1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

GIÀNH GIẬT TỪNG CĂN NHÀ 'CHƠI' THEO LUẬT CỦA ĐỐI PHƯƠNG SÀI GÒN, THÁNG 5 1968

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 24/05/2021.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Tới thủ đô mất khoảng 1 tiếng đồng hồ. Gần đến nơi, lúc trung úy Sharpe gọi điện đài cho trung tá Antila, đang kiểm soát thông tin liên lạc trên trực thăng chỉ huy, thì trung úy Buehrig do ko biết mình đã tới đúng giao lộ chưa, lại ko rẽ từ lộ 4 sang đường 232 mà cứ đi thẳng. Những xe còn lại trong đoàn dừng lại đợi Buehrig bối rối quành xe trở về. Tới tiểu đoàn bộ, Sharpe vào hội kiến với thiếu tá Miller. Sau đó trước khi đoàn xe tiếp tục tiến về phía đông nơi đang có nhiều cột khói bốc cao, 1 trung sĩ của đại đội A thông báo trên điện đài: "Đây chính xác là nhiệm vụ chiến đấu. Hãy chuẩn bị cho 1 trận đánh gay go, ác liệt kéo dài."

    Các xe bọc thép đi theo đường Phạm Thế Hiển tới đầu con đường chính đi xuống phía nam qua xóm Cầu Mật (nay là đường Cao Lỗ. ND). Kêu tất cả dừng lại, trung úy Sharpe thiết lập điểm tập trung trong 1 khu đất trống nhỏ giữa các kho hàng nằm đối diện kênh Đôi trên mặt bắc đường 232. "Khi xuống khỏi xe, chúng tôi được yêu cầu phải mang theo thật nhiều đạn, lựu đạn cùng súng chống tăng LAW nữa." John Holder nhớ lại và khi đó anh cũng nhận ra là "đây có lẽ ko phải là 1 ngày bình thường."

    Trung úy Sharpe hạ lệnh từ bắc xuống nam theo con đường của xóm Cầu Mật, càn xuống. Quét sạch những căn nhà 2 bên đường cho tới khu xưởng nằm cuối xóm, cách đó chừng 500m. Có thể nhìn thấy cảnh đồng lúa phía sau xưởng. Bên mặt tây con đường đất, chỉ có duy nhất 1 khu nhà và Sharpe được biết đại đội C đang lập tuyến ngoài ruộng sau xưởng. Cùng lúc đó 1 đơn vị Biệt động quân VNCH được điều gấp từ Chợ Lớn đến được cho là đang tổ chức chốt chặn trong đám nhà cửa xập xệ bên vệ đường, ở mặt đông xóm Cầu Mật.

    Khi lập đội hình chuẩn bị tiến lên, binh nhất Ronnie T. Everidge, xạ thủ súng máy thuộc trung đội Buehrig đã nhìn về phía ty cảnh sát. Anh thấy 1 số người mặc quân phục VNCH đang thản nhiên ngồi đánh bài trong bóng râm. "Đúng là khốn nạn" 1 lính Mỹ bên cạnh Everidge nổi đóa "Trong khi mình sắp sửa phải đánh nhau thì chúng nó cứ bình chân như vại. Mà đây là đất nước của chúng mà!"

    Trung đội Buehrig vẫn đi trước khi bắt đầu tấn công. Chỉ có lái xe cùng xạ thủ đại liên là còn ở lại trên các xe bọc thép. Những binh sĩ còn lại đều đã xuống xe, tiến 2 bên vệ đường; tiểu đội đi đầu ở ngay trước chiếc xe đầu tiên. Sharpe viết trong thư gửi cho anh: "Bọn em bắt đầu lục soát. Ko gặp phải sự cố gì. Thấy dân vẫn bận bịu ai làm việc nấy trong khu vực mình càn quét, mọi người bắt đầu nghĩ chẳng có Charlie đâu."

    Chả thể nào biết được đã có bao nhiêu quân Giải phóng đang chờ đại đội A ở cuối đường. Sau trận đánh, người ta tìm thấy 13 chiếc ghe tam bản đậu men theo Rạch Xóm, con rạch chạy qua xóm không tên và là 1 trong nhiều tuyến đường thủy cho phép địch từ nơi tập kết ngoài vùng nông thôn tiếp cận đô thành. Mỗi chiếc ghe tam bản đủ lớn để chở 30 người (?) do vậy có thể đã có đến 400 địch quân - 1 tiểu đoàn theo tiêu chuẩn quân Giải phóng - đã xâm nhập vào khu vực này đêm hôm ấy. Nhưng vì phải đánh nhiều mục tiêu khác nhau nên có lẽ chỉ 1 bộ phận quân đối phương là đóng trong Xóm Cầu Mật. "Chẳng ai biết liệu có bao nhiêu VC tham gia vào trận đánh" Antila viết "nhưng căn cứ vào cường độ hỏa lực địch bắn ra khi đó, thì đó là 1 lực lượng khá lớn. Hỏi khá lớn nghĩa là gì thì chết tiệt! Biết chết liền. Chỉ cần 1 tên mang AK-47 với thật nhiều đạn là đã có thể làm cho người ta tưởng có cả tiểu đội ngoài thực địa rồi."

    Trung sĩ Cedell Raggs, tiểu đội trưởng tiểu đội đi đầu, là 1 tay gan lỳ, điềm tĩnh ko ngại gì lửa đạn. Nhưng anh cũng là tay khá hoạt náo trong mỗi đêm nhậu nhẹt, bài bạc trong doanh trại. Nói cách khác đó là 1 người có tố chất lãnh đạo. Mark Fenton nhớ lại: "Tôi nể trung sĩ Raggs chỉ thua bố mình. Anh ấy thân thiện với tất cả mọi người. Quan tâm, chăm sóc chúng tôi hết mực. Nếu có đánh nhau thì lính trong trung đội sẽ theo anh tới cùng trời cuối đất."

    Lính của Raggs kỳ vọng sau này anh chở thành tu sĩ. Trong thực tế, sau khi xuất ngũ anh về quê Greenwood, Mississippi làm cha đạo trong nhà thờ Giám lý thật. Thật ra Raggs cũng chưa bao giờ tỏ ra khắt khe hay bắt buộc lính mình làm nhiệm vụ. "Tuy là phụ trách nhưng Raggs cũng là 1 trong số chúng tôi." Howard A. Ossen giải thích "Sự an toàn của chúng tôi là thứ mà anh quan tâm nhất. Thay vì lần mò ra ngoài ban đêm, làm gì đó ngu ngốc, anh ấy thường lập ổ phục kích tại những chỗ dễ thủ nhất mà ko cần nhất thiết phải tìm thấy quân thù. Để được an toàn anh sẵn sàng 'bẻ cong' mệnh lệnh. Chính nhờ thế mà số lượng thương vong đã giảm bớt."

    Trung sĩ Raggs để tổ của John Holder đi đầu tiên và Holder 1 chiến binh cao, xông xáo mang dòng máu người da đỏ Pequot vùng Pawcatuck, Connecticut tự mình đảm nhiệm vị trí xích hầu. Yểm trợ cho Holder là binh nhất Les Koenig và binh nhất Howard Ossen, 1 lính quân dịch từng đánh cược rằng tấm bằng đại học sẽ giúp mình ở lại tuyến sau nhưng giờ thì đang trên đường phố Sài Gòn, tay ôm súng máy, đạn quấn lằng nhằng khắp người.

    Holder đã đạp cửa căn nhà thứ nhất, xông vào bên trong. Ko thấy ai cả. Sau khi đá bung thêm mấy cửa nhà nữa, Holder đùa với Koenig và Ossen rằng mình đang đóng phim thế chiến 2 cùng John Wayne. Đâu có được như thế. Tổ xích hầu chỉ hơi ngạc nhiên khi thấy George Savini, 1 gã ba gai, lóc chóc nhất tiểu đội chui vào căn nhà họ vừa tảo thanh ôm ra 1 dàn máy thu thanh to tổ bố, cất vào trong xe bọc thép.

    Gần hết con đường, Holder rẽ phải sang 1 đường nhánh. Holder chuyển súng sang chế độ liên thanh, vừa dợm bước thì có bóng người vọt qua hẻm nhỏ giữa 2 ngôi nhà. Anh vội hô 'Đứng lại' bằng tiếng Việt. Sau tiếng hô, từ ngôi nhà bên phải trước mặt, tấm gỗ gắn trên khung cửa sổ đóng kín bỗng rơi xuống, hiện ra trước mắt anh là họng súng máy đen ngòm, có giá 2 chân cùng 'trống' đạn tròn. Holder cùng xạ thủ đối phương nổ súng gần như cùng 1 lúc. Holder nhớ lại "Hệt như trong phim cao bồi ý. Rốt cục đạn M16 của tôi đã gim trúng ngực tay xạ thủ địch."

    Holder nhanh chóng thay băng rồi tiếp tục nhả đạn. Anh kể: "Dường như địch bắn từ khắp nơi. Tôi đứng bắn trả, ngay giữa đường, nhìn thấy lính địch chạy thoăn thoắt hết nhà này sang nhà khác. Chẳng biết là đổi vị trí hay bỏ chạy nữa."
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Đúng giữa trưa, khi trận đánh nổ ra thì trung úy Sharpe đang đi cùng lính của trung úy Buehrig. Trong thư gửi cho anh, người đại đội trưởng viết: "Bỗng nhiên, dân biến đâu hết cả, mọi thứ lặng như tờ. Trong nháy mắt 1 lực lượng ko rõ bao nhiêu VC, đã khai hỏa vào chúng tôi bằng đủ loại súng từ RPG, trung liên RPD tới AK-47. Địch ngắm rất chính xác vì chỉ cách 1 số vị trí của chúng tôi tầm 20 mét."

