1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Địa chính trị Khu vực Châu phi

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi macay3, 10/02/2020.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Thomas Sankara – Biểu tượng cách mạng châu Phi

    [​IMG]



    Nếu người Mỹ Latin tôn sùng Che Guevara, thì người dân châu Phi cũng có biểu tượng của họ – Thomas Sankara, tổng thống Burkina Faso. Trước Nelson Mandela, Sankara được coi là nhà lãnh đạo vĩ đại nhất của châu Phi chưa từng có trước đó, được cả những đối thủ phương Tây của ông kính trọng và thường được gọi với cái tên ”Che Guevara châu Phi”.

    Nói sơ qua về bối cảnh đất nước Burkina Faso. Thực ra đất nước chưa có tên như vậy cho đến khi đích thân Thomas Sankara đặt tên cho nó. Đó là một cái tên rất ý nghĩa mà lát nữa sẽ nói tới. Còn trước đó, quốc gia này là thuộc địa của Pháp ở Tây Phi, gọi là liên bang Tây Phi thuộc Pháp và chưa có tên gọi chính thức. Năm 1958, người Pháp trao trả độc lập cho đất nước này, đặt tên là Cộng hòa Thượng Volta, dựa vào vị trí là thượng nguồn của sông Volta.

    Sau khi giành độc lập, Thượng Volta nhiều lần rơi vào đấu đá quyền lực và đảo chính. Đến năm 1983, đất nước nằm dưới quyền của Tổng thống Jean-Baptiste Ouédraogo, một nhân vật thân Pháp.

    Nhà cách mạng Thomas Sankara, tên khai sinh Thomas Isidore Noël Sankara sinh vào ngày 21 tháng 12 năm 1949 tại Yako, Thượng Volta. Cha ông là Joseph Sankara, sĩ quan trong Cảnh sát thuộc địa Pháp, nên gia đình giàu có. Trong những năm đầu, ông cùng gia đình chuyển đến thị trấn Gaoua, sống trong ”ngôi nhà gạch hiếm hoi giữa hàng ngàn ngôi nhà đất của Gaoua”.

    Mặc dù cha mẹ muốn Thomas trở thành linh mục, nhưng cuối cùng ông đã chọn vào quân đội. Tại học viện quân sự Kadiogo ở thủ đô Ouagadougou, ông được coi là sinh viên tiến bộ, thường xuyên dẫn đầu các cuộc thảo luận về chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, các cuộc cách mạng của Liên Xô và Trung Quốc, các phong trào giải phóng ở châu Phi và các chủ đề tương tự. Ngoài ra Thomas còn được biết là tay guitar xuất sắc và một nhà văn.

    Năm 20 tuổi, ông được ưu tiên đến học ở Học viện quân sự Pháp ở Antsirabe (Madagascar). Tại Madagascar, ông chứng kiến 2 cuộc nổi dậy của người dân chống chính quyền của Philibert Tsiranana, đồng thời lần đầu tiên tiếp cận các tác phẩm của Karl Marx và Lenin. Từ đây, Thomas Sankara trở thành người trung thành với chủ nghĩa Marx.

    Đến năm 1972, Thomas Sankara bị gọi về nước tham gia cuộc chiến tranh tại Dải Agacher giữa thượng Volta và Mali, 2 thuộc địa cũ của Pháp. Ông nhanh chóng nhận ra một cuộc chiến “vô dụng và bất công”, thực chất là công cụ của nhà cầm quyền Thượng Volta nhằm hướng người dân ra khỏi các vấn đề trong nước. Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, Thomas đã gặp các sĩ quan tiến bộ trong quân đội Thượng Volta, thành lập nhóm quân đội với tên ”Tập hợp những người cộng sản” (tiếng Pháp: Regroupement des officiers communistes, gọi tắt là ROC) nhằm lật đổ tổng thống bất tài. Những nhân vật nổi tiếng nhất của họ là các sĩ quan Henri Zongo, Jean-Baptiste Boukary Lingani, Blaise Compaoré và Thomas Sankara, trong đó Blaise Compaoré là đồng chí thân cận nhất của Thomas, nhưng cũng chính là người đã gây nên cái chết của ông sau này.

    Có một thời gian ông làm trong Bộ Thông tin của chính phủ, nhưng ông đã từ chức vì nhận thấy Bộ thông tin phục vụ cho tuyên truyền dối trá của chính quyền. Ông tuyên bố: Malheur à ceux qui bâillonnent le peuple! – ”khốn khổ thay cho những kẻ bịt miêng người dân”

    Năm 1982, lo ngại trước nhóm sĩ quan tiến bộ, chính quyền quân sự bắt giữ các sĩ quan bao gồm Thomas Sankara, Henri Zongo và Jean-Baptiste Boukary Lingani. Tuy nhiên, sĩ quan còn lại là Blaise Compaoré đã lãnh đạo một cuộc đảo chính để giải thoát cho các đồng chí của mình. Chính quyền quân sự bị lật đổ năm 1983, và Blaise Compaoré đưa Thomas Sankara lên làm tổng thống, mở ra thời kì lịch sử mới của đất nước.

    Dù chỉ cầm quyền 4 năm ngắn ngủi, Thomas Sankara đã tiến hành những cải cách đầy tham vọng nhằm thay đổi kinh tế và xã hội của châu Phi mà chưa ai từng làm và cũng không ai nghĩ có thể làm.

    -Đầu tiên, ông đổi tên đất nước của mình, từ Thượng Volta do người Pháp đặt, sang Burkina Faso. Như đã nói, đây là cái tên rất ý nghĩa, lấy từ những ngôn ngữ chính của các dân tộc bản địa. ”Burkina” trong tiếng Mossi là ”ngay thẳng, đứng lên”. ”Faso” trong tiếng Dyula nghĩa đen là ”nhà của cha”, nghĩa bóng để chỉ ”Tổ quốc”. Gộp lại, đất nước có cái tên với ý nghĩa ”ĐẤT NƯỚC CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐỨNG LÊN”.

    -Tự tay ông vẽ quốc kì mới cho Burkina Faso. Cũng tự ông ôm đàn, sáng tác ra quốc ca của đất nước.

    -Một chiến dịch tiêm chủng miễn phí trên toàn quốc được tiến hành, với kỷ lục toàn bộ 2,5 triệu trẻ em của đất nước lúc đó chỉ có 7 triệu dân được tiêm phòng chỉ trong 1 tuần để ngăn chặn các bệnh sởi, viêm não, sốt vàng, những bệnh gây chết người bậc nhất châu Phi thời đó. Kết quả là tỷ lệ tử vong trẻ em của Burkina Faso giảm từ 23% năm 1983 xuống còn thấp hơn 3% dưới thời Thomas Sankara.

    -Ông cho trồng 10 triệu cây xanh để ngăn chặn quá trình xa mạc hóa xuống vùng Sahel. Đây chính là tiền đề để ngày nay Liên Hợp Quốc cùng 20 nước châu Phi đang nỗ lực xây dựng ”bức tường Xanh” dài 8000km để ngăn chặn Xa mạc hóa. Tất cả xuất phát từ ý tưởng của Thomas Sankara.

    -Ông thực hiện một chiến dịch chống mù chữ toàn quốc, bắt buộc và miễn phí giáo dục, kết quả là tăng tỷ lệ biết chữ của Burkina từ 13% vào năm 1983 lên đến 73% vào năm 1987, một tỷ lệ chưa từng có trước đây.

    -Ông phân chia lại đất đai từ địa chủ phong kiến và đưa trực tiếp cho nông dân. Sản lượng lúa mì tăng vọt trong vòng ba năm từ 1700 kg/héc ta lên 3800 kg/héc ta, làm cho nông nghiệp Burkina Faso thành nền nông nghiệp tự cung tự cấp.

    -Ông thiết lập một chương trình xây dựng đường bộ và đường sắt đầy tham vọng để “nối toàn quốc với nhau”, giúp xây dựng gần 1.300km đường sắt và đường bộ mà không nhận bất cứ một viện trợ nào của nước ngoài.

    -Trong các công trình của mình, Thomas Sankara không nhận một xu viện trợ nào của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Ông cho rằng các khoản viện trợ này là thứ để kìm hãm các nước châu Phi trong vòng kiềm tỏa của phương Tây. Vì vậy ông kiên quyết phản đối, đồng thời kêu gọi các nước khác từ chối viện trợ của IMF và WB. Ông có một câu nổi tiếng: ”Ai cho bạn ăn, sẽ kiểm soát bạn” (He who feed you, controls you)

    Vậy tiền đâu mà Thomas Sankara thực hiện những cải cách trên?

    -Ông đã bán hết những chiếc xe Mercedes xa xỉ của chính phủ và dùng những chiếc Renault 5 (loại xe rẻ mạt nhất được bán ở Burkina Faso vào thời điểm đó), bắt nhân viên chính phủ dùng những chiếc xe đó khi đi họp hay công tác.

    -Giảm mức lương của tất cả công chức nhà nước, bao gồm cả của chính mình, và cấm họ thuê tài xế của chính phủ hay mua vé máy bay hạng nhất.

    -Ông tự giảm lương của mình từ gần 1000 USD xuống còn 450 USD hàng tháng. Ông sống trong căn hộ cho thuê ở khu nhà cũ trong thủ đô. Toàn bộ tài sản có giá trị của Thomas Sankara là một ô tô cũ, 4 xe đạp, 1 tủ lạnh hỏng và đặc biệt: 3 cây guitar. Thực ra cây Guitar tốt nhất cũng bị ông bán gần 2000 USD.

    -Ông từ chối sử dụng điều hòa không khí trong văn phòng của mình với lý do rằng những thứ xa xỉ như vậy không có sẵn cho bất cứ ai

    -Ông buộc các công chức khá giả phải trả một tháng lương cho các dự án công cộng.

    -Ông cấm các quan chức mặc quần áo Tây, mà phải mặc quần áo truyền thống được may bởi bông bởi công nhân Burkina Faso. Vì vậy, dưới thời Thomas Sankara, ngành trồng bông và dệt may của Burkina Faso rất phát triển

    – Khi được hỏi tại sao ông không muốn bức chân dung của mình bị treo ở những nơi công cộng, như tiêu chuẩn của các nhà lãnh đạo châu Phi khác, Sankara trả lời: “Có bảy triệu Thomas Sankara” (dân số Burkina Faso là 7 triệu)

    -Ông không cho phép xuất khẩu bất cứ thứ gì, nếu người dân Burkina Faso còn thiếu thứ đó. Cho nên dưới thời Burkina Faso, gạo và bông là 2 thứ duy nhất được xuất khẩu, nghĩa là người dân đủ ăn và đủ mặc. Còn lại, không bán bất cứ tài nguyên thiên nhiên nào cho nước ngoài mà để xây dựng đất nước.

    Đặc biệt, ông được coi là nhà lãnh đạo châu Phi tiên phong về quyền phụ nữ, vốn chưa bao giờ có trước đó

    -Ông bổ nhiệm cho nữ giới lên các vị trí cao của chính phủ, khuyến khích họ làm việc, tuyển dụng họ vào quân đội, và cho phép nghỉ thai sản trong thời gian học tập.

    – Ông thêm vào luật pháp quốc gia những luật như: cấm cắt bộ phận sinh dục nữ (một hủ tục rất phổ biến ở châu Phi), cấm cưỡng ép kết hôn và đa thê để gia tăng và hỗ trợ các quyền của phụ nữ

    -”Các đồng chí, không có cuộc cách mạng xã hội đích thực nếu không có sự giải phóng phụ nữ. Có thể mắt tôi không bao giờ nhìn thấy và đôi chân của tôi không bao giờ đưa tôi đến một xã hội nơi một nửa số người bị giữ trong im lặng. Tôi nghe thấy tiếng gầm của sự im lặng của phụ nữ. Tôi cảm nhận được tiếng ầm ầm của cơn bão và cảm nhận được cơn thịnh nộ của cuộc nổi dậy của họ.” – Thomas Sankara viết trong cuốn sách ”Giải phóng Phụ nữ và Đấu tranh Tự do Châu Phi”

    -”Không có cuôc cách mạng thực sự nào nếu không có sự giải phóng phụ nữ”

    Chính vì những cải cách tiến bộ trên, Thomas Sankara được coi là hình mẫu của các lãnh đạo châu Phi, được tôn trọng bởi người dân Burkina Faso, các nước châu Phi khác, thậm chí cả bởi các đối thủ là các nhà lãnh đạo phương Tây vốn không ưa quan điểm Marxist của ông, nhưng lại rất khâm phục các cải cách tưởng chừng không thể làm nổi ở quốc gia nghèo bậc nhất địa cầu Burkina Faso.

    Về quan điểm đối ngoại, Thomas Sankara là người theo chủ nghĩa Marxist, có quan hệ gần gũi với các nước XHCN Liên Xô, Trung Quốc, Đông Âu và đặc biệt là Cuba. Là một người ngưỡng mộ Fidel Castro và Cách mạng Cuba, ông đã thành lập các Ủy ban Quốc phòng Cách mạng (CDR) theo kiểu Cuba. Ông cũng là người thần tượng Che Guevara.

    Ngày 9/10/1987, chuẩn bị kỉ niệm 10 năm ngày mất của Che, Thomas Sankara có bài phát biểu. Ông nói: ”Che Guevara dạy chúng tôi rằng chúng tôi có thể dám tự tin vào bản thân, tự tin vào khả năng của mình. Ông thấm nhuần trong chúng tôi niềm tin rằng đấu tranh là cách duy nhất của chúng tôi. Ông là một công dân của thế giới tự do mà chúng ta đang trong quá trình xây dựng. Đó là lý do tại sao chúng tôi nói rằng Che Guevara cũng là người châu Phi và Burkinabè.”

    Cũng lần đó, ông có một câu nói khác: ”Cách mạng như một con người có thể giết, nhưng không thể giết được lý tưởng” (“While revolutionaries as individuals can be murdered, you cannot kill ideas”), cũng dựa trên câu nói của Che Guevara.

    Thomas nói những lời này chỉ 1 tuần trước khi bị sát hại.

    Một trong những điều khiến Thomas Sankara được đánh giá cao là việc từ chối nhận viện trợ nước ngoài. Tuy nhiên, chính điều này đã dẫn đến số phận bị thảm của ông.

    Trên thực tế, IMF và WB chỉ là một trong 2 nguồn tài trợ mà các nước châu Phi nhận thời đó. Và thực sự là trước Thomas Sankara, đã có nhiều nước châu Phi cũng đã từ chối nhận viện trợ của IMF và WB. Vậy họ nhận viện trợ từ đâu.

    Câu trả lời là từ nguồn thứ 2: ”Dollar dầu mỏ” của Muammar Gaddafi. Đây mới chính là thứ mà Thomas Sankara cho là nguy hiểm nhất.

    Ngay từ những năm 70, nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi đã tung hàng trăm tỷ USD từ nguồn lợi dầu mỏ khổng lồ của mình, cung cấp cho các nước nghèo ở châu Phi để giữ họ vào một ”Nhà nước liên Sahara” do Gaddafi đề xuất, gồm các nước châu Phi vùng Hạ Sahara và Sahel. Gaddafi muốn các nước này thống nhất thành 1 nhà nước dưới sự lãnh đạo của Libya. Trên thực tế, đại đa số đã thành công, các nước Sudan, Mali, Niger, Uganda, Tây Sahara, Bờ Biển Ngà, Liberia,…đều lần lượt rơi vào vòng ảnh hưởng của Libya. Chỉ có 2 nơi Gaddafi thất bại. Một là ở láng giềng Chad, khi nước này trực tiếp đánh thắng Libya và quân đánh thuê của Libya vào năm 1989. Nơi thứ 2, là Burkina Faso.

    Thomas Sankara không nhận viện trợ của phương Tây nhưng cũng nhất quyết không nhận một đồng của Gaddafi. và không chấp nhận ảnh hưởng của Gaddafi lên nước này. Thời điểm đó, bao quanh Burkina Faso là các nước chư hầu của Libya: Mali, Niger, Bờ Biển Ngà, và cả lính đánh thuê Liberia. Rõ ràng phương Tây không phải kẻ thù nguy hiểm hơn của nhà cách mạng Thomas Sankara, mà là Gaddafi. Và điều nguy hiểm nhất với Thomas, chính là đồng chí thân cận nhất của ông, Blaise Compaoré.

    Blaise Compaoré, được biết là cánh tay phải của Thomas Sankara, người có công cứu Thomas khỏi nhà tù năm 1983 rồi sau đó đưa Thomas lên làm tổng thống. Tuy cùng chí hướng chống phương Tây, nhưng Blaise có tư tưởng dựa vào Muammar Gaddafi của Libya. Ông được biết là có quan hệ tốt với Gaddafi, với nhà lãnh đạo Bờ Biển Ngà Félix Houphouët-Boigny, và đặc biệt là bạn rất thân của Charles Taylor, tổng thống sau này của Liberia.

    Ngày 15/10/1987, Thomas Sankara đang đi đến dinh tổng thống, bất ngờ bị một lính đánh thuê không rõ danh tính bắn chết. Ngay sau đó các lính đánh thuê tấn công dinh tổng thống và giết hại 12 sĩ quan khác. Blaise Compaoré tuyên bố Thomas Sankara đã chết và cho mình lên làm tổng thống. Các sĩ quan quân đội bất bình với Blaise, nổi dậy chiến đấu ở thủ đô. Các thành viên của Hội đồng phòng vệ cách mạng CDR – lấy cảm hứng từ Cuba, phản kháng dưới sự chỉ huy của Henri Zongo (đọc lại 4 ông thuộc ”Tập hợp Cộng sản” lúc đầu). Nhưng cuối cùng, không hiểu lấy lính đánh thuê ở đâu, Blaise đàn áp thành công và cuối cùng xử tử nốt đồng chí cuối cùng Henri Zongo.

    Đồng chí còn lại là Jean-Baptiste Boukary Lingani đã bị giết từ tháng 9, một tháng trước khi đảo chính xảy ra.

    Mãi đến sau này, người ta mới biết số lính đánh thuê của Blaise Compaoré chính là những người lính Liberia thuộc Mặt trận yêu nước quốc gia Liberia của Charles Taylor, được Muammar Gaddafi đỡ đầu và hỗ trợ. Số lính này đã từ Bờ Biển Ngà sang Burkina Faso giúp lật đổ Thomas Sankara, cái gai trong mắt Gaddafi.

    Để ”đền ơn” sự giúp đỡ này, sau này khi Charles Taylor về nước gây nội chiến, Blaise Compaoré đã gửi 90.000 lính của mình sang giúp Taylor, gây nên cuộc chiến vô cùng đẫm máu giết chết 1/4 dân số Liberia.

    Sự can dự của Libya và Liberia ngày càng rõ ràng. Năm 1998, khi Charles Taylor đã bị bắt ra tòa án, thì trước 500 phóng viên quốc tế trong buổi họp của Ủy ban hòa giải và sự thật Liberia (Truth and Reconciliation Commission -TRC), một đồng minh cũ của Charles Taylor là Prince Johnson, đã nói công khai trước mọi người rằng chính ông và Taylor đã đến Burkina Faso để giết hại Thomas Sankara năm đó. Phát biểu này được coi là phán quyết cuối cùng, chỉ rõ thủ phạm giết Che Guevara của châu Phi, chính là lính đánh thuê của Muammar Gaddafi. Sau sự kiện này, rất nhiều người Burkina Faso đã đòi truy tố thêm tội danh giết hại tổng thống Thomas Sankara với Charles Taylor trước tòa quốc tế. Nhưng tất nhiên là chẳng có cáo buộc nào cả, vì lãnh đạo Burkina Faso lúc đó chính là Blaise Compaoré, bạn thân của Charles Taylor.

    Với đất nước Burkina Faso, sau khi Blaise Compaoré lên nắm quyền, đất nước này trượt dài trong khủng hoảng. Ban đầu, Blaise nhận viện trợ của cả Libya và IMF, nhưng IMF nhanh chóng cắt mọi khoản vay cho Burkina Faso, do sự tham nhũng và yếu kém của chính phủ. Chỉ còn Libya là hỗ trợ cho Burkina Faso, cả về kinh tế lẫn chính trị.

