1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ác chiến tại Sài Gòn, Tết Mậu thân 1968!

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 21/01/2019.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Đại úy Strones cay đắng nguyền rủa cái thực tế an ninh phi trường chỉ được cấp vũ khí nhẹ trong khi đạn M16, M60 nã như mưa vào lán mà chẳng có kết quả gì. Ngay cả súng chống tăng LAWW bọn họ cũng chẳng có. Miller bèn liên hệ với quân cảnh VNCH. Họ điều tới 1 khẩu đội súng không giật 57mm. Sau khi chiếm lĩnh vị trí chỗ bờ đất cùng với Strones, quân cảnh VNCH lấy loa gọi số bộ đội nấp trong lán ra hàng. Địch chẳng thèm đáp. Súng không giật nã mấy phát xuyên thủng vách tường. Đối phương bỏ lán theo lối cũ rút chạy mặc cho các trực thăng vũ trang đang sà thấp trên đầu, xả đạn bắn ngã hết xuống đám cỏ.

    Trời bắt đầu sáng. Bằng giọng điềm tĩnh, ngắn gọn Miller hỏi Strones: "Các cậu còn bị đạn từ lán bắn ra nữa ko?"

    "Không"

    "Thế có bị bắn từ các chỗ khác ko?"

    "Không"

    "Được, vậy thì tiến đi..."

    Strones bố trí mấy tổ súng máy ở 2 bên sườn bắn xuống phía đông của đường lăn, bảo đám lính mang súng M79 bắn 1 loạt đạn cay rồi mới xông lên. Lính an ninh súng kẹp hông xả đạn như điên khi vượt qua đường. Strones với khẩu CAR15 cũng ở trong số đó. Đại úy Strones, sau được thưởng huân chương Sao bạc, nhớ lại: "Đánh vỗ mặt vốn hiệu quả nhưng cũng dễ trở thành thảm họa. quân giải phóng vẫn còn rải rác trong đám cỏ bên kia đường nhưng do bị hỏa lực M60 từ 2 bên sườn thu hút, địch ko phát hiện ra lúc chúng tôi mới xông lên - và rồi khi chứng kiến cảnh 40 tay súng M16, súng phóng lựu xộc thẳng tới mình thì chẳng ai còn đủ bình tĩnh để phản ứng nữa. Chỉ còn cách quay đầu bỏ chạy hoặc rúc xuống đất mà thôi."

    Quân Mỹ đuổi theo tới khu kiểm tra động cơ máy bay phản lực, nơi có mấy bộ đội đứng lẫn trong đám xe bồn cùng máy móc, 2 bên sườn được vách kim loại bảo vệ. 1 lính Mỹ vừa nhô ra khỏi góc tường thì bị quả lựu đạn giết chết. Trung sĩ toán trưởng Robert A. Knox, người lúc đầu bố trí ở mặt tây căn cứ nhớ lại: "Được lệnh tới hiện trường, toán của tôi lên xe tải mà chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cả." Trận đánh ở khu kiểm tra diễn ra cực kỳ hỗn loạn". Knox tiếp tục: "Vừa xông tới thì đạn bay đến tới tấp. Địch nấp chỗ đám thùng phuy sau khu nhà. 1 bộ đội nã quả RPG vào chiếc trực thăng vũ trang Huey, khi nó bay vút qua đầu, xạ kích vào 1 nhóm địch khác. Cứ tưởng chiếc trực thăng tiêu rồi nhưng được nửa chừng thì quả đạn bắt đầu xoay tròn rồi đuối dần. Nó đổi hướng rơi thẳng xuống đất."

    Knox đang bắn vào khu nhà thì bỗng thấy gầm lán quân giới có động. "tuy chỉ thoáng qua, nhưng tôi biết ngay là có người đang trốn dưới đó. Tôi chĩa súng M16 xả 1 loạt vào gầm lán. Nhìn rõ những viên đạn lửa lao vào bên trong." Khi toán của Knox tới cách cái lán 3-4m thì "1 người lính địch bò ra từ dưới lán, nhìn tôi trừng trừng, đầu bị thương, máu me bê bết, chắc cột sống hay chân cũng bị tổn hại. Anh ta bị thương nặng lắm nhưng lúc ấy ai mà dám tới giúp. Rất có thể cạnh đó có bẫy."

    Địch từ trong khu kiểm tra động cơ ném lựu đạn ra. Lúc này đại úy Strones đã có khoảng 75 lính an ninh Mỹ cùng quân cảnh VNCH. Trong lúc anh dừng lại chỉnh đốn thì nhiều xe tải chở đạn lên tiếp tế. Strones kể: "Thấy đạn vẫn còn nguyên trong hộp, tôi bực mình gọi về trung tâm bảo: 'sao ko để cái đám lúc nhúc ngồi mọc rễ ở hậu cứ nạp đạn sẵn vào băng đi!'. Chúng tôi lại cặm cụi nạp đạn rồi nhanh chóng tiến lên đẩy lui số địch còn lại khỏi căn cứ..."

    Hầu hết địch quân đều rút qua hàng rào đầu đông căn cứ để ra ngoài. Khi tuyến quân của Strone xông vào bãi cỏ bên kia lô cốt Hill 10, họ bắt gặp mấy bộ đội bị tụt lại. 1 số giương AK-47 lên và bị bắn chết. Những người khác nấp trốn. Knox bắt được trong cái hố phía trước 1 du kích 15 tuổi, lấm lem bùn đất, chỉ mặc độc chiếc quần đùi, sợi dây buộc quanh eo có 1 cái túi nhỏ. Knox kể: "Nó giơ tay đứng dậy, cúi đầu cười rồi bước lại gần tôi mấy bước. Tí nữa thì tôi đã bắn vì ai biết trong túi nó có gì? Nhưng may có người vòng ra sau lưng trói nó lại. Hóa ra trong cái túi chỉ có gạo với cái bàn chải đánh răng."

    Cứ thấy 1 cái xác là đại úy Strones lại bắn vào đó mấy phát. Nhưng dù đã căng cả mắt ra, anh vẫn bỏ sót 1 du kích còn sống trong đám cỏ. Người này chĩa khẩu súng trường CKC định bắn vào lưng anh. Tay lính Mỹ đi sau nổ 1 tràng M16 hạ sát người lính địch. Strones kể: "Khi tới gần hàng rào thì chúng tôi bị bắn tỉa. Nhưng ko sao định vị được. Rồi có 1 chiếc Cobra từ phía sau ào ào bay đến ở độ cao rất thấp. "Cứ lo phi công sẽ nhầm chúng tôi thành VC nên khi anh ta bay qua tôi bảo tất cả nâng súng M16 lên đầu." Strones nhớ lại. Khi ấy anh ko liên lạc được với đám trực thăng và cũng chẳng có lựu đạn khói để mà đánh dấu vị trí. Loại lựu đạn này ko được cấp cho An ninh phi trường. 1 lính tăng cường, là thượng sĩ, trở nên hoảng hốt. Strones kể: "Chiếc trực thăng vũ trang vòng lại và 1 lần nữa lại bay thẳng đến chúng tôi. Gã kia thấy thế chuẩn bị bỏ chạy. Mọi người đều đang rất căng thẳng nên nếu gã hạ sĩ quan cao cấp kia mà chạy trốn, tất cả sẽ làm theo, và nếu tay phi công thấy trong bãi cỏ có người chạy thì chắc chắn anh ta sẽ nổ súng. Tôi quát gã thượng sĩ: 'Định chạy à, tao bắn chết giờ!'

    Chiếc Cobra khạc lửa, nhưng những quả rocket của nó ko nhằm váo lính Mỹ mà là vào 1 trong số mấy cái nhà sàn ở ngoài mặt đông cách căn cứ khoảng 200m. "Chẳng thấy đạn nào bắn ra từ đấy nhưng ko hiểu sao người phi công vẫn phát hiện tay súng bắn tỉa đã bắn vào chúng tôi" Strones nói. Anh nhận ra lượt bay đầu là tín hiệu của phi công báo lính Mỹ thấp xuống trước khi vào công kích. "Chiếc trực thăng vũ trang bắn tan tành cái nhà sàn. Sau đó sự kháng cự chở nên ko đáng kể, chúng tôi nhanh chóng tới được chỗ hàng rào, lập lại an ninh cho căn cứ."
    Khoam, altair, samuelb6 người khác thích bài này.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    11

    Những chú đại bàng gầm thét



    Suốt buổi chiều, an ninh phi trường đốt bãi cỏ voi ở mặt đông căn cứ, xua ra thêm 1 số du kích. Trung tá Miller kể: "Chúng tôi vẫn tiếp tục truy lùng những địch quân bị tụt lại thêm 2-3 ngày nữa." Tổn thất của tiểu đoàn 3 an ninh là 2 chết, 10 bị thương. Cả thảy họ bắt được 25 tù binh và 'đếm' được 153 xác địch ở đầu đông căn cứ. Miller còn cho biết: "Có tay thợ máy chặn lính an ninh lại, hỏi mượn khẩu M16 tí chút. Anh ta chĩa súng xuống ống cống và 1 VC đã trốn dưới đó 2 ngày bò ra hàng." (theo tài liệu của ta lực lượng tấn công sân bay là tiểu đoàn 1, trung đoàn 4, sư đoàn 5 và đại đội đặc công U1 biên Hòa; đơn vị quân giải phóng lọt được và làm chủ 1 góc sân bay là đại đội 1, tiểu đoàn 1 đã diệt lính bảo vệ, dùng thủ pháo phá hủy máy bay địch. Bị bao vây phản kích, trực thăng vũ trang bắn vào đội hình, ko rút ra được, đại đội đã kiên cường đánh trả và hy sinh anh dũng, sau khi phá 120 máy bay địch (chỉ 1 trung đội trưởng là thoát được ra ngoài. Quân ta hy sinh bị lính Mỹ chôn chung 1 hố trong sân bay. Hố này năm 2017 đã tìm thấy và qui tập được 72 liệt sĩ. ND))

    Sư đoàn dù 101 của thiếu tướng Olinto M. Barsanti, đơn vị truy kích những lực lượng quân giải phóng tấn công phi trường, vừa mới từ căn cứ Fort Campbell, bang Kentucky sang VN ngày 13 tháng 12 năm 1967. Westmoreland đã ra sân bay Biên Hòa đón Barsanti khi ông này cùng đội danh dự sư đoàn vừa được máy bay vận tải C141 chở đến. Đại úy George William Lanahan, tùy viên của sư đoàn trưởng còn nhớ "Họ nhìn giống như là Mutt với Jeff vậy" (2 nhân vật truyện tranh của Mỹ, 1 cao 1 thấp. ND). Westmoreland là 1 vị tướng vạm vỡ, cơ bắp cuồn cuộn. Barsanti nhỏ bé, gày gò nhìn chẳng ăn nhập gì với cặp kính gọng đen to oạch. Ông mới lên nắm quyền chỉ huy sư đoàn 101 tại căn cứ Campbell 5 tháng trước. 1 sĩ quan tham mưu viết: " Than ôi, Barsanti là đã chẳng đủ tiêu chuẩn lính dù thì chớ mà còn rất 'tay mơ' chưa bao giờ tham dự 1 chiến dịch không vận nào. Chỉ huy 1 đơn vị dù tác chiến sao có thể là 'lính bộ binh' hay 'tay mơ' được?" Anh ta cho rằng việc Barsanti lên nắm quyền bất chấp sự phản đối của những niên trưởng nhảy dù trong bộ Lục quân là vì "Người ta đồn rằng Bộ quốc phòng 'tặng' sư 101 cho tướng Barsanti để trả ơn vì ông này đã cứu được hàng triệu đô la trong nhiệm kỳ trước. Những viên tư lệnh của quân dù thường phải thăng tiến từ thấp lên cao hoặc phải rất am hiểu về binh chủng. Barsanti bước vào cái xã hội nửa khép kín này mà chẳng hiểu tí gì về những chiến binh xuất sắc mình sắp gặp phải."

