1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

NGỌN ĐÈN SOI SÁNG NĂM GIAI ĐOẠN - Những chỉ dẫn về Mật điển Bí Mật Tập Hội (Guhyashamaja Tantra)

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi Prahevajra, 28/05/2016.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    CHANDRAKIRTI

    Ngọn đèn soi sáng là tác phẩm rất nổi tiếng. Cuốn Bình luận Yoga Sáu nhánh được rút tỉa từ chương 12 của Ngọn đèn soi sáng. Cuốn Nghi quỹ Vajrasattva có các bình luận trong đó bởi Tathagata Raksita và Lalitavajra. Magadha Pan*** Munishribhadra cũng công nhận đây là tác phẩm của Chandrakirti. Văn bản gốc của Nghi quỹ thấu suốt Bí Mật Tập Hội và cuốn bình luận112 về nó được cho là do Chandrakirti viết ra, nhưng các học giả Tây Tạng nói rằng điều này cần phải được kiểm tra. Nếu tác phẩm này và bình luận về nó được viết bởi ai đó có tên giống như vậy thì đó là điều chấp nhận được, nhưng gán cho tác giả của Ngọn đèn soi sáng là một sự quy chụp sai lầm.

    Aryadeva, Nagabodhi và Sakyamitra được biết đến là các đệ tử nổi tiếng nhất của Arya Nagarjuna. Các truyền nhân của truyền thống Bí Mật Tập Hội Marpa còn công nhận Matangi là đệ tử của Arya. Chandrakirti được công nhận là đệ tử của Arya bởi Go Lotsawa tôn kính và các vị thầy thông thái trước đó. Một số học giả Trung quán Tây Tạng cho rằng Chandrakirti chưa từng gặp Arya, vì Chandrakirti cho biết trong đoạn cuối của cuốn Giải thích rõ ràng:

    Thực tế là sự truyền thừa các luận thuyết của Arya Nagarjuna và những đệ tử của ông đã bị suy vi trong một thời gian dài, ngày nay sự lưu truyền nguyên bản đã không còn rõ ràng và chính xác.

    Vì vậy họ nói rằng Chandrakirti chẳng có liên hệ gì với Arya. Lý do này không thuyết phục. Như được cho biết trong các tác phẩm của Vajrasana, được sao chép lại trong các bản tường thuật lịch sử của Patsap Lotsawa113 rằng Chandrakirti đã đắc các thần thông Trì Minh Vương và sống rất lâu. Vì vậy, chẳng có gì là mâu thuẫn khi vào lúc cuối đời của ông, các luận thuyết và những đệ tử của Nagarjuna đã suy vi nhưng bản thân ông đã gặp Nagarjuna. Do đó, các tu sĩ Tây Tạng đồng ý với tuyên bố rằng “Chandrakirti là đệ tử của Arya!”, theo lời khẳng định của ngài Atisa, Chandrakirti là đệ tử của Nagarjuna, tôi đồng ý với các vị thầy Tây Tạng cho rằng ông ta là một đệ tử của Arya. Ngoài ra, ông cho biết trong Ngọn đèn soi sáng rằng ông lĩnh hội được ý nghĩa Bí Mật Tập Hội từ Nagarjuna:

    Được giấu kín bởi từng vị Phật

    Với các nguyên lý của hai giai đoạn

    Được khám phá nhờ ơn huệ của Nagarjuna

    Xin kính lạy Vajrasattva vinh quang,

    Mật điển này sẽ được giải thích bởi Chandrakirti.114

    Bhavyakirti cũng nhận định:

    Nói rằng: “lĩnh hội từ Nagarjuna” cho thấy ông là một đệ tử thực sự trước sự hiện diện của Nagarjuna chứ chẳng phải là một đệ tử trong dòng truyền thừa.115

    Bên cạnh đó, khi lý giải nhà trí thức Rahulabhadra Saraha đã dạy Nagarjuna như thế nào, và còn dạy cho Chandrakirti ra sao, cùng với những đạo hạnh của họ, được thuật lại chi tiết trong tác phẩm bình luận về Ngọn đèn soi sáng của Bhavyakirti:

    Trong thành phố của Konkana,

    Trên đỉnh núi của Sri Parvata

    ở một khu vực không có người ở

    như vị chúa tể của trời và người,

    Ngài đã dạy Pháp tối thượng

    Được khẩu truyền từ Rahula

    Mong lời ngài được hoằng truyền trên trái đất này!


    Từ ngài, đã đắc được các cấp độ của lạc thọ,

    Nhờ yoga của con đường Đại thừa,

    Ngài đã nỗ lực đạt tới các trình độ khác,

    Mong sao Nagarjuna vinh quang thành tựu!


    Từ ngài, đã sở đắc châu bảo,

    Và lừng danh trong tam giới

    Đã vượt qua đại dương của Bí Mật Tập Hội,

    Mong sao người minh giải, Chandrakirti thành tựu!116


    Trong mối liên hệ này, học giả Kumara, một học trò của học giả Laksmimkara nhận định:

    Điều này cho thấy ông là một đệ tử trong sự hiện diện của Nagarjuna và được dạy từ những lời truyền miệng.117

    Do đó, Naropa, Abhayakaragupta, Karunasri, Kashmiri Laksmi, Munisribhadra, Bhavyakirti, Kumara, Tathagata Raksita, Lalitavajra và tất cả những người làm sáng tỏ Bí Mật tập Hội đều công nhận Chandrakirti xứng đáng được tôn kính giống như chính Arya.
  2. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Các văn bản được soạn ra bởi truyền nhân của những vị thầy trên

    Các tài liệu về Bí Mật Tập Hội được viết bởi các vị thầy Ấn Độ khác, là truyền nhân của Arya và các học trò, có Ngọn đèn soi sáng mọi bí mật, một văn bản bình luận về Mật điển hậu kỳ, mà trong một số bản thảo khẳng định tác giả là Naropa, và Yashobhada ở một số bản khác. Lời cuối sách trong bản dịch của Smrti có đoạn:

    Đây là một bản bình chú về các mật điển Gốc Chú giải của Samantabhadra, Akasagarbha, Yasobhadra, Naropa, Jnanasiddhi, Tsashe

    Smrti là đệ tử của cả Naropa và Jnanagarbha.

    Có một tác phẩm lớn tên là Các giáo huấn về Bí Mật Tập Hội: Năm giai đoạn và một tác phẩm nhỏ hơn Biên tập rõ ràng về Năm giai đoạn được cho là viết bởi Naropa và dịch bởi Marpa. Cuốn đầu chứa đựng nhiều lỗi thô thiển có mâu thuẫn với Năm giai đoạn của Nagarjuna và Yếu lược thực hành của Aryadeva, ví dụ như mô tả về con đường cho những người hạ căn và trung căn là dần dần từng bước một như các nấc thang, còn con đường của hàng thượng căn là tức thời. Đây là một sự gán ghép sai lầm cho Naropa của một số học giả Tây Tạng.

