1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Paul Carell - Hitler mặt trận miền Đông

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi huytop, 30/10/2015.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    …Khu Tây là đội hình hành quân tiếp theo và mỗi người tù vốn mang hành lý quá nặng lại nhận thêm khoảng 5 kg (11 lb), một bưu kiện của Hội Chữ thập đỏ gửi tặng khi bước qua cổng trại.Nhiều người chỉ giữ lại những món đặc biệt như sô cô la và cá mòi, và những con hào đã sớm ngổn ngang thức ăn bị bỏ lại...

    Những tù nhân thuộc khu Trung tâm được viên Sĩ quan cấp cao của họ - Đại tá Delmar Spivey - cho biết rằng Tướng Vanaman sẽ là một trong những người dẫn đầu, và ông yêu cầu họ chấp hành mọi mệnh lệnh đến từ lính Đức. “Chúng ta sẽ an toàn nếu chúng ta gắn bó với nhau như một đơn vị …” Spivey nói và cảnh báo những người tù nhiên không nên tìm cách bỏ trốn…

    Do tiến độ sơ tán chậm chạp của những người đang đi trên đường nên mãi gần 4 giờ sáng ngày 28 tháng Giêng, những người tù cuối cùng mới bước qua cổng trại.

    Lúc này những người dẫn đầu đội hình kéo dài tới 8 dặm đã bị kiệt sức; họ đã đi trong gió tuyết tới 7 giờ đồng hồ. Một cơn lốc dữ dội thổi đến, và điều này, cùng với những trận tuyết cao tới hai mét, khiến cho mỗi bước đi của các tù nhân trở thành một nỗi thống khổ. Dù vậy, Trung tá Albert Clark, một phi công máy bay chiến đấu Mỹ bị bắn rơi năm 1942, vẫn không từ bỏ hai cuốn sổ lưu niệm khổng lồ về những câu chuyện được cắt ra từ các tờ báo Đức. Ông ta vẫn còn đùa là đề nghị tặng một hộp Scotch cho bất kỳ ai mang sổ giúp ông. Trung tá Willie Lanford rất quý Clark và hiện đang kéo hành lý trên một chiếc xe trượt tuyết tạm bợ. Nửa tá người khác, bao gồm cả Clark, cũng đang thay phiên nhau cùng kéo, vì Lanford khôn ngoan đã chế tạo chiếc xe trượt đủ lớn để chở tất cả hành lý của mọi người.

    Cứ sau vài giờ, đội hình tù nhân lại tạm dừng lại, để cho những người tù nghỉ ngơi chút ít, họ đứng túm năm tụm ba trên đường, hai chân dang rộng theo kiểu xe trượt tuyết, người trước dựa vào người sau, không ai nói gì nhưng có chút đùa nghịch. Những đôi giày, quần áo, đồ lưu niệm thừa – được để dành, tích trữ bấy lâu – đã bị vứt lại trên đường đi và sắp xếp lại vào trong các túi đựng. Lác đác có một số ngọn lửa đang bốc lên từ những bức thư và nhật ký được giữ gìn và cất giữ khá lâu qua một thời gian dài.

    Khi những người tù nhân tiếp tục di chuyển, các gói hành lý, mặc dù đã bị loại bỏ ít nhiều, nhưng dường như cảm thấy nặng nề hơn bao giờ hết. Một người loạng choạng và ngã xuống. Anh ta được đỡ lên bởi hai đồng đội lo sợ anh ta sẽ bị bắn, và họ kéo anh ta đi tiếp, trừ hành lý và chăn. Nhưng có những tù nhân quá kiệt sức thì phải đưa họ lên những chiếc xe thô sơ chở hành lý. Và bây giờ, có rất ít sự khác biệt giữa tù nhân và người lính canh, chính họ cũng đang phải vứt bỏ hành lý của mình. Một người lính Đức cao tuổi đã tử tế với những người tù nhân chiến tranh và giờ đây chính gã đang được hai người Mỹ dìu theo trong khi một người thứ ba nâng niu khẩu súng trường của gã.