    Lanahan, chỉ huy nhóm huấn luyện viên của trường nhảy dù sư đoàn là người tham gia huấn luyện lại cho Barsanti. "Ông ấy rất khoái khi lần đầu được nhảy dù. Tôi đề nghị ra cửa máy bay trước nhưng Barsanti bảo 'Không, chỉ huy đi trước’ rồi nhảy ra. Đến khi tiếp đất ông còn nói: 'Ta nhảy lại nhé'"

    Barsanti là con người thô bạo, nóng tính quê tại 1 thị trấn mỏ, nghèo khổ bangNevada. Ông tốt nghiệp sĩ quan dự bị năm 1940 và là tiểu đoàn trưởng của sư đoàn 2 từ hồi ở bãi biển Omaha cho tới ngày Chiến thắng. Tại Triều Tiên, Barsanti là trung đoàn trưởng cũng thuộc sư 2 và qua cả 2 cuộc chiến tranh ông được thưởng 1 huân chương chữ thập Biệt công bội tinh, 3 huân chương Sao bạc, 5 quả tim tím. Ông ta sẽ nổi trận lôi đình nếu có ai thắc mắc về số huân chương này.Lanahan nói: "Barsanti là 1 lão điên. Tôi rất quí ông ấy nhưng đó cũng là 1 người rất khó làm việc. Tính khí Barsanti khá thất thường, hay chuyện bé xé ra to. Tuy nhiên nếu gặp Barsanti vào những lúc vui thì sẽ thấy khía cạnh lịch lãm, tốt bụng trong con người ổng. Thứ mà chỉ có những người ngày đêm kề cận với ông mới thấy."

    Đại tá William P. Talion, tham mưu trưởng sư dù 101 nói: "Barsanti là 1 người ko ngại va chạm. Cứ quát tháo, giậm dẫy, nổi đóa suốt thôi. Tuy dễ nổi cơn tam bành nhưng lại ông cũng mau xí xóa, ko để bụng - cho ta cơ hội sửa chữa. Barsanti sẽ chửi 'mẹ kiếp' nhưng ko bao giờ mắng '******'.

    Nhiều sĩ quan cao cấp khác cũng chẳng hiểu nổi cung cách lãnh đạo của ông tướng này. "Dưới thời Barsanti không khí sặc mùi khủng bố." 1 người nói thay cho cả bọn. Cuối cùng việc kết thúc nhiệm vụ của Barsanti cũng để lại nhiều tranh cãi. Trong khi đó căn cứ của sư đoàn cũng bị cuốn vào trận tổng tiến công Tết Mậu thân. Trung tá Ran L. Phillips, bác sĩ trưởng sư đoàn kiêm chỉ huy tiểu đoàn quân y 326 đóng ở lũy đất gần hàng rào cho biết: "Trận tập kích sân bay Biên Hòa chỉ cách chỗ chúng tôi đóng quân khoảng 50 thước. Đang trong lều phẫu thì 1 lính liên lạc từ tổ cảnh giới gần hàng rào chạy về kêu thất thanh: 'Gunnel, Chuồn khẩn trương thôi! Toi cả đến nơi rồi! Bọn Gook ở khắp nơi!'"

    2-3 quả đạn cối rơi xuống trại, đạn nhọn cũng nã tới lũy phía nam khi xung kích địch tràn qua cách đó 200m từ hướng tây đánh vào sân bay Biên Hòa. "Địch vận động quá ngờ nghệch" Talion nhận xét. Ông hết sức ngạc nhiên khi ko thấy địch tổ chức mũi tấn công thứ yếu để bảo vệ sườn phải. Thực ra sự vận động của đối phương sẽ bớt ngờ nghệch hơn nếu họ ko bị lực lượng phòng thủ căn cứ không quân chặn lại quá nhanh, khiến nhiều chiến sĩ bị kẹt lại giữa vùng trống ngoài hàng rào. Trong quá trình cố tiến đến mục tiêu địch đã bị pháo sáng soi rõ và bị trực thăng vũ trang tàn sát.

    Vệ binh bảo vệ sư bộ là lính thuộc đại đội C, tiểu đoàn 1, trung đoàn 502 bộ binh của đại úy Speedy. "Đối với quân giải phóng, việc trừ khử đám Cobra là rất quan trọng nên họ tập trung hỏa lực nhằm bắn máy bay." Speedy nói, anh cho biết chính những luồng đạn lửa màu xanh lá cây này đã giúp quân Mỹ định vị thêm chính xác. Speedy cho mấy tổ súng máy M60 trên mặt lũy nổ súng. "Lúc này quân tấn công vừa phải đối phó với đạn của an ninh phi trường đằng trước mặt, hỏa lực từ trực thăng Cobra nã xuống và đạn ko ngờ tới của 1 đại đội Mỹ bắn tạt sườn."
    Khoam, caheo999, samuelb6 người khác thích bài này.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    ảnh trận sân bay Biên Hòa 1968 do ND sưu tầm

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    lô cốt Hill 10
    [​IMG]

    Những chớp lửa đầu nòng của súng địch nhanh chóng bị dập tắt.

    Tới bình minh, Phillips nhận thấy các lều quân y của mình đều bị vỏ đạn nóng bỏng của trực thăng Cobra làm thủng lỗ chỗ. Ông viết. "Trang thiết bị biến thành 1 đống hổ lốn. Vai, đầu ai cũng đau ê ẩm vì những thứ từ trên trời rơi xuống dù đều có mang mũ sắt, áo giáp hết. Viên bác sĩ trưởng cũng ko ưa gì Barsanti. "Chúng tôi ko xuống hầm trú ẩn vì có được đào hầm đâu mà xuống. Nguyên do được rao giảng là vì thiếu vật liệu xây dựng. Điều này ko thuyết phục vì ở bộ tư lệnh sư cũng nằm trên đường này, mà ông tướng có hàng đống hầm ngầm, boong ke chỉ huy cực kỳ kiên cố."

    Khi Speedy chuẩn bị tới Đại sứ quán, đại tá Talion đốc thúc chỉ huy số quân cảnh và lính trợ chiến ra thủ 2 cổng ra vào lũy có đường thoát ra phía đông. Đối phương vẫn bắn đến. Quân cảnh Mỹ cùng đám lính văn phòng, quân y trên mặt lũy hay các mái nhà nhìn ra cổng liền bắn trả.

    Talion chuẩn bị tinh thần đón chờ 1 đợt tấn công trực diện. Nó đã ko xảy ra. Dù vậy vẫn có nhiều thương vong xảy ra trong quá trình đọ súng, bao gồm cả thượng sĩ James L. Wages, trợ lý của tướng Barsanti, 1 người dễ mến, hiền lành, sống trọn tình với gia đình, chủ yếu làm những việc về hành chính. Đại úy Lanahan , sĩ quan tùy viên, nhớ lại: "Đang ở trung tâm hành quân của sư đoàn cùng Barsanti thì lái xe riêng của ổng nhào vào, mắt trợn tròn miệng hét to 'Sếp ơi! Jim trúng đạn rồi!'. Vô lý hết sức. Ko thể như thế được. Thế quái nào mà Jim lại ăn đạn nhỉ? Chúa ơi, anh ta ở trong văn phòng mà." Lanahan chạy sang tòa nhà bộ tư lệnh gần đấy thấy Wages nằm sóng xoài cạnh bàn trong căn phòng trước phòng của sư trưởng. Mấy hạ sĩ quan cao cấp đang túm tụm quanh đó giải thích anh ta bị 1 viên đạn lạc xuyên qua vách gỗ bắn trúng. Lanahan đã vào thay cho 1 trung sĩ khác để cố gắng hô hấp cho Wages. Anh kể lại: "Bọn họ phải lấy khóa thắt lưng cạy răng anh ấy ra..Rồi sau anh ấy rơi vào trạng thái sốc và hầu như bị mất hết ý thức. Wages nằm ngửa, mắt trợn trắng nhưng chẳng hề thấy có máu chảy..."

    Vừa luống cuống vừa hoảng sợ, Lanahan hét tướng: "anh ấy bị đạn vào đâu?". Ai đó kéo áo Wages lên lộ ra 1 lỗ đạn ngay vị trí dạ dày, ko thấy máu.Vết thương tự đóng lại, đạn ko trổ ra bên kia. Biết Wages bị xuất huyết nội, Lanahan cùng tài xế riêng của ông tướng đưa anh lên xe jeep phóng xuống con đường chạy men theo mặt trong lũy nam tới trạm sơ cứu - giữa tiếng đạn rít trên đầu. Trong khi bác sĩ Phillips bắt đầu tiến hành hồi sức thì đạn vẫn bay viu víu trong căn lều quân y trống hoác. Lanahan nhớ lại: "Cứ nhìn vào mắt anh ấy là thấy ngay tình hình ko ổn rồi. Mấy y tá đang chăm sóc cho mấy ca thương binh nhẹ kể tôi trường hợp 1 trung sĩ cấp dưỡng bị dính đạn ngay giữa trán đang nằm đắp poncho ở cái lều bên cạnh."

    Lanahan gọi 1 trực thăng Huey đáp xuống bốc thượng sĩ Wages. "Hôm sau thì tôi được biết anh ấy chẳng bao giờ tỉnh lại nữa. Viên đạn đã xé nát nội tạng khiến Wages chết vì xuất huyết." Lanahan kể; anh cứ nằng nặc đòi kiểm tra viên đạn vì e bạn mình bị bắn bằng súng M16. "Hóa ra đó là đạn AK-47."

