1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tại sao CNXH (Mác) không thành công tại Tây Phương & ảnh hưởng lớn tại Đông Phương ?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Hoailong, 19/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp)
    Vẫn còn những cố gắng tiến hành công cuộc cải cách dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, và Đảng này, dưới sự lãnh đạo của M. S. Gorbachev, khi mới bắt đầu quá trình cải tổ, còn duy trì được vai trò tập hợp lực lượng của mình. Nhưng Đảng đã đánh mất vai trò đó ngay khi chưa thực thi.

    Gorbachev lúc đầu rất được lòng tầng lớp trung lưu, nhưng đã mất dần sự ủng hộ vì trong tình hình phân bố lực lượng phức tạp lúc ấy, ông buộc phải ngả nghiêng giữa phái cộng sản chính thống và phái cải cách. Có sự mâu thuẫn và tính cách hai mặt của đường lối chính trị như thế là vì Gorbachev tiếp tục là lãnh tụ của một Đảng đã chứng tỏ K0 còn khả năng tiến hành các cuộc cải cách có tính cấp tiến nữa.

    Cuộc khủng hoảng tháng 8 năm 1991 đã đặt dấu chấm hết cho giai đoạn này, kéo theo sự tan rã của Liên Xô cũng như sự phân hóa sâu sắc các lực lượng xã hội.

    Chúng tôi K0 có ý định đánh giá các sự kiện lúc đó, vì, một mặt, vấn đề này rất khó và K0 liên hệ trực tiếp đến đề tài của chương trình.

    Nhưng mặt khác, chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, đấy có thể K0 chỉ là kết quả của những tiến trình chính trị diễn ra trong nước từ năm 1985. Theo chúng tôi, đấy chính là hậu quả của sự phát triển cả trong lĩnh vực kinh tế, cả trong lĩnh vực chính trị của giai đoạn trước đó. Dĩ nhiên là thật đáng tiếc khi xu hướng chủ yếu trên toàn thế giới là hợp nhất thì tại Liên Xô cũ, xu hướng chủ đạo là ly tâm. Nhưng chúng tôi tin rằng, đây là quá trình tất yếu, các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ phải vượt qua giai đoạn đó mới có thể nhận thức được rằng nhiều vấn đề K0 thể giải quyết riêng rẽ được; chúng tôi tin rằng, chúng ta sẽ được chứng kiến các cuộc đối thoại của những nhà nước bình đẳng, tôn trọng truyền thống và văn hóa của nhau, cùng quan tâm đến việc hợp tác và thực sự muốn đặt được đồng thuận.

    (Phạm Nguyên Trường dịch)

    [​IMG]
    *) Toàn trị (Totalitarianism) là thuật ngữ của giới nghiên cứu mô tả một loại nhà nước thời hiện đại, đã được Giovanni Amendola dùng lần đầu tiên năm 1923 để chỉ chế độ độc tài, phát xít tại Ý thời Mussolini. Nhà nước toàn trị có thể xuất hiện từ việc giới quân sự đảo chính để nắm giữ quyền lực tuyệt đối (loại bỏ xã hội dân sự) như các Nhà nước độc tài quân sự (ví dụ như trường hợp Đảng quốc gia Phát xít của Mussolini đảo chính nắm quyền nước Cộng hòa Ý) hoặc xuất hiện từ một nhóm cá nhân nắm giữ quyền lực tuyệt đối của xã hội do dần dần lạm dụng quyền lực mà K0 K0 được sự kiểm soát của toàn xã hội (xã hội dân sự hết sức manh mún, què quặt). Giới cầm quyền có thể mị dân, ngụy trang người dân bằng các tổ chức xã hội dân sự giả hiệu làm cho nhiều người khó khăn trong việc xác định đúng bản chất của loại nhà nước này trong khi quyền tự do của họ bị hạn chế và vi phạm. Giới cầm quyền cũng có những thay đổi, điều chỉnh theo yêu sách của dân chúng nhưng K0 làm thay đổi bản chất Nhà nước toàn trị của nó bởi nhóm cầm quyền quan tâm tới chất lượng cầm quyền hơn là chất lượng quản lý Nhà nước của nó. Các lãnh tụ có khuynh hướng giáo điều trong mục tiêu, tùy tiện về phương thức, thích đồng phục trong tư tưởng và K0 thích tính đa dạng của các cá nhân, bi quan về bản tính con người, chỉ trừ tự coi chính mình là có ý chí, có trách nhiệm, chân thành và đủ phẩm chất phán xét mọi chuyện... (Nguồn chungta.com)
    • Trong cuộc trả lời phỏng vấn của nhật báo Nga Izvestia ngày 7/5/2010, Tổng thống Nga Dmitri Medvedev đã chỉ trích "chế độ toàn trị" của Liên Xô cũ và «các tội ác» của Stalin. Thông điệp này sau đó đã được đưa lên các kênh truyền hình chính của Nga. Dịp kỷ niệm 65 năm ngày chiến thắng chủ nghĩa Phát-xít, Tổng thống Nga muốn Tách Bạch/Bài Trung chiến thắng của Hồng quân cùng với Đồng minh, ra khỏi những tai họa do Liên bang Xô viết gây ra. Ông nhấn mạnh: "chế độ được xây dựng tại Liên bang Xô viết là một chế độ toàn trị, nơi các quyền tự do căn bản bị xóa bỏ hoàn toàn" và "những điều Stalin gây ra cho chính người dân Nga K0 thể nào tha thứ được".
    Theo nhà chính trị học Nga, Alexandre Konovalov, các tuyên bố của ông Medvedev sẽ giúp vào việc trả lại sự thật cho lịch sử. Tuy nhiên, ông Nikolai Petrov, thuộc Trung tâm Carnegie, lại cho rằng, tuyên bố của Tổng thống Nga chỉ nhằm cải thiện hình ảnh nước Nga trong mắt phương Tây và thành phần cấp tiến tại Nga, chứ K0 có tác động gì đến giới tinh hoa Nga.

