hủy (Từ điển Lạc Việt mtd10-CVH )
    折: Chiết: 1-đứt, gãy, 2- tổn thất, 3- ngoằn ngoèo, 4- thay đổi phương hướng, 5- kính phục, 6- đổi, 7- chiết khấu… (Từ điển Hán Việt hiện đại – GS Nguyễn Kim Thản, NXB Khoa học xã hội-2008.)
    折: Chiết: Bẻ gãy, chịu khuất, phán xử, chết non (Hán Việt Từ điển – Đào Duy Anh.-1931)
    折: Chiết: Bẻ gãy, phân rõ ra, chịu khuất, phân xử, chết non (Từ điển Hán Việt – Nguyễn Bích Hằng, Trần thị Thanh Liêm chủ biên- NXB Thế giới 2006

    (*) 2--CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ): Phân tích *Chữ Hán (chữ_viết TQ) ra từng nét, từng bộ, căn cứ vào nghĩa của chúng mà đoán định lành dữ. theo mê tín.; 2- Dựa theo nghĩa của các thành tố cấu tạo mà giải nghĩa của từ hoặc tổ hợp từ.(Đại từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý chủ biên-Nhà XB VHTT-1998)
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Kho tàng văn học Việt Nam có nhiều giai thoại, bài văn, bài thơ, câu phú, câu đối… về “CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ)”

    Xin trích lại đoạn chuyện về Hồ Xuân Hương như sau:
    “… Cũng có lẽ bởi cái khẩu khí ngang tàng khí khái đó mà đường hạnh phúc riêng của bà khá lận đận, để sau này Chiêu Hổ viết cho bà:
    Người Cổ lại còn đeo thói Nguyệt
    Buồng Xuân sao để lạnh mùi Hương.
    Chữ Cổ 古, chữ Nguyệt 月 ghép lại thành chữ Hồ 胡, chữ Xuân 春, chữ Hương 香ở câu sau thì ghép thành tên của nữ sĩ.
    Chiêu Hổ dùng chữ cũng tài tình lắm thay… (Tản mạn với những giai thoại về câu đối.- Ngữ Thiên).

    Hay Xin kể một cách chơi chữ rất hình tượng, rất tinh tế qua câu chuyện sau đây:
    Có một gia đình trong năm qua có nhiều điều không may mắn, làm ăn không yên, trộm cắp dòm ngó lấy đi của cải, người thì hay bị ốm đau. Chủ nhà mới đến xin thày đồ nho một bức tranh chữ để treo trong nhà. Trưa nắng, thày đồ cùng cô con gái mặc áo tứ thân, đội nón thúng quai thao sang nhà ông chủ nọ. Bức tranh chữ mà cô gái bưng sang được bọc giấy kín. Khi chủ nhà tiếp đãi cơm rượu, nước non thịnh soạn xong, thày đồ mới trịnh trọng tháo bức tranh chữ ra. Chủ nhà thấy bức tranh một cô gái quan họ xinh đẹp, đội nón thúng quai thao, đứng e lệ dưới cành liễu rủ, bên bờ hồ nước xanh thơ mộng. Nhìn mãi, chả thấy một chữ nào. Bấy giờ chủ nhà mới hỏi: “Thưa thầy, tôi muốn xin thầy một bức tranh chữ, sao chả thấy chữ đâu?”. Thày đồ mới cười nói: “Biết gia cảnh nhà ông năm qua gặp nhiều rủi ro, có nhiều biến động, tôi xin biếu ông chữ AN. Mong nhà ông năm tới bình an vô sự.”.
    Chủ nhà nhìn kỹ, tìm chả thấy chữ AN ở đâu, bấy giờ thày đồ mới nói: “ Hôm nay tôi cùng cô con gái sang thăm ông là mang chữ An đến nhà. Này nhé, cháu đội nón, ông xem có giống bộ “miên” không? Dưới cái nón là cháu gái tôi, đó là bộ “nữ”. Bộ “miên” trên bộ nữ thì chả đúng chữ AN là gì. Tôi lại biếu ông bức tranh cô gái đội nón cũng là chữ AN đấy thôi!”. Bấy giờ cả nhà mới ồ lên, trịnh trong treo chữ AN ẩn trong bức tranh tố nữ lên tường.
    Trích:
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Trong Kho tàng văn học trung cổ đại Việt Nam có nhiều giai thoại, bài văn, bài thơ, câu phú, câu đối… về CHIẾT_TỰ(Dị Biệt Hoá từ) ( bẻ chữ) và “HỢP_TỰ(Tích Hợp Hoá)” (ghép chữ)
    Nhưng do khuôn khổ & ~ tiêu chí của các bài viết; việc trình bày có hạn, xin không nêu ở đây mà sẽ nêu ở ~ dịp khác.
    _ _

    Lời fi lộ:
    Các thuật ngữ trong bài viết tương lai sẽ có đính kèm theo các từ Hán *Chữ Hán (chữ_viết TQ) dùng để minh họa.

    Đôi điều về ngôn ngữ Việt: Thế chân vạc của ngôn ngữ & văn tự/CHỮ_VIẾT VN:
    Con người vượt khỏi thế giới loài vật vì truyền thông được tình và ý cho nhau bằng ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ cá nhân có thể sống kinh nghiệm của mọi người. Ngôn ngữ ghi lại thành văn tự. Nhờ văn tự/CHỮ_VIẾT cá nhân có thể sống kinh nghiệm của muôn đời.

    K0 có ngôn ngữ thì K0 có ý thức. Mỗi người cảm xúc, tri giác, tư tưởng, và hành động trong khuôn đúc của ngôn ngữ mình. Ngôn ngữ là khả năng trừu tượng hoá bằng thanh âm của một dân tộc. Mỗi dân tộc sống trong một hoàn cảnh riêng, có kinh nghiệm đối đãi riêng nên cũng có ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ chính là cái triết lí tiềm ẩn chung của dân tộc.