    Trong phút hỗn loạn thì nghe tiếng, binh nhất Dalton H. McWaters, 1 lính mới thuộc tiểu đội trung sĩ Raggs, rống lên gọi cứu thương. McWaters khi ấy là 1 thanh niên 18 tuổi, người Mulberry, Florida, rất máu đánh nhau. Chỉ mới ra chiến trường chưa được 1 tháng cậu ta đã thực hiện được những tuyên bố hiếu sát của mình, và vừa trở về sau khi hưởng 3 ngày phép vì giết 1 VC. Giờ đây 'thằng nhóc dũng cảm' McWaters, theo lời Buehrig, đang nằm dúm dó trong cái hố nhỏ gần 1 căn nhà, bị đạn vào ngực, trổ ra rộng hoác sau lưng. Cậu ta dính chấu ngay từ loạt đạn đầu. Ko cách chi tới chỗ người bị thương cả ngoài việc bắn như đổ đạn về phía VC và hò hét bảo cậu ta cố cầm cự.

    Trong thư trung úy Sharpe tả lại chuyện bắn trả:

    Dù trong thực tế đang nằm trong tử địa, lại hoàn toàn bất ngờ nhưng hầu hết các binh sĩ đều bắn lại hết sức mãnh liệt...Chúng em điều M113 lên, xối đạn trọng liên 50 vào bọn Charlie. Do 2 bên đường đều có nhà, nên mỗi lần chỉ đem lên được 2-3 chiếc...

    Trong trận đánh lớn đầu tiên của mình, trung úy Buehrig đã choáng khi nghe tiếng súng nổ. Anh nhớ lại: "Đang đi trên đường thì Chúa ơi! bất thình lình kẻ thù nổ súng. Dù ko sợ tôi cũng điếng cả người trước cơn hỗn loạn. Chẳng thể tưởng tượng sao tiếng súng lại nổ ầm ầm khiếp đến thế."

    Trung úy Buehrig chạy từ người này sang người khác, từ nhóm này tới nhóm khác, động viên họ tiếp tục bắn vừa tiến lên, chốc 1 chốc lại dừng lại bắn khẩu M16 của mình. Tuy vài lính dưới quyền Buehrig cũng co đầu rút cổ núp sau xe bọc thép nhưng đa số đều dũng cảm đương đầu, bắn trả lại. Nhiều người còn đạp cửa nhà nhằm xua địch ra ngoài. Lính bộ binh cơ giới cứ tiến lên ko để ý gì đến 1 ông già đang đờ người vì khiếp hãi nấp dưới tấm phên cùng 1 đứa trẻ độ 3-4 tuổi bị thương nặng đang khóc thét bên vệ đường. Trong suốt thời gian đó, các xạ thủ trọng liên 50 trên xe M113, theo như Buehrig nhớ lại: "do cố áp chế hỏa lực địch đã nã bừa vào nhà cửa 2 bên đường. Dù bắn trả cực kỳ mãnh liệt nhưng thực tình mà nói, chúng tôi vẫn ko phát hiện ra nơi tập trung hỏa lực nào của địch cả." Sau này, khi cố công tìm hiểu Buehrig kết luận rằng khi đó mình phải chống lại từng tổ nhỏ quân Giải phóng, cứ bắn đôi ba loạt là vọt ngay sang 1 ngôi nhà khác. "tôi cho là, suốt cả trận đánh, chỉ duy nhất 1 lần là mình thoáng nhìn thấy 1 chiến sĩ địch."

    Binh nhất Everidge, 20 tuổi, là 1 gã nhà quê trẻ trung, thật thà, mới cưới vợ người Harmony, North Carolina. Anh đang đi cạnh chiếc M113 có biệt hiệu "***** Galore" của mình thì "bất thình lình, chúng tôi bị bắn, phải bắn trả. Tôi ôm khẩu M60 nằm rạp xuống, rồi bò ra vệ đường. Thấy 1 thùng phuy hay đại loại gì đó như thế tôi bèn tới núp đằng sau. Vừa nhả đạn tôi vừa nghĩ "mình đang bắn vào cái gì vậy ta?. Thú thực, tôi chẳng nhìn thấy 1 ai hết."

    Trung sĩ Clifford E. Shields, người Magnolia, Alabama, 20 tuổi, đã lập gia đình. Còm nhom, ít nói, vốn là công nhân xây dựng nhập ngũ rồi trở thành hạ sĩ quan. Tiểu đội của Shields đi ngay phía sau tiểu đội của Cedell Raggs. Sau khi rời chiếc ***** Galore, người tiểu đội trưởng cùng lính dưới quyền đang đi bên phải đường thì địch khai hỏa. Trong nháy mắt có cái gì bắn trúng khung cửa sau chỗ Shields ẩn nấp, chẳng biết mảnh sắt hay dăm gỗ bay ra rạch 1 đường ngay trên mắt của anh. Cứ ngỡ mình bị thương nặng, sau Shields mới nhận ra máu đầy mặt là vì nó hòa với mồ hôi chảy xuống. Shields lau sạch 2 mắt rồi bắt đầu bắn khẩu M16. Anh nhớ lại "Thử tưởng tượng cảnh nguyên 1 đại đội toàn súng liên thanh, đều xả đạn cùng lúc mà xem. Lúc đó thì chịu, chẳng thể biết ai bắn vào cái gì."

    Mãi tới khi liếc về phía sau giữa những loạt đạn ko thấy Koenig, Ossen và những người khác đâu cả thì John Holdermới biết là mình đã vượt lên phía trước. Ko biết làm gì hơn, Holder tiếp tục xả súng cho đến khi khẩu M16 kẹt đạn thì nhảy vào nấp sau hàng giậu trước mặt tiền 1 căn nhà. Đang rạp người cố chữa súng thì 1 luồng đạn súng máy cày vào tường nhà, chỉ cách đầu Holder có mấy phân. Bị cái gì đó đâm vào sau tai, làm anh cứ ngỡ mình bị thương nặng. Thấy có khoảnh khoắc tạm lắng, Holder định vọt qua lại bên kia đường nhưng tiếng súng cả bạn lẫn thù lập tức rộ lên, khiến anh lại phải rụt vào chỗ nấp.

    Binh nhất Robert Mark Nauyalis là người điều khiển khẩu trọng liên trên chiếc ***** Galore. Nghe tiếng đạn rít veo véo xung quanh anh trở nên do dự; là lính mới bổ sung anh chả biết làm gì khi ko thể xác định mục tiêu cả. Binh nhất Larry A. Lamonica, lái xe, cũng nhô mình lên khỏi nắp cửa, nhả đạn súng M60. Thấy Nauyalis ko bắn, Lamonica bình tĩnh bảo tay lính mới xả súng vào những ngôi nhà bên phải mình. Được hướng dẫn, Mark Nauyalis, 1 cậu trai thuộc tầng lớp trung lưu người Baltimore County, Maryland, đang là nhân viên văn phòng ban ngày, học đại họcban đêm thì có lệnh nhập ngũ, liền quay nòng khẩu trọng liên 50, và bắt đầu khạc đạn.
    Khoam, caonam_vOz, viagraless5 người khác thích bài này.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Trong khi Lamonica và Nauyalis đang nã đạn vào những nhà bên phải, thì từ 1 góc nhà trước mặt, bên trái đường, hiện ra 1 bóng người hướng khẩu RPG thẳng vào chiếc M113 đậu ngay trước ***** Galore. Trung sĩ Carvin L. Simmons, trưởng xe, khi đó cũng đang quay trọng liên 50 bắn sang bên phải; chỉ có người lái xe là kịp nhìn thấy quả đạn RPG chĩa về phía mình khoảnh khắc trước khi nó bay tới. Anh vội đu người lên, chạy trên nóc xe cố thoát ra xa. Phản xạ mau lẹ đã giúp người lái xe ko bị thương nặng, chỉ bị mảnh vào chân khi quả đạn chống tăng phụt trúng thành xe. Đạn nổ soi 1 lỗ trên vỏ giáp, tạo ra 1 luồng mảnh sắt nhọn phun khắp nội thất xe, thiêu cháy bất thứ cứ gì gặp phải.

    Tiếng nổ khiến Simmons tụt xuống lỗ cửa, choáng váng. Trung úy Buehrig cùng 1 tay súng nữa liền chạy đến, lôi Simmons ra kéo về chỗ an toàn, trong khi tay tài xế lê cái chân bị thương khập khiễng cố hết sức bình sinh chạy về phía sau. Rick Neuman nhớ lại: "Biết mình sẽ được về nhà cậu ta cười tươi lắm. Được rời khỏi VN mới hạnh phúc làm sao."

    Trung úy Sharpe khi ấy đang đứng bên phải đường, ngay phía trước chiếc M113 bị trúng RPG. Sức nổ khiến anh quị xuống, toàn bộ sức lực bỗng tan biến. Anh cảm thấy lưng mình bỏng rát, tay phải buông thõng bên người. Thử nhấc tay lên nhưng đau chết đi được. Hẳn cậu lính điện đài của Sharpe phải gào to lắm vì 1 lính cứu thương lao mình dưới lằn đạn địch, đã nhanh chóng xuất hiện. Sau khi cởi áo của Sharpe ra tay lính cứu thương bảo anh bị 1 vết thương rất sâu bên phải, ngay trên bả vai. Sau này, Sharpe còn biết mình gãy cả xương vai nữa nhưng khi ấy thì chưa thấy tay kia nói anh bị nặng nhẹ sao cả. Sợ bị xuất huyết bên trong, người lính cứu thương, bảo trung úy nên quay về vị trí tập trung cho trực thăng tới tản thương.