    Vào giữa buổi sáng thì nhóm tiên phong đã dừng lại ở một ngôi làng cách Sagan 18 dặm và tạm thời dừng nghỉ ở trong ba nhà kho. Những người ở phía sau tiếp tục lê bước, và ngày càng có nhiều người bị gục xuống trên đường, quần áo của họ ướt đẫm vì tuyết và mồ hôi. Thông thường, một đồng đội sẽ ở lại và xoa cổ tay của người tù quá kiệt sức để giữ ấm cho anh ta cho đến khi xe trượt đến. Nếu xe quá đầy, ai đó có điều kiện tốt hơn sẽ ra ngoài hoặc xuống xe để nhường lại chỗ cho anh ta.

    Những người tù nhân thuộc Khu Trung tâm đã đến được thị trấn Halbau lúc ba giờ chiều, họ buộc phải có chỗ nghỉ ngơi trước khi tiếp tục di chuyển. Trong khi họ phải chờ đợi dưới cái lạnh khắc nghiệt, một trung sĩ Đức đi tìm kiếm xung quanh khu vực. Cuối cùng, một linh mục đã đến mở khóa nhà thờ Luther có tới 500 chỗ ngồi, và sau đó mở cửa thêm nhà xác, khu nhà nguyện cũng như một ngôi trường nhỏ. Có tới 1.500 tù nhân nằm chen chúc trong nhà thờ cho đến khi từng inch không gian được lấp đầy, từ nhà vệ sinh, bên dưới tầng hầm đến bên ban công. Họ nằm nêm chặt trên các ghế băng đến mức không thể di chuyển; những người khác ngủ dưới mọi ghế băng dài, rải chật kín trên sàn nhà. Chẳng bao lâu sau, không khí nhà thờ trở nên ấm áp một cách khó chịu vì nhiệt độ cơ thể của rất nhiều tù nhân. Điều này bắt đầu một cuộc đi tới, đi lui liên tục, ồn ào tới những bồn tuyết tan nằm bên cạnh gần cửa ra vào. Đến tối, mật độ giao thông vào nhà vệ sinh thậm chí còn kinh khủng hơn, nhưng tiến trình đi qua đi lại xung quanh thân hình của các tù nhân tỏ ra quá chậm đến mức những người ốm yếu đã nôn mửa ngay bên cạnh các đồng đội họ đang say giấc nồng trước khi họ ra tới cửa. Các nạn nhân của bệnh kiết lỵ, trong cơn đau đớn vì quá trình di chuyển diễn ra một cách chậm chạp, đã xô bừa vào đám đông một cách tuyệt vọng. Trong vài giờ, mùi hôi thối bốc lên và cuộc đấu tranh giữa những người đang cố gắng ngủ và những người đang thúc cùi chỏ và lách cách đi vệ sinh ra bên ngoài khiến cho họ càng hoang mang và hoảng sợ.

    Đột nhiên, có tiếng ai đó hét lên, "Nghe đây !" Đó là Đại tá Spivey, đang đứng ở gần bục giảng trong bộ đồ lót. Bên cạnh ông là một mục sư Tin lành trẻ tuổi, cha Tuyên úy Daniel. “Nếu tôi bắt gặp một người nào vẫn đang gây lộn xộn,” Spivey nói khi mà các âm thanh ồn ào cuối cùng cũng đã lắng xuống, “thì người đó sẽ phải đứng bên ngoài, ở đêm trời tuyết lạnh trong suốt thời gian còn lại. Tôi muốn nói với các bạn rằng việc chen lấn, xô đẩy, giẫm vào nhau, thậm chí cả nôn mửa, vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Bây giờ chúng ta đang ở bên trong nhà thờ, ba giờ trước chúng ta còn ở bên ngoài trời, gần như bị chết cóng." Ông khuyên dụ mỗi người trong chúng ta phải có trách nhiệm giúp đỡ các người bị bệnh và phải lịch sự với các chiến hữu. “Nếu bạn không ngủ được, hãy ngồi im một chỗ và mơ về ngôi nhà của bạn. Nếu bạn không thể nói ra một điều gì đó cảm thấy dễ chịu, thì xin hãy ngậm miệng lại. Chúc các bạn ngủ ngon."