    Tất cả văn hoá xây trên nền tảng truyền thống giữa người và người, tức là trên ngôn ngữ. Khoa ngữ học nghiên cứu dụng cụ của văn hoá mới xuất hiện từ cuối thế kỉ 19 nhưng đã mở nhiều chân trời mới cho tâm lí, triết, và khoa học nhân văn.

    Xây dựng văn hoá Việt phải bắt đầu từ sự cứu xét cho ngôn ngữ và văn tự/CHỮ_VIẾT Việt, là gạch ngói vôi vữa của văn hoá đó.

    Hiện người ta chưa tìm được nguồn gốc của ngôn ngữ; chỉ biết rằng ngôn ngữ được phát minh nửa triệu năm trước đây cho con người biết sử dụng khí cụ để biến đổi thiên nhiên, tức là bắt đầu lao động. Tiếng nói thuở ban sơ là những tiếng kêu đi kèm với những cử chỉ, rồi tiến hoá dần thành những âm thanh mang ý nghĩa.

    Tiếng nói bao giờ cũng quan trọng hơn CHỮ_VIẾT. Kinh thánh Do-thái còn cho rằng khởi đầu vũ trụ là tiếng nói (logos). Tiếng nói là một sinh hoạt, trong khi CHỮ_VIẾT là một vật thể. Tiếng nói có trước, khởi nguồn cho, và độc lập với CHỮ_VIẾT.

    Tiếng nói phổ quát và phong phú hơn CHỮ_VIẾT. Dân tộc nào cũng có ngôn ngữ, mà rất ít dân tộc có văn tự. Số người mù chữ trên thế giới nhiều gấp bội số người câm.

    CHỮ_VIẾT cổ nhất mới có cách đây năm ngàn năm. CHỮ_VIẾT lúc đầu là vật (que, sỏi, nút dây…), K0 liên hệ đến tiếng nói. CHỮ_VIẾT diễn tả tiếng nói có hai dòng chính: một là chỉ ý; và hai là chỉ âm.

    Cũng như tiếng nói được coi là tặng phẩm của trời, văn-tự(CHỮ_VIẾT) lúc đầu giữ vẹn tính chất linh thiêng. Cách đây năm chục năm chữ nghĩa ở nước ta còn là của thánh hiền; và tờ giấy có chữ chỉ có thể mang hoá chứ K0 được dùng vào việc gì khác.
    (còn Tiếp)
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Đôi điều về ngôn ngữ Việt: Thế chân vạc của ngôn ngữ & văn tự/CHỮ_VIẾT VN:
    (Tiếp)
    Tất cả gia tài minh triết của một dân tộc lưu truyền bằng miệng. Đến khi có văn tự, gia tài này được ghi lại trước tiên bằng văn tự/CHỮ_VIẾT đó là linh tự của kinh điển.

    Linh tự lúc đầu là độc quyền của lớp vu nghiễn tăng lữ. Đó là hieroGlyph của Ai-cập giữ lại trongTử Thư; chữ Phạn của Ấn độ giữ lại trong kinh Vệ đà, Áo nghĩa (Upanishads)…

    Linh tự lúc đầu đều là chữ tượng hình hay chỉ ý, nên K0 tiện áp dụng cho việc giao dịch thường ngày. Người ta sáng chế một loại chữ tỉnh lược để đáp ứng nhu cầu.
    Hai loại văn tự/CHỮ_VIẾT này được dùng song song: một cho việc thiêng liêng, một cho việc thế tục.

    Phát minh kí hiệu chỉ âm là kết quả của một cuộc cách mạng trường kì đã đảo lộn hoàn toàn ngôn ngữ và văn tự/CHỮ_VIẾT.
    Chữ nghĩa trở thành phổ thông nhưng K0 còn hồn nữa, vì mọi kí hiệu K0 còn liên hệ gì tới thực tại.

    Ai-cập mất linh tự khi Macédoine, La-mã, rồi Kitô giáo đồng hoá. văn tự/CHỮ_VIẾT Tây-phương bắt đầu từ đây qua Hi-lạp chịu chung số phận đó. Người du ca aède là Homère, kẻ cuối cùng giữ được cái minh triết truyền khẩu Hi-lạp, đánh dấu sự truỵ lạc của tâm linh và mở đầu nền văn minh cơ giới Địa-trung-hải.

    Các nước Đông-phương đều ở thế khập khiễng: linh tự bỏ quên, mà theo Tây tự cũng K0 được.

    Nước Việt do vận mệnh của lịch sử là dân tộc độc nhất hiện nay trên thế giới giữ được thế chân vạc giữa ngôn ngữ và văn tự.
    Thế chân vạc đó là tiếng Việt − chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ) − chữ Abc, thay thế cho tiếng Việt − chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ) − chữ Nôm trước đây.

    Tiếng Việt là ngôn ngữ phong phú nhất, chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ) của người Việt là linh tự huyền vi nhất, chữ Abc của người Việt hợp lí và dễ dàng nhất.

    Sự tổng hợp kì diệu đó sẽ là dụng cụ tuyệt vời để người Việt sinh động với thực tại bằng tiếng Việt, kết nối với quá khứ theo chiều dọc bằng chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ), và mở rộng theo chiều ngang bằng chữ Abc.