    Dù rất muốn biết tình trạng vết thương, trách mình ko chịu mặc áo giáp, nhưng Sharpe vẫn quyết định ở lại. Sau khi được tay lính cứu thương buộc chéo mảnh vải treo cái tay vô dụng của mình lên cổ, trung úy Sharpe lấy tay còn lại cầm tổ hợp liên lạc, tiếp tục cố gắng chỉ huy. Anh liên lạc với trung tá Antila yêu cầu điều mấy trực thăng vũ trang Cobra đang bay trên trời cho mình sử dụng, chỉ đạo cho Buehrig và Neuman, bật khói đánh dấu vị trí mình cho lũ trực thăng nhận biết. Qua máy truyền tin, Trung tá Antila ko hề biết Sharpe đã bị thương và anh cũng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện sẽ báo cáo về việc đó. Về sau anh giải thích: "Chẳng hiểu vì sao tôi lại làm thế. Đúng là vớ va vớ vẩn."

    Nghe Nauyalis la lên rằng mình hết đạn, Lamonica liền chui vào trong xe để lấy. Đạn vẫn tuôn ra ào ạt từ chiếc M113, Nauyalis xoay mũi trọng liên 50 lại, đề phòng lính RPG quân Giải phóng lại từ cái góc nhô ra lần nữa. Trừ việc mũi súng nằm ngay trên cửa lái, thì đây có lẽ là 1 động thái khá thông minh. Nauyalis vừa bắn được 9-10 phát đạn thì Lamonica ôm thùng đạn chui lên. Tiếng ầm ầm kinh khủng từ họng súng đang nhả đạn khiến Lamonica ngã tụt xuống khoang lái, màng nhĩ đau như thể ai đó lấy que đâm vào.

    Đầu vẫn kêu ong ong, Lamonica chuyền thùng đạn nặng 13,5kg cho Nauyalis; anh này nạp đạn rồi lại tiếp tục bắn. Đột nhiên, Lamonica chỉ tay về bên trái, Nauyalis quay lại thấy có chừng 15-20 lính VNCH, ở cự ly quá gần để hỗ trợ, đang theo đường chạy lui tránh xa khu chiến. Ko lâu sau đó, khi vẫn đang xả đạn trọng liên 50 thì bỗng trên đầu phía sau có tiếng ầm ầm rất chói tai, Nauyalis nhìn lấy thấy 1 chiếc Cobra đang bay song song với con đường, họng minigun dưới cằm khạc lửa. Hàng trăm vỏ đạn rỗng rơi lả tả trước mắt Nauyalis y như thể 1 đám mây côn trùng vậy. Chiếc trực thăng vũ trang sà thấp đến độ anh thấy cả khuôn mặt đầy căng thẳng của tay xạ thủ ngồi đằng trước ghế phi công trong cái buồng lái chật ních. Ronnie Everidge, khi ấy đang nấp sau chiếc ***** Galore nhớ lại: "Khi chiếc Cobra khai hỏa, vỏ đạn nóng bỏng bằng đồng rơi cả xuống đất. Trước giờ tôi chưa bao giờ nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra với vỏ đạn khi họ bắn minigun cả. Nay thì biết rồi. Thật kinh hoàng khi chúng cứ từ trên trời rơi thẳng xuống đầu mình. Lại thêm mấy trực thăng vũ trang vào công kích. Chúng từ đằng sau bay tới, thổi đạn vào những nhà cửa trước mặt. Bọn tôi thì chỉ biết rụt cổ nấp sau chiếc M113."

    Les Koenig và Howard Ossen đang dán mình xuống đất, phía sau 2 cái lu hứng nước mưa đặt sát vách tường, chẳng thể nào bắn trả trong khi đạn địch cứ xối vôi vữa khắp người họ. Những tưởng đại đội sẽ sớm tiến lên, cả 2 kinh hoàng thất vọng khi thấy 1 xe M113 bốc cháy, chặn tất cả lại. Họ giúm người, ko nói nổi 1 câu khi đám Cobra sà thấp tới mức khiến những căn nhà rung chuyển, đạn minigun vù vù lướt qua đầu mình. Chẳng nghi ngờ gì chuyện ko sớm thì muộn, 1 trực thăng vũ trang sẽ nã trúng nơi họ đang ẩn nấp. Muốn nhao ra lắm nhưng ko sao làm được vì chỉ cần nhô ra khỏi chỗ trốn 1 chút là lọt vào họng súng AK-47 ngay.

    ***

    Trong lúc trung úy Neuman đang gọi điện đài thì lính cứu thương của anh chạy lên chỗ trung đội Buehrig. Định ngăn lại nhưng vì điện đài làm phân tân nên chưa kịp tóm lấy thì anh chàng kia vọt mất rồi. Cũng bởi vì nghe thấy tiếng kêu cứu, nên anh ta mới lên tiếp ứng. Người lính cứu thương ấy là hạ sĩ Harry G. Koyl, 25 tuổi, 1 người vì đức tin tôn giáo mà ko thể cầm súng. Anh mới vừa từ trạm xá tiểu đoàn về phối thuộc cho trung đội, thay cho cậu lính cứu thương cơ hữu đang bị ốm của đơn vị. Neuman đã chỉ bảo anh hết sức cặn kẽ: "Do chưa từng ra trận lần nào nên cứ ở phía sau, nếu tôi chưa bảo thì đừng đi đâu hết. Nếu có ai dính chấu thì cũng đừng vội nhào lên, vì làm thế cũng có thể bị bắn tiếp. Mấy thằng khác sẽ đem thương binh về. Đó là việc của bọn họ. Cậu chỉ cứu chữa người bị thương khi họ đã được đưa về thôi. Việc của cậu là vậy."
    Khoam, caonam_vOz, viagraless4 người khác thích bài này.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Chỉ trong thoáng chốc, đã thấy Koyl, bị thương, được 1 tay súng phụ dìu loạng choạng lui về. Trung úy Neuman giận dữ lột túi cứu thương của Koyl, đưa cho cậu lính điện đài. Anh quát: "Rồi đó. Xách đít về chỗ tập kết ngay. Bị thương rồi thì có có tích sự gì nữa."

    Neuman ko hề biết rằng, do mong mỏi cứu thương binh, Harry Koyl lại bất tuân thượng lệnh, tìm đâu đó ít bông băng rồi cùng 1 binh sĩ khác cố lên tới chỗ Dalton McWaters. Cậu thương binh đang đau đớn kia vẫn kẹt lại dưới cái hố phía trước cùng với tiểu đội dẫn đầu, kêu la cầu cứu 1 cách vô vọng vì nỗ lực lên cứu khi ấy cũng đồng nghĩa chuyện với tự sát. Trung sĩ Shields kinh ngạc chứng kiến cảnh Koyl cùng người đồng đội cũng chẳng kém phần can đảm của mình đạp đổ tấm phên rào giữa 2 căn nhà để di chuyển mà ko phải chường ra đường. Tuy nhiên, McWaters lại đang nằm phía trước căn nhà kế đó và trong khi Koyl cùng người lính kia vừa ra khỏi góc nhà tới chỗ anh thì hàng tràng AK-47 bỗng rộ lên dữ dội. Koyl quị xuống bên cạnh McWaters rồi đổ về phía trước, với 1 phát đạn vào đầu trong khi tay vẫn nắm chặt cuộng băng. Tiếng kêu la của McWaters cũng ngừng bặt, hẳn cũng bị loạt đạn nhằm vào Koyl giết chết. Người lính còn lại vội bò lui. Shields kể, khi đó còn chưa biết người lính cứu thương là ai: "Hành động của anh ấy thật đáng ca ngợi. Anh chẳng hề sợ hãi, cứ lao lên cứu đồng đội rồi cũng bị dính đạn. Tôi đã chứng kiến toàn bộ sự việc."

    Trung úy Sharpe lệnh cho chiếc M113 gắn súng không giật của đại đội lên phía trước, hy vọng bắt đối phương im tiếng bằng những loạt đạn chài. Do đạn địch bắn mạnh, vội quá, tay xạ thủ luống cuống đã để quả đạn bị mắc kẹt, ko tài nào bắn được. Đang lúi húi cố lấy đạn ra thì anh này bỗng trúng đạn vào cổ, lăn xuống đường và được 1 tay súng khác lôi vào chỗ nấp. Sharpe nhớ lại: "Chúng tôi chưa bắn được phát nào cả. Mọi thứ cứ lộn tùng phèo cả lên."

    Trung úy Neuman đi cạnh xe bọc thép của mình tiến lên phía trước, tay cầm súng, tay kia giữ tổ hợp liên lạc, người điện đài viên theo sát phía sau. Vừa đi ngang 1 con hẻm nhỏ thì bị ai đó nấp sau tấm phên chắn ngang đường bắn. Theo bản năng, người trung đội trưởng cùng cậu lính điện đài vội nằm rạp - có cái gì đó đập trúng cẳng tay trái Neuman đau nhói - xả đạn M16 bắn tấm phên thủng lỗ chỗ. Các binh sĩ khác cũng nổ hàng tràng đạn vào hẻm. Xem lại, Neuman mới thấy viên đạn địch đã làm 1 đường trên cẳng tay, lộ cả xương ra. Ko thấy đau do còn hăng máu, anh lôi băng trong túi cứu thương ra, đưa nó cho người lính điện đài, để cậu ta băng cho mình. Biết súng M16 ko thể dùng 1 tay được, Neuman ném nó vào trong xe, rút khẩu Colt 45 ra khỏi bao.

    Cuộc tấn công đã hoàn toàn bị mất đà. Thấy cảnh xe cháy trên đường, cùng đám trực thăng vũ trang đang bắn phá, mọi người đều dừng cả lại. Buehrig cho biết "Chẳng ai muốn tiến lên trước mặt lũ chó đẻ đó đâu. Chúng tôi ngán cái cảnh quân ta bắn quân mình trong những cuộc hành quân trước đó lắm rồi."

    Trung úy Sharpe quyết định rút lui, chỉnh đốn. Anh hét vào điện đài hỏi Buehrig và Neuman đã thu đủ quân chưa? "Chưa" Buehrig đáp. Xác Koyl và McWaters vẫn ở ngoài tầm với trong khi 3 binh sĩ khác - Holder, Koenig, và Ossen - thì đang mất tích. "Sẽ có thêm những thương vong vô ích để tìm kiếm họ, tôi đành quyết định dù gì cũng phải rút quân" Sharpe lý giải trong thư gửi về nhà.