    Burkina Faso, ngoài việc nghèo đói cùng cực, còn bị các nước khác lên án về ngăn cản tự do nhân quyền. Hàng năm, hàng trăm nghìn nông dân Burkina Faso tràn qua biên giới Ghana và Bờ Biển Nga kiếm việc làm, tạo nên dòng ”di cư thường niên” lớn nhất châu Phi. Vì vậy, mỗi kì họp của Liên Minh châu Phi diễn ra, 2 nước này liên tục lên án Burkina Faso, và đòi quốc tế gây sức ép buộc Blaise Compaoré từ chức. Nhưng những lần như thế, Muammar Gaddafi luôn dùng ảnh hưởng và dollar dầu mỏ của mình để bảo vệ Blaise Compaoré.

    Nhưng rồi năm 2011, Gaddafi bị lât đổ. Mất đi bầu sữa cuối cùng, chế độ Blaise Compaoré suy yếu. Ngay trong năm Gaddafi rớt đài, quân đội Burkina Faso đã đảo chính nhưng thất bại, và Blaise Compaoré cách chức bộ trưởng quốc phòng. Nhưng đến năm 2014 thì bị người dân đã lật đổ Blaise Compaoré thành công trong cuộc cách mạng “mùa xuân đen tối” (không phải mùa xuân Arab)

    Mãi sau đó, người ta mới đi tìm mộ của Thomas Sankara, người đã bị Blaise Compaoré giấu xác sau khi giết hại năm 1987. Cuối cùng, người ta tìm thấy hài cốt cố tổng thống, và đưa về an táng long trọng với nghi lễ của Nguyên thủ quốc gia. Sau phát hiện này, Burkina Faso đã phát lệnh truy nã quốc tế với Blaise Compaoré vì tội giết hại tổng thống Thomas Sankara

    20 năm sau khi bị ám sát, Thomas Sankara đã được tưởng niệm vào ngày 15 tháng 10 năm 2007 trong các nghi lễ diễn ra tại Burkina Faso, Mali, Senegal, Nigeria, Tanzania, Burundi, Pháp, Canada và Hoa Kỳ

    https://nghiencuulichsu.com/2019/07/16/thomas-sankara-bieu-tuong-cach-mang-chau-phi/
    convitbuockuyomukotoho thích bài này.
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Chiến tranh Ogaden – nội chiến lớn nhất của phe XHCN

    [​IMG]



    Năm 1969 được coi là năm mở đầu xung đột trong khối XHCN với cuộc chiến ở biên giới Trung – Xô. Năm 1979 được coi là năm hỗn loạn của phe XHCN với hàng loạt xung đột: Việt Nam – Campuchia, Việt Nam- Trung Quốc, Uganda – Tanzania, nổi dậy Maoist ở Afghanistan,…. Tuy nhiên, cuộc chiến lớn và đẫm máu nhất là vào năm 1977-1978, giữa Ethiopia và Somali.

    Nguyên nhân của cuộc chiến này sâu xa bắt nguồn từ lịch sử hào hùng của Somali. Trước khi thực dân xâm chiếm, lãnh thổ của người Somali được gọi là Đại Somali, vùng đất rộng lớn chiếm toàn bộ vùng Sừng châu Phi ngày nay thuộc lãnh thổ 4 nước Somali, Ethiopia, Kenya và Djibouti.

    Somali bị xâm chiếm cuối thế kỷ 19, lãnh thổ bị chia sẻ giữa Anh (thường được gọi là Somaliland thuộc Anh), Ý (Somali thuộc Ý) và Pháp (Somali thuộc Pháp, ngày nay là Djibouti) trong khi láng giềng Ethiopia giữ được độc lập.

    Trong thế chiến 2, quân Ý đã xâm chiếm cả Ethiopia và Somaliland thuộc Anh, kiểm soát toàn bộ vùng Sừng châu Phi vào năm 1940. Nhưng chỉ 1 năm sau, quân Đồng Minh thuộc các lực lượng Anh, Pháp, Bỉ, Ethiopia, Nam Phi, Ấn Độ,…đã mở cuộc phản công lớn từ Kenya chiếm lại những vùng này, đặt dấu kết thúc sớm cho mặt trận Đông Phi vào năm 1941 với thảm bại của quân Phát xít Ý.

    Nhưng các vấn đề bắt đầu xuất hiện từ đây. Người Anh sau khi chiếm được các vùng này, có sự sắp đặt lại các đường biên giới, và cơ bản là bất lợi cho người Somali. Vùng Ogaden bị cắt cho Ethiopia như một hành động ”đền ơn” cho Ethiopia đã đứng về phe Đồng Minh. Trong khi đó, phía Nam Somali bị cắt cho Kenya thuộc Anh, chỉ ít ngày trước khi Somali tuyên bố độc lập. Cùng lúc đó tại Djibouti, người dân bỏ phiếu chọn duy trì ở lại Pháp thay vì gia nhập Cộng hòa Somali.

    Ở các vùng đất bị cắt, sắc tộc Somali vẫn chiếm đa số. Các chính quyền sau đó ở Kenya và Ethiopia dù có hành động đàn áp sắc dân Somali, nhưng dân Somali đã phản kháng và chống lại bằng nổi dậy vũ trang.

    Về chế độ, Somali sau khi độc lập trở thành nước Xã hội chủ nghĩa, ban đầu thân Liên Xô. Còn Ethiopia, duy trì nền quân chủ đến năm 1974, thì bị đảo chính quân sự lật đổ và thiết lập nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt từ năm 1987, Mengistu Haile Mariam thiết lập một nhà nước Cộng sản hoàn toàn ở Ethiopia, trở thành nhà nước Cộng sản đầu tiên nhưng cũng là cuối cùng ở Châu Phi thế kỷ 20, kết thúc vào năm 1991. Trong khi Kenya là chính quyền thân phương Tây.

    Nhìn vào ngày nay, người ta khó có thể ngờ Somali từng phát triển rực rỡ, từng được gọi là ”Thụy Sĩ của châu Phi”, còn thủ đô Mogadidu là ”viên ngọc trắng Ấn Độ Dương”. Somali trải qua ”thập kỉ huy hoàng” vào những năm 60, với sự bùng nổ kinh tế trở thành nước phát triển nhất Đông Phi, nhưng vẫn duy trì nền dân chủ tự do hơn các nước khác trong phe XHCN. Dù cuộc đảo chính của tướng Siad Barre năm 1969 thiết lập nền độc tài quân sự, nó chỉ giảm bớt sự tự do của Somali, nhưng không làm suy yếu nền kinh tế, ngược lại còn đưa quân đội Somali trở nên hùng mạnh vào thời điểm đó.

    Người Somali vẫn luôn kỳ vọng về một nhà nước thống nhất giữa các vùng đất nói tiếng Somali, bao gồm vùng Ogaden của Ethiopia và miền Bắc Kenya.

    Xung đột cả về sắc tộc, tôn giáo lẫn chính trị đã khiến Somali tấn công Kenya năm 1963, với mục đích tối thượng là thống nhất Bắc Kenya. Cuộc chiến kéo dài 4 năm, dù Somali được Liên Xô giúp đỡ, Kenya cũng được sự hỗ trợ của Anh. Cuối cùng, Somali thất bại, và sắc dân Somali ở Bắc Kenya vẫn tiến hành nổi dậy đến tận ngày nay

    Tuy nhiên, việc Somali tấn công cả người anh em Xã hội chủ nghĩa Ethiopia vào năm 1977, thì thực sự ít người ngờ tới.

    Ethiopia Xã hội chủ nghĩa vừa thành lập đã tiến hành tập thể hóa nông nghiệp vội vã. Hậu quả là kế hoạch 5 năm đầu tiên chưa kết thúc, nạn đói đã lan tràn đất nước khiến hàng trăm nghìn người chết (tuy nhiên nạn đói lớn nhất là năm 1983-1985, khiến 1,2 triệu người chết). Trong nạn đói năm 1974, chính phủ Ethiopia đã chuyển lương thực từ phía Đông đất nước về phía Bắc, làm người dân phía Đông, trong đó có rất nhiều sắc tộc Somali tức giận. Họ quyết định nổi dậy vũ trang, thành lập Mặt trận giải phóng Tây Somali (Western Somali Liberation Front – WSLF). Tây Somali thực ra chính là tên gọi chính thức của vùng Ogaden, thuộc phía Đông Ethiopia.

    Xung đột giữa Ethiopia và Somali ngày càng căng thẳng. Không những chia rẽ 2 nước, nó còn chia rẽ cả khối XHCN.

    Liên Xô thời điểm đó vô cùng bối rối. Cả Somali và Ethiopia đều là đồng minh của Liên Xô, đều nhận viện trợ vũ khí của Liên Xô. Tuy nhiên, khi chiến tranh nổ ra, Liên Xô đã chọn đứng về phe ”Cộng sản hơn” – Ethiopia.

    Các nước Đông Âu khác, chịu ảnh hưởng từ anh cả Liên Xô, đều phải ủng hộ Ethiopia. Duy chỉ có Romania là ủng hộ Somali, và cũng là nước châu Âu duy nhất viện trợ vũ khí cho Somali.

    Ở châu Á, Trung Quốc vì chia rẽ với Liên Xô, lập tức ủng hộ Somali, dù trước đó quan hệ không quá thân thiết với nước này. Còn Bắc Triều Tiên, bán vũ khí cho cả 2 quốc gia này, nhưng trong trận chiến lại ủng hộ Ethiopia nhiều hơn. Nói thêm chút, Bắc Triều Tiên trước nay có một mỏ tiền, đó là bán vũ khí cho các nước Sừng châu Phi. Lý do là các nước Sừng châu Phi bị LHQ cấm vận vũ khí, các nước khác không thể bán. Duy chỉ có Triều Tiên là không sợ luật quốc tế, vẫn bán cho các nước này.

    Nước Cộng sản ở Tây Á là Nam Yemen ủng hộ Ethiopia, gửi quân đến tham chiến. Các nước còn lại như Việt Nam, Mông Cổ, Campuchia…thì không rõ

    Cuba theo Liên Xô, ủng hộ Ethiopia, và thậm chí còn vượt mặt Liên Xô, gửi cả pháo binh, không quân, xe tăng đến Ethiopia.

    Cuối cùng, Ai Cập, dù không còn là nước XHCN, đóng vai trò trong cuộc chiến là viện trợ vũ khí cho Somali. Nguyên nhân là vì căng thẳng giữa Ethiopia và Ai Cập liên quân đến vấn đề thượng nguồn Sông Nile.

    Vì những điều trên mà tháng 11 năm 1977, Somali cắt đứt toàn bộ quan hệ ngoại giao với Liên Xô và các nước cộng sản khác, ngoại trừ Trung Quốc và Romania.

    Trở lại cuộc chiến, quân Somali bắt đầu tiến vào Ogaden tháng 7 năm 1979. Trước đó 60% vùng này đã bị quân của Mặt trận giải phóng Tây Somali chiếm giữ. Tuy nhiên trong chiến dịch quan trọng đánh chiếm thành phố lớn thứ 2 của Ethiopia là Dire Dawa, quân Somali và WSLF đã không thành công.

    Để giúp Ethiopia, Liên Xô gửi đến đây 1.500 cố vấn, nhưng kèm theo một lượng khổng lồ khí tài hiện đại, trong đó quan trọng nhất là trực thăng Mi-24 lần đầu tiên tham chiến, trở thành vũ khí lợi hại nhất của cuộc chiến. Lô vũ khí viện trợ này là sự viện trợ lớn thứ 2 của Liên Xô, lớn hơn toàn bộ viện trợ trong chiến tranh Việt Nam và chỉ sau đợt viện trợ khổng lồ cho Syria năm 1973. Lực lượng đặc nhiệm cùng hải quân Liên Xô cũng được gửi tới, dưới sự chỉ huy của tướng Vasily Petrov

    Trong khi đó, Cuba gửi đến Ethiopia 15.000 binh sĩ, có cả bộ binh, pháo binh, xe tăng, không quân, cố vấn,,, và đây mới là viện trợ quan trọng nhất cho Ethiopia trong cuộc chiến. Chỉ huy quân Cuba là tướng Arnaldo Ochoa.

    Ngoài lề: tướng Arnaldo Ochoa nổi tiếng sau này do bị Fidel Castro xử tử vì tội buôn ma túy, tuy nhiên vụ án còn rất nhiều bí ẩn, đặc biệt là sự chia rẽ giữa hai anh em nhà Castro, do Arnaldo Ochoa nổi tiếng là bạn thân từ bé của Raul Castro, và cáo buộc buôn ma túy của Ochoa rất mơ hồ. Trước đó, Fidel Castro luôn tự tin: Cuba không có ma túy.

    2000 quân Nam Yemen cũng đến giúp Ethiopia. Đông Đức và Bắc Triều Tiên cũng bị cho là gửi dân quân đến.

    Sự có mặt của quân Cuba giúp Ethiopia trụ vững được tới tháng 1. Liên quân Cuba-Ethiopia bị vây ở 2 thành phố chiến lược Jijiga và Harar. Cuộc bao vây không mang lại kết quả, khiến quân Somali bị ”kiệt sức”, theo lời chỉ huy quân Somali.

    Đến tháng 2, quân Cuba Ethiopia với trực thăng hiện đại tiến hành phản công. Quân Somali không thể phong thủ và nhanh chóng rút lui. Tổng thống Siad Barre lệnh cho quân Somali triệt thoái về Somalia vào ngày 9 tháng 3 năm 1978. Tuy nhiên, cuộc rút quân nhanh gọn đến khó ngờ, đơn vị cuối cùng của Somali rời khỏi Ethiopia vào ngày 15 tháng 3 năm 1978. Lúc đó người ta mới biết, Siad Barre đã đoán được không thể thắng quân Cuba nên đã ra lệnh rút bớt quân từ trước, đồng thời rút hết vũ khí hạng nặng. Nhờ vậy thiệt hại của quân Somali không đáng kể.

    Cuộc chiến kết thúc với thất bại của Somali, họ vẫn phải bỏ dở giấc mơ về một Đại Somali thống nhất.

    Đặc điểm của chiến tranh Ogaden là ít trận đánh lớn, chủ yếu là đánh nhỏ. Quân Somali có 6.453 người thiệt mạng,

    2.409 người bị thương. Nhưng họ thiệt hại nặng về khí tài: 28 máy bay (1/2 không lực), 72 xe tăng, 30 xe bọc thép (3/8 thiết giáp) bị mất.

    Ethiopia có 6.133 người thiệt mạng, 10.563 người bị thương. 23 máy bay, 139 xe tăng, 108 xe bọc thép chở quân bị phá hủy.

    33 cố vấn Liên Xô, 400 lính Cuba và 100 lính Yemen cũng thiệt mạng.

    Nhưng trận chiến gây thương vong lớn cho dân thường. Mặc dù dân thường chết do súng đạn rất ít, đại đa số dân thường Ogaden chết do nạn đói, và do các chiến dịch trả thù sau đó của quân đội Ethiopia. Ước tính khoảng 500.000 nghìn dân thường Ogaden đã chết sau chiến tranh, có cả sắc tộc Somali lẫn người Ethiopia.

    Hậu quả lâu dài của cuộc chiến ảnh hưởng đến cả 2 quốc gia.

    Ở Ethiopia, nạn đói năm 1974 chưa kịp giải quyết, cộng thêm chiến tranh và thanh lọc sắc tộc, đã trở nên trầm trọng hơn. Đến năm 1983-1985, nạn đói khủng khiếp nhất xảy ra khiến 1,2 triệu người chết, 7 triệu người phải đi tị nạn, trở thành cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn nhất ở châu Phi cho đến khi chiến tranh Congo lần 2 bùng nổ.

    Quan trọng hơn, nó làm xã hội Ethiopia thêm chia rẽ sâu sắc. Người dân ngày càng chống đối chế độ Xã hội chủ nghĩa. Năm 1987, Mengistu Haile Mariam thành lập Cộng hòa dân chủ nhân dân Ethiopia, thiết lập nhà nước Cộng sản, sự chống đối biến thành nổi dậy vũ trang, diễn ra nội chiến trong cả nước, vùng Eritrea đòi độc lập. Kết quả là dù quân đội Cuba vẫn đóng ở Ethiopia, chính quyền cộng sản của Mengistu vẫn sụp đổ vào năm 1991, chỉ tồn tại 4 năm.

    Eritrea độc lập, Ethiopia trở thành nước không giáp biển. Mengistu phải lưu vong sang Zimbabwe. Tượng Lenin duy nhất của châu Phi ở thủ đô Addis Ababa bị giật đổ.

    Từ đó đến nay, Ethiopia hòa bình, nhưng nạn đói vẫn tiềm tàng. Bên cạnh đó, nền hòa bình cũng trở nên mong manh do cuộc xung đột ở Sudan bùng phát, 1 triệu người tị nạn Sudan tràn vào Ethiopia.

    Còn Somali thì kém may mắn. Sau khi kết thúc chiến tranh Ogaden nước này lâm vào khủng hoảng kinh tế. Năm 1991, cùng với sự sụp đổ của khối XHCN, chính quyền của Siad Barre cũng bị sụp đổ theo. Xung đột về chức Tổng thống khiến Somali rơi vào nội chiến đẫm máu khiến 300.000 người thiệt mạng, khiến LHQ phải triển khai lính gìn giữ hòa bình ở đây.

    Tuy nhiên, quân đội của tướng Mohamed Farrah Aidid đã tấn công lính Liên Hợp Quốc. Đến năm 1993, sau một trận chiến nổi tiếng ở thủ đô Mogadishu, quân của Aidid đã đánh bại quân đội Mỹ, buộc tổng thống Clinton phải rút quân khỏi Somali. Chiến dịch thất bại bị gọi là ”Diều hâu gãy cánh”, là thất bại tủi hổ nhất của quân đội Mỹ sau chiến tranh Việt Nam.

    Sự thất bại của Liên Hợp quốc ở Somali gây nên thảm họa nhân đạo. Các phe phái ở Somali tiếp tục đánh nhau trong tình trạng vô chính phủ.

    Hiện nay, Somali nổi tiếng nhất là về 2 nạn: Nạn đói và nạn cướp biển. LHQ công bố Somali là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của nạn đói kinh niên, Quốc gia đứng sau, chính là láng giềng Ethiopia.

    Quá khứ hào hùng của người Somali đã ở lại phía sau!

    https://nghiencuulichsu.com/2019/06/28/chien-tranh-ogaden-noi-chien-lon-nhat-cua-phe-xhcn/
    ngthi96 thích bài này.
  3. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Cái nhìn toàn diện về nạn diệt chủng Rwanda và các sự kiện liên quan

    [​IMG]

    Đăng Phạm

    Tháng 4 năm 1994 ghi dấu một trong những sự kiện bi thảm nhất lịch sử: nạn diệt chủng Rwanda. Chỉ trong hơn 3 tháng, 1 triệu dân thường của đất nước chỉ có 8 triệu dân đã bị chính đồng bào mình sát hại.

    Đa phần những gì chúng ta đã biết hiện nay là: cuộc diệt chủng là hậu quả của cuộc xung đột giữa hai dân tộc Hutu và Tutsi, và năm 1994 người Hutu đã tàn sát người Tutsi.

    Tuy nhiên, cuộc diệt chủng này không phải một sự kiện tự bộc phát, không phải gói gọn trong sự xung đột Hutu-Tutsi, và không chỉ nằm trong biên giới Rwanda. Nó liên quan đến rất nhiều sự kiện khác, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhiều sự kiện lịch sử, chính trị lớn của cả vùng Hồ Lớn châu Phi, trong đó tiêu biểu là mối quan hệ tương hỗ với các sự kiện ở nước láng giềng anh em Burundi. Giả sử, nếu không biết đến cuộc nội chiến Uganda, nội chiến Rwanda, Mặt trận yêu nước Rwanda (RPF),… người ta sẽ khó để hiểu tại sao cuộc diệt chủng lại diễn ra và tại sao nó kết thúc. Ngược lại, nếu không đặt cạnh diệt chủng Rwanda, sẽ chẳng ai hiểu 2 cuộc chiến tranh đẫm máu ở Congo đã bùng phát thế nào.

    Bài viết này cung cấp cái nhìn toàn diện về các sự kiện lịch sử dù ít hay nhiều đều liên quan đến thảm kịch ở Rwanda năm 1994, để mọi người hiểu được một cách hệ thống các sự kiện lịch sử quan trọng của khu vực Hồ Lớn châu Phi – chính là khu vực đẫm máu và nước mắt nhất của thế giới nửa sau thế kỉ 20.

    Trước tiên, cần phải biết một số nhân vật chủ chốt sau đây (được sắp xếp theo quốc gia) :

    *Người Rwanda

    -Paul Kagame: lãnh đạo người Tutsi của Mặt trận Yêu nước Rwanda (RPF), một nhóm vũ trang của người Tutsi chống người Hutu. Chiến thắng quân sự của RUF vào tháng 7 năm 1994 là nguyên nhân trực tiếp chấm dứt cuộc tàn sát, và vì vậy Kagame được coi là người hùng của Rwanda.

