1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hoàng sa- Trường sa biển đảo quê hương ( Phần 4 )

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi onamiowada, 10/05/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. namkhanh02121998

    namkhanh02121998 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2017
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    1
    Mấy chú cho cháu hỏi: Sao những năm trước đó, ta không đưa tàu ra chiếm trước. Mà mãi đến năm 1988 mới đưa tàu ra nhỉ? Lại trùng hợp lúc đó TQ cũng đưa tàu ra luôn?
  2. Adamle

    Adamle Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2015
    Bài viết:
    291
    Đã được thích:
    225
    Mình nôm na mạn phép trả lời theo kiến thức mình có và suy luận
    - thứ nhất: điều kiện kinh tế, quốc phòng chưa cho phép
    - thứ hai: Việt Nam mới thống nhất nên không muốn gây căng thẳng với láng giềng, muốn gia nhập các tổ chức và làm bạn với các nước. Tuân thủ Công Ước Biển
    - thứ ba: các đảo nổi khi đó các bên đã chiếm giữ xong. Không ngờ nhiều bên đều ra sách trắng bảo Trường Sa của họ rồi chiếm giữ các đảo đá ngầm, chính vì thế Việt Nam cũng khẩn trương tiến hành, tiếc là lực có hạn để mất một vài điểm chiến lược. Mình thấy quá tiếc đảo Chữ Thập, gần mà do phần yếu kém chuẩn bị mà bị lẫng tay trên
    Còn vài cái khác nữa
    VietTS, tntbien, qatgroup6 người khác thích bài này.
  3. truongsathanyeu

    truongsathanyeu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2016
    Bài viết:
    51
    Đã được thích:
    60
    Hình như đá chữ thập mình có lệnh ra tổ chức đóng giữ năm 1987, nhưng do đội đó ko chịu dc sóng, kêu khổ nên vào bờ!
    Sau sếp đó bị kỹ luật thì phải!

    Đá chữ thập ko mất thì quá ngon!
    Tranphong77, Adamle, meo-u1 người khác thích bài này.
  4. Tranphong77

    Tranphong77 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/07/2015
    Bài viết:
    3.315
    Đã được thích:
    13.576
    Giành cho bạn nào thích đoc chữ :-D

    Một số tổng hợp về tình hình quần đảo Trường Sa từ 1975 đến 1988 và Chiến dịch CQ-88 thực thi và bảo vệ chủ quyền trên biển
    9 Tháng 12 2014 lúc 20:37[​IMG]
    Mời các bạn nhìn lại Chiến dịch CQ-88, thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa năm 1988 do Trang Quân sự Việt Nam thực hiện.



    Quần đảo Trường Sa

    Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá san hô nói chung (trong đó có rất nhiều rạn san hô vòng, tức rạn vòng hay còn gọi là ám tiêu san hô vòng, "đảo" san hô vòng) và bãi ngầm rải rác từ 6°12' đến 12°00' vĩ Bắc và từ 111°30' đến 117°20' kinh Đông, trên một diện tích gần 400.000 km trên biển Đông. Quần đảo này có độ dài từ tây sang đông là 800 km, từ bắc xuống nam là 600 km. Mỗi tài liệu lại có một con số thống kế riêng về số lượng thể địa lí của quần đảo này: hơn 100 đảo và rạn đá ngầm (CIA), 137 "đảo-đá-bãi" (Nguyễn Hồng Thao), khoảng 160 đảo nhỏ-cồn cát-rạn đá ngầm-bãi cát ngầm/bãi cạn-bãi ngầm đã đặt tên (Trung Quốc).

    Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá 5 km (nguồn khác: 11 km) do số lượng đảo thực sự rất ít mà chủ yếu là các rạn san hô thường và rạn san hô vòng chìm ngập dưới nước khi thủy triều lên. Các hòn đảo san hô ở Trường Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh với một quần đảo san hô khác gần đó là quần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của Trường Sa nằm trên đảo Song Tử Tây với cao độ 4 m so với mực nước biển.

    Quần đảo Trường Sa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới với hai mùa. Gió mùa đông nam thổi qua Trường Sa từ tháng 3 đến tháng 4 trong khi gió mùa tây nam thổi từ tháng 5 đếntháng 11. Nhiệt độ không khí trung bình trong năm của quần đảo vào khoảng 27 °C. Biên độ dao động của nhiệt độ không khí vùng đảo Trường Sa không quá 4 °C. Do sở hữu hàng trăm rạn san hô rải rác khắp một vùng biển rộng lớn nên quần đảo Trường Sa là nơi có đa dạng sinh học cao. Ước tính có đến mười nghìn loài sinh vật sinh sống tại vùng biển này.

    Từ những thập niên đầu của thế kỉ 20, thời kì yên bình của quần đảo Trường Sa đã chấm dứt. Hàng loạt quốc gia từ châu Á đến châu Âu như Việt Nam, Pháp, các nhà nước Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và trong một số giai đoạn lịch sử là Anh và Nhật Bản đều tham gia vào cuộc tranh chấp, dù là ở các mức độ khác nhau.

    Ngày 9 tháng 12 năm 1982, tiếp nối sự quản lý từ chính quyền Sài Gòn, Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành lập huyện Trường Sa trên cơ sở toàn bộ khu vực quần đảo Trường Sa mà trước đây được quy thuộc huyện Long Đất, tỉnh Đồng Nai. Đến ngày 28 tháng 12 năm 1982, chính quyền Việt Nam đã chuyển huyện Trường Sa từ tỉnh Đồng Nai sang tỉnh Phú Khánh. Từ ngày 1 tháng 7 năm 1989, tỉnh Phú Khánh được tách ra thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa; huyện Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa.

    Cuộc đối đầu ngày càng căng thẳng

    Năm 1979 Malaixia đã xuất bản yêu sách của họ về 12 đảo và sau đó cho lực lượng biệt kích hải quân đóng ở Terumbu Layang Layang (trạm Lima) hoặc bãi đá Suallou năm 1983 và ở Terumbu Ubi (trạm Uniforum) và Terumbu mantanani (trạm Mike) năm 1986.

    Trước đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Cộng hòa XHCN Việt Nam đã giải phóng và tiếp quản từ quân đội Sài Gòn 05 đảo nổi [1] tại quần đảo Trường Sa. Philipines chiếm giữ 3 đảo và Đài Loan (Trung Quốc) giữ 01 đảo. Năm 1978, Việt Nam đóng giữ thêm 4 đảo [2]. Tổng cộng đến năm 1978, nâng số đảo Việt Nam thực thi chủ quyền lên 9 đảo và tất cả đều là đảo nổi. Tình hình Trường Sa ổn định, những đảo chìm, đá ngầm chưa bị các thế lực bên ngoài nhòm ngó.

