1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiếng VN Ngôn & Ngữ Theo dòng LS

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Hoailong, 04/05/2018.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    Tiếng ta lang thang
    Ngôn ngữ chứng tỏ gốc văn hóa của một dân tộc, xem nó dày mỏng đến đâu, “ăn cóp” cái gì của nước người.
    Căn cứ vào câu này mà nhìn tiếng Việt ta thì phải rất tự ty. Nam Giao Học Tổ là một ông Trung Hoa, có dễ trước khi Sĩ Nhiếp đem chữ Hán sang thì sử chỉ là huyền thoại,
    Truyền thuyết truyền mồm nhau, ông kể khác cụ, truyền từ bố sang con đã thất bản lắm rồi.
    Có chữ, tức chữ Hán, sau lại có đạo, tức đạo Khổng đạo Phật đạo Lão, mọi thứ được “chỉnh đốn”.
    Sự học mới cho phép mở ra khoa thi, chọn người tài nói năng, nghĩ ngợi lắm lúc hệt những khuôn mẫu trong sách vở Bắc quốc.


    Dường như phải ở cạnh một Trung Hoa To chảng lắm tham vọng mà nảy nở ra những phản ứng (?)tự ti nên tự tôn, hoặc một nhu cầu tự vệ văn hóa.
    Chữ Nôm được hình thành, rồi chính thức khai sinh, có thể trở thành một “biểu tượng dân tộc” nhưng dường như chưa đủ tầm để thế chữ Hán. “Dòng” Hán Nôm vì thế ra đời chăng?

    Kể ngần nấy ra thì thấy tự ty, không mạnh miệng dân mình có gốc rễ ngôn ngữ sâu xa.
    Nhất là khi xem phim Tây du Trung Quốc làm, thấy Tôn Ngộ Không cứ “sư phò” mà réo Đường Tăng; từ đấy mà sang “sư phụ” có một téo.


    Nhưng rồi ta lại có chữ “TIẾP BIẾN VĂN HÓA” nó hỗ trợ, chống lưng cho. Lấy này kia trong văn hóa của người thành của mình thì có gì phải xí hổ, nhất là khi “phát huy” chúng lên thành những điểm mạnh còn hơn cả ở đất gốc.

    Sự nhào trộn cả tam giáo được gọi rất khéo là “đồng nguyên”, “phối kết hợp” với đạo Mẫu thuần bản địa vẫn cho ra tâm hồn dân tộc đấy thôi. Kíp khi ông nhà văn Mác-két “tung” ra khái niệm “văn hóa lai” thì mọi thứ ổn cả
    Cả châu Mỹ hợp phối văn hóa da đỏ với những “thức”của châu Âu, do các chị trốn tù Anh đào vàng lão quý tộc thất sủng đem sang, chả sống khỏe đây thây, việc gì mà ta xét nét mình quá nó mất cả hồn nhiên đi.

    Trên đây là chút chút mào đầu “ný nuận” cho sự kể tiếng ta trôi thế nào.
    Và cũng chỉ kể những gì được những cái người chứng kiến kể lại thôi, xa xưa nữa đâu có tường…

    *

    Khoảng năm 1915-1917, những hoạt động khoa cử theo Nho giáo cuối cùng diễn ra. Giai đoạn phổ biến tiếng Pháp cho tầng lớp trên, sau đó là Quốc ngữ cho đại chúng bắt đầu. Quốc ngữ, trên một chừng mực, mang theo tinh thần dân tộc, được cách mạng tận dụng triệt để trong công cuộc chống ngoại xâm, đã có sức sống mạnh mẽ. Vả chăng nó có những lợi thế rõ ràng để phổ cập: đánh vần được, âm thanh thì vẫn ta mà con chữ lại “gần gần” của người Tây phương. Tức là học nó rất dễ, nâng cao dân trí, tuyên truyền cách mạng nhanh chóng. Trong thôn hương, bên cạnh những ông đồ lại có trí thức bình dân, trình độ cao hơn cộng đồng nhưng “ăn nói dễ hiểu, ít tầm chương trích cú”.
    Giáo sư Đặng Văn Ngữ kể chuyện khi trở về nước, thấy dân làng nọ phải đánh vần “a bờ cờ” được mới có thể đi qua trạm kiểm soát để vào chợ, ông đã run lên vì cảm động.

    Tuy chả phải độc tôn, chủ yếu ở tầng lớp trên, tiếng Pháp vẫn là tấm “thông hành” để trở thành trí thức thượng lưu hay chiếm vị trí quyền lực thực sự trong bộ máy cai trị (chỉ chữ Nho không thì nhiều khi chỉ có hư quyền).
    Chả thế mà có một tầng lớp làu thông cả Nho lẫn Pháp, như “Tứ hổ Tràng An” Quỳnh - Vĩnh - Tố – Tốn, không chỉ có thể phiên dịch mà còn tư duy được bằng hai ngữ ấy.

    (còn Tiếp)
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & còn Tiếp)
    Nhưng chữ Nho “đứt” dần. Văn hoá Pháp, lợi quyền làm quan quyến rũ lớp người trẻ. Người Việt, hình như không có âm “pờ”, bắt đầu làm quen với “pin”, “pích”, “poóc – ba – ga”, “ping – pông”, “pê – nan – ty”...
    Người “có chữ” là phải biết đến chấm, phảy, xuống dòng, mệnh đề, khác hẳn mấy sinh đồ trẻ đố nhau đánh dấu một văn bản. Giới bình dân biết đến những “xà phòng”, “phi dê” đã Việt hóa, hát “Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô” rất thuần thục.