    Hiện nay ông là tổng thống của Rwanda sau khi đắc cử 3 lần liên tiếp từ năm 2000. Được coi là một lãnh đạo tài giỏi cả về quân sự và kinh tế, từng làm Chủ tịch Liên minh châu Phi (AU). Đặc biệt được biết là có quan hệ rất tốt với Việt Nam, đã sang thăm Việt Nam nhiều lần.

    -Grégore Kayibanda: lãnh đạo người Hutu của Rwanda lãnh đạo cuộc cách mạng giành độc lập từ Bỉ, đồng thời là tổng thống đầu tiên của Rwanda độc lập. Ông là một nhân vật thiên vị người Hutu, chủ trương xóa bỏ quyền lực của người Tutsi bằng bạo lực. Chính sách của ông gây nên làn sóng bạo lực và diệt chủng đầu tiên ở Rwanda, khiến hàng trăm nghìn người Tutsi chạy khỏi đất nước, là nguồn cơn của các nhóm vũ trang Tutsi ở nước ngoài.

    -Juvénal Habyarimana: tổng thống thứ 2 của Rwanda, nắm quyền từ năm 1973. Ông coi là độc tài và thiên vị người Hutu, gây nên sự chia rẽ trong đất nước đồng thời nền kinh tế suy yếu. Thời kì của ông là lúc các nhóm vũ trang Tutsi ở nước ngoài tấn công Rwanda. Habyarimana là kẻ thù của Paul Kagame và là đồng minh thân cận của nhà độc tài Congo Mobutu Sese Seko.

    Ngày 6/4/1994, máy bay chở Habyarimana bị bắn rơi và ông thiệt mạng. Cái chết của ông là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nạn diệt chủng Rwanda.

    *Người Burundi:

    -Michel Micombero: nhà độc tài quân sự người Tutsi của Burundi, láng giềng phía Nam của Rwanda rất tương đồng về lịch sử và xã hội. Lên nắm quyền năm 1966, Micombero cai trị đất nước một cách độc đoán, tàn bạo, thù ghét người Hutu. Chế độ của ông đã gây nên một cuộc diệt chủng không kém phần tàn khốc giết chết 300.000 người Hutu vào năm 1972 nhưng ít người biết tới.

    -Meldior Ndadaye: tổng thống người Hutu của Burundi. Năm 1993, ông bị quân đội của người Tutsi ám sát chỉ 3 tháng sau khi lên nắm quyền. Cái chết của ông dẫn đến cuộc nội chiến kéo dài hàng thập kỷ của Burundi, đồng thời châm ngòi cho cuộc diệt chủng nhằm vào người Tutsi năm 1993, làm 100.000 người thiệt mạng diễn ra chỉ 1 năm trước thảm họa năm 1994 Rwanda.

    -Cyprien Ntaryamira: tổng thống Burundi tiếp sau Meldior Ndadaye, cũng là người Hutu. Giống như người tiền nhiệm, ông chết chỉ sau 2 tháng cầm quyền. Ngày 6/4/1994, ông ngồi chung trên chiếc phi cơ bị bắn hạ cùng tổng thống Rwanda Juvénal Habyarimana, cả 2 người thiệt mạng, làm bùng nổ cuộc diệt chủng kinh hoàng ở Rwanda.

    *Người Uganda

    -Idi Amin Dada: nhà độc tài tàn bạo, tổng thống Uganda từ năm 1971 sau khi lật đổ tổng thống Milton Obote. Dưới chế độ của mình, Idi Amin sát hại nửa triệu người, gây nên sự phẫn nộ trong cả quân đội lẫn người dân Uganda. Năm 1979, Idi Amin phát động cuộc xâm lược vào Tanzania bất thành, ông bị quân đội Tanzania cùng quân kháng chiến Uganda lật đổ.

    -Milton Obote: tổng thống đầu tiên của Uganda sau khi giành độc lập từ Anh. Năm 1971, Obote bị Idi Amin lật đổ nhưng đến năm 1979 đã lật đổ lại Idi Amin. Tuy nhiên, chế độ mới của ông không kém phần tồi tệ, khiến ông phải đối mặt với cuộc nổi dậy của nhiều nhóm vũ trang trong cả nước. Năm 1985, ông lại bị quân đội của mình lật đổ.

    -Tito Okello: chỉ huy quân đội Uganda, lật đổ tổng thống Obote năm 1985 để lên làm tổng thống. Tuy nhiên chính quyền của ông chỉ kéo dài 1 năm trước khi bị quân nổi dậy của Yoweri Museveni đánh bại.

    -Yoweri Museveni: chỉ huy quân đội Uganda, lãnh đạo quân nổi dậy trong cuộc chiến chống cả Idi Amin lẫn Milton Obote. Nắm quyền từ năm 1986 sau khi đánh bại quân đội của Tito Okello và đến nay vẫn là Tổng thống của Uganda. Yoweri Museveni trước kia là đồng minh rất quan trọng của lãnh đạo Rwanda Paul Kagame nhưng sau đó 2 xuất hiện xung đột.

    *Người Tanzania:

    -****** Nyerere: tổng thống Tanzania theo đường lối Xã hội chủ nghĩa. Ông đồng thời là một nhà tư tưởng, lý luận chính trị nổi tiếng của châu Phi, khi mà các lý luận của ông ảnh hưởng rất nhiều đến các quốc gia khu vực. Nyerere được coi là Đồng minh của lãnh đạo Rwanda Paul Kagame, cũng như nhà lãnh đạo Uganda Museveni và lãnh đạo Congo Laurent Kabila.

    *Người Congo:

    -Mobutu Sese Seko: nhà độc tài Congo (thời của ông có tên là Zaire) cai trị đất nước suốt 32 năm từ năm 1965 đến 1997. Ông là một nhà độc tài không tàn bạo, nhưng nổi tiếng tham nhũng, khiến đất nước kiệt quệ. Mobutu là đồng minh của chính quyền người Hutu ở Rwanda và là kẻ thù của Paul Kagame. Năm 1997, ông bị quân đội của Laurent Kabila, một người Cộng sản cũ lật đổ.

    -Laurent-Désiré Kabila: nhà cựu Cộng sản (nhấn mạnh là cựu), nhà cách mạng Marxist người Congo, người lật đổ Mobutu Sese Seko để lên nắm quyền năm 1997. Kabila từng là đồng minh lớn của Paul Kagame trong cuộc chiến lật đổ Mobutu Sese Seko. Tuy nhiên, sau này vì nhiều lý do ông đã trở thành địch thủ của Rwanda cũng như Uganda. Năm 2001, ông bị phiến quân thân Uganda ám sát.

    -Joseph Kabila: con trai của Laurent-Désiré Kabila, trở thành tổng thống sau khi cha bị ám sát. Trái với cha, Joseph đã hàn gắn và trở nên thân thiết với Paul Kagame, giúp kết thúc cuộc chiến đẫm máu ở Congo. Joseph thường nói ”vẫn luôn coi Kagame là đồng chí của cha tôi”.

    Các sự kiện lịch sử:

    1/ Lịch sử thời đầu và quá trình phân quyền Hutu-Tutsi.

    Chủ nhân đầu của vùng đất Rwanda không phải người Hutu hay Tutsi, mà là người Twa.

    Người Twa là một trong những tộc người lâu đời nhất hành tinh. Các bằng chứng cho thấy người Twa đã sống ở Rwanda ít nhất 35.000 năm trước. Họ có đặc điểm là rất thấp lùn, nên được xếp vào chủng tộc Pygmy (người lùn), dễ dàng phân biệt với các nhóm người còn lại. Dân tộc này ít canh tác, sống bằng săn bắt và làm trò mua vui để đổi lấy lương thực. Dù dân số ít, chỉ chiếm 1% nhưng vì nguồn gốc lâu đời, người Twa vẫn được tôn trọng và được coi là một trong ba nhóm sắc tộc chính ở Rwanda và Burundi. Mặc dù vậy, người Twa hiện nay ngày càng lạc hậu, thậm chí vẫn sống bằng săn bắt hái lượm như thời nguyên thủy, luôn có nguy cơ bị gạt khỏi xã hội. Thậm chí nhiều người còn lo ngại nguy cơ tuyệt chủng người Twa do sự phá rừng ở Rwanda. Hiện nay 40% người Twa ở Rwanda sinh sống bằng nghề ăn xin.

    Người Hutu, một dân tộc có nguồn gốc Congo, di cư đến Rwanda từ miền Đông Congo. Dân tộc này sống chủ yếu bằng nông nghiệp, nhưng không quá phát triển. Họ không có hoặc rất ít gia súc, vì vậy phải vay mượn gia súc của người Tutsi hoặc làm công cho người Tutsi. Dù vậy, họ có dân số rất lớn, hiện này chiếm lần lượt 84% và 85% dân số ở Rwanda và Burundi. Nhưng vì kinh tế, không mạnh nên họ không chiếm nhiều quyền lực xã hội, phải chấp nhận sự cai trị của người Tutsi giàu có hơn. Đây là nguyên nhân gây xung đột xã hội dai dẳng nhiều thế kỷ.

    Người Tutsi di cư đến muộn hơn, đến từ Ethiopia. Người Tutsi có rất nhiều đặc điểm khác với các sắc tộc còn lại. Họ có vóc dáng cao lớn, kiểu mắt gần giống châu Âu, và đặc biệt là mũi hẹp và cao rất hiếm có ở châu Phi – những đặc điểm được người châu Âu tự cho là riêng có của cái gọi là ”giống người da trắng thượng đẳng” (nhưng thực chất là của người Ethiopia).

    [​IMG]
    Tranh vẽ miêu tả các tộc người Hutu, Tutsi, Twa của Rwanda

    Về kinh tế – xã hội, người Tutsi đã sớm vượt trội hơn người Hutu. Người Tutsi bên cạnh làm nông nghiệp, họ đã biết làm sợi may quần áo, biết chế tác đá, làm gốm, nuôi ong, nuôi gia súc…Dần dần, họ dùng tiền thâu tóm đất đai và gia súc của người Hutu, trở thành nhóm dân có quyền lực kinh tế tuyệt đối, nắm vai trò lãnh đạo dù dân số chỉ chiếm 15%. Họ cai trị bằng cách đặt ra một mwami (nhà vua) đứng cao nhất trong xã hội.

    Bên cạnh nắm vai trò lãnh đạo về kinh tế, hệ quả tất yếu là người Tutsi nắm được quyền lực chính trị, mà quan trọng nhất là nắm giữ quân đội. Giới tinh hoa quân đội của Rwanda, là những thanh niên Tutsi ưu tú, được đào tạo chuyên nghiệp gọi là Intore. Tuy nhiên, sau này chế độ độc quyền quân sự cho người Tutsi bị bãi bỏ, các Intore bị ”thất nghiệp” và chuyển sang làm vũ công, với khả năng nhảy cao đến 2,4 mét, ngày nay nổi tiếng trên toàn thế giới và là nét văn hóa đặc sắc của Rwanda.

    Hiện nay, phân chia sắc tộc ở Rwanda và Burundi gần như tương tự nhau (không tính nhập cư):

    -Ở Rwanda: 84% Hutu, 15% Tutsi, 1% Twa

    -Ở Burundi: 85% Hutu, 15% Tutsi, khoảng 0,7% Twa

    Có một điều kỳ lạ, mặc dù Rwanda có tới 3 nhóm sắc tộc khác nhau, nhưng họ lại nói chung một ngôn ngữ là tiếng Kinyarwanda. Không ai giải thích được tại sao, chỉ suy đoán là nhờ việc chung sống lâu dài suốt 10 thế kỉ đã khiến các dân tộc thống nhất về ngôn ngữ. Tuy nhiên, nhược điểm của tiếng Kinyarwanda là nó lại không phát triển chữ viết. Vì vậy, gần như không có văn bản nào lưu trữ được về lịch sử Rwanda trước thế kỉ thứ 10.

    Nằm sâu trong lục địa, được người châu Âu khám phá muộn, và đặc biệt là không có chữ viết, lịch sử thời đầu của Rwanda gần như không còn văn bản chính thức nào lưu lại. Nhưng dựa vào các truyền thuyết địa phương, được các nhà truyền giáo châu Âu ghi chép lại, người ta biết Vương quốc Rwanda hình thành từ thế kỷ 11. Đứng đầu bởi vị vua gọi là Mwami, phần lớn lịch sử các Mwami là người Tutsi, những người có quyền lực xã hội lớn. Vương quốc Rwanda sớm có trình độ tổ chức cao, sự thống nhất xã hội lớn. Đặc điểm tiêu biểu là dù có 3 nhóm sắc tộc hoàn toàn khác nhau, tất cả họ đều nói chung một ngôn ngữ là Kinyarwanda, có chung một tín ngưỡng truyền thống. Điều này đã giúp tạo nên một đất nước thống nhất, với quân đội kỷ luật cao. Đến thế kỷ 16, vương quốc Rwanda bắt đầu thời kỳ bành trướng, kéo dài sự thịnh vượng đến thế kỷ 19.

    2/ Thời kỳ thuộc địa và quá trình chia rẽ Hutu-Tutsi

    Mwami (vua) của Rwanda qua đời năm 1895. Quân đội Đức và các nhà truyền giáo Đức đã tranh thủ xâm nhập Rwanda từ Tanganyika (nay là Tanzania) từ năm 1897. Hội nghị châu Âu tại Brussels năm 1910 đã trao cho Đức quyền bảo hộ với vùng gọi là Ruanda-Urundi, nay gồm Rwanda và Burundi. Chính quyền lúc này ở Rwanda vẫn là của người thiểu số Tutsi. Người Đức cai trị Rwanda thông qua giới lãnh đạo Tutsi này. Trên các tuyên bố, người Đức sáp nhập vùng Ruanda-Urundi với vùng đất Tanganyika hợp thành Đông Phi thuộc Đức

    [​IMG]
    Tem thư Đức miêu tả cuộc thám hiểm Đông Phi

    Trong thế chiến thứ nhất, dù thất bại ở ngay ở quê nhà và bị Đức chiếm đóng suốt 4 năm thế chiến, nhưng ở châu Phi quân Bỉ vẫn đủ sức tấn công các thuộc địa Đức. Năm 1916, lực lượng Bỉ từ Congo đã chiếm được Rwanda-Urundi từ tay Đức trong Chiến dịch Đông Phi. Sau khi Đức thua trận, Hội quốc liên ủy quyền cho Bỉ kiểm soát vùng đất này.

    Khi cai quản Rwanda, những kẻ thực dân không xóa bỏ phân quyền sắc tộc trước đó, mà còn làm nó ngặt nghèo hơn. Thực dân châu Âu duy trì ưu thế thống trị của Tutsi trong bộ máy hành chính thuộc địa. Nhưng điều quan trọng, là cách họ phân chia người Hutu và Tutsi lại không dựa trên nguồn gốc chính thống, mà lại dựa vào cách thủ công có một không hai trong lịch sử. Cụ thể, họ đo chiều cao, cỡ mũi, đưa ra 16 kiểu mắt (8 của Hutu và 8 của Tutsi). Những ai có chiều cao lớn, mũi cao, mắt của Tutsi thì được coi là Tutsi. Điều này dẫn đến sự một nghiệt ngã, là trong gia đình có cha mẹ là sự kết hợp giữa Hutu và Tutsi, có thể anh là người Tutsi trong khi em bị coi là người Hutu. Dưới sự cai trị của Đức, cơ cấu xã hội Rwanda bắt đầu bị xáo trộn.

    Oan nghiệt hơn, lâu hơn sau này, những kẻ cai trị bày ra thêm trò mới, phân biệt sắc tộc nhưng lại dựa trên tài sản. Cụ thể, lấy lý do phân biệt thủ công không chính xác, người Bỉ đổi cách phân biệt bằng cách dựa vào số gia súc. Theo đó, người Tutsi không có tài sản có thể trở thành người Tutsi. Ngược lại, người Hutu có nhiều gia súc có thể được đưa lên làm người Tutsi. Hậu quả của chính sách kì quái này, là người Tutsi tăng cường thu thuế người Hutu, cốt để thu thêm tài sản, và không cho người Hutu ngóc đầu lên. Còn người Hutu, ra sức làm đủ mọi cách, dù cả cướp bóc, chỉ để có đủ số gia súc nhằm mục đích ”trở thành người Tutsi”. Từ năm 1935 trở về sau, tên “Tutsi”, “Hutu” và “Twa” được ghi rõ trên chứng minh thư.

    [​IMG]

    Đo mắt và mũi để phân biệt người Hutu và Tutsi dưới thời thực dân Bỉ

    Giới quý tộc Tutsi ngày càng độc đoán, ngày càng ra sức thâu tóm quyền lực, không muốn người Hutu chen vào. Họ còn đặt ra chế độ giáo dục riêng cho 2 dân tộc. Người Tutsi hưởng nhiều ưu đãi, trong khi người Hutu gần như không thể học đại học. Quý tộc người Hutu cũng bị chèn ép, không thể giành lấy quyền lực chính trị. Mầm mống xung đột bắt đầu xuất hiện

    Chính sách kỳ quái của thực dân Bỉ đã để lại hậu quả tai hại là sự chia rẽ sắc tộc ngày một lớn giữa 2 dân tộc trước nay vốn sống hòa thuận. Di sản của nó, chính là các cuộc xung đột đẫm máu sau này, mà đỉnh cao là cuộc diệt chủng Rwanda năm 1994.

    3/ Thời kỳ độc lập và diệt chủng lần thứ nhất ở Rwanda

    Trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, một làn sóng cách mạng chống thực dân lan tràn khắp Trung Phi, với các nhà lãnh đạo như ****** Nyerere tại Tanzania và Patrice Lumumba tại Congo. Tình cảm chống thực dân nổi lên khắp nơi, với một nền tảng Chủ nghĩa xã hội cho châu Phi cũng như sự bình đẳng cho tất cả người dân Châu Phi được xúc tiến.

    Tổng thống Nyerere của Tanzania, như đã nói là một nhà tư tưởng ảnh hưởng lớn đến châu Phi. Năm 1958 ông đưa ra luận cương về giáo dục của mình trong quá trình viết cuốn ”Education for self-reliance” (giáo dục cho sự tự cường), trong đó phê phán hệ thống giáo dục chỉ giành cho tầng lớp ưu tú mà thực dân phương tây đã thiết lập, nhấn mạnh sự bình đẳng của các dân tộc xuất phát từ sự bình đẳng về giáo dục. Luận cương của Nyerere được nhiều người so sánh với V.Lenin trong ở Liên Xô.

    Luận cương của Nyerere được nhiều nơi đón nhận. Trong đó ở Rwanda, nhiều nhà cách mạng người Hutu đã tiếp xúc với luận cương và đưa về nước. Người Hutu ngay lập tức coi đó là một bản cáo trạng về hệ thống giáo dục cho các tầng lớp ưu tú người Tutsi trong chính đất nước của họ. Từ đó, người Hutu bắt đầu nhận thấy phải có một sự thay đổi, thông qua một cuộc cách mạng loại bỏ sự thống trị của người Tutsi.

    Nhưng cả người Hutu và Tutsi đều biết rằng trước tiên việc cần làm là giành độc lập từ Bỉ. Và công cuộc giành độc lập khi đó phân hóa thành 2 đường lối.

    Đường lối thứ nhất, chủ trương xây dựng nền cộng hòa, là chủ trương của người Hutu. Dẫn đầu bởi nhà cách mạng Gregoire Kayibanda, người Hutu thành lập đảng phái của mình, tên là PARMEHUTU.

    Ngược lại, người Tutsi chủ trương duy trì chế độ phong kiến như cũ, tức là duy trì quyền lực của Tutsi. Để đối đầu với người Hutu, họ thành lập đảng của mình tên là UNAR.

    [​IMG]
    Gregoire Kayibanda – lãnh đạo phong trào giành độc lập người Hutu, tổng thống đầu tiên của Rwanda

    Vào lúc đó, người ta biết rằng việc độc lập chỉ là việc sớm hay muộn, bởi thực dân Bỉ gần như đã chết, chỉ còn chờ ngày trao trả độc lập. Vậy nên xung đột trong cuộc đấu tranh giành độc lập ở Rwanda-Burundi thực chất là xung đột giữa hai đảng phái, hai chủ trương khác nhau của hai dân tộc.