    Nguồn: Sách giáo khoa dành cho trường phổ thông Nga
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Trở lại Bài viết: Mọi điều bạn tưởng bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô đều sai
    Everything You Think You Know About the Collapse of the Soviet Union Is Wrong“, Foreign Policy, July/August 2011. By The Observer 07/02/2015
    Tác giả: Leon Aron
    (Tiếp & sẻ Tiếp)
    Viết cho một tạp chí Xô-viết năm 1987, một độc giả Nga gọi những gì ông chứng kiến chung quanh ông là một “sự dứt khoát triệt để trong ý thức của người dân”. Chúng ta biết độc giả này nhận xét đúng vì cuộc cách mạng của Nga là cuộc cách mạng lớn nhất đầu tiên mà tiến trình của nó được vẽ thành biểu đồ trong các cuộc thăm dò dư luận quần chúng ngay từ đầu.
    Vào cuối năm 1989, cuộc thăm dò dư luận tiêu biểu đầu tiên đã cho thấy dân chúng nhiệt liệt ủng hộ các cuộc tuyển cử có tính cạnh tranh và việc hợp pháp hóa các đảng phái ngoài Đảng +Sản Xô-viết – sau bốn thế hệ dưới chế độ độc tài độc đảng và trong lúc các đảng phái độc lập vẫn còn bất hợp pháp.
    Giữa thập niên 1990, hơn nửa số người được thăm dò trong một vùng nước Nga đồng ý rằng “một nền kinh tế lành mạnh” có khả năng phát triển nhanh hơn “nếu chính phủ cho phép tư nhân làm ăn theo ý họ muốn”. Sáu tháng sau, một cuộc thăm dò trên toàn nước Nga cho thấy 56% hậu thuẫn một cuộc chuyển đổi nhanh chóng hay tuần tự sang một nền kinh tế thị trường. Thêm một năm sau thì số người ủng hộ kinh tế thị trường tăng đến tỉ lệ 64%.

    Những người đã gieo vào xã hội “chuyển biến ngoạn mục về ý thức” không ai khác hơn là những kẻ đã từng châm ngòi cho các cuộc cách mạng tiêu biểu khác của thời hiện đại: đó là, các nhà văn, nhà báo, và giới nghệ sĩ. Như Alexis de Tocqueville nhận xét, những con người này “giúp tạo ra một ý thức chung về sự bất mãn như vậy, một công luận được kiên định như vậy, rồi hai yếu tố này… lại tạo ra những đòi hỏi hữu hiệu cho các chuyển biến có tính cách mạng”. Đột nhiên, “toàn bộ việc giáo dục” trên cả nước trở thành “công tác của những người cầm bút”.
    Tại Nga Xô cũng vậy. Những hàng người dài trước các sạp báo – đôi khi các đám đông phải xếp hàng quanh một khu phố từ lúc 6 giờ sáng, vì lượng báo ra hàng ngày thường bán sạch chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ – và số người đặt mua ngày càng đông các báo nổi tiếng có chủ trương tự do đã chứng minh sức công phá của những nhà bình luận nổi tiếng thuộc khuynh hướng glasnost, hay xin mượn cụm từ của Samuel Johnson, “những bậc thầy truyền giảng chân lý” (teachers of truth): kinh tế gia Nikolai Shmelyov; các triết gia chính trị như Igor Klyamkin và Alexandr Tsypko; các tiểu luận gia như Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor Vinogradov, and Ales Adamovich; các ký giả Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor Burlatsky, và chí ít trên hai chục nhà văn nữa.