    Thế chân vạc đó sẽ giúp nòi Việt làm được cuộc tổng hợp văn hoá mà thế giới đang chờ đợi.
    (còn Tiếp)
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Đôi điều về ngôn ngữ Việt: Thế chân vạc của ngôn ngữ & văn tự/CHỮ_VIẾT VN:
    ( Tiếp)

    I _ Tiếng Việt


    Cho đến nay nguồn gốc và tương quan giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ tại Đông nam Á vẫn chưa được minh chứng một cách khoa học. Chỉ chắc một điều là ngôn ngữ hiện còn dùng gần gũi với tiếng Việt nhất là tiếng Mường. Sự kiện này chứng tỏ người Mường là một bộ lạc Việt xưa dời lên vùng núi và ngôn ngữ ít bị pha trộn vì tiến hoá.

    Trong ba ngôn ngữ chính ở Đông nam Á là (1) Austronésien, (2) Môn−Khmer, và(3) Hoa−Tạng, người ta K0 thể xếp tiếng Việt vào hẳn họ nào.
    Logan, Forbes, Muller, Ruhn…trong hậu bán thế kỉ 19 cho tiếng Việt thuộc ngữ tộc Môn−Khmer cùng với Chàm.
    Wilhelm Schmidt (1907) kết hợp tất cả ngôn ngữ Đông nam Á trong một đại ngữ tộc.
    Haudricourt (1946) và Martinet cho tiếng Việt nằm trong họ Úc−Á. Georges Maspéro (1952) nêu tương quan Thái −Việt.

    Khó khăn này gây ra vì tính cách tổng hợp và dung hoá của Việt-ngữ.
    Tiếng Việt có chung một số ngữ vựng thông dụng với Môn−Khmer, Ấn độ, và văn phạm chung với Thái, từ ngữ bác học chung với Trung-hoa.

    Sự vay mượn nà khó có thể xác định ngôn ngữ nào là gốc, vì tiếng Việt có một số điểm tương đồng với tất cả các ngôn ngữ từ Ấn độ đến Thái-bình-dương, nhưng K0 thể quy kết riêng về một nhóm nào.

    Điểm này khiến chúng ta nhớ lại cổ tích thần thoại Bách Việt và một bọc trăm trứng. Tuy nhiên vấn đề nguồn gốc tiếng Việt chỉ có thể giải quyết cùng với nguồn gốc dân tộc Việt.

    Dù sao đi nữa nguồn gốc K0 quan trọng bằng hiện trạng. Chúng ta thử xét lại đại cương vài đặc tính và triết lí tiềm ẩn của tiếng Việt.

    I. − ĐẶC TÍNH:

    Tiếng Việt ngày nay là một ngôn ngữ đơn âm, đa thanh, K0 biến dạng, cách đặt câu xuôi (nhưng từ ngữ có thể ngược nếu là chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ),
    thí dụ: mĩ nhân, danh tướng…), ngữ vựng phong phú, âm thanh cụ thể và sinh động.

    a. − Đơn âm: Mỗi âm là một tiếng và có một nghĩa gọn gàng khít khao. Có người nêu vấn đề chữ đệm, và một số chữ kí âm của các giáo sĩ thế kỉ 17 để chủ trương chữ Việt đa âm. Thật ra, trong Việt-ngữ có ba trường hợp một chữ có tiếng đệm.
    Trường hợp thứ nhất là đệm ý: hai từ cùng loại đi với nhau để làm cho nghĩa rộng thêm, và cả hai đều có nghĩa riêng (thí dụ: xe cộ, chó má, mèo mỡ vv...).
    Trong trường hợp này nhiều khi một chữ là mượn của chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ) (thí dụ: sinh sống, trắng bạch). Trường hợp thứ hai là đệm âm (thí dụ: rắc rối, rối rắm, mơ màng, lơ mơ); mỗi tiếng đệm tách riêng tưởng chừng như vô nghĩa, nhưng khi ghép lại thì làm biến đổi hẳn ý (thí dụ: rối rắm, rối rít,rối ren) vì nhạc tính của tiếng Việt. Đệm âm cũng chính là đệm ý, vì âm Việt hàm cả ý nghĩa nữa.

    b. − Đa thanh: Tiếng Tây phương K0 có thanh, chỉ có dấu nhấn K0 làm thay ý. Tiếng Trung-Hoa có 4 thanh.
    Tiếng Việt có 8 thanh (bình/thượng/khứ/nhập và hai độ phù/trầm) nên nhạc tính hết sức dồi dào. Người ngoại quốc nghe ta nói tưởng chừng như nghe hát.

    c. − K0 biến dạng: Tiếng Việt K0 thay đổi theo ngôi vị, giống, số, thời gian…nên hết sức dễ dàng và tự nhiên.

    d. − Đặt câu xuôi:Tiếng chính đi trước tiếng phụ. Chủ từ đi trước động từ, rồi túc từ. Danh từ di trước tính từ. Động từ đi trước trạng từ.
    Văn phạm hết sức giản dị. Ai đã biết tiếng nào, là đều có thể dùng được tiếng đó.
    Cú pháp điêu luyện là do tài tình, chứ K0 bó buộc.

    e. − Ngữ vựng phong phú: Chưa có một cuốn từ diển nào gom hết tiếng Việt nhưng xét một vài thí dụ:
    (tiếng cười người Việt có hơn 108 tiếng; để diễn tả ý "mang" có: ẵm, bê, bế, bồng, bưng, chở, cõng, đèo, đội, địu, đưa, gánh, gồng, khiêng, mặc, mang, quảy, thồ, vác, xách,
    …trong khi các ngoại ngữ chỉ có dăm ba tiếng) chúng ta thấy ngữ vựng Việt hết sức giàu những tiếng cụ thể liên quan đến đời sống thường ngày.
    Ngữ vựng Việt hiện còn nghèo về danh từ chuyên môn và khoa học, nhưng cả hai lãnh vực đều có thể được giải quyết dễ dàng. Từ năm 1945 thực tế đã chứng tỏ chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ) và chữ Abc có thể giúp ta tạo đủ chữ cho bất cứ lãnh vực nào cần dùng trong hiện tại hoặc tương lai.