    Vào tháng 11 năm 1959, sau sự kiện nhà cách mạng người Hutu, Dominique Mbonyumutwa bị chính quyền Tutsi bắt giữ, một tin đồn thất thiệt về cái chết của ông lan ra. Người Hutu tức giận, đổ ra đường giết hại người Tutsi. Hơn 1000 người chết, vua Tutsi phải bỏ chạy sang Uganda. Lực lượng Bỉ sau đó phải đưa quân đến vãn hồi và cải chính Mbonyumutwa chưa chết.

    Sự kiện tháng 11 năm 1959 là lời cảnh báo cuối cùng cho thực dân Bỉ, rằng họ không thể kiểm soát tình hình nữa. Vì thế chỉ vài tháng sau, Bỉ được Liên Hợp Quốc đồng ý cho tiến hành trưng cầu dân ý ở Rwanda-Burundi. Nhưng trong cuộc trưng cầu này, Rwanda và Burundi tách thành 2 quốc gia riêng biệt.

    Và kết quả: ở Rwanda người dân bỏ phiếu thành lập chế độ Cộng hòa, xóa bỏ chế độ phong kiến Tutsi. Trong khi ở Burundi, người ta duy trì chế độ quân chủ chuyên chế của Tutsi như trước kia.

    Từ đây, hai đất nước đi theo hai con đường khác nhau.

    Sau khi chính phủ cộng hòa được thành lập ở Rwanda với nội các đa phần là người Hutu, người Tutsi ở Rwanda đã ngay lập tức lo sợ và bỏ chạy khỏi đất nước. 336.000 người Tutsi đã rời khỏi Rwanda mang theo tài sản đến các nước láng giềng Uganda, Congo, Tanzania và Burundi. Dân số lúc đó của Rwanda chỉ có 3 triệu người, trong đó có 450.000 người Tutsi. Điều đó có nghĩa là, năm 1961 hơn 2/3 dân số Tutsi của Rwanda đã chạy khỏi đất nước.

    Nhưng sau khi sang nước ngoài, một số nhóm vũ trang của người Tutsi đã được thành lập. Ít lâu sau họ đã thực hiện nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Rwanda, nhưng chủ yếu là từ nước láng giềng phía Nam Burundi, nơi chính quyền là của người Tutsi. Người tị nạn ở Uganda, Tanzania, Congo ít thực hiện các hoạt động quân sự. Ở Congo, người Tutsi chủ yếu đến tỉnh Nam Kivu, nơi họ tự thành lập cộng đồng gọi là Bunyamalengi. Trong khi đó người Tutsi lưu vong ở Tanzania đã được chính quyền địa phương đối xử tốt và nhiều người định cư vĩnh viễn, từ bỏ khát vọng trở về Rwanda.

    Năm 1963, trong một cuộc tấn công bất ngờ, quân Tutsi từ Burundi đột ngột tấn công Rwanda, tiến sát thủ đô Kigali. Chính phủ Hutu đã chống trả thành công, đẩy được quân Tutsi về lại Burundi. Tuy nhiên, sau cuộc phản công đó là một chiến dịch trả thù nhằm vào người Tutsi vẫn ở lại Rwanda. Chỉ riêng tại thủ đô Kigali, 14.000 người Tutsi bị sát hại. Trên cả nước , ước tính khoảng 25.000 người Tutsi bị giết, con số khá lớn so với chỉ khoảng 100.000 người Tutsi còn ở lại Rwanda. Tài sản của người Tutsi bị cướp bóc. Đồng thời, Rwanda cắt đứt quan hệ với Burundi vì hỗ trợ phiến quân.
    Các sự kiện từ năm 1959 đến 1963 giết chết khoảng 50.000 người Tutsi, làm hàng trăm nghìn người bỏ chạy, làm giảm 70% dân số Tutsi của Rwanda. Hiện nay nó được coi là cuộc diệt chủng đầu tiên trong các cuộc xung đột Hutu-Tutsi.

    4/ Cuộc diệt chủng lần thứ nhất của Burundi năm 1972

    Như đã nói ở trên, sau khi độc lập Burundi vẫn duy trì nền quân chủ chuyên chế như trước kia. Đứng đầu bởi vua Ganwa Mwambutsa IV, chính quyền đã nỗ lực cân bằng xã hội bằng cách bổ nhiệm các vị trí trong chính phủ phân bổ đều cho cả người Hutu lẫn Tutsi. Thủ tướng Burundi thời đó là Pierre Ngendandumwe, một người Hutu.

    Tuy nhiên, chính phủ không kiểm soát được quân đội. Quân đội Burundi vẫn bị sắc tộc Tutsi kiểm soát như trước. Họ ra sức ngăn chặn, thậm chí ám sát các chính trị gia Hutu, những người bị nghi ngờ định chiếm quyền lực. Cùng với đó, quân đội cũng ủng hộ những người Tutsi tị nạn từ Rwanda.

    Ngày 15/1/1965, thủ tướng Pierre Ngendandumwe người Hutu bị một người Tutsi tị nạn từ Rwanda ám sát. Người Hutu vô cùng tức giận, đã nổi lên chiến đấu từ đây. Bạo lực bắt đầu nổ ra lẻ tẻ trong đất nước, khiến nhiều người chết. Sau khi nhà vua bổ nhiệm thủ tướng mới là Léopold Biha một người Tutsi, một số sĩ quan người Hutu đã có kế hoạch sát hại ông. Trong một cuộc diễu binh tháng 10 năm 1965, một nhóm sĩ quan Hutu đã nổ súng, bắn bị thương thủ tướng Biha.

    Trong lúc này, nổi lên nhân vật Michel Micombero, một chỉ huy quân đội người Tutsi. Michel Micombero đã chỉ huy một chiến dịch trả thù tàn bạo. 34 sĩ quan, binh lính người Hutu cùng gia đình, tổng cộng hơn 200 người bị giết hại dã man bằng xử bắn và chôn sống, kể cả những sĩ quan chưa hề tham gia đảo chính. Cuộc trả thù man rợ này càng làm sự kháng cự của người Hutu thêm dữ dội.

    [​IMG]
    Michel Micombero – nhà độc tài quân sự Burundi trên tem thư năm 1967

    Nhà vua Mwambutsa IV tỏ ra bất lực. Nhận thấy điều đó, Michel Micombero buộc vua phải lưu vong ra nước ngoài, đồng thời tự đưa mình lên làm thủ tướng, nhằm tự tay đàn áp người Hutu. Trong lúc ở nước ngoài, nhà vua đã ủy nhiệm cho con trai lên làm vua, trở thành vua Ntare V của Burundi. Nhưng Ntare V cũng ôn hòa giống như cha. Vì vậy vào năm 1966, Michel Micombero đã phế truất vua Ntare V, lên làm Tổng thống, chấm dứt nền quân chủ lập hiến, thiết lập chế độ độc tài quân sự.

    Vào ngày 27 tháng 4 năm 1972, một cuộc nổi dậy lớn của người Hutu nổ ra. Những người nổi dậy đã sát hại người Tutsi, thậm chí còn thành lập một nhà nước ly khai.

    Phản ứng với cuộc nổi loạn, Michel Micombero tuyên bố Thiết quân luật, đàn áp thành công cuộc nổi dậy của người Hutu. Sau khi cuộc nổi dậy kết thúc, một chiến dịch đẫm máu và rất quy củ nhằm vào người Hutu đã diễn ra.

    Mở đầu bằng việc thanh trừng trong lực lượng vũ trang. Hơn 700 binh sĩ quân đội và 300 cảnh sát người Hutu bị những đồng đội người Tutsi bắn chết hoặc chôn sống ngay tại đơn vị. Tiếp theo, quân đội Tutsi nhắm đến các trường học. Xe tải của quân đội đến các trường trung học và đại học, dồn giáo viên và học sinh người Hutu lên xe và đến đổ vào hố tử thần chôn sống. Các báo cáo sau đó nói toàn bộ giáo viên người Hutu của đất nước đã bị giết. Chỉ riêng ở thủ đô Bujumbura, 4.000 sinh viên đã bị chất lên xe tải và đưa đến hố tử thần. Chỉ có các trường tiểu học may mắn thoát khỏi tàn sát.

    Sau đó, tiếp tục đến công chức và linh mục người Hutu bị giết. Toàn bộ những tầng lớp tinh hoa của người Hutu đã bị tiêu diệt, chỉ để lại các tầng lớp thấp kém như nông dân, nô lệ và trẻ nhỏ. Kể cả những người Tutsi phản đối cũng bị giết.

    Những người Hutu chống đối cho biết trong cuộc diệt chủng năm 1972, 300.000 người Hutu, trong đó 50.000 trẻ em đã bị quân đội Tutsi giết hại. Còn trong Báo cáo của Ủy ban điều tra quốc tế về Burundi (2002), từ 80.000 đến 210.000 người đã bị sát hại. Hàng trăm nghìn người Hutu phải chạy sang các nước láng giềng.

    Cuộc diệt chủng năm 1972 đã làm thế giới ghê sợ. Vì nó diễn ra quá nhanh, gần như các nước không kịp phản ứng. Những gì quốc tế làm sau đó là trừng phạt chính quyền của Michel Micombero và hỗ trợ người tị nạn. Bên cạnh đó, nhiều sĩ quan quân đội người Tutsi cũng ghê sợ hành động của Michel Micombero. Năm 1976, một sĩ quan quân đội là Jean-Baptiste Bagaza đã lật đổ Micombero, chấm dứt chế độ độc tài quân sự.

    Jean-Baptiste Bagaza tiến hành một vài cải cách dân chủ, nhượng bộ người Hutu, phát triển kinh tế. Đất nước Burundi tạm thời yên bình đến những năm 90.

    5/ Chế độ độc tài và nội chiến ở Uganda

    Uganda là láng giềng phía Bắc của Rwanda. Trước khi giành độc lập, Uganda thuộc hệ thống thuộc địa của Anh. Nhờ chính sách đầu tư vào thuộc địa của người Anh, nhất là đường sắt Uganda có phần phát triển hơn các nước là thuộc địa của Pháp, Đức, Bỉ xung quanh. Đồng thời nước này có một cộng đồng lớn người gốc Ấn Độ, những người đóng góp rất lớn cho nền kinh tế. Cho đến những năm 60, Uganda có thu nhập khá cao so với các nước láng giềng, tuy rằng sự giàu có tập trung vào cộng đồng người gốc Á và một phần nhỏ người gốc Phi.

    Năm 1962, Uganda giành độc lập nhờ sự vận động của Milton Obote, người sau này trở thành tổng thống. Milton Obote ban đầu xây dựng đất nước theo hướng Xã hội chủ nghĩa. Ông chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của Tổng thống Nyerere ở Tanzania. Ông đưa ra Hiến chương Common Man’s Charter, đề ra chương trình Move to the Left (tiến về cánh tả) nhằm đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa Xã hội.

    Tuy nhiên, những chính sách này đột ngột kết thúc vào năm 1971. Trong lúc Obote đang thăm Singapore, tướng Idi Amin đã đảo chính, lên nắm quyền ở Uganda. Cũng từ đây, mở ra một thời kỳ dài đẫm máu và nước mắt của Uganda.

    Idi Amin thiết lập một chế độ độc tài hà khắc. Về kinh tế, chính quyền trục xuất và tịch thu tài sản của người gốc Á, đẩy hơn 60.000 người Ấn Độ về nước. Chẳng bao lâu sau nền kinh tế Uganda suy sụp. Về chính trị, Idi Amin phụ thuộc vào chính quyền của Muammar Gaddafi của Libya, chống lại Israel, và ủng hộ lực lượng Palestine. Trong nước, Amin thẳng tay đàn áp những dân tộc thiểu số và người đối lập. Amin nổi tiếng có nhiều sở thích giết người quái dị, bao gồm ném người cho cá sấu sông Nile ăn thịt và đứng xem. Ông cũng bị cho là đã giết vợ của mình. Rất nhiều người khác bị giam giữ vào các nhà tù tàn bạo, mà ước tính 10.000 người đã bị giết trong các nhà tù trước khi quân đội Tanzania tiến vào năm 1979.

    Trong 8 năm cầm quyền, Idi Amin sát hại ít nhất nửa triệu người Uganda, làm sụp đổ nền kinh tế. Chế độ hà khắc của y khiến không chỉ người dân mà cả quân đội Uganda cũng thù hận. Nhiều binh lính Uganda đã đào ngũ sang Tanzania, mượn danh nghĩa ủng hộ tổng thống Obote để chống Idi Amin. Họ thành lập Quân đội Giải phóng quốc gia Uganda (UNLA)

    [​IMG]

    Từ trái qua: Yoweri Museveni, Idi Amin Dada và Milton Obote, 3 nhân vật chủ chốt của lịch sử Uganda hiện đại

    Cuối năm 1978, để hướng áp lực trong nước ra bên ngoài, Idi Amin, với sự hỗ trợ của quân Libya, quân Giải phóng Palestine mở cuộc xâm lược Tanzania. Tuy nhiên, cuộc xâm lược này đã bị quân đội Tanzania, quân kháng chiến Uganda, quân đội Mozambique đánh bại. Sau đó, quân đội Tanzania vượt qua biên giới Uganda để lật đổ Idi Amin. Người dân Uganda ủng hộ quân đội Tanzania vào giải phóng. Quân đội của Amin sụp đổ nhanh chóng. Tháng 4 năm 1979, thủ đô Kampala được giải phóng, Idi Amin bỏ chạy. Trước khi bỏ chạy hắn còn sát hại hàng nghìn tù nhân trong các nhà tù.

    Chế độ độc tài bị lật đổ, nhưng chiến tranh chưa kết thúc. Tổng thống cũ Obote quay về Uganda, nhưng không còn được ủng hộ như trước kia nữa. Năm 1980 Obote thắng trong bầu cử Tổng thống, nhưng nghi án gian lận khiến nhiều đảng phái phản đối ông.

    Ở phía Bắc, những tàn quân trung thành với Idi Amin nổi dậy ở thượng nguồn Tây Sông Nile và giáp giới Sudan, với sự hỗ trợ của chính quyền Muammar Gaddafi ở Libya. Trong khi đó ở phía Nam giáp Tanzania, những quân nhân cũ trong UNLA, dưới sự chỉ huy của tướng trẻ Yoweri Museveni, tách ra thành Quân đội Kháng chiến Quốc gia (NRA) chống Obote. Trong bối cảnh đó, Obote có được sự hỗ trợ đắc lực từ Bắc Triều Tiên, nơi cung cấp vũ khí và cố vấn cho Obote.

    Bên cạnh đó, cuộc chiến còn xuất hiện một lực lượng đặc biệt. Đó là lực lượng người Tutsi từ Rwanda tị nạn ở Uganda (xem lại mục 3). Trong cuộc chiến này, những người Tutsi tị nạn đã chọn đứng bên cạnh phe của Yoweri Museveni. Trong mối liên minh này, Yoweri Museveni đã gặp Paul Kagame, nơi ông hứa sẽ hỗ trợ Kagame trong cuộc chiến ở Rwanda sau này.

    Cuộc chiến tranh diễn ra cường độ thấp, chủ yếu là chiến tranh du kích, nên gọi là ”Uganda Bush War” (chiến tranh cây bụi). Kéo dài 5 năm, chiến thuật du kích của các bên khiến đất nước Uganda kiệt quệ, người dân chán nản, quân đội mệt mỏi. Đến năm 1983, tham mưu trưởng quân đội Uganda David Oyite-Ojok thiệt mạng trong tai nạn máy bay, giáng một đòn chí mạng vào quân đội của Obote.

    Đến tháng 7 năm 1985, các chỉ huy quân sự của UNLA, Tướng Tito Okello và Bazilio Olara-Okello đã tổ chức một cuộc đảo chính lật đổ Milton Obote khỏi vị trí tổng thống, thiết lập chính quyền quân sự. Nhận thấy sự rạn nứt trong UNLA, quân NRA của Yoweri Museveni bắt đầu tấn công mạnh. Cố vấn Bắc Triều Tiên di tản khỏi Uganda. Quân NRA chiếm được thủ đô Kampala vào tháng 1 năm 1986. UNLA tan rã nhanh chóng. Để mau chóng kết thúc đổ máu, sau khi chiếm được thủ đô Yoweri Museveni đã tuyên bố tha cho tàn quân UNLA kể cả tướng Tito Okello và kêu gọi họ đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.

    15 năm dưới chế độ độc tài và nội chiến đã tàn phá nặng nề đất nước Uganda. 1 triệu người chết, hàng triệu người tàn phế. Hàng trăm nghìn quả mìn vẫn ẩn trong lòng đất. Uganda sau năm 1986 trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới, với tỷ lệ nhiễm HIV cao kỷ lục, tuổi thọ trung bình người dân giảm xuống 45 tuổi.

    6/ Sự thành lập RPF và nội chiến Rwanda

    Sau khi giành được chính quyền, tổng thống Uganda Yoweri Museveni đã giữ lời hứa của mình, ủng hộ những người Tutsi Rwanda chuẩn bị cuộc chiến tranh ở Rwanda. Năm 1987, những người Tutsi lưu vong đã thành lập Mặt trận yêu nước Rwanda (RPF), do Fred Rwigyema và Paul Kagame đứng đầu. Họ chuẩn bị về binh lực, vũ khí, với sự hỗ trợ từ Uganda. Một đài phát thanh ủng hộ RPF được thành lập ở Uganda. Thậm chí nhiều thành viên của RPF còn có vị trí trong chính quyền Uganda, điều này gây ra nhiều sự phản đối trong người dân Uganda.

    Vào thời điểm năm 1990, trên thế giới xuất hiện một thuật ngữ: thế hệ lãnh đạo mới của châu Phi. Thuật ngữ này lần đầu tiên được đưa ra bởi Bill Clinton, người sau này là tổng thống Hoa Kỳ đưa ra. Sự ra đời của thuật ngữ này, nói không quá đã thay đổi căn bản chính sách ngoại giao của nước Mỹ với châu Phi cuối thế kỷ 20. Cụ thể, lúc này chiến tranh lạnh đã đi đến hồi kết, phe Xã hội chủ nghĩa đã thoái trào. Nhiều lãnh đạo trước đây được người Mỹ ủng hộ vì lập trường chống Cộng dù họ có tồi tệ thế nào đi nữa. Đó là chế độ A-pác-thai ở Nam Phi, chính quyền thuộc địa Bồ Đào Nha ở Guine, Angola, Mozambique,…hay chế độ độc tài Mobutu Sese Seko ở Zaire. Bắt đầu từ năm 1990, chính quyền Mỹ không còn ủng hộ những chính quyền này nữa, thay vào đó muốn thay thế họ bằng các lãnh đạo mới có tài hơn, dù lập trường có thể thiên tả. Bên cạnh đó, ở những nước châu Phi trước kia theo đường lối XHCN, khi bước vào giai đoạn thoái trào, các lãnh đạo mới cũng được gọi là Thế hệ mới. Thế hệ mới mà người Mỹ đưa ra bao gồm: Yoweri Museveni của Uganda, Meles Zenawi ở Ethiopia, Isaias Afewerki của Eritrea, Jerry Rawlings của Ghana,…Trong số các nhân vật, có một người rất đặc biệt: Paul Kagame của Rwanda. Đặc biệt ở chỗ lúc đó thế giới nhiều người còn chưa biết Kagame là ai, bởi lúc đó Kagame mới chỉ là chỉ huy lực lượng RPF đang chiến đấu ở Rwanda, chưa hề giành được chính quyền. Phải mãi đến sau này, người ta mới hiểu cái lẽ của Clinton.

    Ở trong nước Rwanda, năm 1973 xảy ra sự kiện Juvénal Habyarimana lật đổ tổng thống Grégoire Kayibanda, người đã cầm quyền từ khi độc lập năm 1961. Habyarimana nắm quyền, giúp kinh tế đất nước tương đối thịnh vượng trong nhiều năm. Nhưng đến năm 1990. Giá kim loại cùng với giá chè, cà phê trên thị trường thế giới đồng loạt giảm mạnh. Nền kinh tế Rwanda, vốn phụ thuộc lớn vào xuất khẩu chè, cà phê, bị khủng hoảng nặng nề. Nhiều cuộc biểu tình nổ ra. Điều này khiến cho RPF quyết định phát động cuộc chiến chống chính phủ Hutu.