    Đối với họ, việc phục sinh đạo lý&_Niềm_Tin là thiết yếu. Điều này có nghĩa là không những chỉ rà soát lại các HỆ THỐNG chính trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật ngược các qui phạm xã hội (social norms), mà còn là một cuộc cách mạng trên bình diện cá nhân: một sự thay đổi trong nhân cách của người dân Nga. Như Mikhail Antonov tuyên bố trong một tiểu luận rất sáng tạo năm 1987, với tiêu đề “Vậy thì việc gì đang đến với chúng ta?” trên tạp chí Oktyabr, phải “cứu” lấy nhân dân – không phải để họ thoát khỏi các mối nguy từ bên ngoài, nhưng “chủ yếu để họ thoát khỏi chính mình, thoát khỏi các tiến trình phi luân đang giết chết những phẩm chất cao quí nhất của con người”. Cứu nhân dân bằng cách nào? Bằng cách làm cho tiến trình dân chủ hóa còn sơ sinh trở thành con đường định mệnh, không thể đảo ngược – không phải bằng “một đợt băng tan” ngắn ngủi của Khrushchev, nhưng bằng một cuộc thay đổi khí hậu.

    Và việc gì sẽ đảm bảo cho tình hình không thể đảo ngược này? Trên hết, đó là sự xuất hiện của con người tự do, một con người “không bị lây nhiễm trước các sự kiện lặp đi lặp lại của chế độ nô lệ tinh thần”. Tuần báo Ogoniok, một tạp chí quan trọng thuộc chủ trương glasnost, đã viết vào tháng Hai năm 1989 rằng chỉ có “con người không có khả năng làm chỉ điểm cho công an, không có khả năng phản bội và GIAN_DỐI/LÁO KHOÉT, bất luận nhân danh ai hay tổ chức nào, mới có thể cứu chúng ta khỏi sự xuất hiện trở lại của một nhà nước độc tài”.
    ( sẻ Tiếp)
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & sẻ Tiếp)
    Trở lại Bài viết: Mọi điều bạn tưởng bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô đều sai Everything You Think You Know About the Collapse of the Soviet Union Is Wrong“, Foreign Policy, July/August 2011. By The Observer 07/02/2015
    Tác giả: Leon Aron