    g. ‒ Âm thanh cụ thể và sinh động: Bản chất của tất cả mọi ngôn ngữ là âm thanh chọn vô cớ. Riêng Việt ngữ có một đặc tính có thể diễn tả ngay bằng âm thanh hết sức cụ thể và sinh động. Âm thanh diễn tả động tác hay hình dạng như ong (vòng, long đong, lòng thòng, cong, nòng, dòng, tròng, còng, bòng…). Âm thanh diễn tả ý nghĩa như âm ái (cái, gái, mái, nái.). Nguyên âm, phụ âm, và thanh những khi thay đổi đều có nghĩa riêng. Thí dụ phụ âm PH diễn tả hơi thở, phậpphồng như trong những chữ: phình, phè phỡn, phất phơ, phục phịch…
    Âm EO diễn tả ý K0 ngay như trong những chữ: dẻo, véo von, khèo, quẹo… Phụ âm TH tả ý nhẹ thoáng như trong những từ: thoảng, thơ thẩn, thấp thoáng.
    Âm a mong manh, âm à âm thầm, âm á qu quyết, âm uyển chuyển, âm nng nề, âm ã sng sờ. (Đoàn Phú Tứ, Thanh Nghị, 1942). K0 một chữ Nho (Hán Tự /chữ_viết TQ) hay tiếng ngoại quốc nào được dùng theo lối ấn tượng này. (Maurice Durand, BSEI,1961).

    Đặc tính này khiến tiếng Việt gần gũi với đời sống và truyền cảm sâu xa cũng như giảm thiểu tính cách giả tạo của ngôn ngữ. Tiếng Việt là tiếng nói chứa trong âm thanh của cả thơ và ~nét_vẽ hoạ.
    (còn Tiếp)
    Lần cập nhật cuối: 02/01/2017
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Đôi điều về ngôn ngữ Việt: Thế chân vạc của ngôn ngữ & văn tự/CHỮ_VIẾT VN:
    ( Tiếp)
    2. − TRIẾT LÍ

    a. −Con người làm chủ: Tiếng Việt đặt con người làm chủ, mọi việc đều quy chiếu vào con người. Tiếng Việt nói: "trên trời", "ngoài đường" trong khi một người Pháp/Anh chẳng hạn sẽ nói: "dans l’air/On Air", "dans la rue/In the Street". Có người giải thích là tiếng Việt trực giác trong khi tiếng Pháp/Anh lí luận. Nói như thế là coi người Pháp K0 có trực giác. Sự khác biệt chính là nằm ở chỗ khi ta nói "ngoài đường" trọng điểm K0 ở con người mà ở tương quan giữa con đường và ta. Tiếng Việt trọng tâm hơn ngoại vật.

    b. − Quý trọng đời sống: Hai tiếng phân loại phổ thông nhất là "cái" và "con" để chỉ vật vô tri và sinh vật. Trong tiếng Việt đời sống được quý trọng hơn. Tuy nhiên, những vật vô tri nhưng mật thiết đến sự sống hay linh hoạt cũng được gọi là "con". Thí dụ: con dao, con tàu. Chữ ‘cái’ của vật vô tri khi dùng chỉ người là hàm ý K0 kính trọng. Thí dụ: cái thằng đó.

    Cáicon nguyên nghĩa là mẹ và con như trong " Bố Cái Đại Vương". Chữ cái nới rộng chỉ những gì có sẵn trong vũ trụ, chữ con chỉ những gì được sinh ra. Con bắt nguồn từ cái cũng như đời sống bắt nguồn từ vật vô tri, và đời sống được quý hơn.

    c. − Cộng đồng trước, cá thể sau: Trong tiếng Việt, ngôi vị được ấn định triệt để bằng những tiếng phân loại. Trong tiếng quả cam vật đó là quả trước khi là cam; trong tiếng cá thu vật ấy là trước khi là thu. Ở đây ta thấy tiếng Việt triệt để hơn hẳn mọi ngôn ngữ trong sự chính xác − hơn cả các bộ thủ trong chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ).

    Bản chất đi trước, đặc tính đi sau: phổ quát đi trước, đặc thù đi sau: quan trọng đi trước, thứ yếu đi sau. Cho nên trong cách đặt câu tiếng bổ túc bao giờ cũng đi sau tiếng được bổ túc. Trong câu: "Người con gái đẹp đi chơi xuân", người con gái đẹp phải là người trước khi là con gái, và phải là con gái trước khi đẹp….

    d. − Nam nữ bình đẳng: Phụ nữ được tôn trọng đặc biệt ở Việt nam. Người Việt nói "vợ chồng" chứ K0 nói "chồng vợ".
    Trong gia đình vợ chồng gọi nhau là mình tức xếp cùng một hàng K0 ai trên ai dưới. Mình còn là hoà với nhau thành một. "Mình với ta tuy hai mà một" (Tản Đà).

    e. − Bốn bề một nhà: Mọi người đều là anh em. Những tiếng xưng hô của Việt-ngữ K0 phân biệt người ngoài và người cùng dòng máu (anh, em, ông, bà…) vì người Việt xem tất cả nhân loại như cùng một nhà. Ngay đến Trời, Phật, Tiên… cũng chỉ là ông bà như người hàng xóm. Những tiếng mày, mi, nó K0 dùng trong gia tộc chỉ áp dụng cho một người khi có ý định khinh thị. Trong danh xưng còn bao hàm cả phê phán đạo lí. Thằngcon dùng cho trẻ nhỏ trong nhà cũng để gọi những người chưa xứng đáng làm người.