    Ngày 1 tháng 10 năm 1990, quân RPF phát động cuộc tấn công vào miền Bắc Rwanda. Nhưng ngay ngày hôm sau RPF đã hứng chịu tổn thất lớn khi chỉ huy Fred Rwigyema bị bắn chết. Cuộc tấn công của RPF bị chặn lại. Sau đó, các đồng minh của chính quyền Hutu là Pháp, Bỉ và Zaire đã gửi quân đến Rwanda hỗ trợ tổng thống Habyarimana. Với ưu thế có được, đến ngày 30/10 chính quyền Rwanda tuyên bố đã đánh bại RPF. Trong đó ngày 11 tháng 10, lợi dụng cuộc tấn công của RPF, chính phủ Hutu đã sát hại 383 người Tutsi ở thủ đô Kigali. Nhưng lúc này, không ai để ý đến sự kiện này, mặc dù nó là sự cảnh báo thảm họa đang cận kề người Tutsi.

    Sau cuộc tấn công thất bại, RPF suy yếu nghiêm trọng. Họ bị tan rã thành nhiều toán quân nhỏ, mất tinh thần. Trong bối cảnh khó khăn, Paul Kagame từ Mỹ trở về, đã tái tổ chức lại RPF, quyết định rút quân về vùng núi Virunga cực kỳ hiểm trở để kháng chiến du kích. Chính quyền Hutu không biết về sự di chuyển này, trong khi nhiều người Tutsi cả trong và ngoài nước tìm đến RPF. Paul Kagame xây dựng một quân đội kỷ luật cao, trừng phạt những binh lính nhũng nhiễu người dân, dùng tiền để mua hàng thay vì cướp bóc,… làm uy tín của RPF tăng trong dân chúng. Quan trọng hơn, có nhiều người Hutu bất mãn với chính quyền trung ương, cũng gia nhâp với RPF.

    [​IMG]

    Paul Kagame (trái) và Juvénal Habyarimana (phải) – hai chỉ huy của cuộc nội chiến Rwanda

    Qua năm 1991, RPF nối lại chiến tranh du kích. Cuộc chiến giằng co suốt 3 năm đến năm 1993 mà không có tiến triển lớn nào. Trong khi đó, nền kinh tế Rwanda có vẻ không chịu nổi áp lực từ chiến tranh, phải dựa vào viện trợ từ Pháp. Vì điều này mà đến năm 1993, chính quyền Rwanda đã nhờ Liên hợp quốc đứng ra giúp đàm phán. LHQ thuyết phục thành công RPF ngồi vào đàm phán ở Arusha, Tanzania. Tuy nhiên, tiến trình đàm phán khá khó khăn, nhiều lần bị trì hoãn. Đến tháng 2 năm 1993, RPF vẫn tấn công và tiến sát đến thủ đô Kigali. Nhưng bất ngờ họ dừng lại ngay trước cửa ngõ thủ đô. Có ý kiến cho rằng RPF lo sợ quân đội Pháp đang đóng trong thành phố. Đến ngày 4/8/1993, hiệp ước Arusha cùng với lệnh ngừng bắn được kí kết. Người ta nghĩ rằng hòa bình đã đến.

    Nhưng hòa bình chỉ kéo dài 8 tháng, ngày 6 tháng 4 năm 1994 máy bay của Tổng thống Habyarimana bị bắn rơi và ông thiệt mạng, mở đầu cho cuộc diệt chủng Rwanda.

    Nội chiến Rwanda bắt đầu từ năm 1990, với sự nổi lên của RPF, là tiền đề và nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến nạn diệt chủng ở Rwanda.

    7/ Burundi những năm 90 và diệt chủng lần thứ 2 (1993)

    Như đã nhắc ở trên, sau khi thực hiện cuộc diệt chủng đẫm máu năm 1972 (xem mục 4), chế độ độc tài của Michel Micombero bị lật đổ năm 1976. Người thay thế ông là sĩ quan quân đội Jean-Baptiste Bagaza, có tư tưởng tiến bộ, thực hiện cải cách, hòa hợp người Hutu và Tutsi. Trong thời gian ông cầm quyền, Burundi được yên ổn, không bị kéo vào chiến tranh lạnh. Thế nhưng, Jean-Baptiste Bagaza phạm một sai lầm chết người. Ông công khai chống lại giáo hội Công giáo, tôn giáo lúc này đã là tôn giáo chính của Burundi. Thế là xung đột giữa chính quyền và giáo hội lên cao cùng với các cuộc đàn áp Giáo hội. Vì thế lực xã hội của Giáo hội quá lớn, Jean-Baptiste Bagaza phải rời chức vụ năm 1987.

    Đến năm 1993, trong một cuộc bầu cử tự do, một tổng thống người Hutu, Melchior Ndadaye đã được bầu. Nhưng giống như Rwanda, giá chè và cà phê giảm mạnh những năm 90 đã phá hủy nền kinh tế Burundi. Vì điều này, chính phủ của Melchior Ndadaye chịu áp lực lớn, trong đó có từ quân đội vẫn do người Tutsi lãnh đạo.

    Đến ngày 21 tháng 10 năm 1993, những kẻ cực đoan trong quân đội Tutsi đã sát hại tổng thống người Hutu. Ngay lập tức nó gây ra sự giận dữ trong dân chúng Hutu. Người Hutu bị kích động tràn đi với dao rựa chém giết người Tutsi trên khắp cả nước. Mặc dù chính phủ tuyên bố 25.000 người Tutsi bị giết, nhưng các thống kê dân số năm sau đó chỉ ra dân số Tutsi của Burundi giảm hơn 100.000 người. Một số lượng khổng lồ người tị nạn Burundi đã tràn qua lãnh thổ Zaire, và đây mới thực sự là mốc khởi đầu cho khủng hoảng tị nạn ở vùng Hồ Lớn châu Phi.

    Liên hợp quốc ước tính các trại tị nạn ở Zaire nhận 150.000 đến 300.000 người tị nạn vào năm 1993. Trong các trại tị nạn, dịch tả hoành hành khiến khoảng 5% người tị nạn bị chết. Để hỗ trợ, 10.000 lính gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc đã đến Zaire trong năm 1993.

    Nhưng bù lại, trong cuộc diệt chủng vào năm sau ở Rwanda, hàng trăm nghìn người Tutsi ở Rwanda đã tràn vào lãnh thổ Burundi

    Năm 2002, Ủy ban điều tra quốc tế của Liên Hợp Quốc về Burundi đã gọi vụ giết người Tutsi hàng loạt năm 1993 là một cuộc diệt chủng. Đây là sự kiện diệt chủng thứ 2 ở Burundi sau năm 1972, và nó diễn ra chỉ 1 năm trước sự kiện diệt chủng năm 1994 ở Rwanda.

    Ngoài ra, sự kiện năm 1993 còn châm ngòi cho cuộc nội chiến Burundi, kéo dài đến tận năm 2005 mới kí kết hiệp định hòa bình. Trong từng đó năm, nửa triệu người Burundi đã chết, đất nước bị tàn phá nặng nề và đến nay Burundi vẫn là một trong những đất nước nghèo nhất thế giới.

    8/ Diệt chủng Rwanda 1994 và khủng hoảng tị nạn

    Sự kiện diệt chủng Rwanda năm 1994, là sự kiện nổi tiếng nhất, được nói tới nhiều nhất, có thể dễ dàng tìm thấy tư liệu. Vì vậy trong bài viết này, xin được phép chỉ nói qua mà không đi sâu vào sự kiện.

    Hiện nay xung quanh sự kiện này vẫn còn rất nhiều bí ẩn và tranh cãi chứ không phải đã được biết hoàn toàn. Đơn giản là tranh cãi: ai đã bắn hạ máy bay của Tổng thống Rwanda?.

    Lẽ thường có thể dễ dàng nghĩ bắn rơi máy bay của tổng thống người Hutu phải là phiến quân người Tutsi. Đây là điều mà lãnh đạo Hutu, Zaire và Pháp tuyên bố.

    Tuy nhiên, cũng có rất nhiều bằng chứng thuyết phục cho thấy rằng, đã có một kế hoạch được lên sẵn của những kẻ cực đoan người Hutu nhằm lấy cớ thực hiện một cuộc thảm sát nhằm vào người Tutsi.

    Chỉ vài giờ sau khi cái chết của Tổng thống được tuyên bố, chẳng biết từ đâu 1.157 hàng rào đã nhanh chóng được dựng lên khắp thủ đô Kigali. Người ta cho rằng rất khó để có số lượng hàng rào như vậy chỉ sau một đêm, chỉ có khả năng những hàng rào đó đã được chuẩn bị từ trước.

    Trên đài phát thanh, người ta phát đi các bài hát cùng với lời kêu gọi tàn sát người Tutsi. Họ kêu gọi mọi người hãy dùng vũ khí để giết ”những con gián”. Những con gián bao gồm cả người Tutsi và những người Hutu, Twa dám giúp đỡ người Tutsi. Những cuộn băng có vẻ đã được ghi âm từ vài ngày trước khi thực sự diễn ra cuộc diệt chủng.

    Quan trọng hơn, trước cuộc diệt chủng này, người Hutu đã xây dựng một lực lượng dân quân khá lớn, gọi là Interhamwe. Interhamwe gồm các thanh niên Hutu cực đoan trong dân thường, được trang bị dao rựa, cuốc, dùi cui và súng trường để sẵn sàng phối hợp với binh lính người Hutu trong quân đội Rwanda hình thành đội quân giết người. Khi cuộc diệt chủng diễn ra, Interhamwe đã có trong tay danh sách những người Tutsi ở nơi sống của họ, và họ biết chắc chắn phải tìm mục tiêu ở đâu.

    Trong hơn 100 ngày, đất nước Rwanda chìm trong loạn lạc đẫm máu không thể tưởng tượng được ở nơi nào trên thế giới. Trên 100% các ngôi làng của đất nước Rwanda đều có các vụ thảm sát. Người Tutsi bị những người hàng xóm Hutu của mình chém chết bằng dao, vứt xác ra đường. Trong các gia đình, người Hutu chém chết vợ, chồng, con cái người Tutsi. Thậm chí họ sẵn sàng giết bất cứ người Hutu nào có ý định ngăn cản cuộc giết chóc hoặc che dấu người Tutsi. Họ cũng sẵn sàng giết hại các linh mục, tu sĩ, thậm chí cả lính Liên Hợp Quốc bảo vệ người Tutsi.

    [​IMG]

    Không có số liệu chính thức ghi lại số người bị giết. Nhưng Rwanda có chính sách thống kê dân số liên tục, và dựa vào kết quả thống kê sau diệt chủng người ta thấy 75% dân số Tutsi, khoảng 800.000 người Tutsi người đã bị giết. Khoảng 400.000 người Tutsi sống sót bỏ chạy qua các nước láng giềng. Đất nước gần như sạch bóng người Tutsi. Ngoài ra, 200.000 người Hutu ôn hòa, và đặc biệt là 30% dân số người Twa vốn đã rất ít cũng bị thảm sát do bị cáo buộc giúp đỡ người Tutsi. Họ được coi là những nạn nhân bị lãng quên của cuộc diệt chủng.

    Hãm hiếp được sử dụng như công cụ ”gieo giắc cái chết đau đớn và chậm rãi cho những con gián” được những kẻ cực đoan áp dụng. Họ thả hàng nghìn tù nhân nhiễm HIV từ các nhà tù thành các ”đội quân hiếp dâm” có nhiệm vụ truyền HIV cho phụ nữ Tutsi. Những kẻ hãm hiếp còn có các hành động man rợ như cắt âm vật, buộc làm nô lệ ******** hoặc cưỡng bức phá thai. Trong vòng 100 ngày của cuộc tàn sát đã có hơn 250.000 phụ nữ và trẻ em gái bị hãm hiếp. Tuy vậy, cũng chỉ có 2000 phụ nữ còn sống nhiễm HIV, đơn giản là họ đa phần sẽ bị giết sau khi bị hãm hiếp.

    Ngoài 300.000 trẻ em bị sát hại, cuộc diệt chủng để lại cho Rwanda 95.000 trẻ mồ côi và năm 2001 con số là 264.000.

    Bất chấp cuộc thảm sát người Tutsi, quân RPF của Paul Kageme vẫn tiến quân nhanh chóng. Quân đội RPF được trang bị tốt hơn, được đào tạo tốt, kỷ luật cao và được chỉ huy giỏi lãnh đạo nhanh chóng đánh bại quân đội dù đông nhưng nghèo nàn và kỷ luật kém của người Hutu. Ngay trong tháng 4 RPF đã chiếm được phần lớn thủ đô Kigali. Cuộc tiến công của RPF diễn ra đồng thời với cuộc diệt chủng. Đến ngày 4/7/1994, toàn bộ đất nước Rwanda đã được RPF giải phóng, ngoại trừ vành đai nhỏ phía Tây Nam do quân đội Pháp lập nên để bảo vệ người Hutu khỏi sự trả thù.

    Ngày 4/7 được chọn làm ngày giải phóng và là ngày nghỉ lễ công cộng ở Rwanda. Xa hơn, ngày này cũng đánh dấu chấm dứt nạn diệt chủng Rwanda, một trong những cuộc diệt chủng khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại.

    [​IMG]
    Bản đồ cuộc tiến công của RPF trong sự kiện diệt chủng Rwanda 1994

    Tuy nhiên, sau ngày 4/7 đến lượt người Hutu bỏ chạy.

    Lo sợ bị trả thù vì hành động tàn bạo với người Tutsi trước đó, người Hutu đã ồ ạt rời bỏ nhà cửa chạy trốn sau khi RPF giành được chính quyền. Ban đầu họ chạy đến khu vực ”Turquoise” (có nghĩa là Ngọc lam), một vùng an toàn do quân đội Pháp thiết lập ở phía Tây Nam đất nước. Tuy nhiên người Pháp bị choáng ngợp bởi số lượng người Hutu tị nạn. Vùng Ngọc lam được xây dựng cho 150.000 người, nhưng con số người tị nạn đạt tới 2 triệu. Không còn cách nào khác, quân Pháp phải nhờ chính quyền Mobutu Sese Seko mở cửa cho 2 triệu người Hutu tràn vào miền Đông Congo. Nên nhớ rằng trước đó, hàng trăm nghìn người tị nạn từ Burundi đã đến đây. Sự kiện này gây ra Khủng hoảng tị nạn Hồ Lớn, với 2,5 triệu người sống trong các trại tị nạn trong lãnh thổ Zaire (nay là CHDC Congo).

    Người tị nạn phải sống trong điều kiện tồi tệ ở các trại trong lãnh thổ Zaire. Dịch tả bùng phát, khiến 600 người chết mỗi tuần vào tháng 7 năm 1994. Khi con số lên đến 2000 người chết 1 tuần, Liên Hợp quốc phải tuyên bố thảm họa, và thực hiện chiến dịch cứu trợ khẩn cấp lớn nhất lịch sử, tạm thời giải quyết được khủng hoảng tị nạn năm 1994

    Tuy nhiên, người ta đã không giải quyết được vấn đề tối quan trọng là nơi ở cho người Hutu tị nạn. Người Hutu không dám trở về Rwanda do lo sợ trả thù, trong khi chính quyền Zaire cũng không muốn giữ họ. Những năm sau, khi quốc tế dồn sự chú ý vào Chiến tranh Nam Tư, viện trợ cho vùng Hồ Lớn giảm đi, người tị nạn Hutu lại lâm vào cảnh khủng hoảng. Các nhóm vũ trang đã lợi dụng cảnh khốn cùng của người dân để quân sự hóa các trại tị nạn. Và đó chính xác là nguồn gốc của các cuộc xung đột sau này ở vùng Hồ Lớn châu Phi trong thế kỷ 21.
  4. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    9/ Phản ứng quốc tế trong sự kiện diệt chủng Rwanda

    Ngày nay người ta thống nhất rằng, sự do dự của cộng đồng quốc tế, cụ thể là Mỹ và Liên Hợp quốc trong cuộc diệt chủng ở Rwanda là nguyên nhân đẩy sự kiện lên mức thảm họa. Đúng là khi cuộc thảm sát diễn ra, dù có 2.500 quân gìn giữ hòa bình Liên Hợp quốc đóng ở Rwanda, không tính quân đội Pháp, cùng với hàng chục nghìn quân LHQ đóng ở Burundi và Zaire gần đó, nhưng rốt cuộc họ đã không có hành động nào để ngăn chặn giết chóc. Tương tự, quân đội Mỹ dù lúc đó hoàn toàn đủ khả năng để đưa quân vào châu Phi, nhưng cuối cùng Tổng thống Bill Clinton đã chọn cách im lặng, bất chấp việc đồng minh của Clinton là Paul Kagame đã thỉnh cầu Tổng thống Mỹ.

    Nhưng để hiểu lý do thực sự tại sao Tổng thống Clinton từ chối can thiệp vào Rwanda, phải ngược dòng thời gian lại 1 năm, năm 1993, tại đất nước Somali vùng Đông Phi, một sự kiện xảy ra đã thay đổi gần như toàn bộ chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ với châu Phi.

    Năm 1991, Somali bắt đầu rơi vào hỗn loạn do sự tranh đấu của các phe phái sau khi chế độ Xã hội chủ nghĩa của Siad Barre sụp đổ. Chiến tranh kéo dài nhiều năm khiến Somali rơi vào nạn đói nặng nề làm 300.000 người chết đến năm 1992. Tình hình khẩn cấp buộc Liên Hợp Quốc phải triển khai quân đội cùng với hàng hóa cứu trợ đến Somali. Tuy nhiên, nhiều lãnh chúa Somali, trong đó đang chiếm giữ thủ đô Mogadishu là quân của tướng Mohamed Farrah Aidid, không chấp nhận sự hiện diện của Liên Hợp Quốc và tấn công họ, giết chết nhiều nhân viên Liên Hợp Quốc. Để ngăn chặn Mohamed Farrah Aidid, đặc nhiệm Mỹ đã mở chiến dịch nổi tiếng mang tên ”Gothic Serpent” (rắn Gothic) tấn công Mogadishu để bắt Mohamed Farrah Aidid, đưa ra tòa án quốc tế xử tội.

    Tuy nhiên những gì diễn ra sau đó là một thảm họa với nước Mỹ.

    Chiến dịch thất bại, không bắt được Mohamed Farrah Aidid. 2 trực thăng Black Hawk bị bắn hạ, điều khiến cả thế giới nhớ đến chiến dịch với tên gọi ”Black Hack Down” (diều hâu gãy cánh) mà quên hẳn tên ban đầu ”Gothic Serpent”. 18 binh sĩ Mỹ bị chết, con số tuy nhỏ hơn rất nhiều so với 1.200 lính Somali thiệt mạng, nhưng đã là đòn trời giáng với chính phủ Hoa Kỳ. Đặc biệt, khi những hình ảnh về xác lính Mỹ bị bỏ lại và kéo lê đường phố Mogadishu được Somali phát đi, nó đã trở thành sự ô nhục với nước Mỹ. Hạ viện điên cuồng chỉ trích Tổng thống Clinton vì cái chết của 18 binh sĩ. Ngay sau đó, Tổng thống ra lệnh rút hết lính Mỹ khỏi Somali bỏ dở nhiệm vụ hộ tống Liên Hợp Quốc.

    Cuộc ”gãy cánh” ở Somali là thất bại tủi nhục nhất của quân đội Mỹ sau thất bại ở Việt Nam. Quan trọng hơn, nó đã đánh dấu sự thay đổi hoàn toàn chính sách ngoại giao của Mỹ với Lục địa đen. Chính quyền Mỹ sau thất bại trở nên rất dè dặt và cẩn trọng, nói cách khác là muốn tránh xa mọi cuộc xung đột và ý định can thiệp vào châu Phi, kể cả là hoạt động nhân đạo. Từ thời điểm đó, trong chính giới và quân đội Mỹ đã hình thành một luật bất thành văn: ”Không bao giờ trở lại châu Phi”.

    Đó là lý do năm 1994, dù có quân ở Zaire ngay gần đó, Tổng thống Clinton đã không có một hành động nào, và quân đội Mỹ hoàn toàn đứng ngoài cuộc. Dù vậy, với cá nhân Clinton, đó vẫn là một sự đáng tiếc. Sau này Clinton thăm Rwanda 2 lần năm 1998 và 2005, với tư cách lần lượt là tổng thống và khách của Tổng thống Rwanda Paul Kagame, đồng minh quan trọng của Clinton ở châu Phi. Cả 2 lần, Bill Clinton đều ”nhân danh người dân Mỹ, xin lỗi người dân Rwanda vì đã không nỗ lực hết sức để ngăn chặn thảm họa diệt chủng năm 1994”.