    Cuốn Biên tập rõ ràng về Năm giai đoạn được sử dụng như một nguồn tham khảo tin cậy bởi cả hai dòng truyền Bí Mật Tập Hội từ truyền thống của Marpa, được truyền lại từ thầy Tsur120. Hầu hết các giáo huấn cá nhân của Marpa được trình bày trong nhiều văn bản ngắn của Ấn Độ, tuy nhiên không thấy xuất hiện bất cứ văn bản ngắn nào khác có chỉ dẫn cá nhân về năm giai đoạn, vì vậy văn bản này dường như được sử dụng như một tài liệu đáng tin cậy. Nó còn chứa đựng ý nghĩa của các tác phẩm lớn của truyền thống Arya, do đó, nó được coi như văn bản gốc của truyền thống Marpa về năm giai đoạn. Lời cuối sách có đoạn:

    Tantra huy hoàng Bí Mật Tập Hội

    Được chú giải bởi Arya và các đệ tử của ngài,

    Ý nghĩa thâm diệu được khám phá bởi Naropa

    Nhưng với một người bình chú không biết

    Làm sao để giải thích Tantra theo cách riêng của mình một cách ngắn gọn,

    Con đường thiêng liêng này không được phổ biến.

    Tuyên bố này không tán thành thông tin cho rằng Ngọn Đèn Soi Sáng được viết ra bởi ai đó định tán dương Naropa nhưng không biết làm sao để ca ngợi ông. Bởi vì trong bình luận về Mật điển hậu kỳ, Naropa nói rằng:

    Nối tiếp Ngọn đèn soi sáng,

    Bản chú giải này của Mật điển hậu kỳ

    Là một giải thích các giáo lý của Nagarjuna.

    Ngoài ra:

    Tôi biên soạn tác phẩm này dựa trên các giáo huấn của

    Acharya Nagarjuna, Aryadeva, Nagabodhi,

    Sakyamitra, Candrakirti, và những vị khác.

    Nhiều người rất kính trọng đối với hệ thống bình luận về Mật điển của Khampa Ronyam Dorjey, học trò của Tsur, người chú giải Mật điển có nhiều mâu thuẫn với Ngọn đèn soi sáng của Chandrakirti. Các đoạn trích ở trên có thể xem để bác bỏ khẳng định của họ rằng nó đại diện cho các giáo lý cuối cùng của Naropa.

    Bình luận bốn mươi bốn chương chú giải về Vòng hoa kim cương của Alamkaladeva, còn được biết đến là Alamkakalasa, tuân thủ theo thầy và trò Arya. Bản bình luận về Nghi quỹ giản lược của Nagarjuna gọi là Vòng hoa báu mà các học giả Tây Tạng cho là biên soạn bởi Santipa là một khẳng định sai, ngay cả khi đó là tác phẩm của một người trùng tên. Bình luận về Nghi quỹ giản lược được viết bởi Vibhuti. Có ba bình luận về Năm giai đoạn trong đó bao gồm cả Nghi quỹ giản lược. Đó là Ánh trăng của Abhayakaragupta, bình luận về những điểm khó bởi Samayvajra và bình luận về những điểm khó của Bhavyakirti. Một bản bình luận về bốn giai đoạn, bỏ sót giai đoạn thứ hai, cùng với Nghi quỹ giản lược gọi là Sự quyến rũ tâm trí của Yogi được viết bởi Munishribhadra. Một bình luận về những điểm khó của năm giai đoạn của Viryabhadra. Một bình luận về năm giai đoạn của Kashmiri, học giả Lakshmi. Cùng với những văn bản được gán ghép sai lầm ở trên, những tác phẩm này làm phong phú thêm bộ sưu tập của truyền thống Arya.

    Các bình luận về Yếu lược thực hànhNghi quỹ Kim cang Tát đỏa của Chandrakirti đã được thảo luận ở trên. Các bình luận về Ngọn đèn soi sáng của Chandrakirti, bao gồm Bình luận giải thích ý nghĩa của Ngọn đèn soi sáng của Bhavyakirti, Phản chiếu bản chất: Một giải thích ngắn về ý nghĩa của Ngọn đèn soi sáng của Kumara, và một bản chú giải về Ngọn đèn soi sáng của Karunasri, một chuyên luận của Kuladhara về Ngọn đèn soi sáng mà trong đó bản gốc và phần bình luận được kết hợp, và Giải thích những điểm khó trong Ngọn đèn soi sáng của ai đó được gọi là Bhavaviveka, nhưng lại là một tác phẩm được viết bởi một người cùng tên là tác giả của Ngọn đèn trí tuệ. Bình luận về Ngọn đèn soi sáng được gán cho Aryadeva bởi một ai đó cùng tên chứ không phải Aryadeva thực sự. Tác phẩm này cùng với Làm sáng tỏ ý nghĩa của Năm giai đoạn đã bị quy nhầm cho Nagabodhi, dường như là các tác phẩm của Tây Tạng.

    Ngoài ra còn có các tác phẩm của Shraddha gồm Giải thích phép niệm kim cương thảo luận về Hé mở các khái niệm ẩn dấuGiảng minh bảy món trang hoàng; tác phẩm của Ekadashanirghosha: Các giai đoạn trên con đường của Vajradhara; Rahulashrimitra: Nghi thức Mandala, Samayavajra: Nghi thức mandalaCúng dường Vajrasattva. Các tác phẩm này đều thuộc về truyền thống Arya.

    Vào thời kỳ khi thế gian tràn đầy các kho báu

    Của hàng ngàn học giả và hành giả,

    Các giáo lý tuyệt diệu của họ đã được thực chứng

    Với nỗ lực phi thường trong sự hiện diện của họ.

    Qua thời gian, sự thực hành suy vi,

    Nhưng tâm huyết của họ

    Đã được ghi chép lại trong nhiều văn bản,

    Được chắt lọc bởi các chỉ dẫn cô đọng của guru,

    Được sử dụng theo cách này thay cho sự hiện diện của họ,

    Người trí biết rằng

    Nhờ vậy sự phân biệt đạo lộ đúng và sai

    Được thực hiện hoàn hảo.
    Lần cập nhật cuối: 02/04/2018
  3. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    PHẦN 2

    CON ĐƯỜNG CỦA BÍ MẬT TẬP HỘI

    6.Đào tạo trong Bí mật tập hội

    Các giáo lý cốt lõi của Bí mật tập hội đã được truyền thừa như thế nào ở Tây Tạng

    Ở Ngari, Atisa khả kính đã dạy Ngọn đèn soi sáng của Chandrakirti, và các giáo lý về năm giai đoạn đã được truyền trao dần dần. Rinchen Sangpo vĩ đại đã thực hiện các bản dịch cơ bản và các bản chỉnh sửa cho Tantra Gốc, Giải thích mục đích Tantra cùng nhiều tác phẩm của thầy Arya và bốn trò, nhưng truyền thống đã không kéo dài.

    Nghe nói có bảy dòng truyền Bí mật tập hội từ Lama Marpa. Cùng với Akarasiddhi, ông học Ngọn đèn soi sáng từ Naropa, nhưng ông không khởi xướng một dòng truyền cho Ngọn đèn soi sáng ở Tây Tạng. Tuy nhiên, các giáo lý về năm giai đoạn vẫn trở nên phổ biến.