    Năm 1986 Trung Quốc (TQ) bắt đầu tăng lực lượng hải quân ở biển Đông, ngày 1/6/1986 hạm đội Đông Hải Trung Quốc thành lập một phân đội biển sâu hỗn hợp chạy qua eo biển Miyako trên đường đến tây Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, Trung Quốc bắt đầu mở rộng các căn cứ hải quân ở đảo Hải Nam, lực lượng hải quân đánh bộ được triển khai. Tiếp đó tuyên bố mở rộng cuộc tuần tra thủy văn mà theo họ là đã tiến hành từ 4/1986. Giữa tháng 4 và tháng 5 năm 1987 các phân đội tàu chiến TQ bắt đầu hành quân đến bãi ngầm James tại phía tây quần đảo Trường Sa, đây cũng là lần đầu tiên Hải quân Trung Quốc xuất hiện ở khu vực này. Ngày 21/4/1987 hải quân đánh bộ TQ bắt đầu các cuộc diễn tập đổ bộ qui mô lớn ở biển Đông. Cuộc tập trận này chỉ dừng lại vào tháng 6 do mùa bão bắt đầu trên biển Đông bắt đầu. Các hoạt động mở rộng xuống biển Đông và đặc biệt là cuộc tập trận đổ bộ của Trung Quốc báo hiệu một giai đoạn giành giật khốc liệt trên biển Đông sắp bắt đầu.

    Năm 1987 tình hình trên biển Đông và quần đảo Trường Sa xuất hiện thêm nhiều diễn biến phức tạp vể tranh chấp chủ quyền giữa các nước trong khu vực. Philippin cho máy bay và tàu chiến tăng cường trinh sát từ Song Tử Tây đến Thuyền Chài. Hoạt động của Hải quân Malaixia cũng được tăng cường, đầu năm 1986 đưa 2 tàu khu trục và 1 tàu hậu cần đến hoạt động cách đảo An Bang từ 7 đến 10 hải lý; mở luồng đảo Chim Én; cho tàu, chiếm bãi Kiều Ngựa, Kỳ Vân [3]. Ngày 1 tháng 1 năm 1987 Hải quân Việt Nam phát hiện một pông tông[4] neo tại bãi Kỳ Vân gần đảo Thuyên Chài. Một mặt phản đối qua đường ngoại giao, một mặt Hà Nội nhận định có khả năng đối phương đóng thêm một số đảo khác, trong đó Thuyền Chài là đảo mà đối phương không bỏ qua. Trước tình hình đó, hải quân nhân dân Việt Nam đã được lệnh hành động trước. Tối ngày 3 tháng 3 năm 1987 sở chỉ huy xuống tàu HQ-961. Sau gần 3 ngày vật lộn với sóng gió sáng 5 tháng 3 năm 1987, tàu 961 kéo chiếc pông tông số 1 lên đảo Thuyền Chài, thả neo, kéo lá cờ đỏ sao vàng lên nóc ca bin đánh dấu chủ quyền Việt Nam trên đảo.

    Tuy nhiên mọi mặt trên đảo lúc này có nhiều khó khăn, diện tích nhỏ nhiều lực lượng phối thuộc, người đông, khi thuỷ triều lên cao ngập trắng toàn bộ khu vực đảo. Với nỗ lực người Việt Nam, đến hết quý I năm 1987 đã xây dựng xong 2 nhà cao chân ở phía nam đảo.

    Trước sự phản ứng và đáp trả của Việt Nam Malaixia, Philippines vừa tăng cường các hoạt động ngoại giao, tranh thủ dư luận phản đối nhưng không có hành động leo thang cụ thể. Người Việt quan tâm đến mội đối tượng khác, đó là Trung Quốc. Trung Quốc một mặt đưa tàu Hải Dương 4 có tàu chiến đi bảo vệ xuống trinh sát phần lớn các đảo thuộc khu vực quần đảo Trường Sa, trong đó có cả những đảo Việt Nam đang đóng giữ, mặt khác trên bình diện ngoại giao, thể hiện rằng sẽ dùng biện pháp quân sự để giải quyết những bất đồng về chủ quyền biển Đông.

    Đứng trước các hoạt động trái phép, ý đồ lấn chiếm đảo và mở rộng sự chiêm đóng của các nước trên quân đảo Trường Sa, ngày 30 tháng 11 năm 1987 Bộ Chính trị ********************** đã họp phân tích, đánh giá tình hình khả năng hoạt động của đối phương, đề ra chủ trương:

    “Đối phó cả về chính trị, pháp lý, ngoại giao và trên thực địa; đồng thời tập trung mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành, mọi người vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền trên biển Đông và quần đảo Trường Sa. Quân ủy Trung ương Quân đội nhân dân Việt Nam xác định tình hình đã rất khẩn trương không thể trông chờ nhiều vào giải pháp ngoại giao mà phải chớp thời cơ tăng cường khả năng phòng thủ và đóng thêm các đảo, đưa lực lượng ra chốt giữ tạo thế đứng chân vững chắc trên quần đảo Trường Sa. Và đây là mệnh lệnh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam [5] giao cho Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương bằng mọi biện pháp phải:

    "Bảo vệ các đảo, đặc biệt không ngừng tãng cường khả năng. bào vệ quần đáo Trường Sa bao gồm cả việc củng cố và xây dựng thêm các công trình chiến dấu và hảo đàm sinh hoạt. Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi đá cạn chưa có người. Không chờ xin chỉ thị của cấp trên. Trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tién Nữ. Khai thác và phát huy mọi khả năng của các lực lượng vũ trang, cácngành các địa phương để chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu đối phương xâm phạm đảo hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì đánh trả và luôn cành giác, tỉnh táo, không bị khiêu khích".

    Chiến dịch Chủ quyền 1988 của Việt Nam, gọi tắt là chiến dịch CQ-88 đã bắt đầu!

    Chiến dịch CQ-88 thực thi và bảo vệ chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Trường Sa

    Ngàv 24 tháng 10 nãm 1987 Hải quân Việt Nam báo động chuyển trạng thái sẵn sàng chiên đấu từ thường xuyên lên cường cho toàn bộ các lực lượng của Vùng 4, Lữ đoàn 125, 172, 171, Trung đoàn 83. Riêng Lữ đoàn 146, các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ chốt giữ đảo Trường Sa phải sẵn sàng chiến đấu cao.

    Ngày 27 tháng 10 năm 1987, Tư lệnh Giáp Văn Cương lệnh cho Lữ đoàn 146 tổ chức 4 khung đi đóng giữ các đảo Đá Lớn, Tiên Nữ, Chữ Thập và Đá Tây, nêu tình hình cho phép đóng tiếp Đá Lát; soát xét lại lực lượng, vù khí trang bị, trận địa chiến đấu trên các đảo đang đóng, lên phương án bảo vệ, huy động tối đa khả năng của lữ đoàn cho nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trưòng Sa; lệnh cho Lữ đoàn 125 chuẩn bị tàu để kéo pông tông, chở bộ đội vũ khí ra Trường Sa; các tàu của Lữ đoàn 172 cơ động ra phía trước sẵn sàng chiến đấu; các tàu của Lữ đoàn 171 chuẩn bị đưa lực lượng ra trực tại khu vực thềm lục địa phía Nam Trường Sa; chỉ thị cho Trung đoàn 83[6] Công binh Hải quân chuẩn bị lực lượng đi xây dựng công trình chiến đấu ỏ đảo.