    Còn với Liên Hợp quốc, họ cũng có lý do để không cạn dự vào Rwanda. Đó là sự kiện sát hại 10 lính gìn giữ hòa bình người Bỉ ngay trong đêm bắt đầu cuộc thảm sát. Vào thời điểm đêm 6/4/1994, lực lượng dân quân Rwanda đã bắt giữ 15 lính thuộc phái bộ Liên Hợp Quốc ở Kigali. 5 người Ghana được thả, nhưng 10 người Bỉ đã bị tra tấn và sát hại dã man. Họ bị lính Rwanda chặt gân chân, cắt bộ phận sinh dục nhét vào miệng đến nghẹt thở và chết.

    Cái chết của các binh sĩ Bỉ đã làm chính phủ Bỉ đơn phương rút hết lính của mình khỏi Rwanda mà không qua lệnh LHQ. Ngay sau đó, tổng thư kí LHQ Kofi Annan cũng phải ra lệnh sơ tán LHQ khỏi Rwanda. Mặc dù vậy, vẫn có một số binh sĩ LHQ cố gắng giúp đỡ người Tutsi chạy chốn, và kết quả là họ cũng bị giết. Có thêm 5 lính LHQ, gồm 3 người Ghana, 1 người Uruguay và 1 người Senegal thiệt mạng cho đến khi diệt chủng kết thúc.

    [​IMG]

    Chân dung 10 lính gìn giữ hòa bình người Bỉ bị sát hại trong sự kiện diệt chủng Rwanda

    Đầu tháng 4 năm 2004, tưởng niệm 10 năm nạn diệt chủng Rwanda, các nhà lãnh đạo Liên hiệp quốc hứa hẹn rằng lịch sử đau thương ở Rwanda sẽ không bao giờ lặp lại một lần nữa.

    Vai trò tích cực hiếm hoi của lính nước ngoài là quân đội Pháp đã mở một vùng an toàn cho người Hutu chạy trốn sau khi người Tutsi giành lại chính quyền. Tuy rằng khu vực tị nạn này nhanh chóng quá tải do có đến 2 triệu người Hutu chạy trốn. Cuối cùng, quân đội Pháp đã mở cửa biên giới Zaire cho người tị nạn chạy qua. Nếu không có quân đội Pháp, không biết sẽ có thêm bao nhiêu người Rwanda phải bỏ mạng.

    10/ Mobutu Sese Seko, Laurent-Désiré Kabila và chiến tranh Congo lần thứ nhất

    Lịch sử Congo suốt thời chiến tranh lạnh chỉ trải qua 2 nhà lãnh đạo quan trọng, một rất ngắn vào một rất dài.

    Đầu tiên là Patrice Lumumba, một nhà cách mạng có hơi hướng Cộng sản, thân Liên Xô đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập từ Bỉ năm 1960. Tuy nhiên, khi lãnh đạo đất nước, quyết định quốc hữu hóa các mỏ tài nguyên, đặc biệt là Uranium để giao cho Liên Xô của ông đã vấp phải phản đối của các vùng sở hữu nhiều tài nguyên, trong đó vùng Katanga đòi ly khai. Hỗn loạn ở Congo tạo cớ người Mỹ và Bỉ can thiệp, và CIA đã qua mặt chính quyền Mỹ ám sát Lumumba năm 1961.

    Congo rơi vào tình trạng vô chính phủ, các phe phái Cộng sản và chống Cộng nổi lên đánh nhau. Cả Che Guevara cũng đã đến Congo năm 1965 với ý định làm cách mạng ở nước này, nhưng cuối cùng đã bỏ dở. Đến hết năm 1965, Mobutu Sese Seko, một sĩ quan mới 30 tuổi nhưng đã mang hàm đại tá, lên nắm quyền và lập nên chế độ độc tài kéo dài 32 năm.

    [​IMG]
    Thủ tướng Cộng sản Congo Lumumba bị trói trên xe quân đội trước khi bị sát hại

    Mobutu là một nhà độc tài kỳ lạ của lịch sử thế giới. Ông có đặc điểm là tinh thần dân tộc cao và bài ngoại, đồng thời có tệ sùng bái cá nhân hơn cả Stalin. Mobutu Sese Seko là tên gọi tắt của phương Tây gọi ông. Còn trong nước, người dân Congo phải gọi đúng đầy đủ tên của Mobutu là: ”MOBUTU SESE SEKO KUKU NGBENDU WA ZA BANGA”. Theo tiếng dân tộc Ngbandi của Mobutu nghĩa là ”một chiến binh hùng mạnh, nhờ sức mạnh và lòng can đảm đã đạp bằng mọi trở ngại, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đọc sai tên đầy đủ của Mobutu có thể bị bỏ tù.

    Mobutu đổi cả tên đất nước, từ Congo thành Zaire, sau đó là đổi tên tất cả các con sông, loại bỏ toàn bộ các tên mà người châu Âu đặt, đổi về tên gọi truyền thống của các dân tộc Congo. Mobutu rất ghét thiên chúa giáo, cho rằng các nhà truyền giáo châu Âu là kẻ xâm lược Congo. Người ta có thể bị bỏ tù 5 năm nếu đặt tên thánh bằng tiếng Latin cho một đứa trẻ Congo.

    Mobutu còn tự sáng tạo cho mình một kiểu thời trang riêng, bắt nam giới Congo mặc theo. Đặc biệt, Mobutu có một chiếc mũ da báo lúc nào cũng đội trên đầu. Theo Mobutu, điều này là do lúc trẻ ông đã đối đầu và giết chết một con báo. Do đó, hình ảnh con báo gấm chính là biểu tượng sức mạnh của ông, là biểu hiện sự tôn sùng cá nhân của Mobutu. Người ta đặt cho ông biệt danh ”thống chế báo gấm”.

    Về công việc lãnh đạo đất nước, người ta nhận xét Mobutu: ”Không ác, nhưng tồi”. Quả thực, Mobutu là nhà độc tài hiếm hoi không có bàn tay nhuốm máu. Dù lập trường chống Cộng kịch liệt, ”chống Cộng suốt đời”, Mobutu rất ít khi giết những kẻ đối lập, vì đơn giản ông đã bỏ án tử hình. Các tù nhân thường sẽ bị bắt làm lao động không công cho nhà nước Zaire.

    Nhưng Mobutu, có lẽ là kẻ tham nhũng ghê gớm nhất thế giới, người ta phải nói hắn là kẻ ”xé đất nước ra bán lẻ”. Hắn không tham nhũng một mình, mà còn dung túng cho một bộ máy quan chức tham nhũng không biết điểm dừng của Zaire. Mobutu thường nói với các quan chức: ”Cứ lấy đi, nhưng đừng quá nhiều”. Nền kinh tế Congo dưới thời Mobutu gần như không có gì ngoài đào kho khoáng sản khổng lồ dưới lòng đất lên bán. Nhưng, tuyệt đại đa số số tiền thu được đều chảy vào túi Mobutu và các quan chức tham nhũng, trong khi người dân ngày càng nghèo khổ. Mặc dù đa số người dân sống ở mức nghèo đói cùng cực, Zaire vẫn là nước nhập xe sang Mercedes nhiều nhất châu Phi, tất nhiên là phục vụ Mobutu Sese Seko và tay chân của hắn. Hắn còn sở hữu một loạt các biệt thự sang trọng hàng trăm triệu USD, trong khi đa phần cư dân Congo không có nhà ở.

    Càng về sau, nền kinh tế Congo càng ốm yếu do tham nhũng lan tràn và lạm phát. Cùng lúc tài nguyên cạn kiệt dần, giá kim loại trên thế giới giảm vào những năm 90 (cũng chính là nguyên nhân hủy hoại nền kinh tế nước láng giềng Rwanda) khiến Zaire không còn tiền. IMF ngán ngẩm tình trạng tham nhũng vô độ ở Zaire, không dám cứu trợ. Trái ngược với đời sống xa hoa của các quan chức ở thủ đô Kinshasa, người dân Zaire sống trong cảnh nghèo đói hơn cả dưới thời thực dân Bỉ. 90% đất nước Zaire không có đường nhựa. Mạng lưới điện thoại còn sử dụng từ thời thực dân Bỉ, không được nâng cấp trong hàng chục năm. Đường sắt bị bỏ hoang, các mỏ khai khoáng đóng cửa. Thu nhập bình quân chỉ có 120 USD/năm. Nói chung, đất nước Zaire vào những năm 90 là một ”quốc gia đang hấp hối”.

    Trước kia, chế độ Mobutu được Hoa Kỳ và châu Âu chống lưng vì lập trường chống cộng quyết liệt. Tuy nhiên, từ những năm 90, chính giới Hoa Kỳ đưa ra thuật ngữ ”thế hệ lãnh đạo mới của châu Phi”. Chính sách của Hoa Kỳ thay đổi, ngừng hỗ trợ các nhân vật từng ủng hộ trước đây như Mobutu hay chế độ phân biệt chủng tộc A-pác-thai ở Nam Phi. Đổi lại là ủng hộ các nhà lãnh đạo mới, tài năng hơn dù có xu hướng thiên tả như Museveni của Uganda hay Paul Kagame của Rwanda, và đặc biệt là Kabila, một người Cộng sản cũ, kẻ thù trực tiếp của Mobutu. Đồng minh cuối cùng của Mobutu là Pháp cũng bỏ rơi hắn.

    Trong lúc đó Mobutu lại mắc bệnh nan y. Mặc dù vậy ông vẫn tham quyền cố vị nắm giữ chức tổng thống, nhưng thực tế không còn làm việc được. Ở nhiều vùng phía Đông xa xôi, các nhóm vũ trang đã tách khỏi chính phủ trung ương Kinshasa, chiếm giữ nhiều vùng mà Mobutu cũng không thể điều động quân đội đi đánh dẹp. Quân đội Zaire lúc đó cũng thê thảm. Binh lính không được trả tiền lương. Nhưng khi binh sĩ hỏi Mobutu, ông trả lời: ”Tại sao tôi phải trả lương cho các anh khi đã cho các anh vũ khí?”. Điều đó được nhiều người hiểu là Mobutu khuyên binh lính đi cướp bóc. Và điều đó thực sự đã xảy ra. Quân đội Congo tan rã từng mảng lớn, đào ngũ, vô kỷ luật và cướp bóc tràn lan,… Tất cả báo hiệu những giờ phút cuối cùng của chế độ.

    Giữa lúc này, một nhân vật trở lại: Laurent-Désiré Kabila, một nhà cách mạng Marxist người Congo, có một cuộc đời rất đáng nể. Ông chỉ sống 60 tuổi, nhưng đã giành 30 năm cuộc đời lăn lộn ở nước ngoài tìm đường đấu tranh cho đất nước.

    Ông đã tham gia chống chế độ độc tài của Mobutu Sese Seko từ năm 20 tuổi, ngay sau khi thủ tướng Lumumba bị sát hại. Ông là Phó chỉ huy của Đoàn thanh niên Balubakat, một tổ chức gần giống Đoàn Thanh niên ở Việt Nam.

    Kabila hoạt động ở miền Đông Congo. Tại đây năm 1965, ông đã gặp và liên kết với những chiến sĩ Cuba trong đó có Che Guevara. Tuy nhiên Che Guevara đã bỏ liên minh, đến Bolivia nên cuộc nổi dậy ở Congo thất bại.

    [​IMG]
    Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela (giữa) làm trung gian đàm phán cho nhà lãnh đạo Zaire Mobutu (trái) và lãnh đạo quân kháng chiến Congo Kabila (phải) vào năm 1997. Có thể thấy sự mệt mỏi vì bệnh tật trên khuôn mặt của Mobutu trong những tháng cuối cuộc đời

    Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela (giữa) làm trung gian đàm phán cho nhà lãnh đạo Zaire Mobutu (trái) và lãnh đạo quân kháng chiến Congo Kabila (phải) vào năm 1997. Có thể thấy sự mệt mỏi vì bệnh tật trên khuôn mặt của Mobutu trong những tháng cuối cuộc đời

    Căn cứ bị thất thủ, Laurent-Désiré Kabila phải chạy khỏi đất nước cùng khoảng 100 đồng chí sang Tanzania nhờ nhà lãnh đạo Nyerere giúp đỡ. Ông đã ở Tanzania hơn 30 năm trời, buôn lậu gỗ, vàng, phục vụ quán ăn để nuôi lực lượng kháng chiến. Cho đến năm 1997, chỉ còn 16 đồng chí của ông còn sống. Ở Congo, Mobutu Sese Seko tuyên truyền Kabila đã chết để dập tắt ý chí đấu tranh của người Congo.

    Vào những năm 90, khi chế độ Mobutu suy yếu, Kabila đã tìm cách trở về. Ông được người Tanzania giới thiệu với tổng thống Uganda Museveni và Tổng thống Rwanda Kagame, những kẻ thù của Mobutu Sese Seko. Ngoài ra, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng hỗ trợ Kabila rất nhiều. Nhờ đó, lực lượng của Kabila lớn mạnh nhanh chóng. Nhưng cơ hội chỉ thực sự đến với Kabila vào năm 1994, khi nạn diệt chủng Rwanda diễn ra. 2 triệu người Hutu tràn vào lãnh thổ Zaire, Kabila đã tranh thủ tình hình hỗn loạn trở về Zaire, đến tỉnh Nam Kivu, nơi có những người Tutsi tị nạn từ những năm 1960. Những người Tutsi ủng hộ Kabila vì mối quan hệ của ông với chính quyền Tutsi ở Rwanda

    Những người Hutu tị nạn đến Congo nhanh chóng tái vũ trang, tấn công trở lại Rwanda cũng như tấn công những người tị nạn Tutsi đã có mặt trước đây ở Zaire. Để chấm dứt mối đe dọa, quân đội Rwanda của Kagame đã tiến vào đất Congo tiêu diệt các trại Hutu tị nạn, đồng thời liên kết, giúp đỡ cho quân du kích của Kabila. Quân Uganda cũng tiến vào Zaire từ phía Đông Bắc hỗ trợ cho Kabila. Còn ở phía Tây xa xôi, Angola, một quốc gia Xã hội chủ nghĩa khác, cũng tấn công Zaire. Một lý do để Angola tấn công Zaire, là do sự hiện diện của lực lượng ”*********” UNITA trên lãnh thổ Zaire.

    Năm 1997, mọi sự đã chín muồi. Lực lượng của Kabila bắt đầu tiến mạnh về phía Tây. Họ gần như không gặp chút kháng cự đáng kể nào từ quân đội của Mobutu. Thứ duy nhất cản họ, là tình trạng đường xá tồi tệ của Zaire. Quân của Kabila giải phóng hầu hết các vùng đất của đất nước, trong khi Mobutu bị bệnh nan y đang hấp hối trong dinh thự. Khi quân Kabila tiến sát thủ đô, Mobutu chạy đến Morocco, nơi ông chết chẳng bao lâu sau đó, ngày 7/9/1997. Kabila lấy được thủ đô Kinshasa, trở thành tổng thống, đổi tên nước thành Cộng hòa dân chủ Congo.

    Chiến tranh Congo lần thứ nhất kết thúc chóng vánh với thắng lợi của Laurent-Désiré Kabila, thành lập quốc gia mới CHDC Congo. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh kết thúc, trên lãnh thổ Congo có đến hàng chục nhóm vũ trang thuộc các quốc gia khác nhau. Tình trạng này chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc Chiến tranh Congo lần 2 đẫm máu.

    11/ Chiến tranh Congo lần 2 – đại chiến đẫm máu nhất lịch sử thế giới hiện đại.

    Laurent-Désiré Kabila ”thừa hưởng” từ Mobutu khoảng nợ 80 tỷ USD, một đất nước nghèo đói nhất địa cầu, một quân đội rệu rã ô hợp, một hệ thống tham nhũng mục nát tận gốc rễ,…Muôn vàn khó khăn đổ lên nhà lãnh đạo Congo. Kabila gần như không có khả năng giải quyết các vấn đề, đặc biệt là về an ninh. Kabila tìm kiếm các mối quan hệ mới với các nước Xã hội chủ nghĩa khác như: Angola, Namibia, Zimbabwe, Trung Quốc,…Ngược lại, quan hệ với đồng minh cũ Rwanda, Uganda, Burundi xấu đi.

    Tình hình trên lãnh thổ CHDC Congo năm 1997:

    -Chính quyền trung ương của Kabila chỉ kiểm soát được vùng phía Tây, thủ đô Kinshasa. Ở các địa phương các nhóm quân địa phương, gọi là Mai Mai tự vũ trang, nhiều nơi công khai chống đối chính quyền.

    -Phía Đông giáp Rwanda, Burundi: hàng triệu người tị nạn Hutu vẫn ở lại Congo để tấn công vào Rwanda, nơi chính quyền Tutsi kiểm soát. Kabila thất bại trong việc trục xuất họ về nước. Để ngăn chặn, quân đội Rwanda của Kagame tiến vào lãnh thổ Congo để tiêu diệt phiến quân Hutu. Kabila đòi Rwanda rút quân về, quan hệ giữa 2 đồng minh cũ căng thẳng. Đặc biệt tại Nam Kivu, rất nhiều người Tutsi nổi dậy đòi sáp nhập vào Rwanda.

    -Phía Đông Bắc giáp Uganda, chính quyền Museveni cũng có quan hệ xấu đi với Congo. Họ cũng đưa quân vào miền Bắc CHDC Congo độc lập với Rwanda.

    -Phía Bắc giáp Sudan: các phiến quân ủng hộ độc lập cho Nam Sudan lợi dụng tình hình hỗn loạn đã tràn vào miền Bắc Congo, với sự hỗ trợ của Uganda. Để chống lại quân ly khai Nam Sudan cũng như quan hệ thù địch với Uganda, chính phủ Sudan cho quân vào hỗ trợ chính quyền Congo của Kabila.

    -Phía cực Tây giáp Angola: phiến quân UNITA vẫn tồn tại trên lãnh thổ, nhiều lần còn tấn công chính phủ Congo. Để tiêu diệt UNITA và hỗ trợ Kabila, Angola đưa quân vào miền Nam và Tây Congo.

    -Hai đồng minh Xã hội chủ nghĩa của Congo là Namibia và Zimbabwe đưa quân vào hỗ trợ Kabila, với điều kiện được khai thác tài nguyên của Congo.

    -Muammar Gaddafi của Libya ủng hộ Kabila, nhưng ở quá xa. Để thực hiện sự giúp đỡ, Gaddafi tài trợ cho các quốc gia chư hầu: Chad, Sudan và CH Trung Phi để hỗ trợ cho Congo. Trong số này chỉ có Trung Phi là không gửi quân, còn Chad và Sudan thì gửi lực lượng đến hỗ trợ.

    Tổng cộng, có 9 quốc gia: Uganda. Rwanda, Burundi, Angola, Chad, Sudan, Zimbabwe, Namibia, CHDC Congo với hơn 20 nhóm vũ trang khác nhau tham chiến trên lãnh thổ Congo. Người ra gọi cuộc chiến này là ”Chiến tranh thế giới châu Phi”. hay ”Chiến tranh thế giới thứ 3”, chính thức bắt đầu từ tháng 8 năm 1998.

    [​IMG]
    Bản đồ các lực lượng trong chiến tranh Congo lần 2

    Cuộc chiến gần như không được thế giới chú ý thời điểm đó do ít trận đánh lớn. Tuy nhiên khi người ta bắt đầu để mắt tới thì người ta bàng hoàng nhận ra cuộc chiến đã kịp cướp đi sinh mạng hàng triệu dân thường. Dù thương vong lớn như vậy, không bên nào giành được thắng lợi quyết định. Chiến sự chủ yếu diễn ra ở vùng phía Bắc và phía Đông, cách xa thủ đô Kinshasa. Quân đội Uganda cùng đồng minh chiếm giữ miền Bắc, kéo dài đến tận biên giới phía Tây. Rwanda thì chiếm khu vực miền Đông và tiến sâu vào trung tâm đất nước.

    Sau đó, nhiều diễn biến mới làm cuộc chiến càng phức tạp hơn. Ở vùng Ituri giáp Uganda (màu xanh lá trên hình), người dân nổi dậy chống lại Uganda từ sau lưng. Trong khi nhiều nhóm người Tutsi vốn ủng hộ quân Rwanda, cũng quay ra chống lại do mệt mỏi vì chiến tranh. Đến năm 2000, lực lượng Uganda và Rwanda đã đụng độ nhau trên lãnh thổ Congo, kết quả là Rwanda chiến thắng.