    LỐI LÝ LUẬN VÒNG VO NÀY – ĐỂ CỨU NHÂN DÂN, NGƯỜI TA PHẢI CỨU LẤY perestroika, nhưng người ta chỉ cứu đượcperestroika nếu có thể thay đổi đựợc con người “từ bên trong” – gần như k0 hề làm cho ai khó chịu. Những người phát biểu tư duy về những vấn đề này gần như đã cho rằng việc cứu nước bằng chủ trương perestroika và việc kéo người dân khỏi bãi sình lầy tinh thần là hai nỗ lực đan kết chặt chẽ, có lẽ không thể tách rời nhau, và họ dừng lại ở đó. Vấn đề quan trọng là phải đưa nhân dân trở về “địa vị công dân” từ vị trí “nông nô” và “nô lệ”. “Đủ lắm rồi!” là một lời tuyên bố của Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu thuyết bán rất chạy trong giai đoạn này về Thế chiến II, một cuốn truyện được đóng thành phim và được khán giả yêu chuộng không kém. Ông nói: “Đủ lắm rồi những GIAN_DỐI/LÁO KHOÉT, đủ lắm rồi tinh thần nô lệ, đủ lắm rồi sự hèn nhát. Sau cùng, chúng ta phải nhớ rằng tất cả chúng ta đều là công dân. Những công dân tự hào của một đất nước tự hào!”.
    Nhìn kỹ vào những nguyên nhân của Cách mạng Pháp, de Tocqueville có nhận xét nổi tiếng rằng, các chế độ bị cách mạng lật đổ thường thường ít áp bức dân chúng hơn các chế độ trước đó. Tại sao? Vì, theo suy đoán của de Tocqueville, mặc dù người dân “có thể ít khổ sở hơn”, nhưng họ lại “cảm thấy bị TỔN THƯƠNG/XÚC PHẠM nhiều hơn”.
    Thông thường, Tocqueville có khuynh hướng bàn về những điều tối quan trọng. Từ Những Người cha lập quốc trong Cách mạng Mỹ (the Founding Fathers), đến nhóm Jacobins của Cách mạng Pháp và nhóm Bôn-sê-vich trong Cách mạng Nga, những nhà cách mạng này đã chiến đấu chủ yếu dưới một bóng cờ: phát huy NHÂN PHẨM. Chính vì nỗ lực tìm kiếm NHÂN PHẨM xuyên qua quyền tự do và quyền công dân mà khuynh hướng lật đổ chính quyền trong tinh thần glasnost vẫn còn tồn tại – và sẽ còn tồn tại. Cũng như trước đây những trang báo của tờ Ogoniok và tờ Moskovskie Novosti nằm hãnh diện bên cạnh hình ảnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như là các biểu tượng của cuộc mạng Nga.
    Và gần đây nhất, ngày nay những trang mạng bằng tiếng Á-rập cũng hiên ngang làm biểu tượng cách mạng bên cạnh những hình ảnh các đám đông nổi dậy tại Quảng trường Tahrir của Cairo, tại Khu Casbah của Tunis [Tunisia], trên các đường phố của Benghazi [Lybia], và các thành phố sôi sục bạo động của Syria. Gác các vấn đề ngôn ngữ và VĂN HÓA chính trị qua một bên, các thông điệp và cảm thức mà những cuộc cách mạng này gợi lên là rất giống nhau.
    Mohamed Bouazizi, một thanh niên bán hoa trái, mà cuộc tự thiêu của anh đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy tại Tunisia khởi đầu cho Mùa Xuân Á Rập 2011, đã tự tử “không phải vì anh ta thất nghiệp nhưng vì khi anh đến nói chuyện với [chính quyền địa phương] có trách nhiệm về vấn đề của anh thì bị đánh đập – cái chết này là để tố cáo chính phủ”, một người biểu tình tại Tunis đã nói với một nhà báo Mỹ như thế.
    Tại Benghazi, cuộc nổi dậy của người Lybia bắt đầu với việc các đám đông hô vang khẩu hiệu, “Nhân dân muốn chấm dứt tham nhũng!”
    Tại Ai Cập, các đám đông đã “biểu lộ tinh thần tự cường của một dân tộc bị đàn áp quá lâu đã đến lúc không còn biết sợ hãi nữa, không muốn để cho giới lãnh đạo của mình tiếp tục tước đoạt tự do và chà đạp NHÂN PHẨM”, cây viết chuyên đề của tờ New York Times, ông Thomas Friedman, đã tường thuật từ Cairo vào tháng Hai năm nay. [Nếu có mặt ở hiện trường], ông cũng có thể đã tường thuật như thế từ Mát-xkơ-va năm 1991.
    ( sẻ Tiếp)
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & sẻ Tiếp) “
    NHÂN PHẨM có ưu tiên hơn bánh mì!” là khẩu hiệu của cách mạng Tuy-ni-di. Kinh tế Tuy-ni-di đã gia tăng trong khoảng 2 và 8 phần trăm 1 năm trong 2 thập kỷ liền trước cuộc nổi dậy. Với giá dầu lửa ở mức cao,
    Libya cũng đang phát triển kinh tế khá mạnh ngay trước khi có cuộc nổi dậy. Cả 2 trường hợp này nhắc nhở chúng ta rằng trong thế giới hiện nay, tiến bộ về mặt kinh tế không thể thay thế cho niềm tự hào và tự trọng trong tư cách công dân.
    Nếu chúng ta không nhớ kỹ điều này, chúng ta sẽ tiếp tục kinh ngạc – trước “các cuộc cách mạng màu” trong thế giới hậu Xô-viết, trước Mùa Xuân Ả Rập, và không chóng thì chầy trước 1 biến động dân chủ tất yếu tại Trung Quốc – như chúng ta từng kinh ngạc trước cuộc cách mạng tại Nga Xô. “Thượng Đế đã ban cho chúng ta 1 ý thức mãnh liệt về NHÂN PHẨM khiến chúng ta không thể chấp nhận sự khước từ các quyền tự do và các quyền bất khả xâm phạm, bất chấp cả quyền lợi có thực hay giả tưởng nào mà các chế độ độc tài ‘ổn định’ có thể mang lại”
    Tổng thống của nước Kyrgyzstan, ông Roza Otunbayeva, đã viết vào tháng Ba năm nay. “Thật là kỳ diệu khi người dân, nam, phụ, lão, ấu, thuộc nhiều tôn giáo và khuynh hướng chính trị khác nhau, qui tụ trong các quảng trường thành phố và tuyên bố ‘chúng tôi đã chịu đựng đủ lắm rồi’ (enough is enough)”.