    Tiếng xưng hô còn có ngôi chỉ cá nhân (tôi, chúng tôi) và ngôi chỉ cá nhân hoà đồng (ta, chúng ta). Người Việt có tinh thần gia tộc và dân tộc cao độ nhất, nhưng đồng thời cũng có tinh thần đại đồng rộng rãi nhất.

    g. − Xoá nhoà ngôn ngữ: Người Việt K0 coi ngôn ngữ là cái gì cứng nhắc và có thực tại riêng, nên tìm cách vượt khỏi giới hạn của âm thanh và muốn xoá nhoà ngôn ngữ, miễn là đạt được ý. Đã hiểu rồi thì "lời với liếc" văn chương văn chiếc" còn giữ làm gì. Đây là một hình thức tiếng đệm hết sức thông dụng trong tiếng Việt mà K0 hề có trong bất cứ ngôn ngữ nào khác. Người Việt còn thích những kiểu nói K0 có xác định rõ ràng như K0 chủ từ hay phụ từ chỉ thời giờ, lí do, điều kiện… (Thí dụ: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây) để người nghe tuỳ ý bổ khuyết hay hiểu thế nào thì hiểu (Lê Văn Lý − Sơ thảo Ngữ pháp Việt nam, 1968). Ít ngôn ngữ có nhiều hư tự như tiếng Việt.

    Ngoài ra nhờ âm vận Việt đều có ý nghĩa nên có thể dùng tự do để diễn tả (dớ dẩn, đớ đẩn, ngớ ngẩn, vớ vẩn…). Ngôn ngữ chẳng phải là cái khởi đầu, cũng chẳng phải cái chung, cuộc mà hiện nguyên hình là một phương tiện truyền thông.

    (còn Tiếp)
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Đôi điều về ngôn ngữ Việt: Thế chân vạc của ngôn ngữ & văn tự/CHỮ_VIẾT VN:
    ( Tiếp)
    II _ CHỮ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ)


    I. − CHÍNH DANH:

    a. − chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) K0 phải là chữ Hán: Chúng tôi theo cổ nhân mà gọi là chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) chứ K0 gọi là CHỮ HÁN. Việc này có nhiều nguyên cớ.

    1. Về định nghĩa: Nòi Hán chỉ là trong những nhiều sắc tộc ở miền Đông châu Á, họ có tinh thần độc tôn và bành trướng, đã chiếm lĩnh dải đất ngày nay gọi là Trung hoa. Triều Hán kéo dài từ 200 năm trước Tây lịch đến 200 năm sau Tây lịch. Gọi chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) là chữ Hán tức là đồng hoá thứ chữ của văn minh Đông Á với một sắc tộc. Người Trung Hoa gọi thế vì óc "hưng Hán diệt Di" của họ. Chúng ta K0 thể làm việc vô ý thức đó.

    2. Về lịch sử: chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) được phát minh khoảng 5.000 năm trước đây, tại vùng châu thổ Hoàng hà và Dương tử. Lúc đó chưa có quốc gia nào là Trung hoa mà chỉ có những bộ lạc hùng cứ từng vùng. Người Bách Việt và người Miêu tới trước người Hán và định cư trên miền nứi Thái sơn (núi này sau là nơi tế tự của mọi triều đại tại Trung hoa). Sau họ bị người Hán đánh chiếm, phải đi về phương Nam.

    Khoa cổ sử chưa soi sáng được giai đoạn này. Căn cứ vào truyền thuyết thì Hồng Bàng kỉ (2.879 tr.T.L.) còn có trước lịch sử Trung hoa (bắt đầu vời Hoàng-đế Hiên Viên thị, thuỷ tổ của Hán tộc) đến 182 năm.

    Người Việt tự nhận là dòng dõi Thần nông (3.223−3.080 tr. T.L.) gốc ở phía Bắc tỉnh Hồ-nam, đến đời Kinh dương vương mới dời về phương Nam.

    Ngay sử của Trung hoa cũng còn ghi chuyện Hoàng đế từ miền Nam Thiên-sơn đến Cam-túc đánh với Xi vưu, tù trưởng của Miêu tộc để chiếm Hoàng hà mà vào bảo hộ Trung-quốc.

    Xét về chủng tộc, phong tục, và ngôn ngữ thì người Miêu (Mèo) gần với Việt hơn là Hán tộc. Trong suốt lịch sử Trung hoa họ vẫn giữ được nền tự trị. Miêu tộc cũng là dân tộc thiểu số có mặt trên một diện tích rộng lớn: từ Quế-châu, Hà-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam đến Tứ-xuyên. Ngày nay tại vùng Quảng tây người ta còn thấy những kiến trúc dưới đất kì diệu thờ chân dung Bàn Cổ và Tam Hoàng đầy đủ từng người. (Xem Tsui Chi, Histoire de la Chine et de la Civilisation chinoise, Payot, 1919).

    Ngay thời đại hoàng kim Nghiêu−Thuấn cũng K0 phải là văn minh Hán tộc mà đích thực là văn minh Bách Việt. Sử Trung hoa còn ghi Nghiêu−Thuấn là người thuộc dòng giống "Đông di" và "Tây di" (Tư-mã Thiên, Sử kí).

    Việc Hồ Quý Li xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Ngu (vua Thuấn họ Hữu Ngu) chắc chắn phải căn cứ vào một truyền thống hay sử liệu nào mà nay thất lạc vì thủ đoạn đồng hoá của Trương Phụ. Nguyễn Huệ đòi Lưỡng Quảng, Cao Bá Quát nêu cờ Nghiêu− Thuấn…đều nằm trong tâm thức này.