    Tiểu đoàn được tướng Barsanti lệnh phải đánh bật địch khỏi lũy đất đã đáp xuống bên trong khu sư bộ. Sau cuộc gặp chóng vánh với viên tiểu đoàn trưởng, tư lệnh lên trực thăng chỉ huy cùng sĩ quan tùy viên và viên thượng sĩ cố vấn của sư đoàn. Phù hiệu con đại bàng gầm thét trứ danh của sư 101 được sơn trên mũi chiếc Huey này. Trận đánh dưới mặt đất đang diễn ra giữa làng Đồng Lách, nằm ở đầu đông sân bay. Lính Mỹ đang tiến vào làng dưới lằn đạn dữ dội của những bộ đội nấp trong các căn nhà lá. Lực lượng địch còn lại đang vội vã vượt đồng cỏ rút lui. Xạ thủ súng máy trên chiếc Huey nã hàng tràng đạn dài đuổi theo, 1 số địch trên đường rút dừng lại bắn trả lại khá rát.

    Mọi người rất hăng hái. Barsanti the thé dùng ám danh liên lạc gọi về trung tâm hành quân: "1 tên choĐại Bàng anh dũng (Bold Eagle)! 2...3...4 tên cho Đại Bàng anh dũng!"

    Sau Barsanti tặng huân chương Air Medals for Valor cho tất cả mọi người trên trực thăng chỉ huy. Lanahan phát biểu: "Tôi chẳng thích nhận nó, ông tướng cũng có 1 cái, dù sao cũng cám ơn đã trưởng ban lực viết đề cử."

    Chính sách ban thưởng hào phóng của Barsanti đã được minh chứng trong dịp Tết và những tháng sau đó khi những bộ phận lớn của sư dù 101 được điều lên vùng I chiến thuật, tham gia những trận đánh dữ dội ở Huế và thung lũng A Sầu. Lanahan nói: "Cứ sau mỗi trận đánh là Barsanti đáp trực thăng tới tiến hành ban thưởng ngay tại chỗ. Lần nào ông ta ra thăm các đơn vị là tôi cũng phải mang tới 2 chiếc cặp đựng đầy huân chương." Tư lệnh cũng xuống trạm xá sư đoàn để nghe báo cáo thành tích của thương binh tại đó. Có lần, ông đã hỏi chuyện 1 đại đội trưởng trong khi anh này đang được phân loại. Chuyện kể rằng trong chuyến tuần tra trên 'con đường không vui' gần Huế, 1 binh sĩ vừa mở cổng 1 ngôi chùa thì bị mìn làm bị thương. Người lính tới giúp anh này cũng bị hạ vì 1 quả mìn khác. Viên đại đội trưởng vội lên cứu nhưng dính bẫy mìn thứ 3 và bị thương luôn.

    Barsanti liền mắng người chỉ huy đại đội : "Đại úy, cậu thật là ngu đ-éo chịu được vì đã làm như thế. Phải cho cậu ra tòa án binh mới đúng. Cứu lính đâu phải việc của cậu?"

    Rồi Barsanti dúi cho viên đại úy tấm huân chương Sao bạc cùng lời bình luận: "Nhưng mà cậu cũng dũng cảm đ-éo chịu được."

    Lanahan cũng được thêm 1 huân chương Sao bạc trong 1 trận đánh khác ở ngoài Biên Hòa trong dịp Tết. Người sĩ quan tùy viên sau này kể lại: "Chẳng phải do lập thành tích đặc biệt gì cả mà là do Barsanti đưa cho, vậy thôi. Ông tướng hẳn cũng thấy vẻ bực bội của tôi sau khi thổ lộ triết lý sống của mình. Ông nói: 'Cậu biết đấy, Lanahan ạ. Có thể cậu thấy ko xứng đáng nhận huân chương vào lúc ấy nhưng có khi, lúc đang ở đây cậu lại xứng thì sao?'. Ông ta nên trao nó cho đám lính lác. Những cậu nhóc gian khổ ngoài kia mới là những người thật sự xứng để nhận..."
    Khoam, altair, samuelb6 người khác thích bài này.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Tướng Barsanti có thể là 1 người cha chân thành, hồn hậu, hay pha trò thân mật khi tới thăm các đơn vị và có lúc còn thi vật tay với đám lính đang mắt chữ O mồm chữ A nữa kia. Nhưng còn có 1 Barsanti nữa. 1 con người khác hoàn toàn. Chuẩn tướng Frank B. Clay phó tư lệnh sư đoàn dù 101 nói: "Ông ta nổi cơn xung thiên 1 ngày đến 3-4 bận. Khi đã nổi cơn lôi đình thì cách cư xử của ông khá là tàn bạo." Khi mắng chửi cấp dưới - từ Clay xuống đến thằng lính trơn đen đủi nào đó - Barsanti sùi bọt mép theo nghĩa đen, hệt như 1 gã trung sĩ huấn luyện. Barsanti đã từng lãnh đạo kiểu như tướng Patton, chửi lính vuốt mặt ko kịp, từ hồi Đại chiến TG 2 và chiến tranh Triều Tiên. Sang Việt Nam, tấm lòng cao thượng từng được biết đến dường như đã bay mất hết. "Thay vì vừa sợ vừa yêu [như với tướng Patton], lính tráng vừa sợ vừa khinh ghét tướngBarsanti."Trung tá Phillips, người luôn nhớ rõ ‘mối duyên’ giữa 1 lính dưới quyền với 'Đại bàng anh dũng' kể lại: "Cậu này là 1 lính quân y giỏi, tướng Barsanti rất thích bèn lấy cậu ta làm tài xế riêng." Được thăng từ binh nhất lên trung sĩ, cậu lính quân y trở thành lái xe chẳng hiểu vì sao lại khiến tướng Barsanti phật lòng, nên bị giáng cấp đẩy ra đơn vị bộ binh. Phillips chẳng hề biết tới hoàn cảnh người lính cũ của mình cho đến khi tình cờ gặp lại anh này lúc tới thăm 1 đại đội quân y đóng ở 1 nơi khỉ ho cò gáy mấy tháng sau đó. "Cậu ta đang đổ cát vào bao xây hầm gần chỗ bộ binh ở. Tôi bị sốc trước tình cảnh của cậu ấy. Cậu ta đã hoàn toàn mất tinh thần, nhưng ko phải là do chiến đấu gian khổ quá. Chứng trầm cảm của cậu ta giống y như 1 đứa trẻ bị ngược đãi. Lúc trước tràn trề sinh lực bao nhiêu thì nay cậu ta chỉ còn là 1 kẻ thất bại, vô cảm, ngơ ngơ ngác ngác. Chỉ thuần túy là tên lao công, phục dịch chứ chẳng phải là lính chiến nữa."

    Bộ tham mưu sư đoàn luôn phải sống trong tình trạng thần kinh cực kỳ căng thẳng. Những bữa ăn chung với ông tướng đều diễn ra im thin thít vì chỉ 1 lời nói vô ý cũng có thể khiến Barsanti trút cơn thịnh nộ. Trung tá Phillips kể: "Dù đồ ăn rất ngon nhưng không khí trong bữa cơm hết sức ảm đạm, nặng nề và lố bịch. Rốt cục món nào cũng trở thành khó nuốt cả."

    1 sĩ quan cao cấp cho hay, có lần 1 sự im lặng đầy tức giận "đã bao phủ lên bữa ăn khi Barsanti lôi mấy hạ sĩ ra chửi nhứ tát nước vào mặt chỉ vì họ hồ bột lên quần áo ông ta quá nhiều."

    Cảnh này 'dã man' đến độ trung tá Charles "Chargin' Charlie" Beckwith, trưởng ban tình báo sư đoàn - người sau chỉ huy vụ giải cứu con tin tại Iran – đã đứng bật dậy, mắt vằn tia máu đỏ dường như có ý nện Barsanti.

    Tướng Clay huých vai Beckwith quát: "Ngồi xuống, anh bạn. Từ từ rồi nói."

    Đại tá Talion tình cờ tìm ra bí mật giải thích sự hung dữ của Barsanti khi ông cần lấy thứ gì đó ở bàn sư trưởng lúc vị này ra ngoài chiến trường. Sau khi đã xin phép, Talion mở bàn Barsanti ra và giật nảy mình khi thấy nguyên cái ngăn kéo chứa đầy 1 loại thuốc đóng chai. Talion gọi cho bác sĩ trưởng hỏi: "Thứ quái quỉ này dùng làm gì vậy?'

    Phillips thở dài: "Anh chẳng muốn biết đâu."

    "Tôi phải biết. Đôi khi tướng quân tỏ ra thậm vô lý."

    "Ông ấy bị ung thư dạ dày" Phillips nói. "Có loại thuốc ấy giúp trung hòa axit, ông ấy mới làm việc được."

    Talion choáng váng. Tuy 1 phần dạ dày của Barsanti đã bị cắt bỏ, nhưng ông ta vẫn giấu kín. Chỉ có Phillips và Lanahan là biết tình trạng bệnh tật của ông khi sư đoàn được triển khai đến VN. Với tình trạng này, tướng Barsanti - chịu đau đớn khủng khiếp và luôn cáu kỉnh - lẽ ra đã bị cấm sang VN. Ông chỉ còn sống được có 5 năm nữa. 1 chỉ huy kỵ binh tăng phái, nói lý do mà Đại bàng anh dũng thường xuyên sử dụng trực thăng chỉ huy của mình bay trinh sát ở vùng thung lũng A Sầu thế này: "Khi biết mình bị ung thư, tôi nghĩ ông mong mình sẽ được chết ở VN. Ông cứ cho tàu sà thật thấp dưới lằn đạn của bọn địch từ những khu rừng trên sườn núi 2 bên bắn xuống..."

    Trung tá Phillips thì nghĩ bệnh ung thư chỉ là yếu tố phụ thêm chứ ko phải là căn nguyên của thói nóng giận của tướngBarsanti. Ông viết "Nhiều chỉ huy cùng sĩ quan tham mưu cấp cao biết tướng Barsanti có bệnh tâm thần nhưng khó biết là mức độ nào. Quan điểm của Phillips là sư trưởng bị chứng tâm thần lưỡng cực vừa hưng cảm vừa trầm cảm (manic-depressive), điều này lý giải sự 'thay đổi tâm trạng đột ngột' cũng như những 'hành động thái quá, liều lĩnh đến khinh suất và rồi chán ghét mọi thứ.' Những lời bàn tán về vấn đề trên khá là nhạy cảm và chỉ diễn ra giữa những nhóm bạn thân thiết, đáng tin cậy nhất."