    Giống như mọi xứ, sự tiếp biến ngôn ngữ ở ta cũng có sắc thái hài hước, tức là pha trộn theo nguyên tắc phải gây cười.
    Các cụ Nho – Tây làm thơ tứ tuyệt bằng âm “tây” rất đúng âm luật:

    Đờ puy cờ giơ tơ cổn nét (Depuis que je te connais)
    Giuýt ki xì xít xết an nê (Jusque six sept annee)
    Ẳng tăng đồng xíp lê xà lúp (Entendons Sipplet Chaloupe)
    Tú xơ là xà cúp mông cơ (tout cela ca coupe mon coeur)

    Đây chắc là “cõi lòng” của một “me” khi gã “quỷ hồng mao” “ngược” về trời tây.
    Có những câu khác, mang sắc thái chế giễu nhiều hơn, nhắc lời bồi ta tả con cua cho chủ tây:
    “Luý to cẩm manh, luý a uýt cẳng đơ càng, ( Lui to comment, lui a huit cẳng deux càng
    luý cắp đau chết cha, rô ti luý thơm cẩm nước hoa,
    măng giê luý bố cu bồng quên chết”, tức là (Manger Lui Beaucoup Bon ....)

    Lại có những “từ” được phiên sang âm Hán, chả biết nghiêm túc đến đâu, như gọi máy chữ là “cơ khí tự”, đánh máy chữ là “đả cơ khí tự”, người đánh máy là “đả cơ khí tự viên”.
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & còn Tiếp)
    Rồi đánh Pháp, tinh thần dân tộc, tinh thần giai cấp trên hết, tiếng Tây lắm lúc như hủi. Những đốc tờ thầy cãi theo kháng chiến gặp nhau nói tiếng Tây như ăn cắp, chỉ sợ bị đánh giá. Chiến dịch Biên giới nổ ra, cùng với những ảnh hưởng của Trung Quốc, âm Hán (bạch thoại?) hoặc trở lại hoặc tràn vào, như “phương vị” của pháo binh, “thổ cải” thời cải cách ruộng đất. Những “hoả xa”, “lý trình” của ngành giao thông còn mãi đến ngày nay.

    Miền Bắc,Tiếng Nga có vị thế từ những năm sáu mươi, lưu học sinh mang về, nhà trường cũng dậy. Văn hoá Nga làm thổn thức bao thế hệ, lính đánh Mỹ ra trận nhiều người trong ba lô có thơ tình Ôn – ga Béc – gôn. Nhưng quá khó, và việc dậy dỗ cũng tam khoanh tứ đốm, nó chưa kịp mọc rễ đã bị tranh chỗ khi thời thế thay đổi.

    Phải nói là trong khoảng ba chục năm của thế kỷ trước, từ ’60 đến ’90, việc dậy ngoại ngữ trong trường phổ thông, đại học ở Hà Nội tạo ra một lớp trí thức “kinh qua” cả Trung Nga Anh Pháp văn nhưng ngữ nào cũng ngọng.

    Chữ Hán thì hoàn toàn mù tịt rồi, thành thử vươn ra thế giới hiện đại thì khó quá, mà quay về với quá khứ lại tắc tị. Nghĩa là nẻo vào các nền tri thức khác bít kín. “Tắm ao ta” nghìn phần trăm, tù đọng.

    Tiếng Nga nay còn lại trong người vui tính, có lẽ là những “Tình hình xây chác (bây giờ) có gì nố vưi (mới)?”, hay “I a tôi cũng tố gie”.
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & còn Tiếp)
    (*) Từ “nấu Pháp, sôi Nga” đến đụng "ANH, MỸ" Me em ỏn ẻn


    Vụt cái đã sang thời của tiếng Anh. thế vì bao người “sôi Nga nấu Pháp”, thoắt cái thấy mình lạc hậu. Tài liệu, thông tin, MÔI TRƯỜNG làm ăn, giao tiếp..., đâu đâu cũng là “thằng” Ăng lê.
    Cách chuyển ngữ tạo ra những thắc mắc kiểu sao cái nhà cao lại gọi “tháp /TOWER”, cái nhà thật to gọi “thành phô/CITÝ”… Thế kỉ XXI sập đến với những “com piu tơ”/COMPUTER, “lép tóp”/LAPTOP, mạng “gút gồ”/GOOGLE & "Xét nét"/SEARCH NET, chả biết tiếng Anh thì “thôi rồi nghỉ cho khoẻ”.

    Những chuyên gia lành nghề phải nhả suất du học cho đứa trẻ ranh. Những bộ trưởng về hưu cố một học bổng Anh quốc. Những giáo viên tiếng Nga đang nuôi con nhỏ giằn lòng chuyển sang tiếng Anh.
    Không chỉ là chìa khoá mở vào tri thức, văn hoá, nó còn là phương tiện sinh nhai miếng cơm manh áo hay tiến thủ đến quyền lực.