    Cha tuyên úy trẻ tuổi tiến tới và nhẹ nhàng êm ái nói, "Bạn có bao giờ nghĩ rằng Chúa Trời đang thử thách đức tin của chúng ta không?". Sau đó, cha cầu nguyện, cầu xin sự bảo vệ cho những người đang bị bệnh và quá mệt mỏi. “Hãy cho chúng tôi sức mạnh cần thiết để tồn tại và không ngừng tiến về phía trước cho đến khi chúng tôi tìm thấy sự tự do và giải phóng. A-men. ”

    Một không khí yên bình đã đến với những người tù nhân, và hầu hết bọn họ đều chìm vào trong giấc ngủ say nồng.....
    caonam_vOz, viagraless, tatpcit2 người khác thích bài này.
  2. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Ngay trên đường tiến của đội quân thiết giáp dưới quyền Zhukov thẳng hướng Berlin,có một nhóm tù binh Đồng minh khác đang lê bước trên đường. Họ đã rời trại của mình tại Schokken, Ba lan, tám ngày trước và bây giờ đang gần tới ngôi làng Wugarten, cách biên giới Đức khoảng 20 dặm về phía tây. Đó là một đội hình rất kỳ khôi : gồm 79 người Mỹ và 200 người Ý, trong đó có 30 tướng lĩnh cao tuổi bị bỏ tù sau khi Vua Umberto đầu hàng. Người lãnh đạonhóm tù nhân này là Đại tá Hurley Fuller, chỉ huy một Trung đoàn của Sư đoàn 28. Khi ông bị bắt ở Bulge, một trong những trung sĩ của anh ta đã nhận xét, "Bọn Krauts chắc chắn sẽ phải rất tiếc vì bắt giữ Hurley." Ngay từ đầu Fuller đã ứng nghiệm lời tiên tri này. Trong ngày đầu tiên của cuộc dẫn giải tù binh Đồng minh về phía đông, Fuller đột ngột ra lệnh nghỉ như thể ông vẫn đang trên vị trí chỉ huy, và sau đó ngồi bệt xuống bên vệ đường đầy tuyết. Bọn lính dẫn giải cũng hoang mang như mọi sĩ quan cấp trên của Fuller nếu biết rằng người đàn ông Texan 49 tuổi là một người rất cứng đầu và khi ông liên tục phớt lờ những lời đe dọa của họ, chúng liền giao luôn cho Fuller phụ trách cuộc hành quân. Ngay lúc này, trong tuần qua, Fuller ngầm phá hoại chuyến đi trở lại phía tây; ông ta muốn được người Nga giải phóng. Kết quả là các tù nhân đã vào làng Wugarten trong khi lẽ ra họ phải vượt qua con sông Oder.

    Trung úy Paul Hegel, một tay thông ngôn người Đức, đã tìm được chỗ ở cho các tù nhân trong một ngôi trường và mang thức ăn đến cho họ. Anh đã từng sinh sống hạnh phúc trong 5 năm tại New York hoa lệ để học hành, cố gắng trở thành một nhân viên ngân hàng, vì vậy anh rất thân với các tù nhân Mỹ. "Bạn cứ hợp tác với chúng tôi," Fuller nói thẳng với anh "và bằng cách nào đó, chúng tôi sẽ đưa bạn trở lại Hoa Kỳ."

    Đêm nay, Paul Hegel vừa nghe một báo cáo trấn an từ Goebbels trên đài phát thanh: “Tình hình ở phía đông rất nghiêm trọng nhưng không có lý do gì để hoảng sợ; vũ khí kỳ diệu của Quốc trưởng sẽ sớm được hoàn thiện và người Nga sẽ dễ dàng bị đánh lui…”. Nhưng ngay khi Hegel vừa tắt đài, anh đã nghe rõ tiếng pháo nổ ầm ầm vọng tới từ phía chân trời xa xôi.