    Ngay nhà Chu cũng K0 thuộc cùng một giống với nhà Thương, và chắc chắn K0 phải là Hán tộc. Mạnh tử gọi vua Văn là Tây di, và theo Tả truyện, nhà Chu gọi nhà Thương là ngoại tộc.

    Nhà Chu chấm dứt văn minh Tiên Tần, rất tôn quý màu đỏ, mà màu này thuộc quẻ Li chỉ phương Nam. Quốc hiệu đầu tiên của nòi Việt là Xích quỷ cũng mang ý nghĩa vị thần sắc đỏ (quỷ là thần, K0 mang ý nghĩa của Kitô giáo như ngày nay thường hiểu). Điều này chứng tỏ dưới nhà Chu còn rất nhiều ảnh hưởng của Bách Việt.

    Chính dưới thời Chu (1.134-214 tr T.L.), KINH DỊCH tương truyền do vua Văn và Chu công viết được biên soạn. Ngay tên Hà đồ Lạc thư (đồ hình tại sông Hà; sách của giống Lạc) cũng chứng tỏ nguồn gốc của KINH DỊCH. KINH DỊCH là cuốn sách cổ nhất của chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ), là kinh điển, là linh thư, là tập đại thành của cả Đông Á, phải trả lại cho giống Bách Việt.

    Nhà Tần khi thống nhất Trung hoa đã mở cuộc ‘phần thư khanh nho’ là để tiêu huỷ hết tài liệu văn hoá các đời trước. Đó là một mưu đồ bóp méo lịch sử và cưỡng đoạt tất cả cho nòi Hán.

    Đến đời Tần thì giống Việt chỉ còn giữ được đất Lưỡng Quảng và Bắc Việt ngày nay.

    Chúng ta có thể tạm kết luận rằng trước khi có sử thành văn, nền văn minh trong thời đại hoàng kim Viêm phương đã hết sức huy hoàng. Nền văn minh này có sự đóng góp của nhiều giống dân, trong đó phần của Bách Việt tích cực nhất. Giống Hán tuy có ưu thế về võ lực, nhưng K0 thể đại diện độc quyền cho truyền thống đích thực của nền văn minh đó.

    3. Về ngôn ngữ: Dấu tích cổ nhất của chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) ngày nay kiếm được là những chữ ghi trên "xương rồng" mai rùa thời nhà Ân (1.400 tr T.L.) đào được ở tỉnh An-dương, Hồ-nam năm 1899. Những tài liệu này chủ chốt bàn về sự chiêm đoán và các sinh hoạt lạp hộ, canh nông. văn tự/CHỮ_VIẾT còn rất thô sơ, tuy đã có những nét chính của chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ), chứng tỏ chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) đã được hình thành trước đó rất lâu, mà nay K0 còn vết tích gì ngoài truyền thuyết.

    Truyền thuyết cho rằng Phục hi bày ra văn tự/CHỮ_VIẾT theo nét bát quái của Hà đồ Lạc thư.
    Thương Hiệt, một sử thần đời Hoàng đế sáng chế chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) theo vết chân chim. văn tự/CHỮ_VIẾT có độ 1.000 chữ. Đời Chu (800 tr. T.L.) Sử Lựu đặt lối đại triện hay khoa đẩu tự, hình như nòng nọc, văn tự/CHỮ_VIẾT có độ 3.300 chữ. Đời Tần đốt sách và sai Lí Tư soạn lối chữ tiểu triện, văn tự/CHỮ_VIẾT có đến 7.380 chữ. Tự điển Khang hi (1716) chứa gần 47.000 chữ, nhưng chỉ có độ 4.000 chữ thông dụng.
    (còn Tiếp)
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Đôi điều về ngôn ngữ Việt: Thế chân vạc của ngôn ngữ & văn tự/CHỮ_VIẾT VN:
    ( Tiếp)
    Cũng như Phục hi tượng trưng cho một trình độ sinh hoạt lạp hộ, Thần nông cho sinh hoạt canh tác, Thương Hiệt (thương: kho thóc; hiệt: bay lên) nếu K0 chỉ một giai đoạn lịch sử thì cũng có tính cách đại diện cho việc thu thập và san định hơn là sáng tác chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ). Việc nhìn dấu chân chim lại có tương quan mật thiết với giống Bách Việt và Hồng Bàng thờ chim làm vật tổ.

    Một số người chủ trương cho là chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) bắt nguồn từ Lưỡng hà châu và Ai-cập nhưng K0 đưa được bằng cớ. Tuy Văn tự/CHỮ_VIẾT hieroglyphe của Ai-cập, Văn tự/CHỮ_VIẾT hình nêm cunéiforme của Babylone khởi đầu đều tượng hình, chỉ ý, và viết từ trên xuống dưới, từ phải sang trái (ở đây cũng giống Văn tự/CHỮ_VIẾT Maya 1000 tr. T.L.), sự tương đồng K0 đủ để nêu liên hệ vay mượn.

    Có lẽ giả thuyết về một cái nôi văn minh của nhân loại gốc ở trung tâm Châu Á, từ mái nhà của thế giới là Hi-mã-lạp-sơn để đi bốn phương, gần với sự thật hơn.

    Lúc đầu con người dùng que, gậy (như Gậy Nêu), sỏi…và hình vẽ để ghi nhớ ~ hình ảnh & hiện tượng thiên nhiên . Văn tự/CHỮ_VIẾT nguyên thuỷ là những đường vạch như hào trong KINH DỊCH và những bức tranh sơ sài.
    Trước Thương Hiệt, Văn tự/CHỮ_VIẾT chỉ là những nút đây (kết thẳng). Vấn đề lịch sử và văn minh Tiên Tần chưa sáng tỏ thì vấn đề nguồn gốc chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) chưa giải quyết được.