    Lệnh được ban ra, các xạ thủ trọng liên 50 bắn như đổ đạn yểm hộ cho quân của trung sĩ Raggs, từng tổ nhỏ rút về theo kiểu nhảy cóc để bảo vệ lẫn nhau. Trong quá trình tháo lui, Mark Fenton bị dính mảnh RPG vào mông. Trung sĩ Shields có lẽ cũng 'xơi' 1 miếng cũng từ quả đạn ấy; anh chỉ biết rằng mình đang bắn trong tư thế nằm sấp thì bỗng thấy như bị ai đó lấy hết sức bình sinh đá vào lưng. Shields nhớ lại: "Tôi vẫn tiếp tục bắn. Tình hình đang rất rối, người bị thương thì nhiều, ko thể ngừng lại vì 1 chuyện cỏn con vậy được."

    Các lái xe cho xe lùi lại, theo từng chặng một. Vừa về tới chỗ tập trung thì Larry Lamonica nghe Mark Nauyalis bảo quay xe lên 'nhặt' mấy binh sĩ, dường như vẫn còn bị kìm chặt gần chỗ chiếc M113 cháy. Sau khi trở lại khu chiến giờ đã vắng tanh, Lamonica chạy qua cái xe cháy rồi dừng lại cho 2 người lính hộc tốc leo lên nóc xe cạnh chỗ Nauyalis. 1 tay gan lỳ còn trèo sang xe cháy tháo khẩu trọng liên 50 ra, vứt vào đám lửa trong thùng xe để kẻ địch ko thể sử dụng. Thật khó mà biết được khi đó liệu họ có bị bắn hay ko. Chẳng còn cách nào khác, sau khi đã dùng hết nhẵn đạn trọng liên 50 có trong tay, Nauyalis đành lôi khẩu M16 ra bắn. Đang cúi xuống khoang lấy thêm đạn, thì thấy người lính bị tụt lại thứ 3 nhào vào trong xe cùng với mấy thường dân, trong đó có 1 phụ nữ trạc 30-40 tuổi nữa có cặp mắt như điên như dại. Thấy đã hết người để cứu, Lamonica lại cho xe lui về địa điểm tập trung trên bờ Kênh Đôi, nơi tương đối an toàn.

    Lửa cháy đã kéo dài được khoảng 20 phút.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Chương 8



    Tại điểm tập trung, trung úy Sharpe liên lạc điện đài với trung tá Antila. Trong thư viết sau trận đánh Sharpe cho biết: "Sau khi biết quân ta đã rút lui, trung tá định gọi phi pháo dập xuống mục tiêu nhưng em ngăn lại bảo đợi khi nào đem được 3 người mất tích về hẵng."

    Trong lúc chỉnh đốn, Sharpe dùng cánh tay còn lành nắm áo Buehrig. Khuôn mặt hồng hào của anh tỏ vẻ gấp gáp. Anh kêu lên: "Chúng ta phải quay lại chỗ đó. Phải quay lại thôi."

    Sharpe phát hiện 5 chiến sĩ giải phóng mặc đồ bà ba đen đang chạy trên đường xóm ra đồng lúa phía sau. Anh nhớ lại "Mọi người đều nổ súng. Gía mà hạ được chúng thì tuyệt biết mấy, thế nhưng, chết tiệt, toàn trượt cả. Ko trúng được tên nào hết. Bực chết đi được."

    Dựa vào việc thấy đối thủ từng luôn né tránh giao tranh, phán đoán toàn bộ lực lượng địch đều đã rút, Sharpe ra lệnh cho quân lên xe, tấn công. Lảo đảo dưới cơn đau và cái nóng, phải nhờ người giúp đỡ, anh mới leo nổi lên chiếc bọc thép của mình. Thế nhưng quân Giải phóng vẫn bám trụ và đội hình xe bọc thép Mỹ lập tức rơi vào 1 lưới lửa hết sức dữ dội. Sharpe bị dính miểng vào bụng. Sau 1 phát RPG bắn trượt trong gang tấc, Trung úy Buehrig văng ra khỏi xe rơi xuống đống xà bần bên vệ đường. Khi đứng dậy, anh mới biết mình đã bị 1 mảnh đạn nóng bỏng, xuyên qua giày găm vào bàn chân. Đúng là dính chấu mà vẫn thấy may. Buehrig cho rằng: "Vì ko mặc áo giáp nên tôi rất dễ toi mạng nếu bị thứ đó găm vào tim hay những bộ phận quan trọng khác. Tuy phải nhảy lò cò vì ko dám đặt chân mạnh nhưng đó chả phải là 1 vết thương nặng lắm. Vẫn may mắn chán."

    Sharpe cho quân lui gấp về chỗ tập trung rồi gọi điện xin trực thăng tản thương. Quyết định ko tìm mấy người lính thất lạc nữa, anh bảo trung tá Antila cứ việc gọi phi pháo. Sau 1 lượt sà thấp, viên sĩ quan điều không tiền tuyến FAC trên chiếc phi cơ O-1 Bird Dog, một động cơ cánh quạt, bắn rocket phốt pho trắng chỉ thị mục tiêu. Tiếp đó, những máy bay A-37 Dragonfly, loại phản lực cơ nhỏ, tốc độ chậm chuyên dùng cận yểm đã từ phía bắc bay ào ào trên các mái nhà xuống phía nam. Sử dụng con đường chính và chiếc M113 bị diệt - lúc này đạn trong xe đang nổ như pháo hoa - làm vật chuẩn, phi công A-37 trút bom xuống đầu nam xóm Cầu Mật.

    Nấp sau mấy lu nước, Les Koenig và Howard Ossen ngước nhìn chiếc máy bay phản lực đầu tiên gào rú bay qua, nhả ra 1 trái bom như đang lao thẳng xuống đầu mình. Cả 2 đều nghĩ đã cầm chắc cái chết. Tuy nhiên, quả bom đã rơi vào đám nhà cửa đằng trước mặt. Tiếng nổ lộng óc. Biết chẳng thể 'thọ' lâu dưới trận không kích này, Koenig và Ossen cuống cuồng bò qua khoảnh sân trước nhà về phía sau. Dường như kẻ địch cũng lo ẩn nấp nên lo thấy tiếng súng AK-47 nổ. Cuối cùng, đôi bạn kiệt sức, khát cháy cổ cũng về tới chỗ tập trung, mở thùng đá trong xe ra làm vài lon bia ướp lạnh. Koenig nói: "Uống bia trong lúc đánh nhau kể cũng kỳ nhưng chẳng ai trong chúng tôi bận tâm về chuyện ấy."

    John Holder, người lính thứ 3 bị thất lạc, cũng đang tìm đường thoát. Anh cho rằng nếu ko theo bên này đường lùi lại được thì tốt nhất là tiến lên. Con đường đất ra tới ruộng lúa thì kết thúc. Đường ra tới đó có 1 cái cầu ván nhỏ. Đã hết cách, được ăn cả ngã về không, Holder quyết định chạy vắt chân lên cổ vượt qua cầu. Ván gỗ rụng lả tả dưới sức nặng của anh. Phát hiện 1 dãy xe bọc thép, Holder rối rít huơ khẩu M16, chỉ e bị lính Bandido Charlie giết mất vì tưởng nhầm là địch đang tiếp cận.

    Trung tá Antila điều phối hỏa lực hỗ trợ từ trên trực thăng của mình. Vì thành tích đó mà ông được thưởng huân chương Sao bạc. Vậy mà viên trung tá ba gai lại coi chuyện thưởng huân chương kia như trò hề: "Nếu là tiểu đoàn trưởng trong thế chiến II thì 'công trạng' ấy quá lắm chỉ được thưởng huân chương Sao Đồng. Nhưng ở VN họ ban huân chương hào phóng lắm."

    Đúng vậy, dù sự hiện diện của Antila mang tới kết quả tích cực nhưng 'thành tích' của ông đã bị thổi phồng lên. Greg Hawkins ko bao giờ quên mẩu hội thoại giữa Antila và 1 đại đội trưởng (rõ ràng là Sharpe). Trung tá nói: "Thu quân về, nằm im để gọi pháo dập. Tôi ko muốn thằng con nào bị thương hết." "Ổng rất thương bọn tôi." Hawkins kể "Chiếc trực thăng H13 trung tá Antila sử dụng dịp mini Tết bị bắn vỡ kính chắn gió. Trung úy pháo binh (trung úy Franks) khi đó bay cùng ông kể cho những người trong sở chỉ huy rằng 'Gió táp vào mặt, tôi đang sợ vãi c-ứt thì trung tá nghiêng đầu qua hét vào tai [giọng vẫn bình tĩnh] ’Gee ạ, căng phết nhỉ.' "Chẳng có gì khiến ổng ngán cả."

    Sau khi máy bay không kích, pháo cũng bắt đầu giã xuống mục tiêu. Ở nơi tập trung, 1 số xạ thủ đại liên cũng nổ súng góp đạn vào màn khói bụi. Địch đáp trả bằng 1 quả RPG trúng vào tầng thượng ngôi nhà phía trước đám xe khoảng 30m. Trung sĩ Willie H. Holmes, chỉ huy phân đội cối, nhanh chóng nã 1 phát súng không giật 90mm nhằm vào hỏa điểm đối phương. Howard Ossen đang bắn trọng liên 50 trên M113 thì "1 trái đạn RPG khác phát nổ, mảnh gim vào cả 2 tay. Thấy máu chảy xuống nhưng vẫn tôi cứ mặc. Bị sơ sơ ấy mà."

    Les Koenig cũng bị thương ở đó. Anh nhớ lại: "Tôi chỉ biết là khi nhìn xuống thì đã thấy ngực mình 'ăn' mấy miểng nhỏ rồi. Chúng chỉ vừa chui qua da, hầu như ko có máu."