    Sư phụ Go du hành tới Ấn Độ mười hai lần và dang hiến bản thân cho mười bảy vị thầy đại học giả cùng với hai vị thầy dakini. Cụ thể, trong khi khám phá truyền thống Arya về Bí Mật tập hội, ông nương tựa vào học giả Abhijna ở Bengali, học giả Yosa ở Zahor, Meghavegin ở Konkana, Chandrahari ở Kashmir từ Srinaga, học giả Jnanakara người được ban phúc bởi bồ tát Văn Thù, Cahadu từ Nepal, Nagakoti từ pháo đài Nepal, đại học giả Saraha, Krishnasamayavajra ở Vajrasana, và Dipamkara Srijana (Atisa) ở Vikramala. Ông học của hai vị sau cùng ở Tây Tạng. Dưới sự hướng dẫn của họ, ông nghiên cứu và soạn thảo các văn bản chú giải rõ ràng dựa trên các tác phẩm của năm vị thầy truyền thống Arya, cũng như ban quán đỉnh và các giáo lý cốt lõi. Ông coi Abhijna, Yosa và Krishnasamayavajra như là các vị sư phụ chính, còn những văn bản chú giải và chỉ dẫn của ông hầu hết đều theo truyền thống của ba vị này.

    Các hoạt động giác ngộ của Bí Mật tập hội đã đi vào cuộc đời của vị lama này, có nhiều đệ tử đã giữ vững truyền thống giáo lý của ông, như ba nhóm của bốn học giả từ giai đoạn đầu, giữa và cuối cuộc đời của ông. Dòng truyền giáo lý này vẫn còn tồn tại tới tận ngày nay.

    Có những dòng truyền khẩu giáo lý về năm giai đoạn được truyền thừa từ Jnanakara tới Naktso. Ngoài ra, Patsap Lotsawa nghiên cứu Bí mật tập hội truyền thống Arya và dịch nhiều văn bản. Như đã đề cập ở trên, khởi đầu những vị dịch giả này đã dịch một khối lượng lớn các bản bình luận về Ngọn đèn soi sáng, nhưng dòng truyền của họ đã chẳng kéo dài được lâu. Shupu Lotsawa và Chak Lotsawa được đào tạo trong dòng truyền của Go, và cũng có liên hệ với các vị thầy học giả, họ đã thiết lập một truyền thống giáo lý Bí Mật Tập Hội từ hệ thống Arya.

    Như vậy, trong khi có nhiều giáo lý Bí mật tập hội thuộc truyền thống Arya đã tới Tây Tạng từ Ấn Độ, điều hiển nhiên là truyền thống giáo lý của Go Rinpoche là ưu tú nhất.

    Ý nghĩa đích thực của những giáo lý quý báu này

    1. Đào tạo tổng quát vào hai con đường Đại thừa hoặc con đường chung

    2. Đào tạo chuyên biệt vào con đường Bí mật tập hội

    Đào tạo tổng quát vào hai con đường Đại thừa hoặc con đường chung

    Liên quan đến phần cơ bản để bắt đầu đi vào Mật Thừa, Mật điển Vòng hoa Kim cương nói rằng:

    Những phẩm chất nào một đệ tử cần có

    Để trở thành một hành giả mật tông yoga?

    Câu trả lời:

    Trung thành và tôn kính bậc đạo sư,

    Luôn sống trong các hành vi thiện hạnh,

    Từ bỏ mọi suy nghĩ bất thiện,

    Học rộng các kinh thư,

    Ngừng sát sinh và làm tổn hại,

    Nỗ lực hết mình

    Trong quyết tâm cứu độ chúng sinh,

    Ai có được những phẩm tính như vậy

    Sẽ là một môn đồ có đạo hạnh với độ tin cậy lớn lao.

    Nếu các giáo lý được dạy cho một người thiếu các phẩm chất của một hành giả phù hợp như trên, người học trò sẽ bị suy bại trong đời này và những đời sau, còn người thầy sẽ bị chậm trễ lâu dài trên tiến trình kinh nghiệm các quả vị thành tựu mà đáng lẽ ra sẽ xuất hiện nhanh chóng trên con đường của ông ta. Vòng hoa kim cương có đoạn:

    Giống như khi bạn không rót

    Sữa sư tử vào một chiếc bình đất nung,

    Đừng trao mật điển yoga vĩ đại này

    Cho những môn đồ không xứng đáng

    Kẻ đó sẽ chết mau chóng

    Sẽ bị suy bại trong kiếp này và những kiếp sau.

    Nếu giáo lý bí mật được truyền cho người không đủ tiêu chuẩn,

    Các thần thông của vị thầy sẽ bị tiêu hủy.
  4. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Rõ ràng, các đặc điểm cần phát triển không phải là nền tảng thể chất, mà là các đức tính tinh thần như niềm tin vào Pháp, kính trọng đạo sư, luôn sống trên con đường thập thiện, học rộng kinh sách về Pháp, có tâm nguyện rộng lớn cứu độ chúng sinh, vân vân, đều là những đặc điểm không hiện hữu bẩm sinh ở những người mới học trên đạo lộ, và do vậy buộc phải được gây dựng từ đầu nhờ rèn luyện tinh thần. Điều này xuất hiện trong hành giả phù hợp từ lúc khởi đầu và không phải là thứ cần phải sinh khởi một khi bạn đã bước vào con đường Mật Thừa. Vì thế những tiêu chí để trở thành một môn đệ đủ tư cách là các phẩm tính cần phát triển thông qua rèn luyện tinh thần trên hai con đường chung của Đại Thừa. Mật điển Quán đỉnh Vajrapani nói rằng:

    “Đại bồ tát, ngài được dạy rằng mandala cao quý của mantra thần diệu vĩ đại này, cực thâm sâu, không thể đo lường, bí mật hơn mọi bí mật, hiếm có, và không được dạy cho những người kém phẩm hạnh. Khi chưa từng được biết đến pháp môn này trước đây, loại chúng sinh nào xứng đáng được nghe giảng về nó?”

    Vajrapani trả lời: “Văn Thù, những người đã bước vào thiền định về bồ đề tâm, đã phát triển bồ đề tâm, khi đó, Văn Thù, họ sẽ thực hiện những hành vi của bồ đề tâm. Những thiện tri thức thực hiện những hành động của bồ tát thông qua cánh cửa của chân ngôn bí mật thừa nên được giới thiệu vào mandala của mantra vĩ đại để được nhận quán đỉnh vào trí tuệ vô hạn. Những người chưa hoàn thành việc phát triển bồ đề tâm không nên được giới thiệu vào pháp môn. Họ thậm chí không nên nhìn thấy mandala. Họ không nên được nhìn thấy các thủ ấn và nghe thấy các mật chú.”

    Đoạn trên dạy rằng những người chưa hoàn thành rèn luyện bồ đề tâm sẽ không thích hợp để nhận quán đỉnh.

    Năm mươi vần thơ về Guru còn nói rằng:

    Người học trò với tâm nguyện trong sáng,

    Quy y nơi Tam Bảo,

    Đi theo guru

    Nên được dạy cho tụng đọc.

    Sau đó được truyền dạy các mật chú, vân vân ...

    Và trở thành chiếc bình của giáo Pháp tối thượng.