    Lúc này trên khu vực quần đảo Trường Sa đang là thời kỳ thịnh hành của gió mùa Tây Nam, những đợt gió liên liên tục đổ về làm cho mặt biển cuộn lên những cơn sóng trắng xoá có lúc lên tới cấp 10, cấp 11, ngày 30 tháng 10 năm 1987 tàu HQ-613[7] vượt 250 hải lý sóng gió ra đóng giữ đảo Đá Tây[8], khẩn trương làm nhà bạt trên dải cát nổi, nhưng nhà vừa dựng xong buổi trưa, buổi chiều nước lên cao lại đổ. HQ-613 phải đưa lực lượng rút về đảo Trường Sa Đông và sau một tháng chống chọi, tàu đã phải rút về Cam Ranh, chưa thể hoàn thành nhiệm vụ.

    Gần như ngay lập tức, đến ngày 2 tháng 12 năm 1987, Hải quân nhân dân Việt Nam lại lệnh cho tàu HQ-604[9] của Lữ đoàn 125 đưa người, vật liệu ra làm nhà và chốt giữ Đá Tây. Sau hơn nửa tháng miệt mài làm việc tại đảo, ngày 18 tháng 12 năm 1987 nhà cấp III (cao chân) bằng thép và tôn ở Đá Tây dựng xong, nâng tổng số đảo đóng giữ thực địa lên 11 đảo. Tất cả các đảo nổi ở Trường Sa đã có lực lượng đóng giữ.

    Từ những năm cuối thập kỷ 1980, giữa lúc nền kinh tế đất nước đang ở điểm đáy của khó khăn, ngoài quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, Hà Nội đã nhìn thấy tầm quan trọng chiến lược của các bãi ngầm trong thềm lục địa 200 hải lý của mình, nên đến ngày 3 tháng 1 năm 1988 đã tổ chức lực lượng đóng giữ và bảo vệ DK1[10] gồm các bãi Tư Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tần, Quế Dương, Huyền Trân, Ba Kè. Không khoa trương, lực lượng của vận tải, công binh của Lữ đoàn 171 âm thầm đưa tàu và pông tông đến thả neo vào các điểm đã đánh dấu, để đóng giữ và bảo vệ các khu vực này. Việc sớm triển khai lực lượng, phương tiện đóng giữ bảo vệ khu vực DK1 là bước đi trước, thể hiện tầm nhìn chiễn lược và quyết tâm rất lớn của Việt Nam trong công cuộc bảo vệ chủ quyền, lãnh hải.

    Đầu năm 1988, tình hình khu vực quần đảo Trường Sa đột ngột trở nên căng thẳng, ngày 22 tháng 1 năm 1988 Trung Quốc cho lực lượng Hải quân gồm 4 tàu: Hộ vệ tên lửa 156, tuần dương 9332, tàu dầu 941, tàu đổ bộ 932 và một số tàu của Hạm đội Nam Hải đến chiếm bãi Chữ Thập. Sau đó để giữ Chữ Thập[11], ngăn cản và răn đe các nước đang có ý định tranh chấp tại khu vực Trường Sa, Trung Quốc tiếp tục đưa các tàu hộ vệ, khu trục tên lửa, các tàu bảo vệ tới khu vực, thả neo 1 tuần nhằm khống chế các tàu đi lại qua khu vực Chữ Thập. Hệ thống hoạt động của Trung Quốc ở Trường Sa lúc này được tổ chức thành 3 tuyến: Tuyến phía sau lấy Hoàng Sa làm căn cứ, thường xuyên cố các tàu hộ vệ pháo, hộ vệ tên lửa, khu trục tên lửa, tuần dương, các tàu ngầm và các tàu hộ tống bao đảm nhằm ngăn cản, răn đe các tàu bè Việt Nam hoạt động tại vịnh Bắc Bộ và đi ra vùng biển Trường Sa. Tuyền giữa cho các tàu ngăn chặn lực lượng Hải quàn Việt Nam đóng bán đảo Cam Ranh - Cù Lao Thu. Tuyến trước lấy đảo Chữ Thập làm trung tâm, ra sức củng cố xây dựng làm bàn đạp phát triển chiếm đóng trái phép khu vực Trường Sa.

    Với một lực lượng mỏng [12] , yếu và thiếu về trang bị so với các quốc gia khác trong khu vực (tàu của Việt Nam chủ yếu là tàu gần bờ, tàu vận tải cũ, các loại tàu chiến, tàu tên lửa hỏa lực mạnh đủ sức vươn xa rất ít [13]), lại phải đóng trải dài trên 3000km bờ biển, trong đó có những vùng biển cũng đang tiềm ẩn xung đột cao khác như Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan và tham gia cuộc chiến chống Khmer Đỏ tại Campuchia, tình hình với nhiều dấu hiệu tặng nhiệt nhanh chóng, vấn đề chủ quyền quần đảo Trường Sa đặt ra cho Hà Nội quá nhiều thách thức.

    Trong bối cảnh đó, Hải quân nhân dân Việt nam đã thực hiện chủ trương: "Tranh thủ thời gian, triệt để lợi dụng thời cơ, triển khai lực lượng đóng giữ thêm các đảo khác. Không cho đối phương thực hiện ý đồ đóng xen kẽ với ta. Hoàn thành việc đóng giữ các đảo đã xác định trong kế hoạch 3 năm (1988, 1989, 1990) chỉ thực hiện trong năm 1988" [14].

    Ngày 25 tháng 1 năm 1988, tàu HQ-613 đến khu vực bãi cạn Tiên Nữ, sau một tuần vật lộn, nhà cấp III hoàn thành.

    Do nắm thông tin vê việc Trung Quốc chiêm Chữ Thập không chính xác, vì thế ngay sau khi tàu HQ-613 rời bến được 2 ngày, ngày 27 tháng 1 năm 1988 biên đội tàu HQ-611 và HQ-712 (đều là tàu tuần duyên) dưới sự chỉ huy của Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 - Phạm Công Phán và Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 - Nguyễn Thế Dân được lệnh của sở chỉ huy Quân chủng đưa một đại đội công binh và khung chiếm giữ đảo đi đóng giữ đảo chìm Chữ Thập. Tuy nhiên, 6 giờ sáng ngày 30 tháng 1 khi cách Chữ Thập khoảng 5 hải lý tàu Việt Nam đụng độ 4 tàu chiến lớn Trung Quốc [15] ra chắn đường, đe dọa nổ súng. Tàu tàu HQ-611 và tàu HQ-712 phải quay về Trường Sa Đông.