    Trung úy Sharpe hạ lệnh lên xe chuẩn bị đánh vào xóm Cầu Mật lần thứ 3. Khi đang ngồi trên nóc xe, chờ lệnh tiến quân, thượng sĩ Charles Baker, 36 tuổi, người Louisiana, cựu binh chiến tranh Triều Tiên, trung đội phó của Buehrig, 1 quân nhân chuyên nghiệp được mọi người kính nể - đã bị thương vào đầu gối, phải đưa lên trực thăng sơ tán gấp. Dù trong giấy tờ ghi Baker bị địch bắn nhưng rất có khả năng anh đã xơi phải 1 mảnh pháo bay 'lạc' trong quá trình oanh kích chuẩn bị. Koenig kể: "Chẳng hiểu nó từ đầu chui hết. 'Rác' cứ gọi là bay đầy trời."
    Khoam, caonam_vOz, viagraless5 người khác thích bài này.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Quãng 2g chiều, đại đội A bắt đầu di chuyển. Trung úy Buehrig phát hiện 1 xạ thủ M60 dưới quyền – lính mới của đơn vị – tụt lại phía sau, rõ ràng muốn né tránh đợt tấn công thứ 3. Dù ko mắng chửi nhưng Buehrig cũng chả thể làm ngơ cho hành động ấy. “Đi nào” anh quát to, giục tay lừng khừng kia cất bước. “xách đít ra ngoài kia ngay.” Thái độ lần khân của tay kia cũng chẳng phải là duy nhất. Điện đài viên của Buehrig cũng công khai tỏ ý ko muốn đi. “Tôi cần cậu. Việc cậu ở cạnh tôi cực kỳ quan trọng.” Buehrig nói với điện đài viên, người đã có 1 thoáng bị nỗi sợ hãi lấn át. Buehrig phỉnh phờ cậu ta quay về vị trí với lời hứa hẹn mà anh rất mong nó sẽ trở thành sự thật: “Đánh thêm lần nữa là nghỉ thôi. Ta nhất định sẽ thành công. Lần này là lần cuối rồi.”

    Trung úy Sharpe lấy lại sức, tham gia đợt tấn công thứ 3, nhờ vài chai bia lạnh. Anh đeo khẩu CAR-15 trên vai lành lặn, 1 tay cầm chai Budweiser, lẽo đẽo phía sau là 1 đội quay phim. Đám xe bọc thép thận trọng tiến trên con đường tan hoang, đầy gạch vụn. Lính xuống xe lục soát nhà cửa 2 bên đường. Nửa phía nam xóm giờ chỉ còn là đống đổ nát. Tường, mái nhà đã bay mất, phòng ốc bên trong lộ ra. Nhiều nhà bị san phẳng chẳng còn gì nữa.

    Trung úy Neuman rất hả dạ khi thấy xác 2 du kích quân nằm chết sau tấm phên bị anh bắn nát trong đợt tấn công thứ nhất. Neuman thu được trên 1 xác khẩu súng lục – dấu hiệu cho thấy người đó là sĩ quan. Xe bọc thép đi đầu, chiếc ***** Galore của trung sĩ Shields, đã vượt qua xác chiếc M113 bị trúng đạn RPG phải bỏ lại. Nó nằm chình ình trên đường, âm ỉ khói, bên trong cháy thành than, 2 bên sườn phù ra vì quá nóng. Lục soát các căn nhà, lính của Shields tìm thấy thêm nhiều tử thi quân địch cũng như 1 số xác thường dân (có cả phụ nữ) bị tên bay đạn lạc giết chết. Họ cũng tìm thấy thi hài của McWaters, dưới cái hố và cả Koyl, đang nằm nghiêng gần ngôi nhà lỗ chỗ vết đạn, vôi vữa phủ trắng người. Lính Mỹ dừng lại 1 chút lấy poncho gói ra gói xác bạn. Thỉnh thoảng lại có tiếng súng nổ phía trước đoàn quân; đó là vì theo lời của Ronnie Everidge, để an toàn, 1 số lính đã “bắn vài loạt ngay khi vừa đạp cửa, phòng địch nhào ra hoặc bắn trả..v..v.”

    Trung sĩ Shields thấy mấy lính của mình ném lựu đạn lên cửa sổ tầng 2, rồi lại nháo nhào tìm chỗ nấp khi lựu đạn va vào tường nảy lại hay lăn xuống từ mái nhà. 1 lính Mỹ thảy lựu đạn lên mái lá, nó rơi xuống phòng trước đúng lúc đồng dội của anh chàng đạp cửa xông vào. Shields kể giọng hài hước “Chẳng cần phải nói, đám lính ‘phắn’ ra cửa cứ gọi là bán sống bán chết.”

    Trung úy Buehrig, cùng 1 tiểu đội trưởng vừa xông vào nhà thì chạm chán 1 ông người VN. Dù người này có bộ dạng hết sức là dân thường nhưng tay tiểu đội trưởng vẫn nhào tới, đánh ông ta ngã xuống đất. Ông này co rúm người lại, kinh hoàng hứng chịu những cú đấm, đá. Buehrig kể: “Tôi nghĩ tay trung sĩ có khi giết ông ta mất. Hắn đang cực kỳ điên tiết. Tôi bèn xen vào giữa bảo ‘Ra khỏi đây thôi’. Thế là cả 2 ra ngoài.” Buehrig chẳng bao giờ biết được liệu tay trung sĩ có định đánh chết người thường dân hay tay du kích mặc thường phục kia, hoặc quan tâm đó là ai hay ko. “Rất nhiều người chẳng thể phân biệt được đâu là dân đâu là địch” Buehrig, cố gắng lý giải vụ việc, cho rằng tay trung sĩ kia là người tốt, chỉ nóng giận nhất thời. “Đó là lần tấn công thứ 3. Binh sĩ ai cũng sợ hãi, tức giận và nản chí lắm rồi. Thần kinh căng như dây đàn. Mọi thứ chung quanh đều ‘bốc hỏa’ mà chả biết điều gì đang chờ đón mình. Địch cũng chả khác dân mấy; về cơ bản họ mặc quần áo giống nhau. Rất khó để tìm ra sự khác biệt giữa bọn họ, trong khi chỉ 1 tí chần chừ là đã có thể mất mạng rồi.”

    Sau khi tới chỗ cái xưởng cuối đường mà ko bị bắn phát nào, chiếc M113 đi đầu rẽ trái đậu bên lề. Ngôi nhà đầu tiên bên phải anh đã bị phá hủy 1 phần. Trung sĩ Shields, dẫn theo binh nhất William E. Grothaus bước vào trong. Vào tới phòng thứ 2, Shields phát giác 1 chiến sĩ địch mặc áo sơ mi, quần đùi đen đang ngồi bệt sau chiếc giường. Shields vội hạ khẩu M16 trên vai xuống, sắp sửa siết cò thì thấy người lính đối phương giơ tay lên đầu hàng. Anh ta đã bị mù, đôi mắt bị bỏng mở to nhưng trống rỗng. Khẩu AK-47 của anh dựa vào tường, nòng cuốn 1 miếng giẻ rách.

    Đúng thời khắc đó, 1 VC khác trong nhà nổ súng. Shields điếng hồn ko thốt được 1 câu, nhưng cả anhlẫn Grothaus đều ko phải là mục tiêu của khẩu AK-47. Thay vì bắn 2 người, tay du kích giấu mặt lại bắn mấy binh sĩ vừa mới bước vào nhà theo sau tiểu đội trưởng mình.

    1 trong số đó là Ronnie Everidge. Thấy Shields cùng Grothaus rồi sau đó tới điện đài viên của tiểu đội và 1 tay súng nữa đã vào nhà, thì Everidge, người thứ 5 xuống xe, cũng chủ quan đi tới cửa. Sau khi đá cánh cửa ra cho mở hết cỡ, anh thấy trong phòng 1 bên có cái bàn, trước đặt 1 tấm tôn chắn. Ôm khẩu M60 ngang hông, cùng 2 dây đạn đeo chéo người, Everidge vừa bước vào phòng thì tay du kích đang nấp sau bàn liền nổ súng. Đạn xuyên qua tấm tôn tuy trượt người lính điện đài, nhưng bắn trúng tay súng còn lại cùng xạ thủ súng máy Everidge.

    Choáng váng, chưa hiểu chuyện gì xảy ra cả, Everidge ngã bật ra ngoài cửa, khẩu đại liên vẫn nằm trên người. Ko ổn rồi, anh hoảng hốt nghĩ khi nhìn thấy khuỷu tay trái mình lật ngược, chỉ lên vai. Dù chẳng thấy đau, nhưng cẳng tay trái anh đã gãy gập, xoắn lại, lòi cả xương ra.
    Khoam, caonam_vOz, gaume15 người khác thích bài này.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Vừa túm tóc lôi người du kích mù dậy, nghe tiếng súng nổ của người lính VC mình ko nhìn thấy, Trung sĩ Shields đứng chết trân với Grothaus, chả biết làm thế nào nữa. Lúc này, lực lượng hỗ trợ đã vừa tới. Trong khi Everidge kéo dây đeo qua đầu để hất khẩu súng máy khỏi đè lên ngực, nhiều binh sĩ đã xông vào trong cửa. 5 người trong tiểu đội của trung sĩ Raggs là Fenton, Koenig, Ossen, Savini, cùng hạ sĩ Robert A. Lynn đều ùa cả vào phòng trước, súng ống lăm lăm mà chẳng hiểu cái gì đang chờ mình. Tay lính bị bắn lòi ruột nằm sóng xoài nơi cửa cố chỉ tay về phía hành lang dẫn ra phía sau. Quay mình về phía đó, thấy thoáng động và phát hiện 1 lính đối phương đang nấp dưới cái hố cách đó tầm 5-6 thước, Howard Ossen cuống quýt xả nguyên băng M16.