    Người “với tâm nguyện trong sáng” ám chỉ một tâm trí đã được rèn luyện trong bồ đề tâm. “Quy y” được thực hiện là quy y không thông thường và theo đoạn thơ, sau khi được dạy cách nương tựa vào vị thầy mật giáo bằng tư tưởng và hành động, sau đó trở thành một chiếc bình thích hợp nhờ được ban quán đỉnh.

    Yếu lược Thực hành còn cho biết:

    Các giai đoạn như sau: Đầu tiên học trò được dạy về tâm nguyện của Phật thừa, sau đó được dạy thiền định nhất tâm về thừa mới.

    Bước vào con đường của Bí mật tập hội, bạn phải học dần dần từng bước chứ không phải ngay lập tức. Trước hết là rèn luyện bồ đề tâm, là tư tưởng của Đại thừa.

    Phương pháp hoàn chỉnh để rèn luyện phát nguyện và gắn liền với bồ đề tâm có thể được tìm thấy trong các giáo huấn khẩu truyền từ tôn giả Atisa. Trong các giáo huấn này, khởi đầu bạn thực hành đúng cách phương pháp nương tựa bằng tư tưởng và hành động vào một vị thầy Đại thừa đủ tư cách. Sau đó ông ta sẽ dạy bạn về tầm quan trọng lớn lao của cơ hội mà ta có được bây giờ, và khó khăn như thế nào để có được cơ hội như vậy. Rèn luyện theo cách này, một khao khát lớn để làm sao tận dụng triệt để cơ hội này sẽ nảy sinh, và cách tốt nhất để rút tỉa tinh hoa của cơ hội cuộc đời này là thực sự bước vào con đường Đại thừa. Cách để đi vào Đại thừa là thông qua bồ đề tâm, và nếu bồ đề tâm thực sự hiện diện trong tâm trí, đó là một hành giả Đại thừa tự nhiên và thực chất. Nếu nó chỉ là lời nói, đó là một nhà Đại thừa ngoài cửa miệng. Vì vậy, người trí nên từng bước loại trừ các chướng ngại đối với sự trưởng dưỡng của bồ đề tâm và phát triển nó thật chắc chắn, hoàn thiện.

    Liên quan đến vấn đề này, trước hết nếu bạn không xoay hướng tâm trí của mình ra khỏi các tham vọng của cuộc đời, thì thái độ đó sẽ trở thành vật cản trên con đường của cả Tiểu thừa và Đại thừa. Do đó hãy nhớ đến cái chết bằng cách nghĩ bạn sẽ không sống mãi trên đời thế nào, sẽ lang thang trong các cõi thấp ra sao sau khi chết, rồi hứng thú với cuộc sống này sẽ bị đảo ngược. Sau đó hãy suy nghĩ về nỗi khổ của luân hồi một cách toàn diện, khiến cho tâm trí không còn hứng khởi mơ tưởng về các viễn cảnh tươi đẹp của cuộc sống tương lai nữa, rồi mới hướng tới giải thoát. Sau đó, để xoay hướng tâm trí ra khỏi sự bình an và hạnh phúc cho riêng bản thân bạn, kiên trì tu dưỡng từ và bi, lấy bồ đề tâm làm nền tảng cho đến khi bạn phát triển được tâm bồ đề tự nhiên không gượng ép. Sau đó, học về các thực hành của bồ tát và nảy sinh ước muốn được thực hiện chúng. Khi bạn có khả năng gánh vác trách nhiện của người Phật tử bằng hành động, bạn có thể thực hiện những lời nguyện bồ đề tâm và giữ vững các giới nguyện. Khi bạn có khả năng thực hiện lời thề và các giới nguyện của kim cương thừa, hãy tìm hiểu Năm mươi vần thơ về lòng sùng kính Đạo sư, nương tựa bản thân bạn vào một vị đạo sư rồi đi vào vào thực hành mật chú thừa.
    Lần cập nhật cuối: 09/04/2018
  5. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Với một quy trình dự kiến như vậy, Rahulashrimitra, một nhân vật kiệt xuất trong truyền thống Bí mật tập hội của Arya nói rằng:

    Quy trình như sau:

    Vào thời điểm thuận lợi của ngày lành và các sao tốt,

    Người học trò chắp tay cúi lạy,

    Sám hối mọi tội lỗi,

    Quy y tam bảo,

    Dâng hiến bản thân cho bồ đề tâm,

    Thọ giới nguyện cư sĩ,

    Giới nguyện bồ tát, giới nguyện thanh tẩy.

    Quá trình tương tự như vậy

    Để dâng hiến bản thân cho vị thầy kim cương,

    Vì nó đã được dạy trong nhiều tài liệu,

    Tôi sẽ không viết ra ở đây.

    Sau khi hoàn thành các bước đó, anh ta khẩn cầu thầy,

    “Xin hãy ban quán đỉnh cho con!”​

    Như vậy, trước khi nhận quán đỉnh, bạn thực hiện các giới nguyện giải thoát, phát khởi bồ đề tâm, rồi sau đó mới khẩn cầu guru ban quán đỉnh. Các giới nguyện của cư sĩ và sự thanh tịnh của họ, làm tăng sĩ trọn một ngày, là trong giới hạn của người tại gia. Người xuất gia bước vào mật thừa phải hoàn toàn duy trì sự thanh tịnh của những lời thề khi thọ giới. Điều này được đề cập trong Mật điển Kim cương đỉnh:

    Ngừng sát sinh, trộm cắp, tà dâm,

    Nói dối, và sử dụng chất kích thích,

    Giữ vững giới cư sĩ,

    Họ sẽ trở thành bậc thầy về kiến thức mật giáo .

    Nếu là tu sĩ xuất gia,

    Sống trong sạch với ba lời thề,

    Giải thoát, bồ đề tâm,

    Và hộ trì kiến thức mật giáo,

    Là tối thượng.​

    Nếu bạn không rèn luyện tốt các giai đoạn trên đạo lộ chung của cả hai thừa như đã giải thích, bạn sẽ không cắt đứt sự dính mắc với cuộc đời này, khao khát thực hành Pháp không vững bền. Niềm tin chân thành sẽ không phát triển, và hệ quả là bạn sẽ không hoàn toàn dâng nộp bản thân mình tới các đối tượng quy y. Bạn sẽ không tìm thấy sự thuyết phục thực sự trong lý nhân quả, bạn sẽ không có quyết tâm giữ vững các lời thề. Nếu không phát triển thái độ từ bỏ luân hồi trong tận cùng thâm tâm, khao khát giải thoát của bạn chỉ là ý tưởng hời hợt. Bồ đề tâm chân thành trên nền tảng từ bi sẽ không tăng trưởng, bạn sẽ chỉ là nhà Đại thừa ngoài cửa miệng. Khi không có ước muốn mạnh mẽ thực hiện các hoạt động của bồ tát, tự nhiên sẽ không có sự sinh khởi chân thành của các lời thề bồ tát. Khi không có cái hiểu chính xác về trạng thái nội tĩnh và tuệ giác của tinh thần nói chung, ngay cả một chút xíu nhập định cũng có xu hướng sai lầm, rồi bạn sẽ không tìm thấy bất cứ manh mối nào đáng tin cậy liên quan tới cái thấy về vô ngã. Vì vậy, nếu không muốn lạc lối, bạn cần rèn luyện trên đạo lộ chung của cả hai thừa.