    Lại giống cách nay dăm bẩy chục năm, con đường phổ biến tiếng Anh cũng có sắc thái hài hước. Học sinh, thanh niên, do nhu cầu học mà chơi, chơi mà học, “sáng tạo” ra những “giải pháp thông dịch” đánh đố nhau.
    I love toilet you go go là gì ?
    I love toilet you go with me Theo 1 Me Mỹ giãi thích: được cho là "Tôi yêu cầu Anh đi đi" hay "...Anh đi với Tôi" .
    Hay Sugar you you go, sugar me me go là "Đường Ai nấy đi" ???!!! (# Ngày nay Ng Anh hay thường nói Honey you you go, Honey me me go " rất gần tiếng việt:
    & Có lẻ nọc ong & Cá.. Bươ'm gặp nhau thì fải " & “Rùng rợn” hơn:
    Nhả nhớt, nghịch ngợm, dường như là một phẩm chất không thể thiếu của sự TIẾP BIẾN VĂN HOÁ nghiêm túc.

    (*) Trôi giữa các dòng chẩy không thể là hiền hoà, tiếng Việt ta đã tiếp nhận, biến đổi thật nhanh. Sinh ngữ như một cơ thể hồn nhiên, chịu ảnh hưởng của thời thế - cái liên tục thay đổi.

    Và càng là đô thị thì thay đổi càng chóng mặt. Có cái cảm giác người Việt tiếp nhận những ảnh hưởng ngôn ngữ rất hồn nhiên, và bộc lộ luôn sự tự ty về văn hoá.
    Thứ tiếng cổ, thuần khiết chỉ còn nơi những bà còng tỉ mẩn gà qué ở quê, cụ mà lên tỉnh khéo lắm khi thành ra đi nước ngoài.
    Lắm nhà văn, lắm ông nghiên cứu ngôn ngữ thích đôi hồi với các cụ là vì sợ tuột mất những nôm na, phương ngữ...
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & còn Tiếp)
    (*) Từ “nấu Pháp, sôi Nga” đến đụng "ANH, MỸ" Me em ỏn ẻn
    ....
    “Trôi” về đâu, như thế nào, thì rất bộn bề, và nó dành cho nhà nghiên cứu. Trên phương diện một nhà báo, người viết cứ “dựng” tạm lên mấy xu hướng sau:

    - BÌNH DÂN HOÁ.
    Cách , viết không cần chuẩn, cốt hiểu được. Từ mới phát sinh theo những “quy luật” thật vui: “vấn nạn”, “cảnh báo”, “hơi bị hay”... Do tiếng Việt dậy trong trường phổ thông, thậm chí trường báo chí khá nham nhở, nhiều tòa soạn dùng bài sử dụng từ sai, câu không đủ thành phần. Quy tắc viết hoa, phiên âm dường như không có.
    Nhiều hàng ăn, có lẽ nghĩ đến câu “ăn cơm Tàu”, dựng biển có chữ “quán” sau cùng, thậm chí cả “DÂN TỘC QUÁN” dù cách ghép từ này chả hề dân tộc.
    . [​IMG]

    Ăn Vặt Quán - Lê Hồng Phong
    Cần Thơ » Quận Bình Thủy » Khu vực Sân Bay Cần Thơ
    [​IMG]
    Nai Quán - 34 ảnh - Quán ăn - 16A, ngõ 75, Trần Quang Diệu, Đống Đa, Hà Nội
    [​IMG]
    NGON Quán - 173 Ngô Gia Tự - Bài viết - Hà Nội -
    Văn viết là vậy, văn – chủ yếu trên truyền hình – lại càng lơ lớ. Lơ lớ nhưng lại là thời thượng.

    Quốc tế hoá. THỜI TIẾNG TÂY, người đô thị học “phi dê”, “gác đờ bu”, “sếp”. Sang thời nay, câu bị động sử dùng nhiều: “Nàng bị quấy rối ti`nh dục bởi giám đốc”, “hội ăn thịt chó dẫn đầu bởi kẻ vừa trúng mánh...”. Chả biết đến một lúc người ta có “mắm tôm dậy mùi bởi chanh” không? “Đến từ” là một cách sành điệu thì vừa rối rắm lại rất đáng ngờ về sự chính xác. “A. xếp sau B. trong danh sách phá lưới với 3 bàn ít hơn” thật lơ lớ nhưng rất được ưa dùng.

    Sắc thái, tiếng vang trong âm nước ngoài thấy rõ trong những “xâu (show) diễn”, “đi toa lét (ToiLet)”, “nâu (no) vấn đề”...
    Lối thoại cộc, ít từ phái sinh kiểu “Oảnh Tù Tì ,À ư nhỉ nhé”, có lẽ ảnh hưởng từ văn hoá bình dân Mỹ được dùng nhiều. Và một điều không thể không lan đến tiếng ta là cách xưng hô dân chủ, ít tôn ty, chỉ dùng có vài đại từ nhân xưng của người Âu Mỹ.

    Có thể vì điều này mà những người của công chúng, khi xuất hiện trước đám đông thường xưng tên, vừa giản tiện vừa không mất khiêm nhường. Cái cách xưng tên này cũng được đã vài lão sáu mươi sử dụng, đã sinh ra hiệu quả hài hước.

    - Cá thể hoá. Những tập người khác nhau về tuổi tác, văn hoá, tầm mức kinh tế... có cách “lập ngôn” khác nhau rõ ràng. Rõ nhất là trong câu thoại, diễn ra trong cộng đồng của họ. Văng tục đa phần bị cho là thiếu văn hoá, nhưng nhiều người bảo không thể trộn nó với cách tục; “ ” khác với “văng”, có chọn lựa, để thể hiện một nội dung không có cách thể hiện khác.