    Trong khi Ossen gấp rút thay băng, thì Mark Fenton bắn dọc hành lang, để Koenig, Lynn, và Savini kéo người lính bị thương ra ngoài. Ossen và Fenton mỗi người nấp sang 1 bên lối hành lang, Ossen rút chốt lựu đạn, bật mỏ vịt nghiêng người lẳng nó vào. Cự ly quá gần nên chẳng thể nào trượt được cái hố ở cuối. Ossen và Fenton vội nằm rạp xuống. Chả biết bức vách mỏng manh này có chịu nổi ko nữa, Ossen thầm lo lắng, nhớ lại những gì từng làm khi huấn luyện. Về cơ bản, họ phải ném lựu đạn làm sao cho thật xa nhất, rồi nấp sau 1 bức tường thấp bằng bê tông chứa đâu phải chỉ vài mét như này. Fenton cũng vậy, tuy nhiên lựu đạn đã nổ mà cả 2 ko hề hấn gì, và anh cũng lẳng thêm 1 quả nữa, cho chắc.

    Chẳng thấy đau đớn, Ronnie Everidge dùng tay lành chỉnh lại cẳng tay gãy về đúng vị trí, rồi cứ thế giữ chặt cho nó khỏi đong đưa. Xác người chiến sĩ du kích đã bắn anh đã được lôi ra ngoài, bỏ nằm trên mặt đất. 1 ống quần người này đen thẫm máu khô chứng tỏ anh ta đã bị thương vào chân từ đầu trận đánh. Do ko thể rút lui cùng đồng đội, anh đã quyết chiến đấu tới hơi thở cuối cùng - 1 ví dụ nữa giải thích lý do vì sao lính Mỹ lại kính nể sự can đảm của kẻ thù hơn là thù ghét họ.

    Everidge cùng tay súng bị thương vào bụng được cho lên chiếc Pu-ssy Galore, gấp rút quay về chỗ tập trung. Do ko chịu buông tay ra, khi lên cáng, lính cứu thương đã lấy vải buộc cả 2 tay Everidge lại với nhau rồi mới băng bó. Họ cứ lúi húi làm việc, cắt bỏ những mảnh quần, áo dính máu, chèn thêm bông băng trong khi Everidge - bối rối vì chả biết mình bị thương chỗ nào nữa hay ko? Mãi lúc sau, anh mới thấy còn bị bắn vào bụng, ngay trên rốn và đùi phải nữa. Ngoài ra còn anh còn bị đạn sượt qua dưới đầu gối. Hàng trăm mẩu tôn, dăm gỗ nhỏ do đạn AK phá ra cũng găm xung quanh mấy vết thương. Ronnie Everidge đòi bi đông nước, nhưng tay lính cứu thương bảo anh ko được uống vì đã bị thủng dạ dày. Người ta nói anh cố cầm cự, trực thăng tản thương đang trên đường tới.

    Vừa nhìn thấy trung sĩ Shields lôi người tù binh mặc đồ đen, loạng choạng ra ngoài, thì trung sĩ Nhan (?), thông ngôn của đại đội bỗng như hóa dại, huơ súng lục nhào đến hét lên những câu gì đó bằng tiếng Việt, đòi bằng được người tù binh. "thấy bộ dạng kinh quá, như thể sắp bắn mình tới nơi, tôi bèn đẩy tay VC về phía hắn." Shields kể lại. Nhan đánh, bắt tù binh quì xuống rồi dí súng vào đầu anh này, mồm quát tháo ko ngớt. Trong qua trình tra hỏi, dường như người lính VC đã trả lời đúng "vì tay thông ngôn thay vì bắn phọt óc anh ta ra lại bỏ súng, quay đi."

    Shields cho người tù binh mù đứng dậy, giải anh ta qua đám đông lính Mỹ đang sôi sục chỉ muốn hành quyết về chỗ tập trung. Trong khi người bị bắt ngồi thu lu giữa đám quân nhốn nháo cạnh đống đạn dược và mấy tay quân y đang chữa trị cho Everidge cùng người lính bị thương vào bụng thì theo trí nhớ của Shields: “anh ta thỉnh thoảng lại bị lính đi ngang đấm, đá. Chắc phải 3-4 lần gì đó. Chúng tôi đã mất rất nhiều người nên việc chưa có ai bắn anh ta đã là cả 1 sự kỳ diệu. Vả nếu có chuyện đó thì tôi cũng chẳng ngăn làm gì. Hôm đó, mà tôi ko mát tính thì có lẽ chính tôi đã xử.”

    1 số lính túm lấy tay tù binh, giờ đã như tấm mền rách, ném lên nóc xe M113, chỗ lưới tản nhiệt. Khí thải dù ko đủ nóng để gây bỏng nhưng cũng khiến người ta bị ngộp thở. “Bọn nó có ý giết tù binh.” Shields thừa nhận. Cuối cùng người tù cũng bị đá khỏi nóc xe, lưng đập xuống đất, ngơ ngẩn giương đôi mắt mù nhìn trời xanh. Nauyalis còn nhớ 1 xe bọc thép đã chạy tới chỗ người tù, có gã trên xe ra dấu tỏ ý muốn cho xe cán qua. Chẳng thấy ai phản ứng hay tránh ra cả. Dường như họ chưa đủ tức giận để có thể giết người 1 cách man rợ như thế. Thật may là người tù cuối cùng cũng đã bất tỉnh.

    Rốt cục thì trung úy Sharpe cũng đã có trận ‘đánh lớn’ của mình. Tuy nhiên kết quả thì vẫn mù mờ. Trong thư gửi cho anh trai, Sharpe kể là thu được nhiều AK-47, trung liên RPD cùng 2 súng chống tăng RPG “nhưng chỉ nhõn 8 xác VC – quá đỗi thất vọng cho 1 trận ‘thắng’ được kỳ vọng là oanh liệt”. Đổi lại anh có 2 lính dưới quyền tử trận, 18 người bị thương nặng. Dù thế Sharpe cũng hài lòng vì đã “hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi VC ra khỏi khu vực. Khi đám cháy lụi tắt, việc đếm xác cũng xong, thì đại đội A cũng hoàn toàn làm chủ chiến trường.”
    Khoam, maseo, caonam_vOz5 người khác thích bài này.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Chương 9



    Trung úy Sharpe sục sôi đứng nhìn người tù binh, tay nhăm nhăm chỉ muốn siết cò khẩu CAR-15 của mình. “Tôi đã định giết hắn. Rốt cục sau 4 tháng hỏng ăn, tôi đã tóm được 1 tên. Chỉ cần giết hắn ngay tại đó là mọi thất vọng sẽ tan biến. Ấy vậy mà ko sao làm được. Tôi còn nhớ khi đó đã nghĩ rằng. Nếu hắn có những thông tin hữu ích mà mình lại giết đi thì sau sẽ phải chịu trách nhiệm cho những mất mát của lính dưới quyền. Vậy nên tôi bỏ đi, để yên cho hắn.”

    Đại úy Dobbs tới gần trung úy Buehrig hỏi vẻ tuyệt vọng: “Cậu ko đi chứ? Cậu ko đi đúng ko?”

    Buehrig trả lời “Đi, sếp ạ. Tôi nghĩ mình sắp được sơ tán rồi.”

    Viên đại úy non kinh nghiệm, chỉ toàn ở chỗ tập trung suốt trận đánh, đang hốt hoảng với viễn cảnh sẽ phải ở lại chỉ huy khi cả Sharpe, Buehrig, và Neuman được tản thương. Nghe xong, đại úy Dobbs đã chui vào khóc trong 1 xe bọc thép.

    1 lính cứu thương ra đánh dấu bãi đáp khi trực thăng tản thương tới gần. Ngờ đâu trái lựu đạn khói bị lỗi, nổ ngay trên tay khi vừa rút chốt, khiến ngón tay cái anh ta treo lủng lẳng, chỉ còn dính với bàn tay nhờ lớp da, máu me bê bết. Chết tiệt! Đúng là chó cắn áo rách! Buehrig nghĩ. Tay lính cứu thương choáng váng cứ nhìn mãi ko thôi bàn tay đã tàn phế của mình cho đến khi có người chạy lại. Ai đó bật 1 quả lựu đạn khói nữa rồi dùng tay ra hiệu cho trực thăng tiến vào. Ronnie Everidge cùng tay súng bị bắn thủng bụng được cáng lên máy bay. Người lính cứu thương bị tai nạn cũng lên theo, tay giữ chặt vết thương vừa băng vội. Tiếp đó tới Buehrig với Neuman. Sau 1 lát do dự, trung úy Sharpe cũng trèo lên trực thăng, chấp nhận thực tế là cuộc chiến đã kết thúc, rằng mình ko còn được chỉ huy đại đội A nữa.

    Everidge chả nhớ gì mấy về chuyến tản thương. Anh chỉ còn nhớ chuyện lính quân y tới cắt băng, gỡ tay phải ra khỏi cẳng tay trái bị gãy khi đã nằm trên băng ca, ở khu phân loại thương binh của bệnh viện. Vết thương bắt đầu khiến anh đau kinh khủng. Hẳn anh đã được tiêm mooc phin vì điều tiếp theo Everidge nhớ là mình tỉnh dậy sau cuộc phẫu thuật, với cánh tay bó bột; bụng và đùi phải đều đã được khâu lại. Nhẫn cưới được dán 1 bên vai, viên đạn lấy ra khỏi dạ dày dán bên còn lại. Thế vẫn còn may chán. Nằm trong phòng hậu phẫu của Bệnh viện dã chiến số 3, Everidge được biết viên đạn trước khi chui vào bụng mình đã sớt qua dây đạn anh đeo chéo trên người, bị vỡ, giảm mất đà chứ nếu ko đã xuyên qua dạ dày, găm thẳng vào xương sống rồi. Ronnie Everidge thở phào nhẹ nhõm vì mình ko bị liệt, vẫn làm tròn lời hứa với bản thân là phải cố sống để về với vợ con, gia đình.