    Hẳn nhiên, động lực đạo lý&_Niềm_Tin tuyệt vời, sự tìm kiếm CHÂN VÀ THIỆN, chỉ là 1 điều kiện cần nhưng không đủ để tái tạo 1 đất nước thành công. Nhân dân có thể đủ sức lật đổ chế độ cũ (ancient régime), nhưng không thể cùng 1 lúc khắc phục được nền VĂN HÓA chính trị độc tài đã ăn sâu trên cả nước. Gốc rễ của các định chế dân chủ do những cuộc cách mạng có động cơ đạo lý&_Niềm_Tin có lẽ tỏ ra còn quá nông cạn, không thể giữ vững 1 nền dân chủ hữu hiệu trong 1 xã hội thiếu truyền thống quí giá là cơ sở hạ tầng biết tự tổ chức và biết tự trị. Đây là điều có thể gây trở ngại to lớn cho việc thực hiện những hứa hẹn của Mùa Xuân Á-rập – đã thấy ở Nga. Sự phục sinh đạo lý&_Niềm_Tin ở Nga đã bị trở ngại do sự phân hóa và ngờ vực mà 70 năm độc tài toàn trị sản sinh ra. Mặc dù Gorbachev và Yeltsin đã tháo dỡ 1 đế quốc, nhưng cái di sản của não trạng đế quốc trong hằng triệu người Nga đã khiến họ dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa tân toàn trị của Putin (neo-authoritarian Putinism), với các chủ đề tuyên truyền to lớn như “sự bao vây của các thế lực thù nghịch” và “Nước Nga đứng dậy từ bước ngã quị”. Hơn thế nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi quốc gia) mà chủ nghĩa Xit-ta-lin gây ra chưa bao giờ được tìm hiểu đầy đủ và chưa bao giờ được thống hối, vì vậy đã làm hỏng toàn bộ nỗ lực phục hồi đạo lý, đúng như các người rao giảng glasnost từng mạnh mẽ cảnh báo.

    Đó là lý do nước Nga ngày nay 1 lần nữa đang từng bước tiến tới 1 thời điểm perestroika khác. Mặc dù những đợt cải tổ thị trường trong thập niên 1990 và giá dầu lửa tăng cao trước đây đã kết hợp lại để tạo nên sự phồn vinh chưa từng có trong lịch sử cho hằng triệu người Nga, nhưng SỰ THAM NHŨNG TRẮNG TRỢN CỦA TẦNG LỚP CAI TRỊ Ở CHÓP BU, chế độ kiểm duyệt kiểu mới, và việc công khai khinh thường dư luận đã tạo ra tình trạng bất mãn và yếm thế, 1 tình trạng đang bắt đầu lên tới (nếu không muốn nói đã thực sự vượt qua) mức độ của đầu thập niên 1980.
  5. tuanca

    tuanca Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2018
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    Chẳng qua là do nước lớn gần nước bé nào thì thường ảnh hưởng hơn.
  6. duong126vt

    duong126vt Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/04/2018
    Bài viết:
    52
    Đã được thích:
    7
    cái này thì phải hỏi ông mac chứ chúng em chiu :))
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Sau đây xin giới thiệu với Các Bạn bài viết của Tác giả Lữ Phương; Ông là 1 trong ~ Ng đã dấn thân & theo đuổi Luận thuyết của Mác hầu như trong suốt cuộc đời của mình. ~ Luận thuyết này được trình bày 1 cách tóm tắt trong
    (Diễn từ nhận “Giải Nghiên Cứu” của Quỹ Văn Hoá Phan Châu Trinh 2018)
    Lữ Phương

    TÔI ĐÃ ĐỌC MARX TRONG HOÀN CẢNH NÀO | Lữ Phương
    ~ Câu, Bài viết Trích đoạn Sách hay về Tâm Lý; Bình & Luận

    http://ttvnol.com/threads/cau-bai-viet-trich-doan-sach-hay-ve-tam-ly-binh-luan.1476169/
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Trước khi chúng ta trình bày tiếp ~ nhận định của Các TG VN về V/đ này:

    K0 fải chỉ riêng bài viết của >Tác giả: Leon Aron, trên The Observer
    Mọi điều bạn tưởng bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô đều sai vào năm 201
    chúng ta hãy điểm sang Bài viết gầni đây nhất của 1 số TG Tây Phương #:

    Vì sao chủ nghĩa xã hội (#đặc trưng Mác LêNin) thất bại?
    của >Tác giả:Paul R. Gregory, “Why Socialism Fails”, Hoover Institution, 10/01/2018. trên Tạp chí The Observer
    Posted on 21/01/2018
    [​IMG]

    Nguồn: Paul R. Gregory, “Why Socialism Fails”, Hoover Institution, 10/01/2018.