    Báo “Người cao tuổi” không “híc híc” như “Hoa học trò”, báo Đảng nghiêm trang, giọng giầu chính luận hơn báo đoàn thể. Cùng một báo, chuyên mục này luôn phải giữ tính định hướng, giáo huấn, trong khi chuyên mục khác cứ phải bông phèng mới xong.
    Lứa 8X khác lứa 9X. Lại có loại “văn” chít chát, nhắn tin, tất nhiên lấy ngắn gọn làm đầu, tỉ như “j” là “gì”, “ko” là “không”, “k” là “nghìn (đồng)”. Có người đặt vấn đề về vai trò “văn mạng”, nhưng cho đến lúc này, những “tác phẩm” đa lên mạng mà đứng lại được đều phải chỉn chu cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
    Còn đâu, do chả ai biên tập, chả phải chịu trách nhiệm nhiều lắm, đa phần mỏng manh trước thử thách trường tồn; nghĩa là GIÁ TRỊ chính của mạng vẫn là ở chỗ “ai đến ai đi cũng được”, nghĩa là còn lâu nó mới trèo được đến vị trí của “văn học giấy”.

    *
    Lần cập nhật cuối: 07/03/2019
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    * (Tiếp)

    Tiếng Việt dễ tiếp nhận các ảnh hưởng, và người Việt cũng hồn nhiên giữa các tiếp biến. Vì thế, rất khó đoán các xu hướng trên phát triển đến đâu.
    Nhưng chúng ở ngoài ta, ghét hay thích chúng cứ độc lập vận động.
    Sinh ngữ là vậy, luôn luôn mở, ngọ nguậy đón chào không nghỉ, cái vừa là mới đã có thể thay bằng cái khác.
    Có lẽ vì thế mà sách, tạp chí, nhất là báo (báo mạng thì “thôi rồi”) không ai có thể chuẩn hoá được việc viết hoa, ĐỂ NGUYÊN HAY PHIÊN ÂM tiếng nước ngoài...
    Không ổn định tức là không định hình, thì chuẩn hóa thế nào, dù ai ai cứ gào lên mãi.

    Tác giả: TRần Chiến
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    SAO LẠI CHỮ QUỐC NGỮ VN "RẤT NỰC CƯỜI"?
    Trung Quốc thời hiện đại có 1 Cố học giả rất nổi tiếng là Cụ Quý Tiễn Lâm (季羡林Ji Xian-lin, 1911-2009), người được dư luận chính thống nước này tôn vinh là "Quốc học đại sư", "Học giới Thái đẩu" (Siêu sao trong giới học thuật), "Quốc bảo" (Báu vật của nước nhà)…
    Cụ Quý chủ trương đề cao nền văn hóa truyền thống TQ, từng đưa ra thuyết "30 năm nước chảy bên Tây, 30 năm nước chảy bên Đông", khẳng định trong thế kỷ XXI văn hóa TQ sẽ thay thế văn hóa phương Tây trở thành dòng chính trong văn hóa thế giới, chiếm địa vị lãnh đạo toàn cầu. Cụ còn đứng đầu phái chống lại việc cải cách chữ Hán ở TQ và vì thế càng được những người Hoa theo chủ nghĩa dân tộc hết lời ca ngợi.

    Không lâu trước khi qua đời, cụ có mấy câu có tính trăng trối về vấn đề chữ Hán.
    Lẽ ra chúng ta chẳng cần quan tâm chuyện ấy nếu như ở đây cụ Quý không mang chữ Quốc ngữ Việt Nam ra làm ví dụ thuyết minh quan điểm của mình, hơn thế lại còn nhận xét không tốt về chữ Quốc ngữ, có ý cho rằng Việt Nam thất bại trong việc cải cách chữ viết. Nhân chuyện này, chúng tôi đã tìm hiểu xem dư luận TQ nghĩ gì về vấn đề trên, qua đó thấy nhiều người TQ, kể cả giới trí thức đều hiểu sai và a dua nhau nhận xét không chính xác về ngôn ngữ cũng như các vấn đề khác của Việt Nam. Trong tình hình đó dĩ nhiên cần phải vạch ra chỗ sai của họ.

    Mấy câu trên của cụ Quý đăng trong bài viết có tiêu đề "Cụ Quý Tiễn Lâm bàn về Quốc học" phát trên một blog. Bài ấy lập tức được dân mạng TQ nhao nhao chia xẻ và bình luận, dấy lên một dư luận mạnh mẽ đòi phục hồi chữ phồn thể. Một lần nữa, sự chia rẽ quan điểm của người TQ về vấn đề cải cách chữ Hán lại bùng lên và tiếp diễn cho tới nay.

    Nội dung bài blog trên như sau:[1]

    "Chiều qua đến Y viện 301 thăm cụ Quý Tiễn Lâm. Cụ khỏe mạnh tỉnh táo, nhiều lời hay ý đẹp. Khi bàn tới việc phổ cập Quốc học, cụ một số ý kiến.