    Đã có lúc, Phillips phải nói với sư đoàn phó Clay về Barsanti " Quyết định nào của ông ấy, Sếp cũng đừng bỏ sót mà chưa ngó qua nhé". Đồng thời, viên bác sĩ trưởng cũng bị 1 "nhóm sĩ quan cấp cao tiếp cận, yêu cầu y tế tìm cách đưa tướng Barsanti đi chữa bệnh tâm thần".Phillips cho rằng cố gắng nhằm hạ bệ sư trưởng sẽ "là chỉ đem lại thất bại trước những người chống lưng cho Barsanti ở bộ Quốc Phòng mà thôi. Tôi khuyên họ tốt nhất nên tin vào sự thông tuệ của tướng Westmoreland, người thường xuyên tới thăm các sư đoàn. Chắc chắn ông ta sẽ nhận ra tình trạng ấy và có cách khắc phục."

    Và những gì xảy ra sau này cũng đúng là như thế. Nhận thấy Barsanti 'là sư đoàn trưởng mà nóng tính quá' nên Westmoreland đã 'xin Tham mưu trưởng Lục quân thuyên chuyển ông ta sang vị trí khác, ngoài quyền chỉ huy của tôi'. Barsanti được đổi đi trong 1 buổi lễ trịnh trọng, vẻ vang tháng 7 năm 1968, sau gần 1 năm ở với sư đoàn. Tuy sư đoàn mới sang VN được 7 tháng nhưng quyết định của Westy rất rõ ràng. Vị Đại tá trung thành Talion nói:"Barsanti chỉ huy sư đoàn bằng kỹ năng xuất sắc. Có thể ông bị 1 số người xuyên tạc nhưng tôi nghĩ cũng chẳng ảnh hưởng gì lớn vì trận nào ông ấy cũng đánh thắng. Ông đã hạn chế tối đa thương vong, làm mọi viện diễn ra đúng trình tự, một cách mạnh mẽ và chuyên nghiệp. Chúng tôi chẳng thèm quan tâm cái thiểu số ghét ông ấy."
    Khoam, altair, samuelb5 người khác thích bài này.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Nhưng nhiều người khác lại nghĩ thắng trận chẳng phải là công của Barsanti. ‘Đại bàng anh dũng’ được thay bằng vị thiếu tướng lịch lãm, tài ba Melvin Zais, 1 lính dù kỳ cựu người đã "thay đổi mọi thứ, gầy dựng lại sự gắn kết giữa mọi người" như 1 sĩ quan cao cấp phát biểu.

    Trước khi sư trưởng được thay đi thì vai trò của chuẩn tướng Clay là tối quan trọng. Talion nhấn mạnh: "Clay được cả sư đoàn quí mến". Tuy nhiên, Barsanti lại chẳng muốn có sư đoàn phó nào hết. Do nghĩ rằng để bổ sung cho các huấn lệnh mình ra chỉ cần tham mưu trưởng là đủ nên ông ta đối xử với Clay rất cục cằn, thô lỗ. Clay vẫn ‘lịch sự’ nhất quyết làm phần việc của mình. Trung úy Paul Robblee, sĩ quan tùy viên của sư đoàn phó nói: "Clay coi sư trưởng như ruột thịt. Tôi nhớ mình cũng từng nịnh sếp kiểu như 'Sếp là vị tướng dân chủ cuối cùng, là người duy trì sự đoàn kết trong sư đoàn.' Clay tỏ vẻ khó chịu khi nghe thế. Ông nói: 'Tôi là gã độc tài tệ hại nhất cậu từng biết'". Robblee nhớ lại: "tôi chưa bao giờ thấy mặt trái của ông ấy". Đó chẳng phải mẫu người để mắng chửi người khác. Ông tiếp sinh lực cho mọi người, là trái độn giữaBarsanti với cấp dưới. Clay biết từ lữ đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng cho đến những chỉ huy đại đội , trung đội vì bất cứ khi nào có đụng độ thì ông lập tức có mặt để hỗ trợ, dù là trên trực thăng chỉ huy hay là dưới mặt đất."

    Cuộc phản kích chống lại những đơn vị địch tấn công sân bay Biên Hòa của sư đoàn là do lực lượng tiểu đoàn 2, trung đoàn 506 của trung tá Grange đảm nhiệm. Đơn vị xuất phát ngay trong đêm, từ căn cứ Phước Vĩnh, ở vùng chiến khu D. Trung úy J. Keith Kellogg , chỉ huy trung đội thám sát kể: "tôi chẳng bao giờ quên được cảnh đang ngủ trong lều thì bị dựng dậy bảo 'lấy trang bị đê - đang có đánh nhau ở Biên Hòa'. Phản ứng đầu tiên là do dự. Năm nào cũng ngưng bắn dịp Tết mà? Biên Hòa là hậu cứ của sư đoàn đó thôi? Thật chẳng tài nào hiểu nổi? Tôi cứ tự vấn: Chúng làm gì sư đoàn mình vậy?"

    Các đại đội A và B cũng phải lên đường. Trung úy Richard L. St. John , đại đội phó đại đội B, tiểu đoàn 2, trung đoàn bộ binh dù 506 kể: "Nhìn lính tráng xếp hàng cạnh sân bay để trực thăng vận về Biên Hòa, tôi mở đài bán dẫn bắt đài phát thanh quân đội nghe thử. Quá trời tin báo bị tấn công. Huế bị đánh! Sài Gòn bị đánh! Biên Hòa bị đánh! Dường như cả nước đều đang rực lửa..." Thêm vào đó là cảnh vị tuyên úy Công giáo của tiểu đoàn đang ban phước trong bóng tối cho những người lính đi qua nữa. Trung tá Grange nghĩ người đại úy già này quả là vị tuyên úy tuyệt vời, luôn đem lại cho binh sĩ cảm giác an lành. Ông từng là lính dù của tiểu đoàn hồi ở Bastogne. St. John nói: "Tuy nhiên, do ai cũng căng thẳng vì sắp phải đi nên việc ban phước vị tuyên úy cũng chả có hiệu quả mấy. Rốt cục trung tá phải bảo ông ta ra sau cái cây làm phép cho khuất mắt."

    Trung tá Grange được trực thăng chở tới Sư đoàn bộ vào tảng sáng, trước các đại đội dưới quyền để họp với sư đoàn trưởng. Grange kể: "Barsanti đúng là 1 chiến binh. Chưa ai từng chửi tôi dữ như thế nhưng tôi biết ông ta tôn trọng mình và tôi cũng rất quí ổng."Buổi họp diễn ra khá kỳ cục. Từ ngoài hiên chỗ nhà ăn của ông tướng. Barsanti có thể chỉ thẳng về mục tiêu, làng Đồng Lách, nơi có thể nhìn thấy địch rút lui nhìn như những chấm đen trên trảng cỏ". Trực thăng Cobra đang quần đảo trên đầu bọn họ. Trong khi ấy, tiểu đoàn ‘thiếu’ cũng đang được trực thăng đưa xuống bãi đáp gần khu nhà ăn. Barsanti cùng Grange tới nhập chung với số quân chắp vá của Tallon nơi cửa đông. Cuộc tấn công đã bắt đầu. Grange nhớ rõ: "Barsanti đứng bên cổng, nói những lời động viên lúc chúng tôi đi qua." Ban chỉ huy và Grange đi cùng với trung đội dẫn đầu ra khỏi lũy theo lối đi cắt qua bãi mìn cùng các lớp rào kẽm gai. Grange kể: "Chúng tôi ‘vồ’ được 2 ổ súng máy 12,7mm ngay bên ngoài. địch đang lo rình bắn máy bay nào cất cánh từ sân bay lên. Súng được phương ngụy trang rất khéo, sơn màu xanh lá, nấp sau mấy ngôi mộ trong khu nghĩa địa sát cạnh hàng rào. Do có bãi mìn nơi nên nơi đây chẳng có người lai vãng, cỏ mọc cao vút, rất khó phát hiện. Chúng tôi bắn trước, diệt gọn tại chỗ."

    Grange cùng đại đội đi đầu là đại đội A, tiểu đoàn 2, trung đoàn 506 của trung úy Ronald H. Darnell, đang vượt qua khu đất trống tiến xuống phía nam thì bị địch từ mặt bắc Đồng Lách bắn mạnh. Grange kể: "Chúng tôi tản khai dùng các tổ đại liên yểm trợ cho các tiểu đội xung phong." Trong dịp Tết, ông được tặng thưởng huân chương Sao Bạc. Theo quan sát của Kellogg, chỉ huy trung đội thám sát thì: "Cứ có đánh nhau là có mặt Grange. Đó lý do vì sao chúng tôi rất quí ông ấy. Chẳng thấy bao giờ ông ngồi trực thăng bay vòng vòng cách đất cả cây số chỉ đạo 'làm thế này, làm thế kia' như hầu hết các tiểu đoàn trưởng khác".

    Grange là 1 trường hợp nổi bật giữa 1 sư đoàn đầy rẫy 'siêu sao'. Sau ông nghỉ hưu với hàm trung tướng. Là con trai của 1 phu khuân vác ở thành phốNew York, ông từng chiến đấu khắp châu Âu trong trung đoàn dù 517, với cấp bậc binh nhì. Sau khi đi học sĩ quan, ông chỉ huy 1 trung đội , rồi 1 đại đội bộ binh, phục vụ 2 tua chiến đấu ở chiến trường Triều Tiên. Tại VN ông chiến đấu 3 lượt. Đầu tiên làm cố vấn, sau đó là tiểu đoàn trưởng rồi lữ đoàn trưởng của sư dù 101. Tướng Clay đã khen ngợi người chiến binh tài ba, điềm đạm, kiên cường này như sau: "Dave Grange là 1 quân nhân xuất sắc toàn diện. Anh thường vác điện đài sau lưng, hành quân bộ cùng các chỉ huy đại đội để có thể nắm tình hình của họ 1 cách sâu sát nhất, mọi nơi, mọi lúc"