    Sau khi đổ quân chiếm đóng đá Chữ Thập, đứng chân trên vùng biển Trường Sa, Trung Quốc tiếp tục ý định đóng 74 trạm quan sát trên biển Đông, mà theo họ là thực hiện theo kết luận của cuộc họp lần thứ 14 của Ủy ban Hải dương học liên chính phủ của UNESCO thông qua "Liên minh toàn cầu về Kế hoạch đo mực nước biển" quyết định xây dựng 200 trạm khí tượng biển trên toàn thế giới .

    Thất bại trong việc đóng giữ đá Chữ Thập, tàu HQ-611 và HQ-712 được lệnh chuyển hướng, chuyển ngay sang Đá Lát, trên tinh thần: “Khả năng tranh chấp đảo đã đến hồi quyết liệt, nếu do dự, chần chừ sẽ mất thời cơ, công việc quan trọng nhất lúc này là tập trung mọi khả năng, nhanh chóng chiếm giữ Đá Lát”. Đóng giữ được Đá Lát, cùng với Đá Tây vừa đóng giữ Việt Nam sẽ củng cố vững chắc cụm Trường Sa, nơi có đảo Trường Sa Lớn được coi là thủ phủ của huyện đảo Trường Sa, hậu cứ quan trọng nhất (cùng với đảo Song Tử Tây) trong vùng biển này.

    Sáng sớm ngày 21 tháng 2 năm 1988 công trình nhà cấp III ở Đá Lát của Việt Nam hoàn thành.

    Trên hướng bãi đá ngầm Đá Lớn [16], ngày 13 tháng 2 năm 1988 Lữ đoàn 125 cho tàu HQ-505 [17] kéo tàu LCU 556 [18], phối hợp với HQ-671[19] và HQ-01[20] đi đóng giữ Đá Lớn. Sáng 15 tháng 2 khi biên đội tàu 505 vào gần khu vực Đá Lớn phát hiện tàu khu trục 162 và hai tàu hộ vệ tên lửa 551, 552 của Trung Quốc đang tiến về Đá Lớn. Khi cách Đá Lớn 4 hải lý, tàu Trung Quốc thả trôi. Cấp ủy, ban chỉ huy tàu HQ-505 hội ý thống nhất nhận định đối phương chưa biết ý đồ đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Lớn, việc tàu của đối phương thả trôi không ảnh hưởng đến hành trình của ta, tàu của ta tiếp tục đi theo hướng đã định. Tàu HQ-505 bình tĩnh và lặng lẽ đưa tàu 556 tiến vào phía nam đảo. Ngày 20 tháng 2 sau khi khảo sát, thăm dò luồng, tàu LCU 556 đã ủi lên phía nam đảo Đá Lớn, đánh dấu chủ quyền Việt Nam.

    Đầu tháng 2 năm 1988 Trung Quốc tiếp tục đưa thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa. Nhiệm vụ đóng giữ đảo ngày càng trở thành thử thách quyết liệt đốì với cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam. Những ngày cuối tháng 2 năm 1988 việc triển khai lực lượng, vật liệu đóng giữ đảo vất vả, khó khăn vì tàu của đối phương thường xuyên ngăn cản gây khó dễ. Sức chịu đựng về thể chất và tinh thần đối với người lính đảo được đây lên mức cao nhất để chống chọi thiên nhiên khắc nghiệt và đối phương đông hơn, được trang bị mạnh hơn gấp nhiều lần. Tàu Việt Nam tuy gần đất liền hơn tàu Trung Quốc nhưng với khả năng hậu cần hạn chế do thiếu trang thiết bị, lại trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn nên từng đợt tàu hoạt động đều phải cân nhắc, sắp xếp rất tỉ mỉ, bảo đảm an toàn và hiệu quả. Những ngày tháng 2 và nửa đầu tháng 3 năm 1988, tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc “biết mặt đặt tên” nhau ở Trường Sa.

    Ngày 22 tháng 2 tàu hộ vệ tên lửa 502 Trung Quốc và ngày 5 tháng 3 là tàu hộ vệ tên lửa 531 của Hạm đội Đông Hải (phía đông bắc Trung Quốc) tăng cường cũng đã xuất hiện ở khu vực quần đảo Trường Sa, nâng số lượng tàu hải quân Trung Quốc thường trực hiện diện lên đến 15 tàu..

    Triệt để khai thác điểm yếu về số lượng và chất lượng tàu của Việt Nam, chỉ trong 10 ngày Trung Quốc chiếm đóng trái phép thêm 3 đảo: đưa tàu khu trục 162 thuộc lớp Lữ Đại là tàu lớn và hiện đại nhất của Trung Quốc lúc bấy giờ, bốn tàu hộ vệ 502, 503, 508 và 556 chiếm giữ đá Châu Viên (18 tháng 2); đưa tàu hộ vệ pháo 503, một tàu kéo, hai tàu đổ bộ và 2 tàu vận tải chiếm giữ đá Ga Ven (26 tháng 2), đưa tàu hộ vệ pháo 502 và một tàu vận tải chiếm giữ đá Tư Nghĩa (Huy Gơ) (28 tháng 2), tất cả các đảo này là đảo chìm; Việt Nam đóng giữ thêm 3 đảo: đá Đông(18 tháng 2), đá Tốc Tan (27 tháng 2), đá Núi Le (2 tháng 3) đưa tổng số đảo đóng giữ lên 16 đảo gồm 9 đảo nổi, 7 đảo chìm. Hải quân Việt Nam đã bước đầu tạo thế đứng chân theo cụm trên các khu vực quan trọng thuộc quần đảo Trường Sa.

    Thời gian này, Việt Nam có một quyết định quan trọng, vẫn tuyên bố chủ quyền nhưng không mở rộng phạm vi đóng giữ sang phía Đông kinh tuyến 115°, là vùng ta không hiện diện từ trước đến nay, tránh gây căng thẳng và mở ra hướng ngoại giao với Philipines, Brunei cũng như khối ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp ở quần đảo Trường Sa nói riêng. và đường lối đi lên của đất nước nói chung.

    Tại Trường Sa, quan sát các hoạt động của Hải quân và Không quân Trung Quốc tại các khu vực quan trọng, Việt Nam nhận định, sắp tới có khả năng Trung Quốc sẽ tung quân chiếm giữ thêm một số bãi cạn quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết như Ét Mân, Đá Đốt, Ba Đầu, Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, En Đất và một số bãi ở đông kinh tuyẽn 115 0 như Vành Khăn, Suối Ngọc, Suối Ngà, cỏ Mây nhằm tạo thế đứng chân theo hướng từ đảo lên cụm đảo và các cụm đảo tại quần đảo Trường Sa.