    Sáng sớm hôm sau, ngày 29 tháng Giêng, Đại úy Matz, chỉ huy đội dẫn giải, nghe thấy tiếng súng máy lách tách ở cách đây không xa và quyết định rằng cách duy nhất để thoát khỏi người Nga là bỏ lại các tù nhân. Hắn đến ngôi trường, đánh thức Hegel dậy và bắt đầu viết một ghi chú bằng tiếng Đức. Khoảng 7 giờ tối, Matz đưa tờ giấy cho Fuller. Trên đó viết: “Những sĩ quan Mỹ này buộc phải bỏ lại phía sau vì sự đột phá của xe tăng hạng nặng của Nga vì họ không còn khả năng hành quân xa hơn”. Fuller gầm gừ, giả vờ tức giận : “Đồ khốn !Khi người Nga đuổi kịp , tôi sẽ mượn vũ khí và đến sau lưng anh để nã vào anh một viên đạn..”, - nhưng thực ra, ông ta rất vui khi thoát khỏi sự kiềm tỏa của Matz. Điều Fuller thực sự là muốn tay thông ngôn phải ở lại cùng. Ông ta liền đến bên Hegel, hiện đang vội vã mặc quần áo, lấy đi khẩu súng lục Walther cùng sổ lương và nói :”Cậu hãy ở lại với bọn tôi.” Sau đó, Fuller bắt Hegel mặc một bộ đồng phục hoàn chỉnh của sĩ quan Mỹ, bao gồm cả đồ lót GI và tất, và đưa cho anh ta một cái thẻ bài. “Từ giờ trở đi, cậu sẽ là người Mỹ — mang tên là Trung úy George Muhlbauer.” Người này gần đây đã trốn thoát rồi. “Đừng lo lắng gì cả,” - Fuller nói với Hegel vẫn đang ở tâm trạng bàng hoàng, “Cậu đã đối xử rất tốt với chúng tôi. Tôi sẽ giúp cậu vượt qua mọi điều rủi ro”.

    Viên đại tá gọi những tù nhân Mỹ lại, thông báo tình hình và bảo họ ở lại trong nhà trường , cảnh cáo họ về hình phạt nếu phạm tội cướp bóc. Tin tức về sự chạy trốn của Đại úy Matz lan truyền đi nhanh chóng và chỉ trong vài phút, Bürgermeister (Thị trưởng) Wugarten đã đến và hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả các nguồn cung cấp thực phẩm và hậu cần. Tiếp theo là hai người lính Ba Lan đến liên hệ nguyện vọng xin được sự phục vụ của 185 người Ba Lan. Fuller đã chấp nhận tất cả; và chỉ thêm một vài phút sau, ông ta đăng ký thêm vào danh sách cho 17 tù nhân Pháp, trong đó có một người nói được tiếng Nga. Fuller thiết lập một sở chỉ huy dã chiến cho đội quân đang càng ngày càng phình ra của mình trong nhà ở của viên Thị trưởng và ra lệnh chuyển giao tất cả vũ khí có trong thị trấn. Sau khi được trang bị vũ khí, Fuller đã chuẩn bị để bảo vệ “Pháo đài” Wugarten trước tất cả những kẻ sắp tới đây — bất kể là người Đức hay người Nga.






    o O o






    Ba người trong nhóm của Fuller hiện thời đang chiến đấu chống bọn Đức. Trung tá Doyle Yardley cùng với hai tù nhân Mỹ khác đã trốn thoát khỏi “cuộc hành quân tử thần” trước đó một tuần. Sau đó, khi họ bị một đơn vị xe tăng của Hồng quân vượt qua, viên chỉ huy đơn vị bước xuống ôm chặt Yardley, vỗ lưng ông và hét lớn, "Amerikansky, Roosevelt, Churchill, Stalin, Studebaker, Chevrolet rất tốt!" Anh ta đưa cho người Mỹ rượu vodka, thực phẩm, chăn mền, và nhấn mạnh rằng muốn họ tham gia cùng tiểu đoàn anh để chiến đấu với quân Đức như những người bạn đồng minh thân thiết.

    Vào ngày 29 tháng Giêng, cả ba người Mỹ cách làng Wugarten không xa, họ cùng tham gia một cuộc tấn công bằng xe tăng của Hồng quân. Bất ngờ ba chiếc ME-109 bổ nhào vào đội hình xe tăng Nga. Theo bản năng, mấy người Mỹ nhảy ào xuống một con mương tìm nơi ẩn nấp, khiến người Nga nhìn cảm thấy thích thú, và bọn họ thờ ơ đứng trên đường lộ, dùng súng trường, súng tiểu liên và thậm chí cả súng lục bắn vào các máy bay. Đội hình xe tăng tiếp tục di chuyển không ngừng nghỉ, bỏ mặc mọi sự chết chóc trên đường và ập vào một ngôi làng gần thị trấn Kreuz, nơi lính bộ binh Nga đang tiêu diệt những ổ kháng cự cuối cùng.