    Trong khi đại đội đi đầu tấn công trực diện từ phía bắc xuống, trung tá Grange lệnh cho trung đội thám sát ra phía tây Đồng Lách lập chốt chặn. Trung úy Kellogg nhớ lại: "Vừa mới di chuyển chưa kịp ra khỏi vòng rào thì đạn đã bay sát sạt đến độ tôi cùng trung sĩ trung đội phó phải nằm dí mũi xuống đất." Cắt qua đầu đông phi trường, lính thám sát bắt gặp khoảng chục xác bộ đội nằm rải rác dưới mương nước mà họ dùng để ẩn nấp. Vừa lên khỏi cái mương, toàn trung đội bị đạn bắn dữ dội, có lẽ là của cả đối phương lẫn lính An ninh phi trường, khi đó đang vượt trảng cỏ truy quét địch. Họ sau cũng tới được vị trí lập chốt chỗ gò đất nhỏ, đầy cỏ lác gần hàng rào. Từ trên này Kellogg có được góc nhìn bao quát, anh kể: "Lúc này đã có 1 số VC ngừng đánh cố gắng thoát khỏi ngôi làng đang có đụng nặng. Địch bị bất ngờ, và lính của tôi tuy chẳng dễ dàng gì cũng hạ được kha khá. Vì bị lộ nên chúng tôi cũng bị vài phát đạn bắn trả."
    Khoam, altair, samuelb5 người khác thích bài này.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Trực thăng chỉ huy của Barsanti thì nã đạn xuống số du kích quân đang rút theo các hướng đông, nam. Cùng lúc đó, đại úy Freddy D. Rankin cùng đại đội B, tiểu đoàn 2, trung đoàn 506 cũng đã chiếm lĩnh xong vị trí chốt chặn ở phía nam Đồng Lách. Lực lượng tác chiến giờ gồm cả 2 trung đội thuộc đại đội A, tiểu đoàn 3, trung đoàn 5 Kỵ binh, sư đoàn 9 của đại úy Ralph B. Garretson nữa. Đơn vị này đang làm nhiệm vụ bảo vệ 1 pháo đội tại căn cứ hỏa lực Apple nằm trên quốc lộ 1 (tức quốc lộ 1K hiện nay.ND), cách phía đông Biên Hòa 30 cây số. Được điều tới sân bay từ rạng sáng, Garretson, 1 quân nhân thông minh, sắc xảo xuất thân từ học viện West Point, để căn cứ Apple lại cho 1 trung đội rồi cùng 2 trung đội kia mở hết tốc độ theo quốc lộ thẳng tiến. Đó là 1 hành trình khá nguy hiểm. Dù bị bắn từ hầu hết các thôn ấp cặp theo xa lộ nhưng đoàn xe vẫn lừ lừ tiến, ko bị tổn thất gì, đại liên trên xe bắn tan nát, san bằng những ngôi nhà lá 2 bên đường. Chiếc xe tăng dẫn đầu vừa mới qua cái cầu bê tông nhỏ thì địch chẳng biết nấp chỗ nào đã điểm hỏa khối thuốc nổ cầu dưới nhịp cầu, đánh sập nó. Tuy số xe tăng còn lại trong đoàn bị kẹt lại đầu bên kia của cây cầu sập chẳng thể nào lội qua con rạch đáy toàn bùn lầy này được vì quá nặng nhưng các xe bọc thép vốn nhẹ hơn thì vẫn vượt qua rồi lên lại mặt đường tiếp tục đua tới Biên Hòa.

    Trung tá Hugh J. Bartley, tiểu đoàn trưởng, bay trên trực thăng H23 theo sát đoàn xe như hình với bóng. Vị chỉ huy xuất thân West Point này cũng có chuyến phi hành nguy hiểm chẳng kém. Sau khi cất cánh từ sở chỉ huy ở căn cứ Blackhorse, khi Bartley bay ngang qua căn cứ Long Bình - nơi mà đại đội A, tiểu đoàn 3, trung đoàn 5 Kỵ binh bên dưới đang cố tốc chiến vượt qua ngôi làng án ngữ ở đầu bắc căn cứ - thì đặc công giải phóng lại làm nổ tung 1 phần kho đạn. Chiếc trực thăng trinh sát nhỏ bé của Hartley bị vụ nổ khủng khiếp hất lên cao đến 60 thước rồi rơi thẳng xuống cả 150m trước khi viên phi công lấy lại được quyền điều khiển. Sau khi biết mình hãy còn sống, Bartley giương mắt hãi hùng nhìn đám mây khổng lồ hình nấm bốc lên từ căn cứ. Ông buột miệng nói vào chiếc điện đài nối với sở chỉ huy "Chúa ơi! Các cậu phải đến đây mà xem này!"

    Đòan xe của đại úy Garretson theo đường xa lộ xộc thẳng vào phía đông thành phố Biên Hòa. Chiếc xe tăng dẫn đầu ko thèm giảm tốc mà cứ lao đến khiến cho 1 đám đông ở chợ phải dạt ra tránh đường. Khi trung đội đi đầu tiến vào giữa đám người thì lính Mỹ mới phát giác hóa ra đó chẳng phải dân thường mà lại là những bộ đội đang há hốc mồm vì ngạc nhiên. Đối phương nhanh chóng trấn tĩnh, dùng RPG bắn liệt ngay 2 xe bọc thép. Số xe hỏng này lập tức bị trung đội 2 , khi ấy đang tiến vào chợ dưới làn đạn dày đặc ủi dạt ra khỏi đường. 2 tổ lái bị mất xe được cứu thoát. Đoàn xe rẽ lên hướng bắc, theo 1 đường nhánh dẫn đến Đồng Lách. Khi Bartley bay lên trước để trinh sát, ông phát hiện địch đang phục kích trong các mương rãnh 2 bên đường. quân giải phóng nổ súng bắn máy bay, Bartley cố dùng CAR 15 áp chế để phi công ngoặt tránh nhưng 1 viên đạn 'ăn may' đã cắt đứt ống dẫn nhiên liệu buộc họ phải đáp xuốn khu vực tương đối an toàn gần đó. Trong khi trực thăng chao đảo, Bartley báo cho Garretson biết có phục kích. đại đội A rời đường, chạy song song với mặt lộ, xe tăng, xe bọc thép cứ thế vừa càn qua vừa nã đạn xối xả vào sau lưng đối phương. Lực lượng này sau đó bắt tay với đại đội B, tiểu đoàn 2/ 506 bộ binh ở dưới Đồng Lách. Lúc này trung tá Bartley đã đổi sang chiếc H23 khác chỗ cây cầu trên quốc lộ 1, đoạn giữa Long Bình Với căn cứ hỏa lực Apple. Chiếc trực thăng thay thế thuộc đại đội D ở căn cứ Bear Cat. Sau khi phi công của chiếc H23 bị thương lái nó bay đi, vừa chuẩn bị lên 'con chim sắt' mới thì Bartley thấy 1 xe tải 5 tấn chở đầy lốp ô tô bỗng xuất hiện trên xa lộ, hướng về phía đông. Tài xế là lính của trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11, đơn vị này có các bộ phận hậu cần đóng tại căn cứ Blackhorse. Tay lính Mỹ đơn độc đang trên đường từ Tổng kho Long Bình hoặc Sài Gòn quay về. Tuy nhiên chuyến về lần này đâu có còn êm ả như lúc anh ta đi ngày hôm trước. Gã dừng xe rồi quát Hartley: "Này sếp. Chuyện quái gì vậy?"

    Bartley kêu lên: "Cuộc chiến tranh chết tiệt này lại trở nên ác liệt rồi đó! Quành về căn cứ hỏa lực Apple đi. Hãy theo đường này đi khoảng 1 dặm nữa rồi ở yên đó chờ mọi việc lắng xuống."

    Tên nhóc nhăn nhó: "Chúa ơi, sếp. Nhưng mà trung sĩ Smith - trung sĩ phụ trách việc sửa chữa xe cơ giới thuộc trung đoàn 11 - đang cần số lốp này lắm lắm."

    Dù Bartley đã cố bảo tay lái xe rằng với tình hình này thì viên trung sĩ đành phải chờ vậy nhưng anh ta vẫn nói: "Sếp, ông chưa biết trung sĩ Smith đó thôi. Nhất định phải chở số lốp này về Blackhorse mới được."

    Bartley kiểm tra lại tình hình rồi để cho tay tài xế đi. Trong khi đó đại úy Garretson cùng đại đội A, tiểu đoàn 3/ 5 Kỵ binh đang đọ súng dữ dội với đối phương ở Đồng Lách. 2 trong số 8 xe bọc thép còn lại đã bị bắn hỏng. Cỗ xe tăng duy nhất bị trúng đạn RPG nhiều đến nỗi tổ lái đã 2 lần phải thay người. 3 lính Mỹ tử trận, 24 bị thương. (tướng Barsanti ấn tượng với sự chiến đấu gan lỳ bên cạnh lính dù của Garretson đến độ tặng anh này huân chương sao Bạc ngay trong đêm. 2 tháng rưỡi sau đó, khi cần lấy 1 đại đội thiết kỵ tham gia yểm hộ lính sư đoàn 101 đánh vào thung lũng A Sầu, Bartley ko chọn đơn vị nào khác ngoài đại đội A. Barsanti mừng ra mặt trong cuộc họp khi nghe giới thiệu Garretson sẽ là chỉ huy lực lượng Kỵ binh tăng phái. Ông bảo: "Garretson, xách đít lên đây!". Người đại úy tuân lời. Anh xấu hổ cố tránh ánh mắt đầy bực tức của những vị chỉ huy lữ đoàn, tiểu đoàn đang tập trung ở đó khi bị Barsanti bẹo má theo kiểu Ý, miệng gào toáng: "Garretson. Thấy cậu tớ mừng quá. 2 đứa mình sẽ cho đám bất tài này biết thế nào là chiến đấu!")
    Khoam, altair, samuelb5 người khác thích bài này.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Có 2 lính dù của đại úy Rankin bị giết ở mặt nam của Đồng Lách. Còn tại mặt bắc thì súng vẫn nổ liên hồi. Trung tá Grange kể : "Chúng tôi bắn, địch bắn, thiết giáp thì nhả đạn. Càng tới gần cái làng chết tiệt ấy thì càng phải mọp sát đất. Chỗ ẩn thân duy nhất chính là cái bờ ruộng bé tí cao tầm 30-60cm." đại đội chủ công của ông là đại đội A, tiểu đoàn 2/506 ko những bị ăn đạn của quân địch mà còn bị lực lượng Mỹ chốt chặn ở mặt bên kia ngôi làng bắn tới nữa. Hầu hết mọi rắc rối đều đến từ số du kích nấp trong và xung quanh những căn nhà lá ở rìa bắc Đồng Lách, tuy nhiên 1 trung sỹ kỳ cựu của trung đội đi đầu cũng vận động từng chặng ngắn lên đủ gần và hạ được 13 lính địch bằng lựu đạn và súng M16.

    Bản thân người trung sĩ bị giết chết nhưng thiếu úy Sam H. Galloway, trung đội trưởng, người đã dẫn đơn vị xung phong vào khu vực này sau đó mới là kẻ có Huân chương chữ thập Biệt công bội tinh. Với Grange thì anh này được tặng là vì: "theo như tôi hiểu, Gralloway đã xông vào căn nhà lá có 1 VC nấp trong cái hố dưới tấm phản. Dân vẫn thường hay đào hầm trú ẩn dưới chỗ ngủ như thế. Galloway vừa vào tới cửa thì bị ăn đạn."