    Biên dịch: Hiếu Chân

    Khi Liên bang Xô viết gần sụp đổ, Francis Fukuyama tuyên bố chế độ dân chủ tự do đã chiến thắng chủ nghĩa xã hội kế hoạch hóa trong bài nhận định năm 1989 của ông, Điểm tận cùng của Lịch sử?.
    Hơn một phần tư thế kỷ sau đó, Liên Xô quả thực đã tan rã. Phần lãnh thổ Đông Âu của nó bây giờ thuộc về Liên minh Âu châu. Trung Quốc có một nền kinh tế thị trường cho dù đất nước vẫn bị cai trị bởi một đảng duy nhất.
    Còn các nhà nước “xã hội chủ nghĩa” Bắc Hàn, Cuba và Venezuela đang trong đống đổ nát về kinh tế. Giờ đây, ít ai ủng hộ việc “quay lại Liên Xô”. Nhưng đồng thời, nhiều người vẫn coi chủ nghĩa xã hội là một hệ thống kinh tế hấp dẫn.
    Hãy xem trường hợp ông Bernie Sanders[1] – một người công khai thừa nhận ủng hộ một nước Mỹ xã hội chủ nghĩa – và rất nhiều người trẻ trưởng thành vào điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ ưa thích chủ nghĩa xã hội hơn chủ nghĩa tư bản.

    Sự tương đồng về kỵ sĩ và con ngựa giải thích cho sự hấp dẫn kéo dài của chủ nghĩa xã hội.
    Những người xã hội chủ nghĩa tin rằng các chế độ xã hội chủ nghĩa đã chọn sai kỵ sĩ để cưỡi con ngựa xã hội chủ nghĩa đi tới chiến thắng xứng đáng với nó. Những kỵ sĩ tệ hại như Stalin, Mao, Fidel, Hugo Chavez và Pol Pot (# 1 trong ~ hình thái XHCN dã man nhất trong thời H Đ) đã chọn những chiến thuật và chính sách dẫn con ngựa xã hội chủ nghĩa của họ đi trật đường. Nhưng trên thực tế, một cái nhìn vào cách thức Liên Xô hoạt động lại bộc lộ rằng, chính bản thân con ngựa mới là vấn đề.

    Sau khi giành được quyền lực một thế kỷ trước và nắm giữ quyền lực thông qua một cuộc nội chiến, những người cộng sản Liên Xô có ý định xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ chôn vùi chủ nghĩa tư bản. Sở hữu nhà nước và kế hoạch hóa khoa học sẽ thay thế cho tình trạng vô chính phủ của thị trường. Lợi ích vật chất sẽ dồn về phía giai cấp lao động. Một nền kinh tế công bằng sẽ thay cho sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản và con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ nổi lên, những người đặt ưu tiên cho lợi ích của xã hội lên trên lợi ích cá nhân. Chuyên chính vô sản sẽ bảo đảm quyền lợi của giai cấp lao động. Thay vì bóc lột giá trị thặng dư từ người lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ lấy đồ cống nạp của các nhà tư bản để tài trợ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
    (còn tiếp)
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    ( tiếp)
    Những nền tảng căn bản của “con ngựa” Xô-viết đã được thiết lập vào đầu thập niên 1930. Theo hệ thống này, Stalin và bộ chính trị của ông ta đặt ra những ưu tiên chung cho các bộ công nghiệp và ủy ban kế hoạch nhà nước. Các bộ và các nhà kế hoạch làm việc cùng nhau để soạn ra các kế hoạch kinh tế. Cán bộ quản lý của hàng trăm ngàn nhà máy, công xưởng, cửa hàng thực phẩm và ngay đến các nông trại đều bị pháp luật bắt buộc phải hoàn thành kế hoạch mà cấp trên giao cho.

    Nhà nước Xô-viết khởi động nền kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa của họ khi thế giới tư bản chủ nghĩa chìm sâu vào suy thoái, chiến tranh thương mại và lạm phát phi mã. Chính quyền Xô-viết khoe khoang về mức tăng trưởng chưa từng có trước đây. Các tổ hợp công nghiệp mới mọc lên từ số không. Các tạp chí đăng hình ảnh những công nhân vui sướng nghỉ ngơi trong những khu nghỉ mát đầy đủ tiện nghi. Thông điệp là: Phương Tây đang thất bại và hệ thống kinh tế Xô-viết là con đường đi tới tương lai.

    Khi cuộc cạnh tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội Liên Xô trở nên rõ rệt trong thời Chiến tranh Lạnh, hoạt động nghiên cứu học thuật nghiêm túc về nền kinh tế Xô-viết cũng bắt đầu. Chương trình nghiên cứu bao quát của các học giả phương Tây nhắm vào “kế hoạch hóa khoa học” – những người xã hội chủ nghĩa tin rằng các chuyên gia kỹ trị có thể quản lý nền kinh tế tốt hơn là những lực lượng thị trường tự phát. Suy cho cùng, chẳng phải các chuyên gia thì hiểu biết hơn người mua người bán về chuyện cần sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai sử dụng hay sao?