    Yardley nhìn thấy hai lính Đức bước ra khỏi một ngôi nhà để xin hàng. Một sĩ quan Hồng quân thản nhiên bắn bằng súng lục, và xác chúng bị vứt ra giữa phố. Sau đó, xe tải và xe tăng bắt đầu cố tình cán qua xác hai người lính Đức. Tâm trí Yardley đã bị chấn động. Đây không phải là kiểu chiến tranh mà ông đã từng tham gia tại phương Tây.....
    caonam_vOz, viagraless, tatpcit1 người khác thích bài này.
  3. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    ..... Trong khi Zhukov đang mở tốc độ về phía Tây theo hướng Berlin, còn Rokossovsky đang lao về phía Bắc theo hướng Biển Baltic và Hải cảng lịch sử Danzig. Trước mặt các mũi xung kích thiết giáp Nga là đám dân thường tị nạn Đức đến từ Đông Phổ. Một người đàn ông đang trên lưng ngựa phi nước đại vọt ngang qua một đoàn dân tị nạn lớn đến Danzig và hét váng lên, "Bọn Nga sẽ đến đây trong vòng nửa giờ nữa!" Nhiều người trong số những người đi bộ chạy băng qua tuyết, nhưng các toa xe thì bị kẹt lại với nhau trên đường cao tốc và chỉ có thể từ từ tiến về phía trước. Bỗng nhiên, các loạt đạn pháo nổ tung trên các cánh đồng gần đó, và không biết từ đâu, dường như những làn đạn súng máy quét ngang qua đường quốc lộ. Josefine Schleiter, một sinh viên y khoa, vội vàng ép sát thân mình trong tuyết khi đạn pháo thi nhau nổ đùng đoàng trên đầu. Vỏ đạn bay tứ tung cùng với những tiếng gầm rít chói tai. Cô nghĩ chắc chắn rằng cuộc đời mình có lẽ đã kết thúc tại đây.

    Đột nhiên có một khoảng tĩnh lặng và sau đó rất nhiều chiếc xe-tăng lớn đột ngột xông tới theo nhiều hướng. Phía sau họ, là những người lính Nga trong bộ đồ trắng ngụy trang đang lao mình mạnh mẽ trên lớp tuyết. Một chiếc xe tăng khổng lồ lao thẳng xuống đường, cày nát một số xe ngựa, đè bẹp những chiếc khác như một chiếc lu lăn đường khổng lồ. Nhiều xe tăng bám theo sau. Chẳng mấy chốc, các con ngựa bị thương nằm dọc theo các con hào, hí vang trong nỗi kinh hoàng. Mọi người vội vàng nhảy xuống hai bên vệ đường và cùng nhau chạy bán sống bán chết.

    Josefine nghe thấy tiếng một cô gái trẻ cầu xin cha cô hãy bắn cô. "Vâng, cả cha và con nữa!" một cậu bé mười sáu tuổi nói. "Không còn bất cứ thứ gì để sống …." Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt của người cha. “Hãy đợi thêm một chút nữa, các con…,” ông ta nói như cầu xin.

    Một sĩ quan Hồng quân cưỡi ngựa dừng lại và sốt ruột lắng nghe lời cầu xin của một số lính Đức bị bắt được dẫn giải đến trước mặt anh ta. Josefine thấy viên sĩ quan điềm nhiên rút súng lục ra và cô ta nhắm mắt lại. Josefine nghe thấy tiếng súng nổ. Khi mở mắt ra, các tù nhân đang nằm úp sấp trên mặt đất, máu phun lên tuyết. Josefine muốn đến gần tới nơi nhưng cô cảm thấy quá kinh sợ. Những chiếc tăng khác chạy qua, chở đầy những người lính to khỏe, vừa cười, vừa vẫy tay và hét vang "Hitler kaputt!" (Hitler cút đi). Một số người nhảy xuống và gào lên, "Uri, uri!" – (phiên âm tiếng Đức của họ có nghĩa là "đồng hồ", Uhren. ND). Những người dân tị nạn bị tước đồng hồ, nhẫn, găng tay lông thú. Nhiều xe tăng đã tiếp tục lăn bánh, chở đầy phụ nữ cũng như nam giới bám phía sau. Họ trông cũng khỏe khoắn, mặc đồng phục đẹp, đi ủng và đội mũ lông thú.