    Tôn giả Atisa khẳng định rằng đạo lộ này là tiêu biểu cho các giáo lý của ba dòng truyền kết hợp, truyền xuống từ Maitreya tới Asanga, từ Manjusri tới Nagarjuna, từ Manjusri tới Santideva, và chúng đã được thực hành bất kể bạn gia nhập Toàn thiện hay Kim cương thừa. Các vị thầy Bí Mật Tập Hội của Tây Tạng có quả quyết giống như vậy? Đạo sư Go cũng nói rằng có cái thấy về tính không và được rèn luyện trong bồ đề tâm, lấy từ và bi làm nền tảng, như một điều kiện tiên quyết cho hai giai đoạn phát sinh và thành tựu, là ý nghĩa của đoạn trích trước đây trong Yếu lược Thực hành. Bốn điểm giáo huấn từ năm giai đoạn của truyền thống Marpa cũng nói rằng bạn phải lấy thực hành quy y Tam Bảo làm nền tảng đạo lộ, tin tưởng vào luật nhân quả, luôn sống trong thập thiện, thực hiện các lời thề về giải thoát cùng với quy y phổ biến như một phần sơ bộ, phát triển bồ đề tâm với quy y không phổ biến như một phần sơ bộ, và trở thành một yogi với quán đỉnh trọn vẹn. Giáo lý trình bày chi tiết làm thế nào để hướng đạo tinh thần theo cách đó gọi là các giai đoạn của con đường. Vì vậy, trong các vị thầy Tây Tạng đã thực hành Bí Mật Tập Hội trước đây, chẳng ai không theo truyền thống này. Khi đã có cái hiểu tương đối kỹ lưỡng về đạo lộ, bạn nên bắt đầu thực hành bằng cách chuẩn bị cơ sở vững chắc để có thể tiến xa trên con đường. Phương pháp rèn luyện trên con đường chung đã được giải thích bao quát trong một tác phẩm khác.
  6. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    7.Hai Giai Đoạn

    Đào tạo riêng biệt trên con đường Bí Mật Tập Hội

    1. Trở thành một chiếc bình phù hợp cho hai giai đoạn

    2. Là một chiếc bình phù hợp, giữ cho các lời thề và cam kết thanh tịnh

    3. Cách hành thiền trên con đường với các lời thề và cam kết thanh tịnh

    4. Cách hiện thực hóa các kết quả vào lúc kết thúc thiền định trên con đường

    Trở thành một chiếc bình phù hợp cho hai giai đoạn

    Khi một vị thầy đủ tiêu chuẩn điểm đạo cho một đệ tử xứng đáng, với các nghi thức quán đỉnh được tiết lộ trong mật giáo, với các ý nghĩa được làm sáng tỏ bởi những người có thẩm quyền, cánh cửa đi vào chân ngôn thừa được mở ra, thiết lập một quy trình không sai sót cho con đường phát triển tinh thần và gặt hái được các kết quả. Sau khi trở thành một chiếc bình phù hợp để đi vào chân ngôn thừa, người đệ tử cần trở thành một chiếc bình phù hợp lần thứ hai bằng quán đỉnh tịnh hóa để có thể học tập các giáo lý của con đường bí mật. Các nghi thức này đã được giải thích rộng rãi trong một tác phẩm khác. (Các giai đoạn trên con đường của Vajradara vĩ đại)

    Là một chiếc bình phù hợp, giữ cho các lời thề và cam kết được thanh tịnh

    Trong khi đang nhận quán đỉnh, người ta triệu thỉnh các vị đạo sư, chư Phật, Bồ tát tới làm chứng, và cam kết sẽ giữ vững các lời thề trước sự hiện diện của họ. Vì vậy điều tuyệt đối cần thiết là biết cách làm thế nào để giữ vững chúng và có kinh nghiệm duy trì chúng trước khi thiền định về con đường. Cách thực hiện điều này có thể được tìm hiểu trong các tác phẩm Năm mươi vần thơ về Guru của Asvaghosa, Giữ vững lời thề, và Làm sáng tỏ gốc rễ suy thoái và lỗi lầm.

    Nếu bạn quan niệm rằng quán đỉnh tịnh hóa và thực hiện thệ nguyện là các bước mở đầu để được hướng dẫn vào hai giai đoạn, thì các thực hành như guru yoga, chú trăm âm, cúng dường mandala, vốn được thiết kế để thực hành sơ bộ, sẽ được coi là các thực hành phụ trợ. Nếu bạn chỉ tin chắc vào các thực hành sơ bộ, điều này có nghĩa là bạn chưa hiểu gì về các bước mở đầu, và bạn nên cố gắng để hiểu chúng.

    Cách thức thiền định trên con đường với các lời thề và cam kết thanh tịnh

    1. Biết rõ thứ tự của hai giai đoạn

    2. Làm thế nào để hành thiền về hai giai đoạn theo thứ tự

    3. Các phương pháp để tăng cường hai giai đoạn

    Biết rõ thứ tự của hai giai đoạn

    Một người có khát vọng đạt đến thành tựu tối thượng sẽ không bỏ qua quá trình hành thiền về giai đoạn phát sinh. Người tuân thủ đúng thứ tự hành thiền trước hết phải tu luyện thuần thục giai đoạn phát sinh, rồi sau đó mới bước vào giai đoạn thành tựu. Thứ tự được đề ra trong Năm giai đoạn:

    Những người vững vàng trong giai đoạn phát sinh

    Khát khao giai đoạn thành tựu.

    Phương pháp này như các bậc của một chiếc thang,

    Các vị Phật giác ngộ đã dạy.

    Để làm sáng tỏ điều này, Yếu lược thực hành, tác phẩm giải thích ý nghĩa của Năm giai đoạn, nói rằng:

    “Bởi vì những chúng sinh bình thường như chúng ta từ vô thủy đã bị dính mắc vào các hiện tượng đa dạng bên ngoài, do các dấu ấn của nghiệp, chúng ta sống trong tư duy khái niệm như tồn tại hay không tồn tại, một và nhiều, nhị nguyên hoặc bất nhị, tồn tại hay không tồn tại, thường hằng hay vô thường, vân vân. Nếu chúng ta hành thiền vào giai đoạn thành tựu, chúng ta có nên rèn luyện theo thứ tự các giai đoạn trong đó? Hay các giai đoạn xuất hiện cùng lúc thông các các chỉ dẫn từ đạo sư?

    Các vị thầy kim cương bảo rằng: “Bạn nên thực hành từng giai đoạn, đừng làm tất cả cùng một lúc.”