    Chính các nhà kinh tế học người Áo F.A. Hayek và Ludwig von Mises là những người chống lại niềm tin này quyết liệt nhất. Trong sự phê phán có tính biểu tượng của F.A. HayekLudwig von Mises , được trình bày trong hàng loạt công trình nghiên cứu từ thập niên 1920 đến 1940, F.A. HayekLudwig von Mises đi đến kết luận rằng chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại. Trong các nền kinh tế hiện đại, hàng trăm ngàn doanh nghiệp sản xuất ra hàng triệu sản phẩm.

    Quản lý một số lượng lớn như vậy là việc quá phức tạp mà không một cơ quan hành chính nào có thể phân bổ nguồn lực nổi, cho dù có sự trợ giúp của công nghệ máy tính tinh vi nhất. Kinh tế hiện đại do đó quá phức tạp và không kế hoạch hóa được. Không có thị trường và giá cả, các nhà hoạch định chính sách không biết được mặt hàng nào bị khan hiếm, sản phẩm nào dư thừa. Nếu tài sản thuộc về mọi người, thì những người quản lý tài sản cho xã hội sẽ phải theo những luật lệ nào?

    Giải pháp của người Xô-viết cho những vấn đề về tính phức tạp và thông tin là một kế hoạch quốc gia đặt mục tiêu sản xuất cho những khu vực kinh tế lớn chứ không phải cho những giao dịch cụ thể.
    Nói cách khác, thay vì bắt buộc nhà máy A phải giao cho nhà máy B 10 tấn dây cáp thép, các nhà kế hoạch đặt mục tiêu tổng số tấn dây cáp được sản xuất trong cả nước. Chỉ có một số mặt hàng đặc biệt – chẳng hạn như dầu thô, quặng nhôm, than nâu, điện năng và toa vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt – mới được lập kế hoạch như những giao dịch thật sự. Còn tất cả những mặt hàng khác chỉ được kế hoạch hóa theo số lượng thô, chẳng hạn như đặt mục tiêu dệt ra vài triệu mét vuông vải.
    Các đặc điểm của sản phẩm, kế hoạch giao hàng và thanh toán tiền chỉ được vạch ra ở những cấp thấp, và thường dẫn tới những kết quả thảm hại.

    (còn tiếp)
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & sẻ Tiếp)
    Kế hoạch hóa khoa học kiểu Xô viết trong thực tế chỉ tác động tới một phần rất nhỏ sản phẩm.
    Vào đầu thập niên 1950, các cơ quan trung ương lập ra hơn 10.000 chỉ mục kế hoạch trong khi sản phẩm công nghiệp có đến hơn 20 triệu chỉ mục khác nhau.
    Các cơ quan trung ương lập ra những kế hoạch tổng quát cho các bộ công nghiệp, các bộ này lại đề ra những kế hoạch chi tiết hơn cho các “khu hành chính quan trọng”, nơi sẽ chuẩn bị kế hoạch cho các doanh nghiệp. Không bao giờ có yêu cầu các quan chức hàng đầu phải đưa ra kế hoạch sản xuất các sản phẩm đặc biệt nào đó.

    Để làm cho vấn đề thêm phức tạp, gần như tất cả mọi kế hoạch đều chỉ là “dự thảo”, có thể được thay đổi bất cứ lúc nào bởi các quan chức của đảng và chính quyền cấp cao hơn.
    Sự can thiệp thường xuyên này, gọi là “giám sát”, là một điều phiền toái xảy ra từ ngày đầu tiên tới ngày cuối cùng của hệ thống Xô-viết, nhưng đó cũng là cột trụ cho công cuộc phân bổ nguồn lực.

    Các nhà kế hoạch trung ương chuẩn bị những kế hoạch sơ bộ cho một bộ phận nhỏ của nền kinh tế. Những “kế hoạch dự thảo” này lại kích hoạt “những trận chiến giành kế hoạch” to lớn khi các bộ và các doanh nghiệp tìm cách hoàn thành mục tiêu sản xuất của họ và đáp ứng các định mức giao hàng; tất cả những chuyện này đều có thể thay đổi bởi các cán bộ đảng và cán bộ địa phương vào bất cứ lúc nào.