    Một số nô lệ lao động Ba Lan đã kết bạn với người Nga. “Hãy trở về nhà đi,” họ trấn an những người chủ cũ của họ. “Người Nga là những người tốt; sẽ không có điều gì xảy ra đâu. ”





    o O o





    Đến tối, Đại tá Fuller và các tù binh đã tổ chức Wugar-ten thành một “pháo đài”. Ngoài 26 khẩu súng trường và hai khẩu súng máy được Matz và các lính canh tù vứt lại, họ còn có cả súng ngắn, súng trường, súng lục và thậm chí cả kiếm cũng được thu thập từ trong làng. Fuller trang bị vũ khí cho người Mỹ và 185 người Ba Lan, bố trí người cảnh giới ở phía hai đầu thị trấn trong làng. Phía đông ngôi làng, các hố chiến đấu cá nhân được đào và hai khẩu súng máy đã sẵn sàng nhả đạn. Đến 9.00 giờ tối, một số nhóm quân Đức bị lạc đơn vị tỏ ra rất hoảng sợ và 36 tên đã bị bắt.

    Một giờ sau Fuller, Trung úy Craig Campbell và Hegel, đang ngủ trên tầng hai ngôi nhà của Thị trưởng thì bị đánh thức bởi những tiếng súng chát chúa. Fuller nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy hàng chục chiếc xe tăng đen sì chạy như đèn cù xung quanh ngôi làng. Chúng trông không giống dòng xe Đức, và có hình bóng cao cao giống hệt nhưxe tăng Shermans của Mỹ. Trước khi ba người có thể thay đồ xong xuôi, thì họ đã nghe thấy tiếng đập thình thịch ở cửa dưới.

    Có tiếng người hét lên.

    - “Đó không phải là tiếng Đức..”- Campbell nói.

    - “Tôi nghĩ đó là tiếng Nga…” – Fuller bảo : “Mở cửa”.

    Tiếng chân kêu lạch cạch trên cầu thang và Hegel bắt đầu hét lên, “Amerikansky! Amerikansky! ”

    Cánh cửa bật mở và một số người Nga lao vào ba người đàn ông, găm sát tiểu liên vào bụng họ. Fuller liên tục chỉ tay vào ngôi nhà bên cạnh; cuối cùng người Nga cũng đã hiểu và tìm Alex Bertin, tù nhân người Pháp thông thạo tiếng Nga, dẫn đến. Khi viên sĩ quan Nga phụ trách - Đại úy Mayarchuk - được biết rằng 3 người đàn ông trước mặt là sĩ quan Mỹ thì anh ta cười mỉa mai châm biếm. "Quái quỉ, làm thế nào người Mỹ lại có thể ở mặt trận phía đông, trước cả Hồng quân?" anh ta vừa nói vừa ấn sâu khẩu súng của mình vào trong bụng Fuller.

    Vì vậy, khi nghe Bertin giải thích, Mayarchuk thân mật cất súng rồi siết chặt Fuller, hôn vào má ông và nói rằng người Mỹ có thể có bất cứ thứ gì mà họ muốn. Fuller nói rằng ông ta cần đạn dược Đức và nến; ông cũng muốn thoát khỏi 36 tù binh Đức mà ông ta đang giữ. Đại úy Mayarchuk nói rằng anh ta sẽ đưa họ đi và cố gắng ôm hôn Fuller thêm một lần nữa. Sau đó, viên sĩ quan Nga nói rằng lệnh giới nghiêm đối với tất cả các thường dân Đức phải được áp dụng ngay lập tức, và Fuller chỉ cho Mayarchuk đến gặp ngay viên Bürgermeister. Người sĩ quan Hồng quân rất háo hức hợp tác, nói rằng anh muốn gặp Bürgermeister để thực hiện mệnh lệnh ngay tức khắc, và vội vã bước ra ngoài.

    Bỗng nhiên, có một tiếng nổ và Fuller vội vàng lao ra ngoài. Viên Bürgermeister đang nằm gục trên tuyết với vết thương nặng trên đầu. Đại úy Mayarchuk cười một cách hài hước trước sự phẫn nộ của Fuller. “Chúng tôi phải bắn tất cả bọn Bürgermeisters,” anh ta nói vậy.