    Tuy nhiên chúng ta có thể xác định tối thiểu là lịch sử văn minh đó có trước khi nòi Hán từ miền Tây tới, thì Văn tự/CHỮ_VIẾT đó cũng K0 thể là của riêng nòi Hán. Họ chỉ đóng góp trong việc điền lệ chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ).
    Những văn tự/CHỮ_VIẾT đầu tiên K0 cốt diễn tả câu văn nói hay viết mà diễn tả tư tưởng trong đầu. Nay người Hán sắp xếp theo lối suy nghĩ của họ tức là chữ bổ túc đi trước (đại đạo, mĩ nhân…) Đây là sự khác biệt lớn nhất, còn ngoài ra về các đặc tính khác (đơn âm, đa thanh, K0 biến dạng, đặt câu xuôi…) tiếng Việt và chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) hoàn toàn phù hợp nhau.

    Một ngôn ngữ phân biệt bằng âm thanh, hình thái, và ý nghĩa. Về âm, Việt Nho gần giống nhưng phong phú hơn Quan-thoại nhiều.
    Âm Bắc-kinh chỉ có 400 (theo hệ thống phiên âm Wade−Giles), trong khi Việt Nho có cả hàng ngàn. Việt Nho trung thực và bảo tồn được chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) với âm thái cổ trong khi giọng Bắc-kinh mất những ngữ vị đầu và cuối như B−, D−, G−, R−, TR−, V−, và −CH, −K, −M, −P, −T (Y.R. Chao mục "Chinese Language" trong Encyclopedia Britannica, 1965)
    Về thanh, Việt Nho hơn hẳn tứ thanh của Quan thoại vì có tới 8 thanh.

    Tiếng nói quan hệ nhất mà đã độc lập thì chúng ta phải coi Việt Nho là của dân tộc; cũng như người Anh, Pháp, Ý, Đức…coi ngôn ngữ họ là thuộc dân tộc, dù rằng đều thuộc gốc Ấn−Âu với Phạn ngữ (sanscrit).

    Về thư pháp, người Việt cũng viết chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) theo một lối riêng, trọng tinh thần hơn là khuôn tắc của Vương Hi Chi (Nguyễn Hiến Lê).

    Hình thái chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) đã thành nếp từ 3.000 năm nay và dùng chung cho cả Đông Á, đã vượt được trở ngại âm địa phương. Chúng ta có chữ ABC để diễn tả giọng Việt Nho, nhưng phải giữ hình thái chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) để có một khí cụ văn hoá giao tiếp với quá khứ và các nước Đông Á.

    Về ý nghĩa, chúng ta thấy rằng K0 hẳn cùng một CHỮ_VIẾT người Việt và người Trung-hoa cùng diễn tả một ý.
    Thí dụ: tiểu tâm_ người Việt hiểu là lòng dạ nhỏ bé trong khi người Trung-hoa hiểu là cẩn thận.
    tử tế
    _ người Việt hiểu là tốt bụng trong khi người Trung hoa hiểu là kĩ càng chi li.

    Đó là chưa kể trong vòng 50 năm gần đây người Việt phải đặt tiếng khoa học và chính trị đã sáng tác hàng chục ngàn chữ mới (như các phái Mac-xit, Duy Dân…, Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn…). Kho ngữ vựng này hoàn toàn của Việt Nho.

    Chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) tuy K0 phải toàn thể tiếng Việt nhưng chiếm hơn 60% những từ ngữ thông thường và đại đa số từ ngữ bác học. Nho và Việt đã gắn liền nhau như da thịt đến nỗi nhiều khi chúng ta K0 ngờ (áo/y, quần/quần, chợ/thị, đầu/đầu, khó/khổ, tim/tâm, thân/thân, /vị…).

    Tương quan mật thiết này ngày càng tăng vì nhu cầu tạo thêm tiếng mới. 99 phần trăm danh từ học thuyết chuyên môn là chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ). Nếu K0 am hiểu chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ), sự sáng tác hỗn độn sẽ đưa đến suy tư sai, tai hại vô cùng.

    Chúng ta đã thấy chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) vừa là của chung văn minh Đông Á, vừa giữ bản sắc dân tộc.

    Tiếng Việt Nếu bỏ chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) sẽ trở thành thổ ngữ khiếm khuyết của một bộ lạc. Tiếng Việt có chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) là có được một khí cụ tuyệt vời của văn hoá.
    Người Việt nào hô hào loại bỏ hết chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) trong tiếng Việt K0 những vô ý thức mà còn phản bội công trình dung hoá của tiền nhân.

    b. – chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) K0 phải là chữ của Khổng giáo

    Kể từ khi triều Hán suy tôn Khổng giáo vì những chủ trương đề cao vương quyền và phụ quyền của đạo này, Khổng giáo được gọi là Nho giáo, Khổng học được gọi là Nho học…

    Sự thực chữ "Nho" và đạo "Nho" vốn có trước Khổng tử rất lâu và bao trùm cả Khổng học, ‘Thuật nhi bất tác’.

    "Nguyên nhân chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) to lớn lắm. Một bên chữ Nhân 人 là người, một bên chữ Nhu 需 là cần phải có. Sách Pháp Ngôn có câu: "Thông thiên, địa, nhân viết Nho" nghĩa là người rõ cả thiên văn, địa lí, nhân sự mới gọi là Nho. Ngày nay chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) nghĩa là người học giả có đủ tri thức." (Đào Duy Anh, Hán Việt Từ Điển, 1931).
    Chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) là chữ của người có học (biết chữ: lettré, trái với mù chữ), của kẻ sĩ, của trí thức.