    1- Sở dĩ nền văn minh Trung Hoa có thể kéo dài tới ngày nay, chữ Hán có tác dụng lớn. Đọc văn cổ tất phải đọc chữ phồn thể, mọi thông tin của văn hóa TQ đều ở trong chữ phồn thể;

    2- Đơn giản hóa và ghi âm hóa chữ Hán là chủ trương sai lầm, tổ tiên ta dùng [chữ Hán phồn thể] đã mấy nghìn năm đều không cảm thấy bất tiện, cớ sao [khi] tới tay chúng ta thì [chữ phồn thể bị] từ bỏ? Theo đuổi hiệu suất không phải là lý do để đơn giản hóa chữ Hán. Chữ viết của Việt Nam sau khi được ghi âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười. Cụ Quý chú trọng về chuyện đáng tiếc gây ra bởi việc đơn giản hóa chữ Hán năm xưa, khi chữ "hậu" trong "Hoàng hậu" [vợ vua] và chữ "hậu" trong "dĩ hậu" [về sau] bị làm thành cùng một chữ;

    3- Dùng lời văn hiện đại để dịch thư tịch văn cổ [cổ văn kim dịch] là cách hủy diệt văn hóa Trung Hoa, [đọc văn cổ] phải đọc nguyên văn, thêm chú thích là được;

    4- "Chấn hưng quốc học tất phải nắm ngay từ lũ con nít" – cụ đặc biệt chỉ ra, Quốc học giảng dạy cho người lớn nên khác với Quốc học dạy cho trẻ em, phải dụng tâm suy nghĩ biên soạn giáo trình.

    Các ý kiến trên của Quý Tiễn Lâm được đông đảo dân TQ sôi nổi bình luận theo cả hai hướng ủng hộ và phản đối. Đáng tiếc là họ lại không gì về lời nhận xét chữ Quốc ngữ Việt Nam "rất nực cười". Có thể vì câu đó khó hiểu, hoặc vì người TQ không biết về ngôn ngữ Việt Nam nên ngại bình phẩm lời của một đại gia họ sùng bái hết mực.

    Bởi thế trước hết chúng ta nên tìm hiểu xem câu "Chữ viết của Việt Nam sau khi được ghi âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười"[2] muốn lên ý gì? Câu này chiếm khoảng gần 1/10 tổng số chữ Hán trong bài blog trên.

    Theo chúng tôi, câu này nên hiểu là:
    Việt Nam sau mấy nghìn năm dùng chữ Hán (là loại chữ ghi ý) đã tiến hành cải cách chữ viết theo hướng bỏ chữ Hán, chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ (là loại chữ ghi âm viết bằng chữ cái Latin ghép lại), thứ chữ abc này của Việt Nam có hình thức khác với chữ Latin thường thấy trong Anh ngữ, Pháp ngữ… ở chỗ các từ có thêm nhiều dấu (sắc huyền hỏi ngã nặng…) ở trên và dưới chữ, giống như chữ Latin được "đội mũ đi giày", trông rất buồn cười.

    Ở đây chúng tôi có tham khảo nhận xét của một học giả TQ lớp trước về chữ Quốc ngữ Việt Nam: 100 năm trước, đại học giả có ảnh hưởng nhiều tới Quý Tiễn Lâm là Hồ Thích (1891-1962) từng :

    Chữ viết Việt Nam hiện nay xem ra giống như chữ Pháp bị nước mưa xối tan ra, giống như phiên bản Latin của chữ hình vuông, vừa không thanh thoát cũng chẳng mỹ quan. Việt Nam từng dùng chữ Hán lâu dài và phát minh ra chữ Nôm của mình, về sau chịu ảnh hưởng của thực dân Pháp mà triệt để Latin hóa chữ viết, vì thế mà có thứ chữ "Tứ bất tượng" ([bốn thứ chẳng giống] chữ Pháp, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latin).

    Ở đây Tứ bất tượng còn có nghĩa là không đâu vào đâu, chẳng ra cái giống gì.
    (còn Tiếp)
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & còn Tiếp)
    Có lẽ họ Hồ và họ Quý nhận xét như vậy về chữ Quốc ngữ là do họ chưa hiểu vì sao chữ Quốc ngữ phải có thêm các dấu vào phía trên, dưới các chữ cái. Những dấu ấy thể hiện đặc điểm của tiếng Việt: đơn âm, có nhiều âm tiết, nhiều thanh điệu. Tiếng Việt có 6 thanh điệu, vì thế chữ Quốc ngữ phải có 5 dấu giọng thể hiện các thanh điệu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, ngoài ra còn có dấu thể hiện âm đọc của các chữ ă, â, đ, ô, ơ, ư.
    Dân ta có câu "Ô thì đội nón, Ơ thì thêm râu" là thế. Các giáo sĩ châu Âu khi dùng chữ cái Latin để ghi âm tiếng Việt đã sáng tạo ra 5 ký hiệu (dấu) thể hiện 5 thanh điệu và các chữ cái có thêm dấu như â, ă, đ, ê, ô, ơ, ư.
    Nhờ những sáng tạo tuyệt vời đó, chữ Quốc ngữ ghi được 100% ngữ âm tiếng Việt, thực hiện được yêu cầu nghĩ và nói thế nào thì có thể viết đúng như thế; viết thế nào thì có thể đọc, nói đúng như thế.
    Đây là một yêu cầu rất cao về tính chính xác của ngôn ngữ, không phải tất cả các loại chữ viết trên thế giới đều có thể đạt được. Ví dụ ở Hán ngữ, cùng một chữ có thể đọc theo mấy âm khác nhau hoặc cùng một âm có hàng trăm chữ viết khác nhau, làm giảm tính chính xác của ngôn ngữ.

    Hai vị nói trên từng học lâu năm ở phương Tây, giỏi nhiều ngoại ngữ (cụ Quý học 8 năm ở Đức, biết 11 ngoại ngữ), quen đọc sách báo Âu Mỹ, cho nên khi thấy chữ Quốc ngữ rặt những từ đơn âm và có nhiều dấu thêm vào phía trên hoặc dưới chữ cái, trông như "đội mũ, đi giày" sẽ có cảm giác lạ mắt, cho là không đẹp.