    Trung tá Grange đành phải thu quân về. Đã có 4 lính dù tử trận cùng hơn chục người khác bị thương ở mặt bắc Đồng Lách. Tới lúc này thì đại táLawrence L. Mowery, lữ trưởng củaGrange cũng tới. Vị đại tá từng tham gia 3 cuộc chiến tranh này đã rời trực thăng chỉ huy, bò tới cái mả mà ban chỉ huy tiểu đoàn đang dùng làm chỗ nấp, sát với tiền duyên. Grange muốn gọi máy bay không kích nhưng Mowery phản đối: "Không. Sử dụng pháo binh hay hơn. Với kẻ thù đang ở chính giữa 2 đại đội quân ta thì dùng máy bay nguy hiểm lắm." Tuy nhiên Grange đã ở ngoài tầm bắn của pháo đội yểm hộ trực thuộc trong khi ông lại chẳng muốn sử dụng các đơn vị pháo hiện có của Lực lượng dã chiến II tí nào. Sân bay Biên Hòa hiện đã hoạt động lại và Grange tin những chiếc phản lực F-100 có thể ném bom phá trúng ngay khoảng trống giữa 2 đơn vị kia. Grange nói: "Cứ phải bàn cãi mãi thôi. Đơn vị Pháo binh ở Long Bình vốn có thể bắn tới chỗ chúng tôi lại ko có tiền sát pháo binh đi kèm nên tỏ ra khá cứng đầu. Nhưng rồi cuối cùng thì họ cũng tác xạ tuy chẳng tin mấy vào những hướng dẫn của chúng tôi. Quả đạn chết dẫm đầu tiên rơi xuống trước mặt tôi cùng lữ trưởng chỉ tầm 20 thước. Ơn Chúa là nó lại bị lép."

    Grange quay qua hỏi Mowery vẻ tự đắc xem liệu vị đại tá giờ đã đồng ý dùng không yểm hay chưa? Mowery đành bật đèn xanh, và trong khi 4 chiếc F-100 bay thấp, xẹt tới trong ánh hoàng hôn thì Grange tung lựu đạn khói đánh dấu vị trí mình. Vị tiểu đoàn trưởng kể: "Họ dùng bom phá với cả napalm. Thật đáng đồng tiền bát gạo. Lửa napalm bén ngay vào mái lá. Cả ngôi làng nhỏ liền bị thiêu sạch." Hầu hết dân làng đều đã rời khỏi khu vực. Khi càn quét đống tro tàn, lính dù bắt được 16 người và ‘đếm xác’ được 106. Sau họ rút ra lập chu vi phòng thủ cạnh ngôi làng hãy còn nghi ngút âm ỉ khói để nghỉ đêm. Trận đánh tàn lụi dần trong ánh pháo sáng. Toán tiếp tế khi băng qua bãi mìn căn cứ ra tới đường vẫn bị 1 bộ đội ém tại 1 ngôi mộ dùng súng AK-47 bắn. Lính Mỹ dùng lựu đạn bắt anh ta phải im tiếng. Ở phía tây, trung úy Kellogg cùng 1 tiểu đội giữ cái gò trong khi 2 tiểu đội còn lại tổ chức mai phục dọc theo con suối nhỏ chạy ngoằn ngoèo ra khỏi đầu đông căn cứ. Lính dù Mỹ nấp kín trong đám cỏ voi đã bắt gặp nhiều tốp du kích định men theo dòng suối rút ra ngoài. Cứ chừng 20-30 phút là tiếng súng lại rộ lên, rồi sau đó là tiếng báo thì thầm qua điện đài kiểu "Chúng tôi mới lượm 1 tên nữa" hay " chúng tôi vừa hạ thêm được 2...".




    12


    'Qui hoạch Đô thị'


    Đêm hôm ấy trung đội của trung úy Kellogg đã hạ sát được khoảng 20 địch quân tụt hậu. Sáng ra đơn vị của anh bị tốp địch cuối cùng nấp trong xóm nhà lá cách phía đông sân bay 300 thước nhắm bắn. Kellogg nhớ lại: "Tuy địch ko bắn liên tục nhưng chỉ cần ngóc đầu lên là đạn bay đến ngay. Bọn tôi chỉ biết nằm rạpbắn trả. Lính anh từ trên gò nã đạn M60, rót M79 về phía mấy căn nhà. Tới khi 2 trực thăng Cobra bay tới chi viện cho Kellogg thì súng địch cũng bắt đầu ngớt. Dù vậy anh vẫn chỉ dẫn cho các phi công tiến vào công kích. Kellogg kể: "Tôi đã quá mệt mỏi. Chỉ mong sao diệt hết cái xóm thổ tả đó và kết thúc mọi chuyện."

    Tốp trực thăng vũ trang lập vòng sau gò đất rồi tiến vào công kích ngay trên đầu trung đội thám sát. Chiếc Cobra vào công kích lượt thứ 3 hay thứ 4 gì đó đã phóng 1 quả rocket xuống ngay chỗ trung đội Kellogg. Kellogg khi đó đang quan sát chiếc trực thăng, chẳng tài nào biết được đó là do phi công nhầm lẫn hay rocket bị trục trặc - vội hét lính nằm xuống còn mình thì lăn đi tìm chỗ nấp. Vừa lăn anh vẫn giữ chặt cái điện đài. Chỉ mấy tíc tắc sau khi quả rocket lạc địa chỉ chạm đất tạo nên 1 cơn mưa đất đá cách chỗ mình tầm 15m bên tay phải, anh đã gào lên báo cho tay phi công biết sai lầm ngớ ngẩn vừa rồi.

    "Chúa ơi! Làm thế nào bây giờ?" Viên phi công hỏi giọng đau khổ.

    "Đ-éo. Quá muộn rồi. Chả còn gì cứu vãn nữa" Kellogg chửi và lập tức hủy bỏ nhiệm vụ không yểm.

    1 trinh sát viên hoảng loạn mếu máo nói với người lính cứu thương rằng mình chẳng nhìn thấy gì nữa. Trung sĩ Philip M. Germain đã thiệt mạng vì 'hỏa lực bạn'. Binh nhất Norton Z. King, 1 cậu nhóc da đen vừa gia nhập trung đội hồi tuần trước cũng vậy. Germain là người cuối cùng trong số 3 tiểu đội trưởng ban đầu của Kellog. Trong lần giao tranh đầu tiên của trung đội ở chiến khu D, 1 người đã tử trận còn người kia thì mất 1 mắt. Kellogg kể: "Máy bay vừa đánh xong thì giao tranh cũng đột ngột kết thúc. Chúng tôi được lệnh quay về sư bộ." Nhìn đám lính dưới quyền lê bước trên con đường nối giữa 2 căn cứ mà Kellogg chẳng còn nhận ra họ nữa. Anh nhớ lại: "Chúng tôi đã phải chứng kiến cái chết của các chiến hữu 2 lần trong vòng 2 tuần. Đơn vị chúng tôi có đức tin rất khác nhau. Cha tuyên úy đã tổ chức 1 buổi lễ đột xuất khi chúng tôi trở về. Do trung đội có nhiều người không theo Công giáo nên tôi cũng chẳng bắt họ phải dự lễ bao giờ. Nhưng hôm ấy thì toàn thể trung đội đều tham gia hành lễ. Chúng tôi trở về là 1 trung đội và sẽ dự lễ như là 1 trung đội. Tự nhiên mọi người bỗng trở nên cực kỳ gắn kết."
    Khoam, altair, samuelb5 người khác thích bài này.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Căn cứ không quân giờ đã an toàn. Việc giải tỏa thành phố Biên Hòa được giao cho tiểu đoàn 3, trung đoàn 11 Kỵ binh thiết giáp của trung tá Neal Creighton. Cuộc phản công bắt đầu sau 1 minh chứng đáng nể về sức cơ động của Hoa Kỳ khi nổ ra cuộc tổng tiến công Tết. Creighton đang đóng sở chỉ huy tại Lộc Ninh, dưới sự điều động của sư đoàn 1. Đây là vùng chuyên canh cây cao su nằm trên quốc lộ 13 cách Sài Gòn 110km về phía bắc. Các cuộc hành binh trên khu vực này đột ngột bị hủy bỏ vào giữa buổi sáng khi trung đoàn hạ 1 lệnh vừa mơ hồ vừa khẩn trương cho Creighton bảo "trở về Sài Gòn càng nhanh càng tốt". Với 1 đại đội đã bị lấy mất và đại đội thứ 2 thì ở lại để bảo vệ hậu cứ Lộc Ninh, tiểu đoàn 3/11 Kỵ binh thiết giáp tiến xuống đường 13 lúc 1 giờ trưa. Sau khi đoàn xe bị vài phát bắn tỉa dưới An Lộc thì cũng là lúc các bộ phận còn lại của trung đoàn, cũng vội vã rút khỏi vùng chiến khu C, gần biên giới Campuchia. Creighton cùng sĩ quan hành quân của mình là thiếu tá John H. Getgood đã hẹn nhau đáp trực thăng H23 xuống Lai Khê đổ xăng và để "trao đổi với nhau tình hình đang diễn ra vì chẳng kiếm được thông tin gì từ sư đoàn 1 bộ binh cả" như Creighton đã viết trong báo cáo sau trận đánh. Tuy nhiên Getgood lại viết rằng: "vừa mới gặp nhau ở bãi đỗ trực thăng thì đạn cối bắt đầu rót xuống phi đạo. Chúng tôi lao xuống cống nấp dưới cái rãnh nhỏ. Đạn cối rơi không nhiều, chỉ khoảng độ chục quả nhưng báo hại phi công của tôi phải mất thời gian kiểm tra kỹ chiếc trực thăng vì 'cái bong bóng' đã bị thủng 1 lỗ cùng nhiều vết trầy xước."