    Nền kinh tế của tất cả các nước đã không mạnh càng bị chiến tranh làm yếu thêm. Không ít các cuộc đàm phán diễn ra nhưng đều bế tắc.

    Bất ngờ năm 2001, tổng thống Laurent-Désiré Kabila bị một phiến quân thân Uganda giả làm cận vệ bắn chết. Từ đây một loạt các diễn biến mới diễn ra đã đưa cuộc chiến tới hồi kết.

    Con trai trẻ của tổng thống Laurent-Désiré Kabila, Joseph Kabila lên nắm quyền ở Congo. Joseph theo đường lối ôn hòa, rất tôn trọng và hàn gắn mối quan hệ với Tổng thống Kagame của Rwanda. Theo đó, Joseph cam kết giải giáp các nhóm vũ trang người Hutu trên lãnh thổ Congo, đổi lại Kagame rút quân về nước.

    Đối với Rwanda, mọi chuyện cũng khó khăn. Nhiều năm chiến tranh dai dẳng, đất nước Rwanda mới trải quan nạn diệt chủng gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Ngay cả những người Tutsi ở Congo, mệt mỏi về chiến tranh, họ đã quay lại chống lực lượng của Kagame. Thêm vào đó, tháng 6 năm 2000, lực lượng Uganda và Rwanda đã quay ra bắn nhau ngay trong lãnh thổ Congo. Dù lực lượng Rwanda chiến thắng, nhưng nguy cơ có thêm kẻ thù mới khiến Kagame quyết định rút quân về.

    Với Angola, năm 2002 họ tiêu diệt được thủ lĩnh quân ”*********” Jonas Savimbi. Từ đây cuộc xung đột với UNITA kết thúc, Angola rút quân khỏi Congo.

    Zimbabwe và Namibia cũng gặp khó khăn kinh tế, phải rút quân.

    Các nỗ lực hòa bình sau đó đem lại hiệu quả, Congo ký hiệp ước hòa bình riêng biệt với Rwanda và Uganda, cơ bản kết thúc chiến tranh, mặc dù nhiều nhóm vũ trang thiểu số vẫn chiến đấu trong lòng Congo nhưng không đáng kể.

    Cuộc chiến tranh Congo dù không ác liệt nhưng thương vong lại rất lớn, chủ yếu do các bên phạm tội ác chiến tranh. 5,4 triệu người, chủ yếu là dân thường Congo đã chết trong xung đột, với hàng triệu người khác phải đi tị nạn. Các tội ác chiến tranh bao gồm thảm sát dân thường, tra tấn, sử dụng lính trẻ em, phá hoại mùa màng gây nạn đói đặc biệt là hãm hiếp được thực hiện bởi tất cả các bên.

    Nói về cưỡng hiếp, Congo đã trở thành ”cái rốn hãm hiếp” của nhân loại. Các bên xung đột sử dụng ******** làm công cụ để khủng bố tinh thần đối phương và cả dân thường. Nhưng quan trọng hơn, ngay cả khi cuộc chiến đã kết thúc, hãm hiếp vẫn là vấn nạn nhức nhối ở Congo. Liên hợp quốc đã quyết định: bạo lực ******** trong chiến tranh ở Congo là tội ác chiến tranh!

    Năm 2018, giải Nobel hòa bình được trao cho Bác sĩ Denis Mukwege người Congo, người đã 2 thập kỉ phẫu thuật giúp đỡ các nạn nhân của bạo lực ******** chiến tranh ở Congo.

    12/ Tình hình hiện tại ở khu vực Hồ Lớn châu Phi

    -Rwanda: sau sự kiện diệt chủng Rwanda, chính phủ Paul Kagame đã có một quyết định lịch sử: hủy bỏ phân chia sắc tộc. Theo đó, không còn Hutu, Tutsi hay Twa ở Rwanda nữa. Tất cả người trong nước đều được gọi là ”dân tộc Rwanda”, với cơ sở khoa học là cùng nói tiếng Kinyarwanda. Điều này đã cơ bản xóa bỏ mối hận thù dân tộc nhiều thế kỷ qua ở Rwanda. Từ năm 2000, Paul Kagame đã được bầu làm tổng thống 3 lần liên tiếp.

    Dưới sự lãnh đạo của Paul Kagame, một lãnh đạo được đánh giá là tài năng cả về kinh tế và quân sự, Rwanda ngày nay được lấy làm ví dụ cho câu chuyện thành công của một đất nước bước ra từ chiến tranh. Rwanda luôn là một trong những nước phát triển nhanh nhất châu Phi và thế giới, với mức tăng trưởng thường xuyên 8% từ năm 2000, một phần là nhờ vào sự hỗ trợ lớn cửa quốc tế. Viện trợ của Mỹ cho Rwanda lên đến 50 triệu USD/năm

    Rwanda hiện là đồng minh quan trọng của Mỹ và Anh, nhưng quan hệ rất xấu với Pháp. Tổng thống Kagame rất có ảnh hưởng ở châu Phi, là chủ tịch Liên minh châu Phi (AU) năm 2018. Bên cạnh đó, Kagame cũng bị chỉ trích là vẫn tiếp tay cho các nhóm phiến quân còn lại ở Congo, nhiều người còn tố cáo Kagame phạm tội ác chiến tranh. Vài năm qua, an ninh của Rwanda đang có nguy cơ bị đe dọa do căng thẳng lên cao với Congo, và mới đây là Uganda.

    Kagame cũng được biết là rất thân thiết với Việt Nam, đã thăm Việt Nam một số lần.

    [​IMG]
    Tổng thống Paul Kagame và ************* ***************** năm 2008

    -Burundi: ngược lại Rwanda, có vẻ vết thương diệt chủng vẫn chưa lành với Burundi. Nội chiến Burundi đến tận năm 2005 mới có hiệp định hòa bình. Cho đến hiện nay xung đột sắc tộc vẫn âm ỉ ở Burundi và luôn sẵn sàng bùng phát. Đất nước hàng ngày vẫn ghi nhận các vụ giết người giữa các sắc tộc Hutu và Tutsi.

    Hiện nay Burundi là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Dù tương đồng với Rwanda về nhiều mặt nhưng khoảng cách phát triển giữa hai đất nước là rất xa. Burundi đang bị nhiều nước kể cả Mỹ cấm vận vì tình trạng bạo lực và vi phạm nhân quyền. Tình hình chính trị của Burundi cũng rất không ổn định, gần như kỳ bầu cử nào cũng có bạo loạn khiến nhiều người chết.

    -Uganda: giống như Rwanda, tổng thống Museveni cũng là đồng minh của Hoa Kỳ, cũng đã giúp kinh tế Uganda phát triển nhanh trong những năm qua. Uganda còn có tài nguyên giàu có hơn nhiều Rwanda.

    Mặc dù vậy, tình hình an ninh, chính trị của Uganda đang gặp một số thách thức. Chế độ của Museveni đang bị nhiều người coi là độc tài, gây ra nhiều sự phản đối trong xã hội. Thậm chí vừa qua quan hệ với Rwanda đột nhiên căng thẳng, sau khi hai nước đọ súng ở biên giới và đóng của biên giới 6 tháng. Họ vừa ký thỏa thuận giảm căng thẳng ở Angola.

    Uganda mỗi năm đón 100.000 người Nam Sudan tị nạn. Có thể nhiều người ngạc nhiên, nhưng trại tị nạn Bidi Bidi của Uganda đang là trại tị nạn lớn nhất thế giới hiện nay, với 300.000 người tị nạn Nam Sudan đang ở.

    -CHDC Congo: quốc gia này hiện vẫn còn trong xung đột. Có 3 vùng hiện nay còn giao tranh:

    +Nam Kivu: Congo cáo buộc Rwanda hỗ trợ quân Tutsi chống chính quyền Congo

    +Ituri: các nhóm dân thiểu số chống chính quyền, hỗ trợ bởi Uganda

    +Bắc Katanga: các nhóm vũ trang từ thời chiến tranh Congo lần 2 vẫn từ chối hạ vũ khí

    Vì xung đột kéo dài, Congo là nước nghèo thứ 2 châu Phi ngay sau Burundi bất chấp diện tích rộng, dân số đông, tài nguyên giàu có. Congo cũng thường xuyên rời vào khủng hoảng chính trị, nhất là sau khi tổng thống Joseph Kabila rút lui. Ngay thời điểm hiện tại chính phủ Congo cũng đang rơi vào một cuộc khủng hoảng. CHDC Congo được xếp vào một trong những nước mong manh nhất thế giới, cũng là một trong những nơi có nạn hãm hiếp tồi tệ nhất thế giới

    https://nghiencuulichsu.com/2019/09...n-diet-chung-rwanda-va-cac-su-kien-lien-quan/
  5. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Sự tan rã Đế quốc Bồ Đào Nha, Cách mạng Hoa Cẩm Chướng và các hệ quả

    [​IMG]

    Đăng Phạm/ ncls group

    1/ Sự tan rã Đế quốc Bồ Đào Nha, Cách mạng Hoa cẩm chướng và sự ngộ nhận về ”Cách mạng Màu”

    Hiện nay trên các phương tiện thông tin, chúng ta không lạ với cụm từ ”Cách mạng màu”. Đây là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều hiện nay, ít nhất là ở Việt Nam nhằm ám chỉ ”chiến lược chống phá” nhằm chống các chính phủ thiên tả, XHCN trên thế giới trong đó có nước ta. Với những gì miêu tả hiện nay, chúng ta mặc nhiên coi rằng ”Cách mạng Màu” là do Mỹ giật dây nhằm chống phá các phong trào cánh tả thế giới.

    Nhưng, xin thưa đó là một sai lầm, hoặc ngộ nhận một cách cố ý!

    Bởi lẽ tên gọi “Cách mạng màu”, về bản chất không gì hơn một cuộc cách mạng bất bạo động, ôn hòa không đổ máu. Hoàn toàn không có gì hơn! Và quan trọng nhất, một sự kiện dù rất quan trọng trên thế giới nhưng chúng ta có lẽ cố tình bỏ quên: những người Xã hội chủ nghĩa đã phát động cuộc cách mạng màu đầu tiên của thế giới: Cách mạng Hoa Cẩm Chướng của Bồ Đào Nha.

    *Đế quốc Bồ Đào Nha và các thuộc địa trong những năm 1970s

    Có thể nhiều người sẽ phản đối, nhưng cũng có người sẽ đồng ý. Đến giữa thế kỷ 20, Bồ Đào Nha vẫn còn bị coi là một đế quốc, nếu xem xét tên gọi Đế quốc là nước ”chuyên đi xâm lược” theo cách dạy lịch sử ở phổ thông. Thực tế người ta đánh giá Đế quốc Bồ Đào Nha chỉ cáo chung chỉ sau tận năm 1999, khi trao trả thuộc địa cuối cùng là Macau về Trung Quốc Đại Lục. Còn trước đó, Bồ Đào Nha có thể coi là đế quốc thực dân cuối cùng của thế giới. Đơn giản vì họ là nước duy nhất còn giữ được thuộc địa của mình sau làn sóng phi thực dân hóa những năm 60 thế kỉ 20.

    Cho đến những năm 60, khi mà các đế quốc Anh, Pháp,…đã mất gần hết các thuộc địa ở châu Phi, châu Á, Bồ Đào Nha vẫn giữ cho mình các thuộc địa:

    -Hai nước Angola và Mozambique ở Nam Châu Phi

    -Nước Guinea Bissau ở Tây Phi

    -Đảo quốc São Tomé and Príncipe ở Vịnh Guinea

    -Đảo quốc Cape Verde ở Tây Phi

    -Pháo đài São João Baptista de Ajudá thuộc nước Cộng hòa Benin (Benin độc lập nhưng pháo đài vẫn bị Bồ Đào Nha kiểm soát)

    -Goa, Damman và Diu ở Ấn Độ

    -Macau ở Trung Quốc

    -Đông Timor ở Đông Nam Á

    -Nhiều đảo hải ngoại trải khắp các đại dương

    Cho đến lúc này, Đế quốc Bồ Đào Nha đã có tuổi đời 500 năm tuổi. Không phải nghiễm nhiên mà họ duy trì được các thuộc địa lâu như thế. Một số lý do được giải thích:

    -Chính sách thuộc địa khác biệt của Bồ Đào Nha. Nước này không coi mình là một đế quốc, mà lại gọi là ”Quốc gia đa châu lục”. Nghĩa là tất cả các thuộc địa đều là lãnh thổ cùng 1 quốc gia. Bồ Đào Nha không coi các vùng lãnh thổ kia dưới quy chế thuộc địa, hay xứ bảo hộ, mà coi như là các ”tỉnh hải ngoại” (província ultramarina). Với quy chế này, mọi công dân các vùng lãnh thổ đều được coi là công dân Bồ Đào Nha, hưởng quyền công dân, hệ thống luật pháp, tài chính,…hoàn toàn tương đương người Bồ Đào Nha chính gốc, và tự do hơn khá nhiều so với các thuộc địa của các đế quốc khác. Chính sách này thực tế được áp dụng sau khi các thuộc địa Nam Mỹ giành độc lập, dẫn đến điều chỉnh chính sách thuộc địa của Bồ Đào Nha.Điều này đã xoa dịu đáng kể các phong trào chống đối ở các thuộc địa còn lại.

    -Chính sách thuộc đia của Bồ Đào Nha khá giống Anh, mà chính xác là học theo nước Anh. Họ không chủ trương vơ vét cạn kiệt tận gốc các thuộc địa, mà thay vào đó là khai thác đồng thời với đầu tư vào thuộc địa của mình, dù quốc lực của Bồ Đào Nha thua kém rất nhiều so với Anh. Điển hình cho chính sách này là Bồ Đào Nha đã xây dựng Macau thành một thuộc đại trù phú không kém Hong Kong của người Anh ngay sát bên cạnh. Hiệu quả của nó là các thuộc địa của Bồ Đào Nha tương đối thịnh vượng hơn so với của Pháp, Bỉ hay Tây Ban Nha,…cũng góp phần xoa dịu làn sóng đấu tranh ở các thuộc địa.

    -Khác với các đế quốc khác, Bồ Đào Nha không thường xuyên có cái gọi là ”quân đội thuộc địa”. Người dân thuộc địa không bị bắt phục vụ quân đội Bồ Đào Nha. Việc kiểm soát các thuộc địa hoàn toàn do quân đội Bồ Đào Nha đảm nhận. Mặt khác, Bồ Đào Nha đứng ngoài hai cuộc thế chiến, nên không xuất hiện tình trạng người dân thuộc địa bị bắt nhập ngũ ra chiến trường làm bia đỡ đạn

    -Các thuộc địa Bồ Đào Nha có lịch sử lâu dài 5 thế kỷ, người Bồ Đào Nha đã có kinh nghiệm đàn áp các phong trào đấu tranh trong thời gian dài.

    -Bồ Đào Nha đã duy trì chính sách ngoại giao trung lập đến tận chiến tranh Lạnh. Nền đệ nhị Cộng hòa, (Estado Novo) đã được duy trì từ năm 1926 với một chính phủ bảo thủ. Trong chiến tranh Lạnh, họ không ngả về bên nào dù là Mỹ hay Liên Xô. Thậm chí Bồ Đào Nha còn bị coi là một trong những tàn dư của chủ nghĩa phát xít hậu Thế chiến 2 do liên hệ của họ với chế độ độc tài Franco ở Tây Ban Nha. Vì lẽ đó, cả Mỹ và Liên Xô không có lợi ích gì để ủng hộ các thuộc địa của Bồ Đào Nha độc lập.

    Với những điều trên, cho đến năm 1960 tình hình chung của Đế quốc Bồ Đào Nha vẫn ổn định và thịnh vượng. Nhưng tình hình bắt đầu có thay đổi. Làn sóng phi thực dân hóa các thuộc địa châu Phi, đỉnh cao vào năm 1960 làm tan rã hệ thống thuộc địa của Anh và Pháp. Dù ít hay nhiều, nó cũng ảnh hưởng lên các thuộc địa Bồ Đào Nha.

    *Sự kiện Ấn Độ giải phóng Goa năm 1961

    Tiểu bang Goa nằm ở bờ biển phía Tây Ấn Độ. Đây được xem là tiểu bang khác biệt nhất với phần còn lại của đất nước. Nó là tiểu bang nhỏ nhất, nhưng dưới sự cai trị của Bồ Đào Nha, nó trở thành một khu vực giàu có. Suốt từ đó đến nay, Goa là tiểu bang có thu nhập đầu người cao nhất của Ấn Độ, cao gấp 2,5 lần mức trung bình của đất nước. Tiểu bang mang đậm dấu ấn Bồ Đào Nha, với thành phố lớn nhất mang tên Vasco de Gama, nhà thám hiểm vĩ đại đã tìm đường từ châu Âu đến Ấn Độ thế kỷ 16.

    Nhưng từ năm 1947, Ấn Độ giành độc lập, Goa đã trở thành một điểm nóng trong quan hệ giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha. Sau rất nhiều năm đàm phán không thành, Ấn Độ đã dùng vũ lực để giành lại Goa.

    Ngày 18/12/1961 được coi là một ngày trọng đại trong lịch sử Ấn Độ. Sau khi Anh, Pháp trao trả độc lập cho Ấn Độ năm 1947, Bồ Đào Nha lại từ chối trả lại Ấn Độ các thuộc địa Goa, Daman và Diu, vẫn coi đó là các tỉnh Bồ Đào Nha và có đại biểu gốc Ấn trong nghị viện Bồ Đào Nha. Nhưng đến ngày 18/12/1961, quân đội của Cộng hòa Ấn Độ đã bất ngờ sử dụng vũ lực, ném bom và bắn phá Goa để chiếm lấy thành phố.

    Bị tấn công bất ngờ, quân đội Bồ Đào Nha không tập trung chiến đấu mà gấp rút tiến hành chiến dịch di tản cho thường dân gốc Âu khỏi Goa. Chiến dịch này thực chất là một sự bất tuân lệnh. Bởi lẽ nó các máy bay được Bồ Đào Nha gửi đến Goa để chống Ấn Độ, nó lại được các binh sĩ ở đây dùng để chở thường dân di tản. Tương tự, khi con tàu mang tên ”Ấn Độ” của Hải quân Bồ Đào Nha cập cảng Goa trên đường đến Đông Timor, đô đốc Manuel Vassalo e Silva đã đưa 800 người dân di tản lên tàu dù nó chỉ chứa được 300 người và chính quyền ở Lisbon không cho phép dân thường lên tàu. Hành động của đô đốc Manuel Vassalo e Silva dù cứu sống 800 sinh mạng, nhưng khiến ông bị đuổi khỏi quân đội và suýt nữa bị tử hình do bất tuân quân lệnh.

    Do quân đội Bồ Đào Nha không chủ trương chiến đấu, cuộc tấn công Goa của Ấn Độ thắng lợi. 22 lính Ấn Độ, 30 lính Bồ Đào Nha hy sinh. Sau khi cuộc di tản dân thường kết thúc, 5000 lính Bồ Đào Nha ở đây đã hạ vũ khí đầu hàng.

    Goa được sáp nhập vào nước Cộng hòa Ấn Độ, kết thúc 451 năm Bồ Đào Nha cai trị. Sự kiện Ấn Độ sáp nhập Goa là một sự kiện chấn động mạnh nhất thế giới thời điểm đó, làm chính trường thế giới dậy sóng. Hàng loạt các quốc gia, nhất là các nước châu Phi coi sự kiện này là ”châm ngòi nổ cho thùng thuốc súng” để giải phóng các thuộc địa cuối cùng. Nhiều nước đã gọi đây là ”cuộc giải phóng Goa” mặc dù chính bản thân Ấn Độ cũng chưa dám gọi đây là ”giải phóng”.

    Trong lịch sử Ấn Độ, sự kiện sáp nhập Goa năm 1961 được coi là một cuộc giải phóng lãnh thổ trong lịch sử. Ngày nay ngày sáp nhập Goa năm 1961 được coi là ngày lễ lớn của bang và được tổ chức trên toàn đất nước Ấn Độ.

    Sự kiện cũng là một dấu mốc quan trọng bậc nhất trong quá trình phi thực dân hóa các thuộc địa cuối cùng trên thế giới, được coi là mở đầu cho sự sụp đổ của Đế quốc Bồ Đào Nha.