    Người Việt Nam không có cảm giác ấy mà ngược lại nếu thấy thiếu những dấu đó thì rất khó chịu, tuy rằng vẫn có thể đọc hiểu. Thực ra các dấu này đều có thể thay bằng một chữ cái.
    Ví dụ dấu sắc thay bằng chữ s, dấu huyền thay bằng chữ f… viết ở cuối mỗi từ, hoặc chữ đ viết bằng hai chữ d, chữ ô bằng hai chữ o, chữ ă bằng aw… như cách hiện nay ta thường gõ phím máy tính.
    Có lẽ do thói quen, dân ta thích viết và đọc chữ có dấu hơn.

    Tiếng nói một số dân tộc châu Á cũng có nhiều thanh điệu, vì vậy chữ viết Latin hóa của họ buộc phải thêm các dấu thanh điệu.
    Tiếng phổ thông TQ có 4 thanh điệu, vì thế chữ Latin trong phương án Hán ngữ Pinyin do Nhà nước TQ ban hành sử dụng từ năm 1958 cũng phải kèm theo 4 dấu giọng,
    ví dụ [lī], [lí], [lǐ], [lì], ngoài ra các phụ âm kép như zh, ch, sh có thể viết tắt là ẑ, ĉ, ŝ. Như vậy chữ Hán ngữ Pinyin cũng "đội mũ" , vì sao cụ Quý Tiễn Lâm lại chỉ chê chữ Quốc ngữ Việt Nam "rất nực cười"?

    Chữ Pháp cũng dùng với tần suất không lớn một vài dấu hệt như dấu sắc, huyền, dấu mũ (dấu hình nón) ở tiếng Việt; chữ Bồ Đào Nha có cả dấu ngã "~". Như vậy chữ Pháp, Bồ Đào Nha cũng "đội mũ" như chữ Việt Nam. Lẽ nào hai học giả họ Hồ và họ Quý biết nhiều ngoại ngữ lại không để ý tới điều đó?

    Thực ra việc hai vị ấy nhận xét chữ Việt Nam kém mỹ quan cũng không đáng quan tâm, vì đó là cảm nhận riêng của họ. Điều đáng chú ý là Quý Tiễn Lâm dựa vào đấy để ngầm nhận xét Việt Nam cải cách chữ viết thất bại và lấy đó làm cái cớ biện luận rằng chữ Hán chớ nên Latin hóa theo cách chữ Việt Nam đã làm.

    Đáng phê phán hơn nữa là nhiều người TQ do sùng bái cụ Quý nên đã đồng ý với quan điểm ấy và a dua nhau phát biểu những nhận thức sai lệch về Việt Nam và tiếng Việt.
    Chẳng hạn có người TQ nói chữ Quốc ngữ Việt Nam là phương ngữ Quảng Đông (còn gọi là phương ngữ Việt粤方言) được Latin hóa, Việt Nam bỏ chữ Hán là một sai lầm lịch sử, hoặc nói Việt Nam sau 1945 mới bỏ chữ Hán và chữ Nôm, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu chính trị muốn độc lập "thoát Hán".

    Vừa qua nhân dịp một vài học giả Việt Nam kiến nghị cho trẻ em ta học thêm chữ Hán, trên truyền thông TQ xuất hiện những bài viết với đầu đề đại để như "Việt Nam hối tiếc vì bỏ chữ Hán"…

    Người TQ có các nhận thức nói trên là do họ hiểu sai về nguồn gốc dân tộc ta và về tiếng Việt. Nước ta thời cổ không có chữ viết để chép sử, phải mượn dùng chữ Hán hai nghìn năm, trong đó hơn nghìn năm từng là quận huyện của TQ, cho nên chính người Việt Nam cũng dễ tin theo quan điểm của các sách sử TQ viết về nguồn gốc dân tộc ta.
    Nhiều người TQ hiện nay vẫn nghĩ rằng người Việt Nam thời cổ thuộc tộc Lạc Việt, một trong các bộ tộc ở phía Nam sông Trường Giang mà họ gọi vơ đũa cả nắm là Bách Việt, tương tự như các tộc người Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tô, v.v… Các tộc này đều thuộc chủng tộc Hán (tỷ lệ người Hán tại ba tỉnh nói trên là 97,6%; 94,1% và 99,64%; số liệu 2015), họ chủ yếu nói các phương ngữ Mân, Việt, Ngô của tiếng Hán. Các phương ngữ đó đều thuộc cùng một ngữ hệ Hán-Tạng, vì thế theo lẽ tự nhiên chữ Hán có thể ghi được tiếng mẹ đẻ của các tộc này và do đó không có vấn đề Hán hóa các tộc Bách Việt.