    Chế độ quân chủ và độc tôn Khổng giáo đã cáo chung, phải trả chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) về với nguyên nghĩa to lớn của nó là thứ chữ của con người tìm hiểu vũ trụ và đạo.
    ( còn Tiếp)
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.036
    Đã được thích:
    46
    Đôi điều về ngôn ngữ Việt: Thế chân vạc của ngôn ngữ & văn tự/CHỮ_VIẾT VN:
    ( Tiếp)
    2. – CHỮ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) VÀ VĂN MINH:

    Thế giới có được 7 hệ thống cổ tự tượng hình tượng ý (K0 kể cổ tự Maya ở Trung Mĩ, 1.000 năm tr. T.L., tới nay vẫn còn câm nín).
    Mỗi cổ tự này đặt nền móng cho một văn minh rực rỡ. Ba cổ tự K0 phân giải đươc là nguyên-Elamite, nguyên-Indic, và nguyên-Crète.
    Trong số bốn thứ văn tự/CHỮ_VIẾT còn lại: Sumérien, Ai-cập, Hittite, và chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ), hiện nay chỉ còn chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) là còn dùng.

    Những văn tự/CHỮ_VIẾT này được gọi là chữ thiêng liêng hay linh tự (hiéroglyphe) vì tàng trữ những kinh nghiệm của con người đối đãi với vũ trụ tự muôn đời.

    Sự tồn tại duy nhất của chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) có một GIÁ TRỊ lớn lao vô cùng đối với văn minh. Văn minh là lịch sử ý thức. Để có ý thức, con người đã phải trả giá là tách lìa với vũ trụ.

    Đó là ý nghĩa của thần thoại Cây Nhân sinh và Cây Tri thức. Con người đánh mất Thiên đàng vì ăn trái Cây Hiểu biết. Đó là bi kịch của Faust đánh bạn với Mephistopheles và chỉ tìm được an lạc khi quay về với cô thôn nữ hồn hậu Marguerite.

    Phân tâm học đã ví ý thức tách biệt con người khỏi thiên nhiên với bệnh loạn thần kinh (schizophrenia /schizophrénie). Tất cả nỗ lực của con người là để tìm về đạo lớn ‘vạn vật đồng nhất thể’ hay tat tvam asi.

    Ngôn ngữ liên hệ mật thiết đến ý thức vì chúng ta nhận thức thực tại (sắc hay rupa) bằng ngôn ngữ (danh hay naman).
    Một ngôn ngữ tượng hình tượng ý là trung gian giữa ý thức và thực tại, chứ K0 tạo thành một vật tự tại làm màn chắn giữa con người và tạo vật.
    Trong ngôn ngữ tượng hình tượng ý, văn tự/CHỮ_VIẾT vừa là nó, vừa là cái gì khác.

    Trong ngôn ngữ kí âm thuần tuý, văn tự/CHỮ_VIẾT là chính nó, có hiện hữu riêng và tạo cho chúng ta ảo tưởng là mọi vật có bản chất và yếu tính. (Xem Bertrand Russell, History of Western Philosophy, 1945).

    Tất cả triết học Tây-phương đặt cơ sở trên lí luận của Aristote với các luật đồng nhất, nhân quả, tam đoạn…mà luận lí Aristote chỉ là sự duỗi dài và hệ thống hoá văn phạm Hi-lạp, là một thứ chữ có chủ từ, thuộc từ, và biến dạng.

    Hình học phi-Euclide của Lobachevski (1829) rồi thuyết Tương-đối của Einstein (1905) (& sau đó các thuyết về cơ hôc lượng tử) đã làm sụp đổ kiến trúc siêu hình duy lí của Tây-phương và ngày càng tiến gần quan niệm đối đãi của triết học Đông Á. Triết học này khởi từ các tương quan mâu thuẫn, âm dương, tĩnh động… theo DỊCH LÝ chứ K0 đặt những phạm trù tuyệt đối, hay ý tưởng siêu việt.

    Sở dĩ thế vì chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) căn bản là diễn tả tương quan.
    Trong chữ thanh_xanh, phần trên sinh 生 chỉ hình cây cỏ mọc lên đối với phần ở dưới Nguyệt_ là ánh sáng đỏ.
    Trong chữ tri_知phần bên trái là thỉ (mũi tên), và phần bên phải chỉ cái đích: bao giờ tên đến đích mới biết trúng hay trật.

    Thế kỉ 20 các nhà ngữ học, luận lí học đang tìm một ngôn ngữ thuần tuý toán học để gỡ rối cho tri thức luận Tây-phương. Tuy nhiên, tránh được cái ảo tưởng coi ngôn ngữ là thực tại của ngữ tộc Ấn − Âu, họ lại mắc vào vòng xích của một ngôn ngữ giả tạo, K0 đời sống.

    Phong trào phục hồi các triết gia tiền-Socrate để tìm quan niệm dịch lí, biện chứng của sự vật K0 giải quyết nổi vì Héraclite, Parménide, và Empédocle chỉ còn để lại dăm ba mảnh mún, K0 mấy xác tín.

    chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) nắm được chìa khoá của vấn đề, vì ngoài tính cách linh tự tượng hình, chữ Nho & (Hán Tự /chữ_viết TQ) còn có một gia tài kinh điển đồ sộ bậc nhất thế giới.

    Về khoa học, sau hơn hai ngàn năm phân thân và hướng ngoại, Tây-phương ngày nay đã đạt đến trình độ chối bỏ quan niệm cơ giới để quay về DỊCH LÍ.
    ( Còn Tiếp)

Chia sẻ trang này