    Tình hình Trường Sa căng như dây đàn. Hải quân Việt Nam cũng đề ra phương án nhanh chóng triển khai lực lượng đóng giữ Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao thuộc cụm đảo Sinh Tồn trước khi Trung Quốc hành động.

    [​IMG]Cụm Sinh Tồn và các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao

    Các bãi cạn Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao là vị trí quan trọng [21], lực lượng có mặt trên các bãi này sẽ khống chế đường đi lại của khu vực trung tâm quần đảo, cũng như đây sẽ là bàn đạp quan trọng nếu muốn mở rộng ảnh hưởng ra các khu vực khác.

    Đúng 20 giờ ngày 11 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-604 của Lữ đoàn 125 được lệnh rời Cam Ranh chở 2 khung nhà cấp III và 70 cán bộ, chiên sĩ Trung đoàn 83 Công Binh Hải quân, cùng 22 cán bộ, chiến sỹ của Lữ đoàn 146, 4 chiẽn sĩ đo đạc của Đoàn 6 hàng hải đi Đá Lớn. Sau gần 34 giờ vất vả vì sóng gió, đến 9h00 ngày 13 tháng 3 tàu HQ-604 có mặt tại Đá Lớn. Tại đây tàu 604 trực tiếp truyền mệnh lệnh của sở chỉ cho tàu HQ-505 đang trực phải nhanh chóng nhổ neo đi đóng giữ Gạc Ma và Cô Lin, tàu HQ-605 đi đóng giữ Len Đao.

    [​IMG]Mật lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân

    Lúc này, 14h25 ngày 13 tháng 3, tàu hộ vệ tên lửa 502 của Hải quân Trung Quốc cũng đã có mặt ở khu vực đá Gạc Ma và đang chuẩn bị đổ bộ.

    16 giờ ngày 13 tháng 3 tàu HQ-604 đến Gạc Ma, cùng thời điểm tàu HQ-505 đến Cô Lin, tàu HQ-605 đến Len Đao và thả neo và tiến hành làm dây, hạ xuồng, đưa vật liệu vào để chuẩn bị xây dựng. 17h00 nhận sự có mặt của tàu Việt Nam, tàu hộ vệ tên lửa 502 Trung Quốc áp sát, khiêu khích, liên tục đưa xuồng quần thảo cắt dây vận chuyển của tàu HQ604, dùng loa yêu cầu phải nhổ neo bằng tiếng Việt. Hai tàu HQ-604 và HQ-505 vẫn giữ vững vịnh trí, thủy thủ ra lan can hút thuốc để tỏ rõ sự bình tĩnh. Thấy tàu Việt Nam kiên trì thả neo đêm 13 tháng 3 tại vùng nước gần các đảo, Trung Quốc tăng cường thêm hai tàu hộ vệ tên lửa là Tàu hộ vệ tên lửa 556 - Tương Đàm và Tàu hộ vệ tên lửa 531 - Ưng Đàm và 2 tàu vận tải thay nhau quần đảo, vây ép. Tàu 556 - Tương Đàm hoạt động trên hướng Len Đao, Tàu 502 – Nam Sung và tàu 531 – Ưng Đàm hoạt động ở khu vực Gạc Ma - Cô Lin, chỉ huy là tàu 502 - Nam Sung.

    Trên hướng Gạc Ma và Cô Lin (hai đảo chìm này cách nhau 3km), lúc 0h00 ngày 14 tháng 3, tàu HQ-604 và HQ-505 thả xuồng, đổ quân ngay trong đêm và cắm cờ Việt Nam lên đảo [22], tổ chức ở Gạc Ma 4 tổ chiến đấu, Cô Lin 2 tổ chiến đấu, chuyển vật liệu lên đảo và làm nhà ngay trong đêm.

    Gạc Ma và Cô Lin là đảo chìm, lúc này nước lên và song to nên triển khai nhân vật lực trên đảo cực kỳ khó khăn, nhưng đến 3h00 sáng ngày 14 tháng 3, tàu HQ-604 Việt Nam đã cắm được cờ lên phía đông đá Gạc Ma, cùng thời điểm đó tàu 502 – Nam Sung Trung Quốc cũng thả lính đổ bộ vào phía bắc đảo [23], hai bên cách nhau khoảng 200 mét.

    Lúc này trên biển về lực lượng, Trung Quốc có số lượng chỉ nhiều hơn hai tàu nhưng 3/5 tàu là tàu hộ vệ tên lửa với hỏa lực và khả năng tác chiến vượt trội. Tàu Việt Nam toàn bộ là tàu vận tải và tàu đổ bộ cũ, không trang bị vũ khí đối hải. Giữa biển khơi, trong cuộc tao ngộ này, cán cân sức mạnh nghiêng hoàn toàn về phía Hải quân Trung Quốc.



    Việt Nam

    - HQ-604: tàu vận tải, lượng giãn nước 50 tấn

    - HQ-605: tàu vận tải, lượng giãn nước 50 tấn

    - HQ-505: tàu đổ bộ

    Trung Quốc

    -Tàu hộ vệ tên lửa 502 - Nam Sung, lớp Giang Nam/065 (Jiangnan Class/065), lượng giãn nước 1.600 tấn - Tàu hộ vệ tên lửa 556 - Tương Đàm, lớp Giang Hộ II/053H1 (Jianghu II Class/053H1), lượng giãn nước 1.425 tấn - Tàu hộ vệ tên lửa 531 - Ưng Đàm, lớp Giang Đông/053K (Jiangdong Class/053K), lượng giãn nước 1.600 tấn

    - 2 tàu vận tải



    Vũ khí trang bị

    Tàu Việt Nam: Vũ khí bộ binh: Trung liên, B41, B40, tiểu liên AK, 1 Súng caliber 3”/50, 8 súng 40mm

    Tàu Trung Quốc: Tên lửa chống hạm SY-1 tầm bắn 150 km, pháo 100 mm, pháo hai nòng 37 mm, hệ thống pháo phản lực phóng loạt chống ngầm, tên lửa phòng không tầm ngắn, các loại vũ khí bộ binh như Việt Nam





    6h30, Trung Quốc thả 3 xuồng nhôm và 58 quân đổ bộ, giương lê tiến về phía cờ của Việt Nam trên đá Gạc Ma, hai bên chỉ cách nhau 1 mét. Đồng thời, tàu 502 – Nam Sung cho xuồng máy với 7 lính quần đảo xung quanh tàu HQ604, ngăn chặn HQ-604 tiếp ứng.