    Đại tá Jack MacFarlane, trung đoàn trưởng, triệu tập các chỉ huy tiểu đoàn về họp ngay trên đường 13, đoạn dưới Lai Khê. Các tiểu đoàn 1 và 2, trung đoàn 11 Kỵ binh thiết giáp sẽ tiến đến Long Bình; tiểu đoàn 3/ 11 thì tới bộ tư lệnh quân đoàn III VNCH đóng tại Biên Hòa. Trung tá Creighton, thành viênWest Point ưu tú và là 1 thiếu tướng tương lai, viết: "Tôi được bảo là VC đã tiến đánh bộ tư lệnh quân đoàn trong đêm nhưng vẫn chưa lọt vào khuôn viên nổi. Nơi này hiện vẫn bị vây hãm và tôi sẽ phải đến cứu nó khỏi lọt vào tay quân địch. Lực lượng tấn công sau này được xác định là đại đội 238 bộ đội địa phương. "Nghe có vẻ khó tin". Creighton tiếp tục nhấn mạnh rằng Biên Hòa là "nơi trên đất nước này mà từ sân bay qua thành phố đến Trung tâm bổ sung quân tôi có thể ung dung đi bằng xe buýt. Ko thể tưởng tượng nổi VC lại đánh vào 1 nơi như vậy. Những địch quân tôi từng thấy toàn lẩn lút trong rừng rậm và tác chiến theo kiểu ‘đánh lén’ mà thôi"

    Trung tá Creighton đáp trực thăng bay đến bộ tư lệnh quân đoàn lúc chiều tối. Nhiều xe bọc thép của đại đội A, tiểu đoàn 3/5 Kỵ binh đang đỗ trong sân chính. Ông kể: "Lính tráng mệt nhọc dựa vào xe ngủ hay ngả lưng trên bãi cỏ gần đó. Thậm chí tiếng trực thăng của tôi cũng dường như chẳng khiến họ dậy nổi. Creighton được đưa vào bộ tư lệnh - mấy cố vấn cùng những đối tác VNCH của họ đều trông có vẻ mệt mỏi và lo lắng. Tới tối thì Getgood cũng đến, anh cho biết mọi việc đang rất khả quan. Theo kế hoạch thì 1 cố vấn của quân đoàn sẽ dẫn đường cho đại đội L, tiểu đoàn 3/ 11 Kỵ binh thiết giáp - đơn vị đi đầu, khi nó về tới Sài Gòn rồi rẽ sang hướng đông bắc theo quốc lộ 1 vượt sông Đồng Nai đến Biên Hòa. Creighton rất lo vì người hướng đạo "sẽ đi trên xe đầu tiên và khi hành quân trong bóng tối lỡ anh ta có mệnh hệ gì thì biết làm thế nào? Tôi cứ mường tượng nếu chiếc xe của anh ta mà lãnh trọn 1 quả RPG hoặc trái mìn thì cả đoàn biết đi sao đây? Chiếc H23 của tôi ban đêm chẳng được hữu dụng cho lắm. Nó ko có thiết bị bay đêm. Vì thế nếu bị mất hướng đạo thì toàn bộ kế hoạch sẽ hỏng bét."

    Quốc lộ 1 chạy ngang qua cổng trước bộ tư lệnh quân đoàn và tới 21 giờ thì đoàn xe đến nơi bình an vô sự. Creighton kể: "Dường như những xe chiến đấu bọc thép đi đầu của đại đội L, tiểu đoàn 3/11 Kỵ binh thiết giáp cứ chiếc nào vào là cả vùng đều dậy lên bởi tiếng reo hò. Cả lính Việt Nam lẫn lính Mỹ đều nhảy múa tung tăng, người nọ vỗ vào lưng người kia. Khi xe tăng M48 của đại đội M tới nơi thì tất cả mọi người đều hò hét lạc cả giọng, vẫy tay rối rít khiến tổ lái cũng cảm thấy ngượng.

    Mặt sau bộ tư lệnh tiếp giáp với sân bay. Quân địch trong những ngôi nhà ở 3 phía còn lại đã dùng AK-47 và RPG khống chế khu nhà suốt cả đêm. Tuy ko có thương vong nhưng cũng khiến vài người hút chết. Thiếu tá Getgood nhớ lại: "Sáng ra tôi đang kiểm tra các vị trí thì bị bắn tỉa. Viên đạn bắn trúng khoảng tường ngay phía trên đầu. Tôi rất bất ngờ khi đang đứng ở đó mà xi măng, vữa rơi đầy cả mũ sắt. Viên đạn rơi ngay xuống chân tôi."

    Creighton và Getgood ngủ dưới đất cạnh xe chỉ huy của mình được khoảng 1 giờ đồng hồ thì 1 quả đạn cối rơi xuống sát bên. Creighton kể: "Nó báo hiệu mọi thứ đã bắt đầu nhưng do mệt quá, chúng tôi lại chìm ngay vào giấc ngủ." Đến chiều tối thì 2 trực thăng Cobra bay đến. Hạ sĩ Anthony N. Stanfa, đại đội M, tiểu đoàn 3/11 Kỵ binh thiết giáp nhớ lại: "Phi công phát hiện trên tháp nước thành phố có 1 lính bắn tỉa địch. Tay bắn tỉa rõ là đang nhắm vào chúng tôi. Tốp trực thăng đã nã rocket, đại liên. Tôi còn nhìn thấy anh ta rơi xuống nữa..."
    Khoam, altair, samuelb3 người khác thích bài này.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Sáng ngày 1 tháng 2 năm 1968 (mùng 3 Tết), trung tá Creighton gọi điện cho MacFarlane xin chỉ thị nhưng trung đoàn vẫn phải ở Long Bình để tăng cường. Ông viết: "Họ chẳng biết tí gì về bộ tư lệnh quân đoàn III VNCH cũng như tình hình ở đây cả. Về cơ bản thì trung đoàn bảo tôi cứ tùy cơ mà ứng biến." Sau khi báo cho các cố vấn biết việc sư đoàn dù 101 đã bắt đầu hành quân truy quét ở vùng phụ cận Biên Hòa, vị tiểu đoàn trưởng bay đến bộ chỉ huy sư dù xin chỉ thị của các tướng Barsanti và Clay. Creighton phối hợp với Grange người cũng tới dự buổi họp tại Trung tâm hành quân.Creighton kể "Dave Grange cùng tôi thống nhất ý kiến với nhau rất nhanh chóng." Ông sẽ phái 2 trung đội M113 của đại đội L cùng 1 trung đội xe tăng M48 của đại đội M tiến về phía đông theo xa lộ tới đón lính đại đội B, tiểu đoàn 2/506. Lính dù sau đó sẽ lên ngồi trên xe bọc thép rồi lại xuống xe, bắt đầu tản khai đánh thốc qua thành phố Biên Hòa. Creighton kể: "Thoạt đầu thì lực lượng kết hợp giữa bộ binh và thiết giáp này chỉ đụng độ sơ sơ nhưng khi gần đến mặt tiền bộ tư lệnh quân đoàn III thì địch bắt đầu bắn mạnh. Dường như quân giải phóng đã quyết định trụ lại. Đó là 1 sai lầm nhưng có thể họ cũng chẳng còn cách nào khác vì đường rút lui duy nhất trên xa lộ đã bị 2 tiểu đoàn VNCH bố trí ở phía tây và phía nam bộ tư lệnh quân đoàn III chặn mất."

    Đại úy Donald W. Derrah, chỉ huy đại đội L cho các xe bọc thép M113 của mình nã trọng liên 50 vào các ngôi nhà, hẻm hóc theo chỉ dẫn của đại đội B. Khi nghe báo hỏa lực bắn trả của địch xuất hiện ở ban công các tầng 2, tầng 3 thì anh cảm thấy lực lượng mình dễ bị tổn thương quá. Derrah kể: "Chúng tôi đã cố gắng hết sức nhưng do đường hẹp quá nên hầu như chẳng thể nào xoay xe về hướng kẻ thù được.". Derrah xin phép sử dụng trung đội tăng M48 phối thuộc. Creighton đồng ý và cho rằng: " đã dùng trực thăng thông báo bằng loa cho người VN cả buổi sáng rằng mọi thường dân đều phải rời khỏi khu vực. Rất đông người đã làm theo. Số lượng người ra đi lớn như thế chứng tỏ quân giải phóng ko hề có ý cản trở họ và nếu có dân thường nào còn ở lại khu vực thì chắc chỉ là rất ít."

    Creighton bay phía trên trên chiếc H23 trong khi 5 xe tăng M48 dàn hàng ngang trên đoạn lộ trước mặt bộ tư lệnh quân đoàn III, pháo 90mm chĩa về phía dãy nhà bên kia đường. Creighton kể lại: "Xe tăng bắn đạn chài. Loại đạn chứa đầy những viên bi thép nhỏ. Họ bắn 1 phát vào tầng trệt của 1 ngôi nhà, nó sụp luôn! Chúng tôi ai cũng ngạc nhiên. Chưa thấy ai từng bắn đạn chài vào nhà cửa cả."

    Xe tăng bắn ầm ầm như sấm suốt 5 phút đồng hồ, san bằng hoàn toàn khối nhà đầu tiên của khu dân cư đông đúc, cửa hiệu san sát đâu lưng với nhau đối diện bộ tư lệnh. Creighton kể sau khi xe tăng ngừng bắn thì: "1 số nhà bốc cháy vì VC trữ trong đó nhiều đạn quá. . Ko thấy đạn bắn trả, chỉ còn sự tĩnh lặng và những ngôi nhà đang cháy."

    Do mức độ hủy diệt của pháo tăng quá lớn, Creighton e sẽ phát sinh những hậu quả về chính trị nên cho đến hết trận ko dám dùng biện pháp này nữa. Sau khi cứ mỗi lần bay qua 1 khu vực trong thành phố là chiếc H23 lại bị nhắm bắn, Creighton rốt cục cũng nhận được cuộc gọi của đại úy Donald R. Robison, đại đội trưởng đại đội M, tiểu đoàn 3/11, báo đã xác định chính xác rằng đạn bắn ra là từ 1 nhà thờ. "Robison ở trong xe tăng đã sẵn sàng bắn sập nhà thờ. Anh ta đã thu nó vào kính ngắm và chỉ chờ lệnh là ‘phơ’ ngay." Creighton, người đã khiến Robison thất vọng vì ko cho phép mình bắn kể: "Trận đánh đã sắp kết thúc và những người duy nhất bị cái nhà thờ ấy đe dọa chỉ là tôi cùng với tay phi công. Thế là tôi chùn bước. Tôi nghĩ người VN có thể bỏ qua chuyện vài ngôi nhà bị bắn sập nhưng nếu ta 'quất xụm' 1 nhà thờ thì lại là chuyện khác. Nó sẽ gây nhiều bất lợi cho quân đội. Cứ tưởng tượng báo chí giật tít "Nhà thờ bị lính Mỹ bắn tan tành !!!" mà xem.

    Cho xe tăng tác xạ lúc đầu chỉ là sự phản ứng của Creighton cùng Derrah khi chạm trán với kẻ địch trong khu vực. Việc những ngôi nhà gạch chứ ko phải những túp lều bị san phẳng sau bị chọc quê thành tiểu đoàn 3/11 nay đã chuyển sang công tác ‘qui hoạch đô thị’ rồi.

    Và đã có những hệ quả thật. Lúc chiều tối, khi trung tá Creighton đang ngồi trên 1 cỗ xe tăng thì Wilbur "Coal Bin Willie" Wilson, 1 đại tá nhảy dù hồi hưu tính tình nóng nảy đang phục vụ tại Cơ quan hoạt động dân sự và hỗ trợ phát triển (CORDS) đi tới. Creighton vẫn còn nhớ: "Wilson rất giận dữ với việc dùng xe tăng hồi sáng. Ông ta nói chúng tôi đã phá hỏng hết tất cả những tiến bộ trong nỗ lực của CORDS nhằm phát triển kinh tế VN." Sau 1 ngày dài chiến đấu nay thấy Wilson tỏ ra kích động quá Creighton cũng cương luôn. Ông đáp trả rằng mình cho xe tăng vào trận là để "cứu mạng người Mỹ và với tôi thì trong trường hợp này đó là ưu tiên quan trọng nhất. Wilson uất quá bỏ đi."