    Câu hỏi là: “Nếu những người bị dính mắc vào các đối tượng bên ngoài, vì bị chi phối bởi sức mạnh của nghiệp gắn liền với bốn cực đoan từ vô thủy, khi muốn thực hành giai đoạn thành tựu, họ có phải thực hành lần lượt từng giai đoạn ngay từ trình độ của người nhập môn, hay điều đó không cần thiết và chỉ cần lời chỉ dạy thâm sâu từ đạo sư là có thể thực hành toàn bộ cùng một lúc? Câu trả lời là bạn chỉ có thể thực hành từng dần dần từng giai đoạn, chẳng có cửa nào cho kiểu thực hành tất cả cùng một lúc. Sau đoạn này, các kinh Đi vào LankaSurangama được trích dẫn tham khảo làm củng cố thêm luận điểm này.
  7. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Do đó, nếu nghĩ rằng các môn sinh thượng căn đi vào con đường này mà không cần một giai đoạn khởi đầu, thì điều vô lý có thể suy luận là những người đó có thể đắc quả giải thoát ngay từ đầu mà không cần dựa vào một con đường nào. Bởi vậy, sự cần thiết của một giai đoạn khởi đầu cần phải được khẳng định. Về điểm này, Yếu lược thực hành có đoạn:

    Đối với những người mới bắt đầu

    Đi vào con đường tối thượng,

    Phương pháp này, như một chiếc thang,

    Đức Phật giác ngộ đã dạy.​

    Để ủng hộ cho lối thực hành tất cả cùng một lúc, người ta dẫn chứng một số nhân vật phi thường, ở các tiền kiếp đã rèn luyện trong các con đường thấp hơn, và không cần được dẫn dắt vào các con đường thấp mà vẫn có khả năng khởi sự vào ngay các con đường cao hơn.

    Điều đó cũng nực cười như khi nhận định rằng: những giai đoạn của tư lương đạo và gia hạnh đạo có cần phải xảy ra trước kiến đạo hay không, rồi tuyên bố rằng nó không cần thiết bởi vì khi đã thành tựu được kiến đạo, các giai đoạn trước chẳng còn là điều kiện tiên quyết.

    Giống như bạn có thể vứt bỏ đi chiếc thuyền sau khi bạn đã qua bờ bên kia con sông, nhưng bạn vẫn phải dựa vào nó để đi qua. Tương tự, mặc dù người ta có thể từ bỏ giai đoạn phát sinh một khi đã tu chứng giai đoạn thành tựu tự nhiên phi tạo tác, nhưng giai đoạn phát sinh có tạo tác vẫn cần thiết trong quá trình đi đến sự tu chứng đó. Bởi vậy, đối với người nhập môn, giai đoạn phát sinh được đánh giá rất quan trọng và cần thiết. Mật điển Vajradaka có đoạn:

    Để phát triển trí tuệ của yoga tự nhiên,

    Bạn thực hành thiền định và trì tụng có tạo tác,

    Với sự chứng ngộ yoga tự nhiên

    Vượt ngoài yoga tạo tác,

    Khi đã chứng ngộ yoga tự nhiên,

    Bạn không thực hiện sự tạo tác.

    Ví dụ, bạn dùng một chiếc thuyền để qua sông,

    Khi qua bờ, bạn bỏ chiếc thuyền.

    Sự tạo tác cũng giống như vậy.

    Các hoạt động mandala và những gì tương tự,

    Tất cả được thực hiện với tâm trí tạo dựng,

    Vì chúng gột rửa các hoạt động bên ngoài (theo thói quen),

    Nên được giới thiệu với người mới học.

    Tất cả các thần thông đều hiện diện ở đó (giai đoạn phát sinh),

    Nhưng vẫn chưa chạm đến tri kiến thực tại của Đấng Chiến Thắng.​

    Buddhasrijnana nói giống như vậy trong các tác phẩm Giọt giải thoátGiọt mùa xuân. Câu “Cố gắng trong sự tạo tác không mang lại giải thoát và chỉ là một bài tập trong sự đau khổ” trong văn bản này có nghĩa cố gắng trên con đường đó mà không hành thiền ở giai đoạn thành tựu sẽ không mang lại kết quả cao nhất. Nó chẳng có nghĩa là những người tìm kiếm giác ngộ không nên dựa vào các thực hành tạo tác, như ví dụ về chiếc thuyền. Vì vậy đừng biến thông điệp “qua sông bỏ thuyền” thành “chưa qua sông đã bỏ thuyền.”

    Người ta có thể thắc mắc rằng, hoàn toàn đúng khi xác định thứ tự hai giai đoạn bằng cách tham khảo các mật điển, nhưng làm sao việc tham khảo các kinh điển có thể củng cố lập luận trên?

    Việc tham khảo các kinh điển cũng được dùng ở đây để giúp chúng ta hiểu rằng, cho dù Kinh điển và Mật điển đại diện cho những con đường chậm và nhanh, nhưng chúng giống nhau ở chỗ những người nhập môn cần học tập dần dần.

    Tham khảo về thứ tự hai giai đoạn trong các mật điển, Vòng hoa kim cương có đoạn:

    Vào lúc khởi đầu với sáu yoga,

    Với kiến thức về yoga,

    Thực hành đạt tới tối thượng.

    Sau đó thực hành niệm thầm không gián đoạn

    Chữ HA.​

    “Sáu yoga” ở đây liên hệ với bốn thực hành nhập môn như yoga, mahayoga, vân vân, cùng với diệu mandala và các hoạt động tối thắng để tạo thành sáu. Việc niệm thầm chữ HA liên quan tới thực hành niệm kim cương. Guhyasiddhi nói rằng:

    Trong Bí mật tập hội vinh quang,

    Người dẫn dắt chúng sinh đã chỉ dạy rõ ràng

    Bốn thực hành thiền định,

    Cao hơn con đường tối thượng.


    Đầu tiên, an bày các chủng tự,

    Trụ vững trong giai đoạn phát sinh.

    Thứ hai, hành giả dũng mãnh thiền định,

    Về chính thực tại của bản thân.


    Thứ ba, hành thiền về phối ngẫu trí tuệ,

    Thực thể thiêng liêng tối thượng.

    Thứ tư, được dạy là cao nhất,

    Hành giả thiền định về phối ngẫu đại ấn.​

    Nhiều văn bản, như Dohas (Chứng đạo ca), giải thích rằng, dựa vào tiến trình các giai đoạn như vậy của con đường, trong bối cảnh hành thiền chủ yếu về trí tuệ (cực lạc) bẩm sinh, người ta không cần những quán tưởng phức tạp của giai đoạn phát sinh. Sự hiểu lầm này dẫn đến luận điểm khẳng định truyền thống của đại học giả Saraha tuân theo phương pháp tất cả cùng một lúc, và truyền thống của Nagarjuna theo phương pháp dần dần từng bước. Do đó, quan điểm khẳng định rằng cách thức bước vào đạo lộ này từ lúc khởi đầu, với phương pháp dần dần từng bước để dành cho những người hạ căn và trung căn, còn phương pháp tất cả cùng một lúc dành cho những người thượng căn là mâu thuẫn với tất cả mật điển và các bộ luận đáng tin cậy. Tôi đã giải thích rộng hơn về đề tài này trong Các giai đoạn trên con đường của Kim cang trì vĩ đại.
    Lần cập nhật cuối: 14/05/2018
  8. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Làm thế nào để hành thiền về hai giai đoạn theo thứ tự