    7h10, Quân Trung Quốc dựa vào thế đông người xông vào giật cờ. Những người lính hải quân Việt Nam quyết không lùi bước, dũng mãnh dùng tay không chiến đấu, hai bên giằng co quyết liệt. Lúc này, công binh trung đoàn 83 Việt Nam đưa vật liệu và thêm 10 người vào đảo. Nước biển lạnh, sóng to, lực lượng Việt Nam trên Gạc Ma lúc này là 43 người. Khi xuồng công binh vào đến bãi cạn (sâu khoảng 0,5m), cờ được bộ đội chuyền tay nhau đưa vào cọc để cắm. Khi Quốc kỳ Việt Nam từ Nguyễn Mậu Phong đến tay Trần Văn Phương thì sỹ quan chỉ huy Trung Quốc rút sung bắn chỉ thiên, ra lệnh nổ súng. Trần Văn Phương, Nguyễn Mậu Phong và nhiều chiến sỹ công binh bị thương và hi sinh. Thiếu úy Trần Văn Phương bị thương nặng, trước khi gục xuống còn gắng lấy hêt sức lực cuối cùng động viên đồng đội giữ vững quyết tâm chiến đấu: "Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của ta!". Trần Văn Phương đã hy sinh ở tuổi thanh xuân, để lại người vợ trẻ và đứa con sắp chào đời, nêu tấm gương sáng ngời vê chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thúc giục đồng đội giữ vững khí thế quyễt tâm bảo vệ đảo.

    Không uy hiếp áp đảo hoàn toàn được bộ đội Việt Nam rút khỏi đảo, thấy tàu HQ-604 tiếp tục thả xuồng vào đảo và vận động tiếp ứng, 7h30 phút ngày 14 tháng 3, lính Trung Quốc đổ bộ trên đảo lùi lại góc phía bắc Gạc Ma. Chiến sự tưởng tạm lắng, nhưng không, Trung Quốc cho 1 tàu dùng pháo 37mm bắn vào những người lính Việt Nam không vũ khí, đang dùng thân thể mình để giữ cờ trên đảo. Đồng thời, 2 tàu dùng pháo 100 m bắn vào tàu HQ-604 Việt Nam khiến tàu bị hỏng nặng. Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 Hải quân Trần Đức Thông [24] và thuyền trưởng tàu HQ-604 Vũ Phi Trừ phôi hợp chỉ huy bộ đội dùng súng AK, RPD, B40, B41 đánh trả đánh trả, tổ chức băng bó cấp cứu thương binh và hỗ trỡ cho các đồng đội bảo vệ cờ trên đảo. Do bị hỏng máy và bị thủng nhiều lỗ, 9 phút sau tàu 604 chìm dần xuống biển. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ, phó lữ đoàn trưởng Trần Đức Thông đã anh dũng hy sinh cùng con tàu, các chiến sỹ còn lại phần lớn mất tích.

    Trên hướng Cô Lin, 6 giờ 30 phút cùng ngày 14 tháng 3 năm 1988, Việt Nam đã cắm 2 cờ lên đảo. Khi phát hiện tàu HQ-604 trên hướng Gạc Ma chìm, khả năng đóng giữ Gạc Ma không thực hiện được, Thuyền trưởng tàu HQ-505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo, cho tàu ủi bãi để chiếm giữ Cô Lin. Phát hiện tàu HQ-505 đang cơ động lên bãi, 2 tàu Trung Quốc quay sang tiến công tàu HQ-505 bằng pháo 100mm[25]. Tuy bốc cháy do dính đạn của đối phương nhưng HQ-505 505 vẫn dùng sung 40mm bắn trả và lấy hết tốc lực trườn lên đảo thành công, lúc đó là 8 giờ 15 phút ngày 14 tháng 3. Ngay sau khi ủi bãi thành công, tàu 505 vừa dập lửa cứu tàu, tổ chức phòng thủ và vừa đưa xuồng đi cứu vớt cán bộ, chiẽn sĩ tàu HQ-604. Tàu HQ-505 bị cháy 5 ngày liền và sau này vĩnh viễn nằm lại với biển khơi nhưng đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.

    Cùng thời điểm nóng bỏng ngày 14 tháng 3, trên hướng Len Đao, lúc 8 giờ 20 phút khi phát hiện tàu 605 của Lữ đoàn 125 đã cắm cờ trên đảo, tàu chiến của đổi phương cũng dùng pháo 100mm bắn vào HQ-605. HQ-605 bị bốc cháy và bị thủng nhiều lỗ, đến 6h00 sáng hôm sau, 15 tháng 3 tàu HQ 605 chìm hẳn, mãi mãi ở lại với biển khơi, làm mốc chủ quyền của Việt Nam trên đảo Len Đao.

    Trận chiến đấu ngày 14 tháng 3 năm 1988, gây cho Việt Nam nhiều tổn thất: ba tàu bị chìm, bị cháy, hư hỏng nặng và mất sức cơ động, ba người hy sinh, 11 người bị thương, 70 người mất tích (sau này Trung Quốc trao trả cho ta 9 người còn 61 mất tích). Nhiệm vụ không được hoàn thành trọn vẹn, trong 3 mục tiêu cục bộ là Gạc Ma, Cô Lin và Len Đảo chỉ đóng giữ được Cô Lin và Len Đào, đảo chìm Gạc Ma bị Trung Quốc chiếm đóng. Máu đã đổ song bằng tinh thần chiến đấu quả cảm, ngoan cường, một tấc không đi, một ly không dời, còn người, còn tàu, còn đảo đã chỉ cho Trung Quốc thấy rằng, dù khó khăn thiếu thốn đến đấu người Việt Nam sẵn sàng chiến đấu đến cùng để bảo vệ chủ quyền đất nước [26].

    Trưa 14/3 tàu HQ-931[27] và HQ-671[28] đến tiếp ứng, tàu HQ-505 được chữa cháy và trụ vững trên đảo Colin. Sau ngày 14 tháng 3, thuyền trưởng HQ-505 Vũ Huy Lễ có thể được về đảo Sinh Tồn nghỉ ngơi nhưng ông xin tiếp tục ở lại cùng 9 chiến sỹ giữ đảo, trên chính con tàu HQ505 bằng thép. Hầu như ngày nào TQ cũng cho tàu đến quấy nhiễu, khiêu khích, réo cả tên “Vũ Huy Lễ, hãy đầu hàng!”, quăng dây lên “pháo đài HQ-505” dọa kéo ra biển Cuộc đối đầu vẫn còn tiếp tục, lúc này thật sự là cuộc đấu trí, sức mạnh và thử thách sự bền gan.

    Ngày 15/3/1988, chỉ một ngày sau sự kiện 14/3/1988, ta không lấy lại được Gạc Ma, nhưng đóng giữ thành công đảo Đá Thị, một vị trí rất quan trọng ở cụm đảo Nam Yết. Ngày 16/3, ta tiếp tục đóng giữ đảo Đá Nam.

    Tổng cộng trong Chiến dịch CQ88, Việt Nam đã đóng giữ 11 thêm đảo chìm, nâng số thực thể Việt Nam kiểm soát được 21 thực thể địa lý (7 đảo san hô và cồn cùng 14 ám tiêu san hô) [29].