    Đó là những va chạm diễn ra điển hình tại VN. Creighton tới là để tiêu diệt quân thù với mức tổn thất hạn chế nhất còn Wilson thì đang cố gắng giành lấy trái tim - khối óc của những người dân mà Sài Gòn đang rất cần nhằm đánh bại VC. Creighton nhận được chỉ thị tới trình diện tướng Weyand vào hôm sau. John Vann, chỉ huy công tác bình định tại Lực lượng dã chiến II đã tức giận báo cho Weyand biết chuyện này. "Cả ông tư lệnh quân đoàn III VNCH lẫn vị cố vấn trưởng đều hết lòng ủng hộ những gì tôi đã làm. Vị cố vấn nói tôi đừng lo ông ta sẽ đi tới nói chuyện với tướng Weyand ngay." Creighton tới văn phòng của ông tướng và được gặp cả 2 'người bảo kê' cho mình tại đó. "Weyand hiểu ra mọi chuyện, ông khen tôi đã làm tốt và bảo hãy quay về chiến đấu ngay lập tức. Tuy nhiên sau đó có lệnh của Lực lượng dã chiến II bảo cấm ko được dùng tăng trong thành phố nữa. Khi đó xe tăng đang yểm hộ cho tiểu đoàn của Grange càn quét ở phía đông. Tôi đành rút chúng về. Lúc này tuy là lúc giao tranh trong khu vực nhà cửa đông đúc ấy sắp kết thúc nhưng nó cũng phần nào khiến quân trong tiểu đoàn của Dave xuống tinh thần. Tôi phải cảm ơn anh ấy vì anh đã ko đổ lỗi hay kết tội tôi cố ý rút xe tăng đi."
    Khoam, altair, samuelb4 người khác thích bài này.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Trận đánh sau những loạt đạn chài vẫn chưa chấm dứt. Khi xe tăng ngừng bắn, đại úy Derrah cho lính rút vào trong bộ tư lệnh quân đoàn để 'nhường chỗ' cho đám trực thăng vũ trang mới được điều đến tiến hành quần nát khu vực rồi mới đánh tiếp. Chiếc Cobra dẫn đầu bay đến từ hướng nam rồi vòng sang đông nhào xuống oanh kích đám nhà cửa đổ nát. Derrah vẫn nhớ mình đã kinh hãi thế nào khi chứng kiến luồng đạn xối xả trúng cả vào dãy xe M113 bên trong tường khu nhà. "Rủi thay, phi công khai hỏa quá sớm. Báo hại chúng tôi ăn khối đạn minigun trước khi anh ta kết thúc lượt công kích và bay tới xa lộ." 1 trưởng xe trúng đạn vào trán chết ngay tức khắc sau tấm chắn khẩu trọng liên 50. "Đó là tổn thất duy nhất của chúng tôi trong trận tái chiếm Biên Hòa. Cái chết của cậu ta thật khó mà tiêu hóa nổi. Nghĩ nếu mô tả chi tiết cụ thể thì đau xót quá nên tôi chỉ viết rằng cậu ta tử trận trong 1 tận đánh ác liệt dịp Tết mà thôi."

    Sau màn oanh kích của trực thăng vũ trang, đại úy Rankin cùng đại đội B, tiểu đoàn 2/506 bắt đầu càn quét từng ngôi nhà, từng con hẻm khắp thành phố Biên Hòa 1 cách rất cẩn thận. "Tôi cho phần lớn lực lượng xuống xe tham gia truy quét." Derrah, 1 cấp chỉ huy thông minh, dũng cảm, cực kỳ xông xáo, người chỉ để lại 1 lái xe cùng 1 xạ thủ trọng liên 50 trên mỗi chiếc xe bọc thép chiến đấu theo yểm hộ kể lại. Lính dù cùng lính thiết giáp chiến đấu với nhau theo từng toán nhỏ. "Hình như nhóm mà tôi cùng viên thượng sĩ nhất tham gia gồm có 5 người." Derrah kể. Anh cũng đội mũ sắt, mặc áo giáp, vác khẩu M60 với dây đạn quấn quanh mình. "Cảnh y như trong phim ấy. Cứ nã M79 vào nhà xong là cậu lính đi đầu lại đạp cửa xông vào xả đạn."

    Hầu hết nhà cửa đều trống không; điều quan tâm duy nhất của đa số du kích quân còn sống trong cái mê cung này là tìm đường rút. Derrah kể: "Nếu vấp phải 1 toán địch bị cô lập, thì cứ có ai bị giết là số còn lại sẽ chạy tứ tán ngay. Thường thì địch biến mất rất nhanh nhưng cũng đôi lần khi khai hỏa, tôi kịp nhìn thấy có mấy người ngã xuống trước mũi súng M60 của mình..."

    Đại úy Derrah đã được sư đoàn dù 101 tặng huân chương Sao bạc. Bản thân anh được xác nhận là đã hạ 7 địch quân. "cũng có mấy lần phải đánh nhau kịch liệt. Địch ko bị bất ngờ và cũng chẳng phải là lúc nào cũng chạy..."

    36 kẻ địch bị giết. Có những trường hợp khá đau lòng. Khi đang nghỉ ngơi trong sân 1 ngôi nhà đổ nát, viên trung sĩ trung đội phó thuộc toán của Derrah trèo lên mô đất nhỏ và bất thình lình nổ 1 loạt M16 ngay giữa 2 chân. "Mọi người đều bàng hoàng chẳng hiểu có chuyện gì. Nhưng khi anh ta lấy chân gạt hết gạch, đất ra thì có 1 chiến sĩ địch nằm đó."Derrah kể lại. Theo bản năng viên trung sĩ đã bắn khi cảm thấy dưới chân mình có gì đó động đậy. Ngực của người du kích quân trẻ tuổi nấp trong cái hốc đào vội, dùng ống sậy để thở, bị vỡ toang hoác. "Anh ta vẫn tỉnh, nhưng cắn răng ko thốt ra lời nào. Máu chảy rất ít, người lính cứu thương cố đỡ anh ngồi dậy để anh khỏi bị chết ngạt. Nhưng khi người lính cứu thương vừa đi khỏi thì anh bộ đội lại nằm xuống như thể chẳng muốn sống nữa. Rất bất cần. Tuy có thể gật đầu, ra dấu được nhưng anh chọn cách cứ nằm thế mà lịm dần đi."

    1 số du kích quân đã ra hàng. Trong số tù binh địch bị giải về bộ tư lệnh quân đoàn III có ít nhất 1 thương binh nằm cáng . Trung úy St. John, chỉ huy phó đại đội B, tiểu đoàn 2/506 kể: "Chúng tôi bắt được rất nhiều bệnh nhân của nhà thương điên Biên Hòa được VC phóng thích . Nhà thương điên này đặt dưới sự điều hành của 1 vị linh mục người Việt nói tiếng Pháp và những bệnh nhân hẩn hiu gồm cả già trẻ, gái trai này cứ thế lang thang khắp thành phố. "Có người bảo 1 trực thăng vũ trang đã nhào xuống công kích vì nhầm họ với kẻ thù. Số bệnh nhân chúng tôi tìm thấy đều đã gần như cuồng loạn cả. Vốn đã chẳng hiểu tiếng Việt thì nay chúng tôi lại phải nghe đám người điên kia nói liến thoắng mệt cả đầu. Mấy lính thám sát 'chiêu hồi' Kit Carson thì bảo họ chỉ toàn nói nhăng nói cuội. Ôi những con người côi cút khốn khổ."

    Trận đánh còn có những khía cạnh kỳ quặc khác nữa. Tết cũng là dịp lĩnh lương và cho dù St. John đã lĩnh lương cho đại đội từ đêm trước đó thì cũng phải mất tới 5 ngày sau, khi tình hình tạm ổn, anh mới có thể phát tiền cho lính. Anh cho biết: "Cảm giác thật kỳ cục khi cứ phải mang 32.000 đô la đỏ (military payment certificates - loại tiền chỉ dành riêng cho quân đội Mỹ. ND) trong ba lô suốt trận Biên Hòa. Tôi sợ bị mất tiền còn hơn lo bị trúng đạn. Lúc nào cũng nghĩ với lương tháng trung úy 220 đồng thì đến bao giờ tôi mới đủ tiền đền 32.000 đô cho quân đội đây?"

    Chính bởi vấn đề trên mà khi tiểu đoàn 2/506 được triển khai từ Phước Vĩnh về Biên Hòa, tiểu đoàn phó đã lệnh cho tất cả các đại đội phó phải ở lại hậu cứ. St. John nhớ lại: "Chúng tôi rất tức giận. Ai cũng thấy như vậy cả". Vào ngày thứ 2 của trận chiến, những trung úy nhảy dù trẻ tuổi, tận tụy, nhiệt huyết đã đồng lòng kháng lệnh bằng cách nhảy lên trực thăng tiếp tế bay đến Biên Hòa. Trung úy St. John, người được thưởng huân chương Sao đồng dịp này, kể tiếp: "Cứ tưởng đó là chuyện tày đình nhưng có thứ còn lớn hơn đang diễn ra nên rốt cục chẳng ai thèm la rầy chúng tôi cả." Sau khi xử lý số tù binh cùng đám bệnh nhân tâm thần, người đại đội phó tới nhập bọn cùng với 1 toán lính dù đang bị hỏa lực mạnh mẽ từ 1 ngôi nhà kìm chặt. "Do ko có không yểm, pháo binh hay súng cối yểm trợ nên khi thấy có chiếc xe tăng chạy trên đường tôi bèn chạy lại nhờ người trưởng xe giúp đỡ. Mọi rắc rối đều được giải quyết sau vài phát pháo tăng."

    Đại đội ko nhận được nước uống tiếp tế nên giữa cái nóng do đám nhà cháy tỏa ra, ai cũng khát cháy họng. 1 lính dù xuất hiện cùng với két Cocacola lấy từ tiệm tạp hóa mới bị lửa lan đến. St. John kể: "Cậu ta mới chia mấy chai nước ngọt cho bạn bè thì bị viên thượng sĩ nhất nhìn thấy và chụp mũ tội 'cướp bóc'. Anh ta lệnh cho cậu lính mang trả số Cocacola nhưng khi đó thì lửa đã bao trùm hết cửa tiệm. Tôi vẫn nhớ như in cảnh cậu lính chạy tới đứng nơi khung cửa đang cháy và liệng số Cocacola vào đám lửa."
    Khoam, huymaya, altair5 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này