    Trong đợt tấn công cuối cùng của trung úy Sharpe, trực thăng vũ trang đã trút lửa xuống đầu số chiến sĩ địch đang định thoát thân bằng cách bơi trên con rạch ngăn giữa Xóm Cầu Mật với đồng lúa phía nam. Trung tá Antila chỉ thị đại úy Scarborough điều 1 bộ phận rời xe ra chặn đường rút của quân du kích. Trung úy Garver cùng 2 tiểu đội lính Bandidos vội vã lao tới con rạch. Tốp lính đi đầu vượt qua rạch lúc 3g chiều, đục 1 lỗ trên hàng giậu mọc trên đỉnh con đê dốc bờ bên kia, vừa định chui qua thì vấp phải đạn AK-47 bắn ra từ 1 gò đất nhỏ, lầy lội, toàn bụi rậm, dừa nước ngay trước mặt.

    2 lính Mỹ bị trúng đạn. Binh nhất John E. Marrs, ngâm mình trong nước sâu tới ngực, nấp sau bờ đất phía sau họ nhớ lại: “1 trung sĩ vừa nhảy lên đó định vụt lựu đạn thì bị VC bắn trúng ngực, đúng chỗ đang móc chùm lựu đạn làm hỏng 1 quả Mk3. (đây là loại lựu đạn tiến công chạm nổ, ít mảnh chuyên đánh hầm ngầm, phòng kín. ND). Tay trung sĩ bò về bảo ‘Đằng kia có hầm chiến đấu’; do vậy tôi bèn dùng M60 bắn về phía đó để áp chế địch.”

    Trung úy Garver xin trực thăng vũ trang chi viện. Trong khi ấy, nghe có người thương vong lúc vượt rạch, Alan Kisling – tiền sát viên pháo binh đi cùng phân đội – bộp chộp xông lên trước. Anh nhớ lại. “Tôi đang cáu bẳn. 1 ngày dài đã trôi qua và tôi mệt mỏi vì cái hố phân này lắm rồi”. Hết chạy, bò lại trượt ngã trên bùn, Kisling gom lựu đạn mảnh của đám lính mình gặp trên đường. Ra tới rạch thì đã có trong túi hộp quần anh đã có ít nhất là 6 quả. Anh cởi bỏ dây lưng, súng, quẳng mũ sắt, cố ‘bơi c-hó’ thật mau qua rạch, thỉnh thoảng lại chìm nghỉm. “Do cao có 1,63m nên nước chả cần sâu lắm cũng đã lút đầu.” Kisling pha trò “Tôi cứ nghĩ; khéo mình chết đuối với đám lựu đạn trong túi mất.”

    Toán tiên phong giờ túm tụm nấp sau bờ đất. Nhìn qua đỉnh, Kisling thấy thêm 2 hầm chiến đấu đắp đất nữa giữa đám dừa nước. Anh lấy lựu đạn ném vào căn hầm gần nhất cho đến khi có 1 quả lọt vào trong rồi xông lấy tống hết số còn lại vào cái hầm thứ nhì. Trong những giây phút ấy, Kisling ko để ý tới vai trò của Sam Marr. "Có người áp sát đủ gần để ném lựu đạn xuống hầm địch." Marr kể, ko biết đó là Kisling; khi lựu đạn nổ, tay VC vọt ra, lưng quay về phía tôi và tôi chả thể nào quên được cảnh đạn súng máy mình cày 1 đường dọc lưng hắn."

    Sau khi ném hết lựu đạn, Kisling bắt đầu kéo 1 thương binh xuống chỗ con rạch. Anh hăng máu tới độ cảm thấy mình cứ như ở trong mơ. May thay, hạ sĩ James G. Bianco, cứu thương của trung đội đã lội qua giúp; còn binh nhất Thomas R. Clemmer, 1 trong những lính cừ nhất của Garver thì vụt lựu đạn bảo vệ cho họ lui về. Người bị thương được nhanh chóng đưa lên trực thăng vũ trang sơ tán. Vào lúc đó trung úy Garver cùng cả phân đội đều đã qua hết bên này rạch, đặt đại liên yểm hộ rồi dẫn binh sĩ xung phong đánh về phía rặng cây. Lính Mỹ vừa xung phong vừa nhả đạn. Ko thấy bị bắn trả. Garver kể: "Chúng tôi chỉ tìm thấy xác 1 VC dưới 1 căn hầm. Nếu như mấy hầm kia có địch thì hẳn chúng đã lẩn hết vào đám dừa nước cả rồi."
    Khoam, caonam_vOz, gaume13 người khác thích bài này.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Toán quân của trung úy Garver quay về đội hình đại đội C. Ngay sau đó, lúc xế chiều, thiếu tá Miller, người thay chỗ trung tá Antila trên trực thăng quan sát thấy 1 đám đông dân chúng đi trên con đường chính của Xóm Cầu Mật lên phía bắc. Miller lệnh cho Scarborough chặn họ lại, kiểm tra căn cước để đảm bảo ko có địch trà trộn vào trong dân. Đại đội Bandidos triển khai dọc theo hàng rào kẽm gai ở rìa tây Xóm để lính của Garver xuống xe đi tắt qua.

    Trung đội dàn hàng ngang tiến về phía con đường. 1 quả bộc phá bỗng phát nổ; lính bắn tỉa trong 1 căn nhà nhỏ xây bằng gạch xi măng đã khai hỏa. Trung úy Garver bị bỏng tay trái, dù chẳng hiểu vì cái gì. 3 binh sĩ khác cũng dính chấu, trong đó có binh nhất James F. Harrier, bị đạn AK-47 xuyên qua chân ngã quị.

    Khi bộc phá phát nổ thì John Hohman đang nhảy qua hàng rào. Trong lúc lao đi tìm chỗ nấp thì đụng phải 1 phóng viên Hàn Quốc đang đứng chụp ảnh. Hohman chửi gã phóng viên ngu, quát hắn tránh đường. Đám dân sợ quá kêu khóc ỏm tỏi. Đạn bay viu viu trên đầu. Whitey Whitehead, tay lính máu chiến đến độ tình nguyện tham gia kỳ hạn chiến đấu thứ nhì lập tức khai hỏa trọng liên 50 trên xe M113 gắn súng không giật của mìnhđáp trả. Theo lời Hohman thì Whitey là 1 gã khốn, hung bạo, khát máu, thích cười trên nỗi đau khổ của người khác và nếu ko có chiến tranh thì ắt phải vào tù rồi. Hohman kể: "Chẳng biết có phải là cố ý hay ko mà hắn bắn thấp lắm, vào cả đám dân trên đường. Hắn bắn 1 chiếc xe lam chở đầy nhóc người. Những viên đạn lửa cứ thế lao thẳng vào bình xăng khiến nó nổ tung. Đầu xe văng ra và lái xe cũng mất mạng."

    Trận đọ súng kết thúc chóng vánh. Đám trực thăng vũ trang bu tới chỉ kịp thấy bóng các chiến sĩ đối phương vọt từ nhà này sang nhà khác là mất dấu trong 1 mê cung toàn mái nhà, ngõ hẻm. Bộ binh xuống xe bắt đầu càn quét con đường, giờ đã vắng tanh vắng ngắt. Dân đã trốn sạch. Hohman nhìn thấy 1 bé gái nhỏ xíu nằm úp mặt cạnh chiếc xe lam cháy, mông bị rách toạc. Anh đau xót, dừng lại và thấy rằng nó hãy còn thở. Hohman liền gọi phân đội trường: "Ê! đứa nhóc này còn sống!"

    Gã trung sĩ nhất cả đời binh nghiệp, đã từng tham chiến ở Triều Tiên la lên, chẳng thèm ngoảnh lại: "Kệ nó đi. Chiến tranh mà."

    Vừa lúc đó tình cờ có chiếc trực thăng vũ trang đáp xuống mảnh ruộng gần bên để sơ tán số lính bị thương của Garver. Hohman vội bế đứa bé con lên chạy tới chỗ chiếc Huey. Tay xạ thủ khoát tay xua anh đi, la lớn "Không chở thường dân!". Lính Mỹ bị thương đã được đưa lên hết, chiếc máy bay chuẩn bị cất cánh, thì Hohman bỗng điên tiết, phẫn nộ gào toáng át cả tiếng cánh quạt động cơ. "Nó phải được đi. Muốn gì thì để sau giải quyết nhưng phải cho nó đi." Hohman ấn đứa bé vào khoang máy bay, đủ sâu để nó ko bị lăn ra ngoài. Nhằm để tay xạ thủ biết sẽ nghiêm trọng thế nào nếu xúc phạm lính Bandido, anh trừng mắt nhìn gã, cảnh cáo: "Nếu tao thấy có gì rơi ra khi trực thăng cất cánh..mày sẽ biết tay tao!" Tay xạ thủ gật đầu. Chiếc trực thăng bốc lên. Hohman nhìn theo cho tới nó mất dạng rồi mới đuổi theo những lính Bandido còn lại.

    Trung tá Antila bố trí đại úy Dobbs cùng đại đội A đóng quân nghỉ đêm trong ruộng lúa tây nam Xóm Cầu Mật. Đại úy Scarborough cùng hầu hết đại đội C được giao chiếm lĩnh vị trí mặt đông nam, để phối hợp với Biệt Động quân VNCH. Do ko thể vượt qua đường Phạm Thế Hiển, trung đội của trung úy Long vẫn phải ở lại cầu chữ Y. Long được tăng cường bởi trung đội thám sát của trung đoàn bộ binh cơ giới 274, đơn vị vừa được cấp tốc điều đến từ bộ chỉ huy sư đoàn 9, căn cứ Bearcat, tây bắc Sài Gòn (Long Thành, Đồng Nai. ND).