    [​IMG]Sơ đồ quần đảo Trường Sa

    Ngày 7/5/1988, khi tranh chấp vẫn diễn ra từng giờ từng phút Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đã ra thăm Trường Sa. Vị tư lệnh đoàn 232 - một trong năm cánh quân tây nam tiến vào Sài Gòn mùa xuân năm 1975, chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng năm tại mặt trận biên giới Tây Nam, vị tướng mà sau này trở thành ************* Việt Nam đã có một lời thề, như lời thề chung của mọi người dân đất Việt:

    “Chúng ta xin thề trước hương hồn của Tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu !".

    [​IMG]Sơ đồ quần đảo Trường Sa






    [1] Gồm các đảo: Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa.



    [2] Đó là: An Bang (10/3/1978), Sinh Tồn Đông (15/3/1978), Phan Vinh (30/3/1978), Trường Sa Đông (4/4/19878).



    [3] Thuộc Cụm Thám Hiểm của quần đảo Trường Sa, cụm Thám Hiểm gồm: Đá Chim Én, Đá Hoa Lau, Đá Kỳ Vân, Đá Sác Lốt, Đá Suối Cát, Đá Kiêu Ngựa và Bãi Thám Hiểm. Theo cách quản lý của Việt Nam, quần đảo Trường Sa gồm: cụm Song Tử, cụm Nam Yết, cụm Sinh Tồn, cụm Trường Sa, cụm Thám Hiểm:



    [4] Một loại xà lan.



    [5] Đại tướng Lê Đức Anh



    [6] Trung đoàn công binh 83 Hải quân sau được mệnh danh là “Những người kê cao thềm Tổ quốc”.



    [7] Tàu HQ-613 vốn là "tuần duyên hạm" tức tàu tầu tra gần bờ của Mỹ viện trợ cho VNCH. Sau Thống nhất, HQNDVN thu được một số tàu PGM và biên chế trong nhiều đơn vị.



    [8] Đảo Đá Tây là một rạn san hô vòng thuộc cụm Trường Sa của quần đảo Trường Sa. Đây là một trong bốn bộ phận cấu thành cụm đá ngầm mà các nhà hàng hải quốc tế gọi là cụm rạn Luân Đôn, tức London Reefs (ba thực thể còn lại là đá Đông, rạn vòng chứa đảo Trường Sa Đông và đá Châu Viên)



    [9] Tàu-604 thuộc loại tàu vận tải cỡ nhỏ lớp Đại Khánh do Trung Quốc đóng và viện trợ cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Các tàu này trước đây thuộc đội tàu “không số” tham gia vận chuyển vũ khí đạn dược vào Nam bằng tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển



    [10] DK1 là chữ viết tắt của cụm từ Dịch vụ-Khoa học kỹ thuật, được hiểu như một công trình phục vụ mục đích dân sự trên biển. Số 1 chỉ những nhà giàn ở vòng ngoài cùng, xa nhất, so với phía gần đất liền hơn là hệ thống DK2 - những mỏ dầu khí Việt Nam đã đang và sẽ khai thác như Bạch Hổ, Đại Hùng, v.v..



    [11] Đảo Chữ Thập vốn là một rặng san hô ngầm, vị trí tách biệt nhưng là ở trung tâm quần đảo Trường Sa



    [12] Lực lượng được tổ chức thành: Vùng I, Vùng III, Vùng IV, Vùng V, Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Hải quân, Lữ đoàn 125, 126, 127, 170, 171, 172. 146, 147, 161, 162; Hải đoàn 128, 129, 133, Trung đoàn 83, 131, 602, 952; Đoàn 861, 679, 680; Viện 1-5, Viện 5-8, Tổng đội 106, Trường Đảng, Trường Hậu cần, Trung tâm huấn luyện chiến sĩ kỹ thuật và một số cơ quan khác.



    [13] Xem Phụ lục: Một số tàu chiến của HQND Việt Nam những năm 1900.



    [14] Nghị quyết Đảng ủy Quân chủng Hải quân, ngày 9/1/1988. Hồ sơ số 2353/VP-BTLHQ.



    [15] Thuộc Hạm đội 552



    [16] Đảo Đá Lớn nằm ở rìa phía tây nam của cụm Nam Yết, cách đảo Nam Yết 31 hải lý, cách đảo Sinh Tồn 29 hải lý.



    [17] Tàu HQ-505 là một loại tàu đổ bộ xe tăng thuộc lớp LST-491 với tên gọi LST-509. Đây là loại được xây dựng cho Hải quân Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ 2. LST-509 được triển khai hoạt động chiến đấu ở khu vực châu Âu trong cuộc tấn công vào miền Nam nước Pháp năm 1944. Ngày 08/04/1970, tàu LST-509 ngưng hoạt động và chuyển giao cho VNCH thuê trong chương trình Hỗ trợ An ninh đến miền Nam Việt Nam. Tàu lúc này mang số hiệu HQ-504 Quy Nhơn. Sau khi giải phóng miền Nam, tàu HQ-504 được đưa vào biên chế Hải quân Việt Nam với số hiệu mới HQ-505.



    [18] LCU-556 là Tàu đổ bộ cỡ nhỏ, thuộc VNCH trước đây, thu được sau khi giải phóng Miền Nam.



    [19] HQ-671 là tàu vận tải lớp Đại Khánh do Trung Quốc sản xuất



    [20] HQ-01 là tàu hộ vệ tên lửa cỡ nhỏ thuộc VNCH trước đây, thu được sau khi giải phóng Miền Nam.



    [21] Vị trí và điều kiện địa lý các đảo đá Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao:

    - Đá Gạc Ma: là một rặng san hô thuộc cụm Sinh Tồn với tọa độ 9°42′ Bắc 114°17′ Đông, đá Gạc Ma Đá này nằm cách đá Cô Lin hơn 3 km về phía đông nam và đánh dấu đầu mút phía tây nam của cụm Sinh Tồn

    - Đá Len Đao:là đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa, ở vĩ độ 9045’40’’ Bắc và 114021’50”, cách Cam Ranh hơn 300 hải ly, cách Sinh Tồn 7,5 hải lý về phía nam. Toàn bộ đảo nằm trên nền san hô ngập nước, chiều dài đảo khoảng 0,8 hải lý, chiều rộng khoảng 0,5 hải lý. Khi thủy triều xuống thấp nhất vẫn chìm sâu 0,5m dưới mặt nước, phía Đông Bắc có một gò san hô dài khoảng 40m nhô cao hơn những nơi khác nhưng vẫn lập lờ dưới mặt nước 0,1m khi thủy triều xuống thấp nhất.

    - Đảo Cô Lin:là đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa, có tọa độ địa lý 094540N và 1141321E, nằm cách đảo Sinh Tồn 9 hải lý về phía Tây Nam, cách đảo Gạc Ma 1,9 hải lý, cách đảo Len Đao 6,8 hải lý về phía Tây Tây Nam. Đảo Cô Lin có hình dạng tam giác nhưng cạnh hơi cong, mỗi cạnh dài khoảng 1 hải lý. Khi thủy triều lên đảo ngập chìm trong nước còn khi thủy triều xuống thấp nhất, cả đảo chỉ lộ ra một vài hòn đá mồ côi.