    Như bộ trưởng công nghiệp nặng Sergo Ordzhonokidze than phiền vào năm 1930:
    “Tôi đoán họ nghĩ rằng chúng tôi là một lũ ngốc. Mỗi ngày họ cho chúng tôi từ nghị quyết này đến nghị quyết khác mà không có cơ sở nào cả”. Một nửa thế kỷ sau một nhà thầu quốc phòng ẩn danh cũng đưa ra lời than phiền tương tự: “Họ nhúng mũi vào mọi vấn đề. Chúng tôi bảo họ rằng họ đã sai, nhưng họ vẫn đòi phải làm theo cách của họ”.

    Nhiệm vụ của người quản lý được cho là rất đơn giản: Kế hoạch là pháp lệnh, công việc của người quản lý là hoàn thành kế hoạch. Nhưng kế hoạch cứ tiếp tục thay đổi.

    Hơn thế nữa, nó bao gồm nhiều nhiệm vụ khác nhau, chẳng hạn như giao hàng, sản lượng và phân loại. Xuyên qua toàn bộ lịch sử của Liên Xô, tổng sản lượng gộp (đo bằng tấn, mét hoặc toa hàng/dặm) là các chỉ tiêu kế hoạch quan trọng nhất và cũng dễ thao túng nhất.
    Các nhà sản xuất đinh chẳng hạn, mà sản lượng được tính theo trọng lượng, chỉ sản xuất các loại đinh to và nặng.
    Các nhà sản xuất máy kéo, cố gắng hoàn thành định mức máy kéo, bị phát hiện chỉ giao cho khách hàng những chiếc máy kéo không có động cơ; buộc khách hàng phải mua động cơ như mua phụ tùng.
    Các nhà sản xuất giày mà kế hoạch dựa trên số lượng giày làm ra chỉ sản xuất giày cùng một cỡ, cùng một màu, bất chấp nỗi khổ tâm của khách hàng. Những mục tiêu kế hoạch khác, chẳng hạn như áp dụng công nghệ mới hoặc làm giảm chi phí sản xuất, bị lãng quên vì bị coi là không có tác dụng giúp hoàn thành kế hoạch.

    Dưới chế độ kế hoạch hóa khoa học, cung cầu phải gần ngang nhau – và do ác cảm của họ đối với tính lộn xộn của thị trường, các nhà kế hoạch Xô-viết không thể cân đối cung cầu bằng cách nâng giá hoặc hạ giá.
    Thay vì vậy, họ soạn ra cái gọi là “cân đối vật chất”, sử dụng phép kế toán cổ xưa để so sánh những vật liệu nào đang có sẵn với những vật liệu cần có theo một nghĩa nào đó.

    Kế hoạch hóa cân đối-vật chất kiểu Xô-viết có rất nhiều khiếm khuyết.

    Ví dụ, chỉ có thể soạn ra một số sự cân đối – năm 1938 chỉ có 379 sự cân đối ở trung ương được chuẩn bị cho một thị trường có hàng triệu mặt hàng. Và rồi, những sự cân đối này lại dựa trên những thông tin méo mó.
    Các nhà sản xuất hàng hóa trong phép cân đối này vận động để được phân bổ những mục tiêu thấp, che giấu năng lực sản xuất thật của họ.
    Những người sử dụng sản phẩm công nghiệp trong phép cân đối, ngược lại, lại khai vống lên những gì họ cần để bảo đảm việc hoàn thành kế hoạch của riêng họ.

    Hình dung ra một sự cân đối thích hợp là một công việc mệt mỏi – và các nhà kế hoạch Xô-viết không phải năm nào cũng sáng tác ra cái mới; thay vì vậy, họ áp dụng cách gọi là “kế hoạch hóa từ mức độ đã hoàn tất”, nghĩa là kế hoạch của mỗi năm là kế hoạch của năm trước đó cộng thêm một số điều chỉnh nhỏ.

    Vào đầu thập niên 1930, các cơ quan cung cấp phân phối nguyên vật liệu dựa trên những gì họ đã làm trong năm trước đó.
    Lướt nhanh đến thập niên 1980, cũng vẫn thấy cung cách làm việc như vậy.
    Khi một nhà sản xuất vật liệu nghề hàn muốn sử dụng tấm kim loại mỏng hơn thì câu trả lời chính thức là: “Tôi không quan tâm tới công nghệ mới.
    Cứ làm như cũ để mọi sự vẫn như cũ”. Kế hoạch hóa cân đối vật chất là kẻ thù của sản phẩm mới và công nghệ mới bởi vì chúng đòi hỏi phải làm lại một hệ thống các cân đối vốn đã rất mong manh.
    Các nhà kinh tế học Mỹ nghiên cứu sản xuất công nghiệp của Liên Xô trong thập niên 1950 hết sức ngạc nhiên khi thấy những cỗ máy đã sản xuất vài thập niên mà không hề được cải tiến gì cả, một chuyện chưa từng nghe thấy ở phương Tây.

Chia sẻ trang này