    Tổn thất tiểu đoàn trung tá Antila phải chịu là 2 tử trận, 28 bị thương phải đi sơ tán; 20 người nữa bị thương nhẹ được chữa trị ngay tại chiến trường. Đổi lại, đơn vị thu được 19 súng AK-47, 1 trung liên RPD, 5 RPG. Tiểu đoàn 5/60 bộ binh cơ giới ước tính giết được 40-50 quân Giải phóng. Nhưng đây chưa phải con số được khoe khoang trên báo sư đoàn cùng các báo cáo sau trận đánh. Số liệu đếm xác chính thức cho ngày giao tranh đầu tiên tại quận 8 tới 213 lận.

    Đây là 1 con số lố bịch. Dù có do ai tạo ra thì nó cũng chỉ là hệ quả của cuộc thi đua đếm xác mà hầu hết đơn vị nào cũng thực hiện. Để được đánh giá là giỏi, các tiểu đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng luôn có xu hướng cung cấp cho cấp trên các số liệu mà MACV mong muốn, qua đó chứng minh rằng họ đang trên đà thắng lợi. Những chỉ huy ko biết làm 'đẹp' con số đếm xác có nguy cơ ảnh hưởng tới sự nghiệp vì thành tích kém cỏi. 1 sĩ quan thật thà chắc chắn sẽ thiệt thòi hơn những người đồng cấp biết chấp nhận thổi phồng số tổn thất của kẻ thù trong báo cáo. Và nếu giới tướng lĩnh chóp bu ko tự dối mình thì hẳn họ chẳng đời nào chịu công nhận những con số quá đỗi viển vông trên.

    Con số đếm xác quan trọng đến nỗi 'đống xác đối phương tưởng tượng kia' cũng bị các đơn vị tham gia tranh giành. Sau khi các đơn vị hỗ trợ như pháo binh, không quân chiến thuật đã lấy xong phần tương xứng với 'công lao' của mình thì đại đội C, tiểu đoàn 5/60 vẫn được chia 35 VC; đại đội A hưởng 80; còn phi đoàn 7, trung đoàn 1 Kỵ binh - đơn vị trực thăng vũ trang chi viện - thì lãnh 58 VC.

    Đối với đám lính trận dưới đáy xã hội thì toàn bộ những chuyện trên chỉ là tấn trò hề, 1 thứ vinh quang giả tạo. Jim Sharpe phát biểu: "Chúng tôi giết được 8. Chỉ có thế. Nếu đại đội tôi được điểm đếm xác là 80 thì 72 tên địchkia là đều 'công' của cấp trên. Tôi có thể khẳng định với anh về điều đó.":-D:-D:-D
    Khoam, caonam_vOz, viagraless4 người khác thích bài này.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Thế nhưng dù số liệu có giả mạo, vẫn chẳng thể phủ nhận sự thật rằng những người lính đã rất dũng cảm. Tuy nhiên, khen thưởng tùy tiện cũng là 1 căn bệnh của quân đội Mỹ tại VN. Trung úy Sharpe được thưởng huân chương Sao bạc trong trận đánh đêm ở căn cứ hỏa lực Jaeger cùng thập tự Biệt công cho trận đánh của đơn vị mình ở Sài Gòn, vì dù bị thương vẫn chỉ huy đại đội đến khi kết thúc. Sharpe chưa bao giờ cho rằng mình xứng đáng với những tấm huân chương cao quí ấy; anh nói: "Tôi cùng mọi người ai cũng ngạc nhiên khi được nhận chúng. Hẳn là Antila đã 'tâng' tôi quá đà."

    Trung tá Antila và đại úy Scarborough cũng nhận huân chương Sao Bạc như các trung úy Long và Neuman. Trung úy Buehrig được gắn huân chương Sao đồng, còn trung úy Garver thì nhận huân chương Army Commendation Medal. Trung úy Sweet cùng lính điện đài Gary Rogers, đều được thưởng huân chương Sao đồng cùng mấy thứ hoa hòe hoa sói của cảnh sát Quốc gia VN tặng nữa.

    Trung sĩ Raggs được trao huân chương Sao bạc; các trung sĩ Baker, Gault, Shields và Simmons nhận huân chương Sao đồng. Trong khi John Holder được gắn huân chương Sao bạc thì 5 binh sĩ Fenton, Koenig, Lynn, Ossen, và Savini - những người tham gia cứu Ronnie Everidgen - được tặng Sao đồng. Huân chương sao Đồng cũng được thưởng cho Tom Clemmer nữa. Hầu hết số huân chương đều được trao trong buổi lễ hoành tráng diễn ko lâu sau trận đánh. Alan Kisling là 1 trong số những người lên nhận khen thưởng, với thành tích diệt hầm chiến đấu địch tại con rạch phía nam Xóm Cầu Mật. Anh viết: "Tôi chẳng hề nghĩ gì về biến cố ấy cho đến khi mấy ông tướng gắn huân chương Sao bạc cho mình. Đọc bản tuyên dương công trạng mình mà cứ như họ đang nói về người khác vậy."

    Nắm quyền chỉ huy đại đội A lúc chiều tối, đại úy Dobbs chẳng biết nói gì với đám lính nhem nhuốc, mỏi mệt dưới quyền ngoài việc bảo họ dọn dẹp cát tút, thùng đạn rỗng cùng rác rưởi đầy trong các xe bọc thép suốt quá trình chiến đấu. Đám lính tụ tập sau xe của trung sĩ Raggs nhìn Dobbs bằng cặp mắt hoài nghi chẳng lấy gì là thân thiện. Họ ko muốn thừa nhận nhân vật kia là đại đội trưởng mới, 1 số còn tuôn ra những lời chống đối. Dobbs liền nổi đóa. Để tình hình bớt căng thẳng - trung sĩ Raggs, với vai trò trung đội trưởng giải thích sở dĩ lính mình ra vậy là do quá mệt lại buồn đau vì mất Dalton McWaters. Ko chấp nhận những lời bào chữa kiểu ấy, Dobbs dọa cho trung sĩ Raggs ra tòa án binh nếu bất tuân. Thế là xong. "Điều tiếp theo chúng tôi biết là họng súng M16 của Raggs chĩa thẳng vào tay đại đội trưởng mới." Les Koenig kể. Mặt Dobbs tái xanh, anh ta ngập ngừng rồi bỏ đi mất dạng. "Nếu anh ta cứ làm căng với ba cái chuyện vớ vẩn ấy thì rất có thể Raggs sẽ siết cò."

    Ngoài đạn dược ra, đồ tiếp tế được trực thăng chở đến vị trí của đại úy Scarborough trước khi trời tối còn có những thùng lớn đựng đồ ăn nóng. 1 số thùng được đưa lên chiếc M113 bảo trì tới giao cho trung đội đang bị chia cắt của trung úy Long trên cầu chữ Y. Đang chạy trên đường Phạm Thế Hiển, tới trước cây cầu nhỏ bắc qua Rạch Ông nhỏ - 1 nhánh kênh Đôi chảy về nam - thì xe dừng lại. (nay là rạch Sáng. ND) Từ ống nước bị vỡ, nước đang chảy tràn trên mặt cầu.

    Gary Vertrees, thủ khẩu trọng liên 50, hoài nghi ko hiểu mình đã tới nơi chưa? Anh liên lạc điện đài với trung đội của Long, hỏi vị trí chính xác của họ. Câu trả lời là "Bọn tôi đang ở trên cầu nè."

    "Đâu có. Chúng tôi mới đang ở trên cầu chứ."

    "Bọn tôi đang ở cầu chữ Y. Cầu cậu đứng là cầu gì?"

    "Ai biết, nhưng có nước vỡ chảy đầy trên đó này."

    "Lạy Chúa! Bọn tôi còn chưa tới được cái cầu ấy khi cố trở về với đại đội. Vùng đó thực sự 'nóng' lắm đấy."

    Tay lính cho biết sau khi vượt cái cầu nhỏ đó họ sẽ phải chạy thêm chừng 300m rồi rẽ phải 1 nhát, rẽ trái 1 phát rồi lại thêm 1 lần rẽ trái nữa để vòng qua bãi trống thì mới lên tới đầu nam cầu. "Định gạt tôi hả?" Vertrees thốt lên, cứ lo rằng mình đã bị lạc. "Từ chỗ này đâu nhìn thấy cái cầu nào khác nữa?"

    "Nếu qua đó" tay lính kia bảo "thì hãy để ý cửa sổ, mái nhà. Quan sát thật kỹ mọi thứ. Vùng ấy còn 'nóng hơn cả hỏa ngục'."

    Lo ngại phải tiến vào khu vực tù mù khi trời sập tối, Vertrees tham khảo ý kiến đồng đội. Họ đều cùng ý kiến là đi tiếp. Vertrees liên lạc intercom với Jerry Tomlinson trong khoang lái. "Quất tẹt ga đi. Đừng dừng lại vì bất cứ thứ gì."

    Tomlinson sang số và tất cả lại lên đường. Vertrees ngước mũi khẩu trọng liên 50 để có thể khai hỏa ngay nếu có kẻ cầm RPG xuất hiện trên mái nhà. May cho anh vì đã làm như vậy. 1 sợi dây kẽm căng ngang đường thay vì cắt họng Vertrees đã móc vào nòng súng khiến nó chổng ngược lên theo đà xe chạy. Do vướng vào trục quay, lại bị Vertrees lấy chân đạp như điên rốt cục sợi dây cũng đứt, văng đi mất. Những căn nhà 2 bên đường đều đã bị bắn và cháy cả. Một số hiện vẫn còn thấy lửa bốc lên. Cả khu vực cực kỳ vắng vẻ. Ko hay biết chuyện toán cảnh sát bị phục hồi đầu giờ chiều, Vertrees kinh hoàng khi xe chạy qua chiếc GMC đầy xác chết nằm trong thùng, trên thành xe và rải rác khắp mặt đường. Bỏ mẹ! anh nghĩ lòng hơi nao núng. Chẳng khác gì 1 trận ác chiến cả.
    Khoam, caonam_vOz, viagraless4 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này