    [22] Lê Hữu Thảo Trần Văn Phương, Nguyễn Mậu Phong, Tư, Chúc lên xuồng đi vào đảo Gạc Ma chỉ huy cắm cờ. Đặc biệt rong đó, thiếu úy Trần Văn Phương vợ sắp sinh vẫn tình nguyện chiến đấu.



    [23] Chỉ huy đổ bộ là Wangzheng Li.



    [24] Chỉ huy lực lượng đóng giữ đảo, đi trên tàu HQ-604



    [25] Theo thống kê, chỉ tính riêng loại đạn pháo 100mm, tàu 531 – Ưng Đàm đã bắn 54 viên. Tổng kết xung đột ngày 14/3/1988 Trung Quốc đã bắn 285 viên đạn pháo 100mm, 266 viên đạn pháo 37mm và rất nhiều đạn các cỡ khác



    [26] tàu HQ 505, Các cá nhân: Vũ Phi Trừ, Trần Văn Phương, Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh được Nhà nước tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang.



    [27] HQ-931 là một tàu chở nước có trọng tải 900 tấn là một trong những con tàu được xem là "to" của HQ VN thời bấy giờ..



    [28] HQ-671 là tàu vận tải hạng nhẹ, vốn là tàu “Không số” với số hiệu 641 được tuyên dương Anh hung Lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Mỹ.



    [29] Philippines 10 (7 đảo san hô và cồn cùng 3 ám tiêu san hô), Trung Quốc 7 ám tiêu san hô, Malaysia 7 ám tiêu san hô, Đài Loan 1 đảo san hô và 1 ám tiêu san hô.
    VietTS, Connuocviet, qatgroup6 người khác thích bài này.
  5. truongsathanyeu

    truongsathanyeu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2016
    Bài viết:
    51
    Đã được thích:
    60
    =====••===•====
    trên khu vực quần đảo Trường Sa đang là thời kỳ thịnh hành của gió mùa Tây Nam, những đợt gió liên liên tục đổ về làm cho mặt biển cuộn lên những cơn sóng trắng xoá có lúc lên tới cấp 10, cấp 11, ngày 30 tháng 10 năm 1987 tàu HQ-613[7] vượt 250 hải lý sóng gió ra đóng giữ đảo Đá Tây[8], khẩn trương làm nhà bạt trên dải cát nổi, nhưng nhà vừa dựng xong buổi trưa, buổi chiều nước lên cao lại đổ. HQ-613 phải đưa lực lượng rút về đảo Trường Sa Đông và sau một tháng chống chọi, tàu đã phải rút về Cam Ranh, chưa thể hoàn thành nhiệm vụ.
    ====•===•=•••••••••

    Đây là câu chuyện của đá chữ thập thì phải!
  6. Tranphong77

    Tranphong77 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/07/2015
    Bài viết:
    3.315
    Đã được thích:
    13.576
    Thông tin từ phía TQ
    Ngày 15 tháng 1 1988 Trung Quốc cử tầu di trinh sát Nam Sa.

    18 Tháng 1 2 tầu 529, 502 đến rạn YONGSHU - Chữ Thập. Ngày hôm sau hai tàu đã cố gắng vào YONGSHU rạn san hô, thuyền của tàu 502 lật nên dừng lại.

    22 tháng một, tàu tuần tra 502 để trở lại rạn YONGSHU tham gia vào hai tàu khu trục khác 553 và 556.

    23 tháng 1, tầu 552 đến Nansha, hạm đội khởi hành từ ngày 20, có thông tin có cả tầu 929. Vào ngày 31 tàu tên lửa 552 có Phó Chánh Thanh Duẩn dẫn 6 người lên Yongshu.16:00 cắm cờ trên đảo. Đây là lần đầu tiên lá cờ bay trên quần đảo Nam Sa.

    Việt Nam:
    Ngày 27 tháng 10 năm 1987, Tư lệnh Giáp Văn Cương lệnh cho Lữ đoàn 146 tổ chức 4 khung đi đóng giữ các đảo Đá Lớn, Tiên Nữ, Chữ Thập và Đá Tây, nêu tình hình cho phép đóng tiếp Đá Lát.
    Nhưng sao chỉ nói đến việc đóng giữ ở Đá Tây mà ko nói đến các đảo khác nhỉ. Sau đó có nói đến thời tiết ở Biển Đông phức tạp, có lẽ vì điều này nên ko thực hiện được đóng giữ ở Chữ Thập chăng hoặc tàu ko tiếp cận được nên phải rút về?
    Bác nào có biết thông tin gì ko?
    --- Gộp bài viết: 31/03/2017, Bài cũ từ: 31/03/2017 ---
    17 tháng hai, ngày đầu năm mới, các máy bay do thám quân sự Mỹ P3C bay đến YONGSHU do thám.
    caheo999, VietTS, kynx19963 người khác thích bài này.
  7. Tranphong77

    Tranphong77 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/07/2015
    Bài viết:
    3.315
    Đã được thích:
    13.576
    Đá Lát
    [​IMG] [​IMG] [​IMG] [​IMG] [​IMG]
  8. dohuuhang1976

    dohuuhang1976 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/06/2015
    Bài viết:
    838
    Đã được thích:
    1.731
    [​IMG] [​IMG] [​IMG] [​IMG] [​IMG]
    vevoits, VietTS, Adamle6 người khác thích bài này.
  9. Tranphong77

    Tranphong77 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/07/2015
    Bài viết:
    3.315
    Đã được thích:
    13.576
    Theo đề án của QCHQ đề nghị với BQP về chính sách với những quân nhân đang làm nghĩa vụ ở Trường Sa có mấy điểm mới:
    - Với quân nhân đi nghĩa vụ, thời gian sẽ giảm từ 12 tháng hiện nay xuống còn 9 tháng. Việc điều chỉnh này dựa trên việc đào tạo tân binh ở trên đất liền đã đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ ngoài biển đảo và hiện nay luôn có các chuyến tầu ra Trường Sa nên việc đổi quân không gặp nhiều khó khăn;
    - Với những quân nhân chuyên nghiệp, sĩ quan có thời gian công tác tại Trường Sa từ 1 năm trở lên thì tạo điều kiện cho phép người thân ra thăm, động viên. Thời gian đi ra Trường Sa của thân nhân sẽ phải báo trước 3 tháng với cấp trên để thu xếp.
    Thời gian áp dụng đề án này từ năm 2018.
  10. huongcoivtv

    huongcoivtv Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/06/2006
    Bài viết:
    763
    Đã được thích:
    440
    Bò này chắc toàn ăn cám thôi bác nhỉ. Cỏ đâu ra
    Adamle thích bài này.

Chia sẻ trang này