    Thực ra dân tộc Việt Nam khác hẳn các tộc Bách Việt về chủng tộc, về văn hóa và nhất là về ngôn ngữ. Các thành tựu khảo cổ gần đây càng khẳng định ưu thế của giả thuyết cho rằng dân tộc Việt Nam thời cổ là cư dân bản địa (như người Mường) chứ không phải là dân Bách Việt di cư xuống miền Nam, như quan niệm của người TQ. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-khmer trong ngữ hệ Nam Á, khác hẳn ngữ hệ Hán-Tạng, và tuyệt đối không phải là một phương ngữ của tiếng Hán, thể hiện rõ nhất ở chỗ có nhiều âm tiết hơn và khác hẳn về ngữ pháp; bởi vậy chữ Hán không thể nào ghi được tiếng Việt.
    Cho dù đã dùng chữ Hán hai nghìn năm nhưng nước ta vẫn không bị Hán hóa như phong kiến TQ mong muốn, và không thể có một nền văn học tiếng Việt, chỉ có một nền văn học chữ Hán nghèo nàn (các học giả Đặng Thai Mai, Hoài Thanh…không xếp vào loại văn học dân tộc ta). Chữ Hán chỉ được tầng lớp quan chức và trí thức Việt Nam dùng trong công việc hành chính, giao tiếp với TQ, ghi chép sự việc, làm văn thơ theo kiểu văn thơ TQ…, và đọc bằng âm Hán-Việt.
    Để xây dựng một nền văn hóa dân tộc, tổ tiên ta đã tự sáng tạo ra chữ Nôm, và cuối cùng chấp nhận dùng chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ châu Âu làm ra. Cả hai thứ chữ này đều ghi âm được tiếng Việt nhưng chữ Quốc ngữ hoàn thiện hơn.

    Quá trình người Việt Nam bỏ chữ Hán chữ Nôm, chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ là một quá trình tự nhiên, tự nguyện, chủ yếu vì chữ Quốc ngữ ghi được 100% tiếng Việt và dễ học, dễ nhớ, dễ viết, dễ dùng, hơn hẳn các loại chữ tổ tiên ta đã biết.
    Quá trình chuyển đổi chữ viết này rất thuận lợi, nhanh chóng thành công trên cả nước, tuy mới đầu có gặp sự phản đối yếu ớt từ một số ít nhà Nho cổ hủ. Tất nhiên sự ủng hộ của chính quyền cai trị cũng góp phần thúc đẩy quá trình đó.
    Trong thời gian ngắn, nước ta xuất hiện một nền văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí tiếng Việt và phát triển rầm rộ chưa từng thấy. nói Việt Nam thất bại trong cải cách chữ viết là hoàn toàn sai lầm.
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp & còn Tiếp)
    Rõ ràng, các giáo sĩ tham gia làm chữ Quốc ngữ như Antonio Barbosa, Gasparo d’Amiral, Alexandre de Rhodes, Francesco de Pina, Cristoforo Borri, Pigneau de Béhaine,…không chỉ giàu nhiệt tình tạo chữ ghi âm tiếng Việt mà còn có kiến thức cao siêu về ngôn ngữ học, nhờ thế tuy ít người và làm việc phân tán nhưng họ đã hoàn thành một sáng tạo vĩ đại trong lịch sử ngôn ngữ học thế giới:
    lần đầu tiên dùng chữ cái Latin làm ra một loại chữ ghi âm thành công tiếng nói của một dân tộc châu Á, tạo ra cho người Việt Nam một hệ thống chữ viết hoàn toàn mới, Latin hóa, ghi âm chính xác 100% tiếng Việt.
    Đây là món quà vô giá dân tộc ta nhận được từ nền văn minh Ki Tô giáo trong quá trình giao tiếp văn hóa Đông Tây.

    Trên thế giới không có loại chữ viết nào tuyệt đối hoàn hảo; chữ Quốc ngữ cũng vậy. Dù sao nó thích hợp nhất với tiếng Việt.
    Do được Latin hóa nên việc mã hóa chữ Quốc ngữ để đưa tiếng Việt vào máy tính trở nên rất thuận tiện, không mất hàng chục năm nghiên cứu như việc mã hóa chữ Hán.

    Thực ra từ thế kỷ XVII trở đi, các giáo sĩ châu Âu cũng hăng hái nghiên cứu dùng chữ cái Latin ghi âm tiếng TQ nhưng tất cả đều thất bại do gặp những khó khăn không thể vượt qua.
    Mọi cố gắng theo hướng đó của các học giả TQ về sau cũng vậy.

    Năm 1605, nhà truyền giáo Matteo Ricci đầu tiên đề ra phương án dùng chữ cái Latin để ghi chú âm cho chữ Hán. Sau đó nhiều người TQ tiếp tục các nghiên cứu theo hướng đó, bắt đầu từ phương án chữ ghi âm tiếng Hán do Lô Tráng Chương đề xuất năm 1892. Tới năm 1958, sau khi bỏ ra cực nhiều công của, nhà nước CHND Trung Hoa mới làm ra được một phương án dùng chữ Latin để ghi chú âm chữ Hán, gọi là PHƯƠNG ÁN GHI ÂM HÁN NGỮ (HANYU PINYIN FANGAN).
    Nhưng đây chỉ là một bộ chữ Latin thể hiện âm đọc của từng chữ Hán, chỉ có chức năng làm công cụ hỗ trợ học và dùng chữ Hán mà chưa phải là một hệ thống chữ viết ghi âm hoàn chỉnh có thể thay cho chữ Hán.
    Xem:
    đọc bảng chữ cái tiếng Trung qua bài hát phát âm