    1. Cách hành thiền trên giai đoạn phát sinh

    2. Cách hành thiền trên giai đoạn thành tựu​

    Cách hành thiền trong giai đoạn phát sinh

    1. Số lượng các giai đoạn phát sinh bạn phải thiền

    2. Rèn luyện trong các giai đoạn đó​

    Số lượng các giai đoạn phát sinh bạn phải thiền

    Trong chương 12 của Tantra gốc, giai đoạn phát sinh được giải thích theo bốn nhánh về cách tiếp cận và thực hiện. Ý nghĩa của những điều này lại được giải thích trong Ngọn đèn soi sáng của Chandrakirti, khởi đầu từ thiền định về nền tảng của trí tuệ cho tới hoàn thành các hoạt động thù thắng và diệu mandala. Ngoài ra, Ngọn đèn soi sáng cho biết về giai đoạn phát sinh ngay trong chương đó:

    Nói cách khác, bằng phương tiện của bốn kim cương,

    Những môn đệ đức hạnh nên thực hiện tiếp cận.
    Bốn kim cương được giải thích qua câu thơ này trong Mật điển hậu kỳ:

    Thứ nhất, tính không và giác ngộ,

    Thứ hai, nó cô đọng lại thành một âm tiết hạt giống (chủng tự),

    Thứ ba, sự đầy đủ của thân thể,

    Thứ tư, sự an bày các âm tiết.​

    Bình luận của Naropa giải thích đoạn này từ nền tảng trí tuệ tới diệu mandala, dựa trên mô tả bao quát về giai đoạn phát sinh bằng phương thức của bốn kim cương. Nó trình bày quá trình từ nền tảng trí tuệ tới việc bố trí các chủng tự ở kim cương và hoa sen. Vì đoạn này chỉ nêu ra văn tự của mật điển, các thực hành về yoga vi tế, trì tụng mật chú, vân vân, nên được thêm vào.

    Giải thích trong chương 11 của Ngọn đèn soi sáng, mô tả thực hành nhất tâm về sáu gia đình Phật, khởi đầu từ nền tảng trí tuệ tới nhóm ba sattva, và nói rằng nếu được thực hành trong bốn phần, nó sẽ làm chín muồi tâm trí. Điều này giống hệt giáo huấn của Nagarjuna trong Nghi quỹ giản lược.

    Ngoại trừ sự phân chia nghi quỹ này thành bản ngắn và dài, không có sự phân chia nghi quỹ nào khác được giải thích trong truyền thống của Arya và các đệ tử. Do đó, trong truyền thống này, nếu không khởi đầu từ một bản tôn đơn lẻ ví dụ như Vajradhara và làm ổn định vững chắc hình ảnh quán tưởng, sau đó tiến tới thực hành nốt phần còn lại của nghi quỹ, thì với việc chỉ quán tưởng bản tôn & phối ngẫu hợp nhất, người ta sẽ không thể phát triển gốc rễ đức hạnh để sản sinh giác ngộ hoàn hảo của giai đoạn thành tựu. Vì vậy, đối với những điều một số người ủng hộ truyền thống Marpa nói rằng: thiền quán toàn thể tập hội của mandala chỉ cần thiết để thực hiện các nghi lễ đầy quyền năng, rằng, vì là điều kiện tiên quyết cho giai đoạn thành tựu, sẽ là đủ khi chỉ cần thiền quán về thân trí tuệ của cặp bản tôn & phối ngẫu bằng cách phát sinh ngay lập tức từ cảnh trống rỗng, và rằng đó là những gì được ngụ ý trong “trụ vững trong giai đoạn phát sinh” – điều này chẳng phù hợp với bất cứ tài liệu xác thực nào của truyền thống Arya, thậm chí còn mâu thuẫn cả với truyền thống Marpa của họ, bởi vì trong cuốn Biên soạn rõ ràng về Năm giai đoạn nói rằng:

    Rèn luyện thuần thục trong giai đoạn phát sinh,

    Với hình tướng của bản tôn và mandala tối thượng

    Của chư Phật toàn hảo được quán thấy rõ ràng,

    Sẽ dẫn tới sự hoàn thành đầy đủ.​

    Khẳng định rằng người ta phải sản sinh ra một thân trí tuệ trước khi thiền định vào giai đoạn thành tựu là trái ngược với nội dung cuốn Yếu lược thực hành, trong đó cho biết thân trí tuệ được sinh ra từ thân huyễn và chẳng có thân tướng thực sự nào của bản tôn từ giai đoạn phát sinh tới cô lập ý. Cụ thể, việc phân chia thành thân mật chú và thân trí tuệ ở giai đoạn phát sinh là một khái niệm không có chỗ đứng trong hệ thống này.

    Tóm lại, bằng cách xem xét việc thiền quán trong giai đoạn phát sinh quan trọng thế nào đối với tâm trí, để sản sinh ra trí tuệ giác ngộ trong giai đoạn thành tựu, điều trở nên rõ ràng là tầm quan trọng của việc khởi đầu bằng thiền quán trong giai đoạn phát sinh. Ngoài ra, trong phần bình luận thuộc chương 13 của Tantra gốc có nói rằng để bảo vệ tâm trí của người nhập môn khỏi tình trạng xao lãng, điều cần thiết là thực hành bốn phần thiền quán về vòng bảo vệ.
    Lần cập nhật cuối: 21/05/2018
  9. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Rèn luyện trong các giai đoạn đó

    Thứ tự rèn luyện trong giai đoạn phát sinh được dạy trong tác phẩm của Aryadeva Yếu lược Thực hành, viết rằng:

    Khi bạn suy niệm về Phương tiện của Phật, bạn nên rèn luyện nhập định nhất niệm về phương tiện mới. Rèn luyện trong thực hành đó, rèn luyện trong yoga quán tưởng, khi rèn luyện trong thực hành đó, an trú trong định của người mới học.​

    Cuốn Bình luận về Yếu lược Thực hành cho rằng luyện tập nhất tâm là rèn luyện cho một khoảnh khắc trong giai đoạn phát sinh, còn yoga quán tưởng là rèn luyện cho nhiều khoảnh khắc. Điều này là sai vì Ngọn đèn soi sáng mô tả thực hành nhất tâm (nhập định) là sự phát sinh của Đại Nhật, và các vị Phật khác, từ ngũ trí như lai.

    Ngoài ra, Ngọn đèn soi sáng, trong chương 11 mô tả sự phát sinh lần lượt của Đại Nhật và các vị Phật khác như là thực hành nhất tâm, điều này khiến một số người cho rằng thực hành khởi đầu với một hóa thần là nhất tâm, còn thực hành toàn bộ nghi quỹ là yoga quán tưởng. Điều này cũng không đúng, bởi vì mô tả sự phát sinh của Đại Nhật và các vị Phật khác là nhất tâm cũng có nghĩa là thiền quán về mandala của các vị hóa thần. Do đó thuật ngữ nhất tâm chẳng có nghĩa là suy nghĩ về các vị hóa thần một lần, hoặc chỉ suy nghĩ về một vị hóa thần, mà nghĩa của nó là nghĩ về các vị hóa thần cùng nhau như là một, hoặc nghĩ bản thân bạn và các vị hóa thần cùng nhau như là một. Nhìn chung, phần này có thể áp dụng cho thiền quán về yoga hóa thần cả thô lẫn tinh, nhưng ở đây nói đến yoga hóa thần của mandala thô và các vị hóa thần thô.