    *Cách mạng Hoa Cẩm chướng – Cách mạng màu đầu tiên

    Sự kiện Ấn Độ sáp nhập Goa năm 1961 như một trận động đất làm rung chuyển gốc rễ chính quyền Bồ Đào Nha. Tiếp nối địa chấn này, là một loạt các sự kiện như sóng thần ập vào đế chế đang đến ngày tàn. Ngay trong năm đó, pháo đài São João Baptista de Ajuda, một trong những thuộc địa lâu đời nhất thế giới ở bờ biền Tây Phi thuộc Bồ Đào Nha, bị chính quyền mới của Cộng hòa Dahomey sáp nhập, sau khi nước này giành độc lập từ Pháp.

    Có thể nhiều người chưa biết, Dahomey ngày nay là nước Cộng hòa Benin. Quốc gia này thực tế đã từng là một nước Cộng sản trong chiến tranh Lạnh. Năm 1980 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thăm Cộng hòa Benin. Nhưng chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Benin cuối cùng đã thất bại thảm hại.

    Không ngừng lại ở đó, sau hàng thế kỷ im ắng, phong trào độc lập ở các thuộc địa lớn của Bồ Đào Nha ở châu Phi lại bùng nổ sau năm 1961.

    Bắt đầu ở Angola, từ năm 1961 lần lượt 3 tổ chức vũ trang đòi độc lập ra đời, mở đầu cho chiến tranh Độc lập Angola. Tiếp sau đến năm 1963, Guinea Bissau nổi dậy, đến năm 1964, Mozambique cũng nối chân đứng lên. Sự nổi dậy đồng loạt ở các thuộc địa châu Phi đã kéo Bồ Đào Nha vào cuộc chiến dai dẳng, tốn kém mà lịch sử gọi là ”Chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha”.

    Các cuộc chiến tranh thuộc địa đã khiến Bồ Đào Nha phải duy trì từ 150.000-200.000 quân ở nước ngoài. Chi phí cho chiến tranh tăng dần theo từng năm, đè nặng lên nền kinh tế. Nó cũng dẫn theo những áp lực và trừng phạt quốc tế giáng lên Bồ Đào Nha, do các quốc gia đều muốn Bồ Đào Nha nhanh chóng từ bỏ các thuộc địa, vốn đã bị coi là lỗi thời trên thế giới.

    Ở trong nước, năm 1970 nhà độc tài António de Oliveira Salazar, người đã lãnh đạo Bồ Đào Nha suốt từ năm 1933 qua đời. Dưới chế độ Salazar, dù giúp Bồ Đào Nha có nền kinh tế phát triển cao, nhưng cùng với đó cũng là những chính sách đàn áp hà khắc lên người dân Bồ Đào Nha, trong đó có lực lượng cảnh sát mật PIDE. Người thay thế Salazar là Marcelo Caetano, không đủ tài năng để dẫn dắt đất nước. Người dân ngày càng căm ghét nền đề nhị Cộng hòa bảo thủ, cùng lúc bị áp lực kinh tế đè lên. Sự giận dữ trong quần chúng có cả sự phản đối từ quân đội Bồ Đào Nha, những người cho rằng đang bị lôi vào cuộc chiến vô nghĩa ở châu Phi.

    Chế độ độc tài ở Bồ Đào Nha rõ ràng không có thiện cảm với quân đội. Họ biết rằng chỉ dựa vào lực lượng an ninh và cảnh sát mật tuyệt đối trung thành. Điều này dẫn đến sự việc nhiều sĩ quan quân đội bất mãn bị cảnh sát mật bắt cóc và thủ tiêu. Đến tháng 2 năm 1974, sự kiện chính quyền sa thải Tướng António de Spínola, một tướng quân đội cấp tiến đã trở thành giọt nước tràn ly, đẩy mâu thuẫn giữa quân đội với chính quyền lên đỉnh điểm.

    Các sĩ quan khác, đứng đầu bởi Otelo Saraiva de Carvalho, đã thành lập một phong trào mang tên MFA để chống lại chính quyền. Dù biết rõ sự thành lập của MFA, chính phủ không có cách nào để dẹp bỏ nó.

    Đúng 10h55 ngày 24/4/1974, chính biến nổ ra, bắt đầu bằng sự kiện Đài phát thanh Lisbon phát bài hát ”E Depois do Adeus”, ca khúc của Bồ Đào Nha gửi đến thi tại Cuộc thi âm nhạc nổi tiếng Eurovision năm 1974. Đó là ám hiệu để quân MFA hành động. Đến sáng ngày 25/5/1974, quân MFA đã chiếm sân bay, đài phát thanh, nhiều căn cứ quân sự và giải cứu được tướng António de Spínola đang bị cảnh sát mật giam lỏng tại nhà.

    Thủ tướng Marcelo Caetano biết đã có đảo chính xảy ra, nên trốn đến trụ sở của Cảnh sát, nơi ông bị phát hiện vào bị bao vây bởi quân đội. Bất chấp kêu gọi người dân ở trong nhà, hàng ngàn người dân vẫn đổ ra đường ủng hộ quân đội, áp đảo cảnh sát. Cảnh sát PIDE chỉ nổ súng vào người dân ở António Maria Cardoso, làm 4 người dân thiệt mạng. Đây là những người duy nhất thiệt mạng trong cuộc cách mạng. Còn lại ở những nơi khác, lực lượng cảnh sát đã không có sự phản kháng nào.

    Cuộc cách mạng thắng lợi sau khi kết thúc cuộc đàm phán giữa quân đội và thủ tướng Marcelo Caetano tại trụ sở của cảnh sát. Marcelo Caetano chấp nhận từ bỏ quyền lực, đổi lại được tị nạn ở Brazil. Thông báo về tuyên bố của Marcelo Caetano được truyền đi trên đài phát thanh, đánh dấu nền Đệ nhị Cộng hòa Bồ Đào Nha sụp đổ. Cuộc cách mạng chính thức thắng lợi.

    Sở dĩ cuộc cách mạng tên là Cách mạng Hoa cẩm chướng là vì tính ôn hòa của nó. Ngoại trừ 4 người dân bị cảnh sát mật bắn chết ở António Maria Cardoso,, không có một phát đạn nào khác được bắn ra. Cuộc chính biến diễn ra chóng vánh, không có quân nhân nào thiệt mạng. Còn lý do người ta chọn hoa cẩm chướng là vì một sự vô tình.

    Đó là từ một phụ nữ tên Celeste Caeiro, đang làm việc trong một cửa hàng đã đóng cửa vào lúc đảo chính xảy ra. Khi quân đội đi qua, bà Celeste Caeiro đã được binh sĩ hỏi xin thuốc hút. Nhưng cửa hàng không có thuốc, nên bà Celeste Caeiro đã lấy hết số hoa cẩm chướng còn lại tặng cho binh sĩ. Các binh sĩ cài hoa cẩm chướng lên súng. Hình ảnh này được chụp lại, và vô tình trở thành biểu tượng của cuộc cách mạng do sự kỳ lạ của nó.

    Cách mạng hoa cẩm chướng là cách mạng màu đầu tiên của thế giới, với bản chất là cuộc cách mạng bất bạo động. Từ đó về sau, tên ”cách mạng màu” được dùng để chỉ các cuộc cách mạng ôn hòa. Nhưng với một số nước, người ta vô tình hoặc cố ý lầm tưởng ”cách mạng màu” chỉ nhằm để chống phá các nước XHCN. Lịch sử cho biết rằng họ đã sai.



    2/ Hệ quả của cách mạng hoa cẩm chưởng

    *Với Bồ Đào Nha

    Phải khẳng định một điều, cách mạng Hoa cẩm chướng ở Bồ Đào Nha là một cuộc cách mạng hơi hướng Xã hội chủ nghĩa. Điều này khẳng định khi nhìn vào thành phần sĩ quan MFA, hầu hết là những người có liên hệ với Đảng Cộng sản.

    Cách mạng cẩm chướng diễn ra ôn hòa, nhưng sự ôn hòa trớ trêu thay lại không diễn ra sau cách mạng. Ngay sau khi giành được quyền lực, chính phủ mới của Bồ Đào Nha đã lục đục. Trong suốt hai năm 1974-1975, đất nước Bồ Đào Nha hỗn loạn và chia rẽ. Những người cộng sản ôn hòa (thường là Đảng Xã hội) và cực đoan (thuộc Đảng Cộng sản) đấu đá nhau dẫn đến giải thể MFA. Thời kỳ hỗn loạn đó được gọi với cái tên ”Processo Revolucionário Em Curso” (cách mạng tiếp diễn, hoặc cái tên mỹ miều là ”thời kỳ quá độ”). Cuộc quá độ thất bại của Bồ Đào Nha đánh dấu bằng sự kiện ngày 25/11/1975, những người Cộng sản Bồ Đào Nha tiến hành đảo chính thất bại, dẫn đến việc bị tẩy chay trước bầu cử.

    Bồ Đào Nha tiến hành bầu cử tự do năm 1976. Bất chấp kỳ vọng của Liên Xô và nhiều nước khác, Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha đã thất cử do các hành động cực đoan của họ. Người thắng cử là Mário Soares, thuộc Đảng Xã hội Trung tả.

    Sau cuộc bầu cử năm 1976, về kinh tế Bồ Đào Nha đã chọn đi theo các chính sách quốc hữu hóa của phe cánh tả. Nền kinh tế hồi phục chậm nhưng đến những năm 90 đã đạt được thành tựu đáng kể. Nhưng về chính trị, họ chọn con đường dân chủ nghị viện Châu Âu. Sau năm 1989, Bồ Đào Nha càng nghiêng về EU, xóa bỏ bớt các yếu tố thiên tả trong hiến pháp. Ngày nay, Bồ Đào Nha vẫn được coi là một nước dân chủ đầy đủ trong Liên minh châu Âu.

    *Với các thuộc địa châu Phi

    Cách mạng hoa cẩm chướng ở Bồ Đào Nha là một sự kiện bất ngờ, đặt dấu chấm hết ngay lập tức với các cuộc chiến tranh ở các thuộc địa châu Phi. Tuy nhiên, bên cạnh hiêu quả là nền độc lập được trao cho các nước Angola, Mozambique, Guinea Bissau, São Tomé and Príncipe và Cape Verde, hậu quả của nó cũng không hề nhỏ.

    Sự rút quân đột ngột của Bồ Đào Nha đã vô tình để lại một khoảng trống quyền lực khó định hình ở các thuộc đia. Lý do là thời điểm cách mạng nổ ra, chiến sự ở các thuộc địa đang nghiêng phía có lợi cho Bồ Đào Nha. Các lực lượng kháng chiến ở các nước châu Phi, không lực lượng nào giành thắng lợi lớn. Hơn nữa, phe kháng chiến ở các nước đó lại là những nhóm riêng rẽ, thậm chí đối nghịch nhau. Từ đó dẫn đến nội chiến dai dẳng và đẫm máu ngay sau khi Bồ Đào Nha rút đi.

    Tiêu biểu cho điều này là trường hợp của Angola. Trước khi Bồ Đào Nha rút về, nước này có 3 phong trào kháng chiến riêng biệt.

    -Đầu tiên, sớm nhất là Mặt trận giải phóng dân tộc Angola (FLNA). Đây thực chất là nhóm chỉ đấu tranh đòi khôi phục vương quốc của bộ lạc Bakongo nằm giữa Angola và Zaire. Nói cách khác, đây là một tổ chức phi chính trị, chỉ có chủ nghĩa dân tộc. Vì điều này mà đây là nhóm yếu nhất, khi không có phe nào trong chiến tranh Lạnh sẵn sàng giúp đỡ họ. Nhưng trong cuộc chiến chống Bồ Đào Nha họ có vai trò rất lớn

    -Thứ hai là Phong trào giải phóng nhân dân (MPLA), là một nhóm Cộng sản. Đây là nhóm lớn nhất, cũng là nhóm được hỗ trợ nhiều nhất. Sự giúp đỡ ở đây bao gồm cả việc quân đội Liên Xô và Cuba đã sang tận Angola để giúp MPLA chiến đấu chống lại các nhóm đối địch. Với sự giúp đỡ của ngoại bang, MPLA là phe đã giành chiến thắng trong nội chiến.

    -Cuối cùng là Liên minh vì Độc Lập và toàn vẹn của Angola (UNITA), do Jonas Savimbi lãnh đạo. Trong chiến tranh, nhóm này không chiến đấu rộng rãi mà chỉ hoạt động ở phía Bắc Angola. UNITA là phe được Mỹ và Nam Phi hỗ trợ chiến đấu chống lại quân đội Liên Xô, Cuba và MPLA nhưng thất bại.

    Do không có phe nào giành lợi thế trên chiến trường, cả 3 đã lao vào đánh nhau trong cuộc nội chiến đẫm máu. Đầu tiên FLNA bị đánh bại, sau đó MPLA chiến đấu với UNITA suốt hàng chục năm. Nội chiến Angola kéo dài tận năm 2002, làm nửa triệu người chết và tàn phá nền kinh tế đất nước. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi của phe Cộng sản MPLA.

    Tương tự là nội chiến ở Mozambique. Trước khi giành độc lập nước này cũng có 2 phong trào kháng chiến khác nhau là Mặt trận Giải phóng Mozambique (FRELIMO) và Kháng chiến quốc gia Mozambique (RENAMO). FRELIMO là nhóm cộng sản, chiến đấu ở miền Bắc, trong khi RENAMO là nhóm thân phương Tây, chiến đấu ở miền Nam. Khi Bồ Đào Nha rút đi, phe FRELIMO đã thừa cơ chiếm lấy các vùng rộng lớn, buộc RENAMO phải lui sang đất Nam Phi tiến hành chiến tranh du kích. Nội chiến Mozambique là một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất thế kỷ, làm hơn 1 triệu người thiệt mạng, biến Mozambique thành đất nước nghèo nhất thế giới

    *Thảm họa Indonesia xâm lược Đông Timor năm 1975

    Một sự kiện diễn ra ngay sát chúng ta nhưng có vẻ không nhiều người biết đến.

    Khác với châu Phi, Đông Timor không trải qua chiến tranh giành độc lập. Người dân Đông Timor đang chấp nhận sống yên bình dưới quy chế tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha thì bỗng nhiên cách mạng bùng nổ. Quyết định trao trả độc lập bất ngờ khiến người Đông Timor chưa kịp chọn ra chính phủ mới. Sau một thời gian với các hoạt động chính trị vội vã, một đảng phái tên là Mặt trận Cách mạng Đông Timor độc lập (Fretilin) nổi lên và giành được sự ủng hộ của người dân.

    Vấn đề ở chỗ, một số thành viên, dù không nhiều của Fretilin có liên hệ với phong trào Cộng sản, thậm chí có quan hệ với Trung Quốc, Liên Xô. Điều này gây lo ngại cho nhiều nhân vật bảo thủ của Đông Timor. Nhưng nguy hiểm hơn, nó còn làm cho nước láng giềng khổng lồ Indonesia thấy bất an, khi Indonesia là một nước chống Cộng cực đoan vào thời đó. Điều này trở thành thảm họa khi một số người Đông Timor, vì lợi ích chính trị hẹp hòi, đã cầu viện quân Indonesia.

    Trong các nhóm đối địch với Fretilin, có nhóm Liên minh dân chủ Timor (UDT). Đây là một nhóm có trụ sở ở cả Đông Timor lẫn Tây Timor (thuộc lãnh thổ Indonesia). UDT chủ trương thống nhất với Indonesia, mặc dù nhiều người kịch liệt phản đối, coi đó là ”bán nước”. Tháng 8 năm 1975, một xung đột vũ trang giữ UDT và Fretilin đã làm nhiều người chết, hàng nghìn nhân vật của UDT phải tháo chạy sang Indonesia.

    Các nhân vật cứng rắn nhất trong quân đội Indonesia, lo ngại sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Timor, có thể kích động sự ly khai ở các vùng khác của Indonesia. Tổng thống Suharto, ban đầu tỏ ra thận trọng. Nhưng những lời đe dọa về ”mối nguy cộng sản” của các tướng lĩnh khiến Suharto phải đồng ý. Kế hoạch xâm lược Đông Timor được thông qua.

    Ngày 7 tháng 12 năm 1975 ghi dấu một ngày đen tối trong lịch sử Đông Nam Á. Quân đội Indonesia thực hiện một cuộc nhảy dù vào thủ đô Dili của Đông Timor, nơi họ giết 122 lính của Fretilin và có 35 lính chết. 3 ngày sau, 35.000 quân Indonesia đã tràn ngập Đông Timor. Dù binh sĩ không nhiều, nhưng cuộc xâm lược vẫn tập trung gần như những tướng lính tài giỏi nhất của quân đội Indonesia lúc bấy giờ.

    Những gì kể lại sau đó, nếu đúng sự thật thì là một sự tang tốc ghê rợn. Quân đội Indonesia được báo cáo là giết người dã man, bừa bãi trên các đường phố, cướp bóc, hãm hiếp thậm chí cả trẻ em,…Sự tàn bạo của quân đội Indonesia không chỉ dừng lại nhằm vào FRETILIN. Các báo cáo bạo lực nhắm vào người Trung Quốc cũng được ghi nhận. Quân đội Indonesia thậm chí còn giết chết một nhà báo Úc tên Roger East bằng cách xử bắn tập thể cùng hơn 50 người khác, vụ việc đã bị chính quyền Úc tố cáo lên quốc tế.

    Quân FRETILIN chấp nhận rút lui khỏi các thành phố, lùi sâu vào các vùng núi hiểm trở nhất để tiến hành chiến tranh du kích chống Indonesia.

    Indonesia đã chiếm và sáp nhập Đông Timor thành tỉnh thứ 29 của nước này. Cuộc chiếm đóng kéo dài đến năm 1999, nghĩa là gần 1/4 thế kỷ. Trong thời gian đó, 108.000 người Đông Timor đã chết, chiếm 1/5 dân số nước này. Đây là một tội ác chưa từng có trong lịch sử Đông Nam Á hiện đại. Ủy ban sự thật về Đông Timor của LHQ đã cho rằng các lực lượng Indonesia chịu trách nhiệm cho khoảng 70% các vụ giết người bạo lực. 24 năm chiếm đóng Đông Timor bị coi là trang sử đen tối trong lịch sử Indonesia, khi họ bị quốc tế lên án và trừng phạt.

    Cho đến tận năm 1998, tương lai của Đông Timor vẫn rất đen tối. 20% dân số đã chết vì chiến tranh, đói rét và bệnh tật. Phong trào kháng chiến bị đàn áp khốc liệt, có lúc chỉ còn có 200 người. Nhưng ở tận cùng của tuyệt vọng, tương lai đã sáng trở lại với Đông Timor. Quốc gia xâm lược họ, Indonesia thay đổi chế độ. Suharto từ chức năm 1998, chấm dứt chế độ độc tài hà khắc. Chính phủ mới của Indonesia đã cho phép Đông Timor trưng cầu dân ý năm 1999, với kết quả là người dân chọn độc lập. Nhưng từ đó đến năm 2002, Đông Timor do LHQ quản lý.

    Ngày 20/5/2002, quốc gia Đông Timor chính thức tái độc lập, trở thành quốc gia thứ 11 ở Đông Nam Á.

    *Trao trả Macau năm 1999

    Macau là một vùng đất nhỏ, được cho Bồ Đào Nha thuê từ tận thời nhà Minh (1557). Từ đó, người Bồ Đào Nha đã dần biến Macau thành một khu vực giàu có phồn thịnh bậc nhất thế giới, tương đương với Hong Kong cách đó không xa. Dưới thời Đế quốc Bồ Đào Nha, giống các thuộc địa khác, Macau mang quy chế tỉnh hải ngoại, có đại biểu gốc Hoa trong nghị viện Bồ Đào Nha.

    Từ năm 1987, Bồ Đào Nha và Trung Quốc đã đàm phán thành công về Macau. Năm 1999, 2 năm sau khi Anh trao trả Hồng Kong, đàm phán Trung-Bồ tốt đẹp, với thỏa thuận trả Macau về cho Trung Quốc, nhưng duy trì ”chính sách Một quốc gia-Hai chế độ”, điều tương tự đã diễn ra với Hong Kong.

    Ngày 20/12/1999, Macau chính thức được trao trả. Vào những ngày cuối cùng thế kỷ, sự kiện cũng đặt dấu chấm hết cuối cùng cho thời đại thực dân trên thế giới, với Bồ Đào Nha là Đế quốc thực dân cuối cùng!!!

    https://nghiencuulichsu.com/2019/11...o-nha-cach-mang-hoa-cam-chuong-va-cac-he-qua/
    Mr_Hoang thích bài này.

Chia sẻ trang này