    Nói cách khác, người TQ chưa làm ra một hệ chữ viết Latin ghi âm được Hán ngữ. Các cố gắng của họ theo hướng này dường như đã chấm dứt sau một quyết định năm 1986 thống nhất từ nay không đặt vấn đề ghi âm hóa chữ Hán.[3]
    Công cuộc cải cách chữ Hán từ đó dừng lại ở tình trạng dùng "song ngữ", tức chữ Hán kèm bộ chữ Pinyin Hán ngữ.
    Hầu như toàn bộ người TQ dùng điện thoại thông minh và máy tính đều biết sử dụng thành thạo bộ chữ Pinyin trên ĐTTM & Máy Tính để đánh máy chữ Hán (# Kèm theo Bộ gõ Font PinYin).
    :bz:drm1:-bd:-bd:-h:-h
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.026
    Đã được thích:
    46
    (Tiếp)
    Trong các dân tộc từng dùng chữ Hán, duy nhất Việt Nam nhờ có chữ Quốc ngữ mà đã hoàn toàn "Thoát Hán" về ngôn ngữ, "thoát" một cách nhanh gọn, không chút dính dấp tới chữ Hán.
    Người Triều Tiên cũng sáng tạo được chữ Hangul là loại chữ ghi âm nhưng vẫn gặp khó khăn về các chữ/từ đồng âm, họ vẫn cần dùng chữ Hán để ghi chú nghĩa của một số từ, nhất là các từ về pháp lý.[4]
    Người Nhật tuy sáng tạo được loại chữ ghi âm Kana nhưng Nhật ngữ hiện nay vẫn phải dùng khoảng 2000 chữ Hán. Như vậy nghĩa là hai dân tộc ấy chưa hoàn toàn "Thoát Hán" về ngôn ngữ.

    Có thể thấy chữ Quốc ngữ thực sự là một sáng tạo phi phàm, một thành tựu lao động trí tuệ xuất sắc của các nhà truyền giáo đạo Ki Tô người châu Âu – những người hiến dâng đời mình cho sứ mệnh truyền bá học thuyết của Chúa Jesus ấy khi sáng tạo ra chữ Quốc ngữ không biết rằng họ đã làm được một cống hiến vĩ đại cho dân tộc Việt Nam.
    Các giáo dân vùng Quảng Nam, Bình Định, Quy Nhơn, Phú Yên… từng đóng góp phần đáng kể vào sự hình thành và truyền bá chữ Quốc ngữ.
    Tiếp đó, công lao hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ và truyền bá phổ cập chữ Quốc ngữ thuộc về các nhà sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, các học giả Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh…, cùng hàng triệu người tham gia phong trào Truyền bá Quốc ngữ và Bình dân học vụ.

    Học giả Phạm Quỳnh ca ngợi Chữ Quốc ngữ là công cụ giải phóng trí tuệ của người Việt Nam. Đúng thế, chữ Quốc ngữ mở ra không gian vô tận cho TƯ DUY思/恖惟 của người Việt, bất kỳ ý nghĩ nào cũng có thể ghi lại bằng chữ – điều này trước đây chưa bao giờ thực hiện được. Chữ Quốc ngữ dễ học, dễ nhớ, dễ đọc dễ viết; nhờ thế chỉ trong một thời gian ngắn nước ta đã xóa được nạn mù chữ, nâng cao vượt bậc trình độ hiểu biết của dân chúng. Kho tàng tiếng Việt giàu có hơn bao giờ hết, có thể diễn dịch mọi thành tựu mới nhất của nhân loại về khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội-nhân văn…
    Nhờ thế nền văn minh Việt Nam phát triển nhanh chóng, toàn diện, hòa nhập xu thế toàn cầu hóa. Với khoảng gần 90 triệu người dùng, chữ Quốc ngữ trở thành ngôn ngữ viết top 25 thế giới… Các thành tựu của chữ Quốc ngữ rất to lớn, trên đây chỉ có thể lướt qua vài điểm.
    Hãy tưởng tượng nếu ngày nay nước ta vẫn dùng chữ Hán, chữ Nôm thì nền văn minh Việt Nam sẽ lạc hậu thảm thương như thế nào. Chữ Hán không ghi âm được tiếng Việt, chữ Nôm ghi âm được tiếng Việt nhưng khó gấp nhiều lần chữ Hán, phải biết chữ Hán mới học được chữ Nôm. Với hai loại chữ vuông đó sao có thể truyền bá được các giá trị văn hóa tư tưởng hiện đại, các khái niệm khoa học kỹ thuật… và xây dựng ngành văn hóa giáo dục, văn học, báo chí, truyền thanh truyền hình, xuất bản… với quy mô như ngày nay?

    Rõ ràng chữ Quốc ngữ là di sản phi vật thể lớn nhất, giá trị nhất chúng ta nhận được từ tổ tiên mình – những người góp phần không nhỏ giúp các nhà truyền giáo châu Âu làm ra chữ Quốc ngữ và sau đó đồng tâm nhất trí chấp nhận dùng thứ chữ này.

    TG bài viết: Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội. Một phiên bản của bài viết đã được đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ An số 353 (24/11/2017).
    ———————

    [1]季羡林老人谈国学https://wenku.baidu.com/view/a7458429102de2bd97058833.html

    [2] Nguyên văn chữ Hán: 越南文字拼音化之后,头戴帽子,脚穿鞋子,很滑稽.

    [3] Nhà ngôn ngữ học Châu Hữu Quang việc này nếu làm thì cần 100-500 năm.

    [4] Tiếng Triều/Hàn nghèo âm tiết, cho nên vấn đề từ đồng âm khá phức tạp. Ví dụ hai từ gốc Hán chú ý và chủ nghĩa, tiếng Triều/Hàn đều đọc và viết là "ju-i", hoặc các từ kị sĩ , ký sự, kỹ sưđều đọc và viết là "ki-sa", vì thế dễ gây nhầm lẫn. Trong trường hợp cần phân biệt chính xác các từ đồng âm, sách báo tiếng Hàn thường ghi chú bằng chữ Hán trong ngoặc đơn.

Chia sẻ trang này