    Yếu lược thực hành viết rằng giống như học bắn cung, trước hết bạn luyện tập với cái đích lớn, sau đó khi đã thành thạo, luyện tập với đích nhỏ hơn, bạn nên thực hành trên con đường này giống như vậy. Do đó, khi tu tập trong giai đoạn phát sinh, trước hết là phát triển kỹ năng thiền định về các hình tướng thô, sau đó tiến tới mandala. Khi đã tinh thông thực hành đó, bạn sẽ thực hành yoga quán tưởng, trong đó bạn thiền quán toàn thể mandala bên trong một giọt nhỏ. Yoga quán tưởng là một thuật ngữ chung của giai đoạn phát sinh, nhưng ở đây nó được sử dụng như một cái tên chung cho yoga vi tế, giống như trong chương 6 của Ngọn đèn soi sáng nói rằng phép thiền của yoga vi tế là “tu luyện yoga của sự quán tưởng”.

    “Sự nhập định của người mới học” nghĩa là yoga của giai đoạn đầu. “Trụ vững trong đó” nghĩa là một trạng thái ổn định không dao động, hoặc khiến việc nhập định trở nên hoàn hảo.

    Giai đoạn phát sinh bao gồm toàn thể các phẩm tính siêu việt. Trong đó chứa đựng những tiềm năng đặc biệt thâm sâu, liên quan đến sự sản sinh trí tuệ giải thoát của giai đoạn thành tựu trong tương lai. Tâm trí được ban phúc bởi các đấng chiến thắng và các đệ tử; trong suốt các kiếp sống, bạn sẽ được hộ trì bởi các vị hóa thần vĩ đại. Bạn sẽ không bao giờ bị cách biệt với chư Phật. Bạn dễ dàng hoàn thành việc tích lũy công đức thông qua thực hành cúng dường và tán thán, không bị ám hại bởi các loài ma quỷ. Bạn sẽ có khả năng sở đắc nhiều thần thông, như tịnh hóa, vân vân, ngay trong đời này. Vì vậy, điều tối quan trọng là hãy thực hành cho đến khi đạt được điều này theo ý muốn: cho dù bạn quán tưởng các hóa thần và mandala ở cấp độ thô hay vi tế, nó sẽ xuất hiện theo ý muốn của bạn, và nó không xuất hiện nếu bạn không muốn, cho đến khi bạn có thể trụ vững nhất tâm trong đó qua một thời gian dài.

    Những gì chưa được giải thích ở đây đã được giải thích ở cuốn sách khác, nên tôi sẽ không bàn thêm nữa.
  10. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    8. Giải Thích Về Evam, Lạc Và Không

    Phương pháp hành thiền trong giai đoạn thành tựu

    1. Tóm tắt ý nghĩa của hai âm tiết E VAM, chủ đề chính của giai đoạn thành tựu nói chung

    2. Giải thích chi tiết về E VAM

    3. Giải thích về giai đoạn thành tựu của mật điển này​

    Tóm tắt ý nghĩa của hai âm tiết E và VAM, chủ đề chính của giai đoạn thành tựu nói chung

    Nhìn chung, tất cả những điểm trọng yếu của tối thượng du già mật tông được cô đọng lại trong ý nghĩa của bốn mươi âm tiết: e, vam, vân vân. Nội dung chính của những âm tiết đó lại được cô đọng trong ý nghĩa của hai âm tiết đầu tiên. Vòng hoa kim cương nói rằng:

    “Như vậy tôi nghe” và tương tự

    Được nói vào lúc khởi đầu của các mật điển,

    Nghĩa của chúng là gì?

    Những từ đầu tiên này (E VAM),

    Ý nghĩa chi tiết của chúng là gì?​

    Câu đầu tiên hỏi làm thế nào ý nghĩa phần giới thiệu của các mật điển, như Bí Mật Tập Hội, được tìm thấy trong ý nghĩa của hai âm tiết E VAM. Câu hỏi thứ hai là nếu mỗi âm tiết E VAM, vân vân, được giải thích chi tiết, ý nghĩa của chúng sẽ là gì. Giải đáp cho câu hỏi thứ hai được đưa ra với một câu thơ cho mỗi âm tiết. Đối với câu hỏi thứ hai, ba ý nghĩa của E VAM là:

    - E VAM của kết quả, là thứ cần đạt đến

    - E VAM của con đường, phương tiện để đạt được kết quả

    - E VAM của giới tính, thứ dẫn đến kết quả​

    Đối với E VAM kết quả, âm tiết E có nghĩa là nơi mà đạo sư cư ngụ và từ đó mà ông truyền pháp. Trong một số mật điển, đây là chỗ bí mật, một số khác là cõi giới của không gian, bhaga172, nguồn gốc, hoa sen, hoặc ngai sư tử. Âm tiết VAM nói đến người thầy dạy về các mật điển cá nhân dưới những cái tên như Vajradhara, Vajrasattva, Yamantaka, Vajreshvara, Heruka, Kalachakra, Adibuddha, vân vân. Vòng hoa kim cương cho biết:

    Chữ E, nơi chốn bí mật, cõi giới không gian,

    Bhaga, nguồn gốc, hoa sen,

    ngai sư tử của yoga

    từ nơi đó, các giáo lý huy hoàng được ban truyền

    dưới những cái tên như Vajrasattva,

    Vamvajra, Yamantaka, Ishvara,

    Heruka, Kalachakra, Adibuddha, vân vân.​

    Ngoài ra, ý nghĩa tận cùng của “nơi chốn bí mật”, hoa sen, vân vân, là tính không, và ý nghĩa tận cùng của Vajrasattva, vân vân, là đại từ bi. Do đó, EVAM biểu thị sự bất khả phân của tính không và từ bi. Vòng hoa kim cương có đoạn:

    EVAM là dấu ấn của Như Lai,

    Biểu thị bất nhị,

    Bất khả phân giữa tính không và từ bi,

    Nơi nào nó được nói tới,

    Nơi đó đặt dấu ấn của Như Lai,

    Biểu thị tuệ giác bất nhị

    Được nêu ra trong phần mở đầu của mọi mật điển.​

    Ý nghĩa của chữ E trong EVAM con đường là trí tuệ của tính không. Ý nghĩa của VA là phương tiện của đại từ bi. Ý nghĩa của giọt M (anusvara = âm M) là sự hợp nhất bất khả phân giữa phương tiện và trí tuệ. Nó là dấu ấn của đại Pháp vương thị hiện trong hình thức giản lược, thâm nhập khắp 84,000 giáo pháp. Vòng hoa kim cương viết:

    E được dạy là tính không,

    VA là đại từ bi,

    Giọt175 xuất hiện từ sự hợp nhất của cả hai,

    Sự hợp nhất kỳ diệu.

    Nó là dấu ấn của Pháp, trong hình thức giản lược

    Thâm nhập khắp 84,000 giáo lý,

    Dấu ấn của vị vua vĩ đại

    Được mở đầu ở tất cả các tantra.​

Chia sẻ trang này