    Hai sĩ quan Đồng minh cùng đi đến quảng trường thị trấn, nơi các xe tăng Nga - những chiếc Shermans được nước Mỹ cung cấp cho họ theo hiệp ước Lend-Lease đang tập kết xung quanh khu vực nhà thờ. Ba mươi sáu tù binh Đức được đưa ra khỏi căn hầm giam giữ, một người bị thương nặng đến nỗi phải ngồi trên xe cút kít. Trong khi Fuller được Đại úy Mayarchuk ôm hôn thân mật lần nữa thì ông ta bỗng lại nghe thấy một tiếng súng nổ, và khi quay lại, Fuller quay lại thì nhìn thấy người tù binh Đức bị thương nặng đang nằm trên chiếc xe cút kít nằm gục xuống, anh ta đã chết.

    - "Điều này là chống lại các Điều khoản Chiến tranh!" Fuller phản đối. "Tôi sẽ báo cáo hành động này với các sĩ quan chỉ huy của Ngài !”

    Khi nghe Bertin dịch câu này, Mayarchuk chỉ cười toe toét. “Hãy nói với ngài Đại tá rằng chúng tôi sẽ không bắn bất kỳ một tên quốc xã nào nữa trong thị trấn,” - Đại úy Hồng quân nói. “Kể từ lúc này, chúng tôi sẽ dẫn giải chúng ra ngay khỏi làng.”

    Trên khắp ngôi làng Wugarten, người Nga đang uống rượu vodka để kỷ niệm cuộc gặp gỡ tình cờ với người Mỹ. Nhưng sự phẫn nộ của Fuller cũng làm họ chùn tay. Mặc dù họ thi nhau chè chén no say và đập phá đồ đạc, nhưng có lẽ đó là ngôi làng duy nhất vừa bị chinh phục trên toàn bộ mặt trận phía Đông, là không có một phụ nữ nào bị hãm hiếp trong đêm đó. Chỉ duy nhất ở một ngôi nhà là có hành động bạo lực xảy ra. Một nhóm lính Nga đã tìm thấy những bức ảnh của Hitler được trang trí cho ngày lễ kỷ niệm 12 năm ngày ông ta lên nắm quyền nên vào ngày hôm sau —quân Đỏ đã bắn chết tất cả mười thành viên trong gia đình.
    caonam_vOz, gaume1, viagraless2 người khác thích bài này.
  4. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939



    CHƯƠNG 2 - NĂM PHÚT TRƯỚC NỬA ĐÊM.






    1.





    Ngay khi trước ánh bình minh của một ngày mới, lúc 5 giờ ngày 30 tháng Giêng, một chiếc máy bay vận tải cơ C-54 Skymaster khổng lồ của Hoa kỳ đã hạ cánh xuống đảo Malta. Nó chở Winston Churchill và các vị quan chức cấp cao khác của nước Anh, những người đã được lên kế hoạch tham dự "Cricket", mật danh cho một cuộc hội nghị bốn ngày với các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Mỹ trước cuộc họp Big Three tại khu nghỉ mát Yalta thuộc bán đảo Crimea.

    Thống đốc Malta, Tổng tư lệnh khu vực Địa Trung Hải cùng nhiều quan khách khác, đã tập trung sẵn sàng tại sân bay khi trợ lý riêng của Churchill, Tư lệnh C. R. Thompson, ngó ra khỏi cửa máy bay; ông ta lúc ấy đang choàng vội một chiếc áo khoác bên ngoài bộ đồ ngủ của mình. Trong sự bối rối, ông ta thấy mình đang tắm trong ánh sáng chói lòa của các ngọn đèn pha. Thompson thậm chí còn cảm thấy xấu hổ hơn khi biết rằng Thống đốc Malta đã chờ đợi đoàn hơn một giờ đồng hồ trong giá lạnh – chỉ vì bức điện thông báo máy bay của Thủ tướng Churchill hạ cánh lấy theo giờ chuẩn quốc tế Greenwich.

    Tướng George C. Marshall, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, cũng đã tỉnh giấc. Một giờ trước đó, một trung sĩ quân đội Anh sốt sắng đã chuyển một phong bì có ghi "Thượng khẩn." Đó là một lời mời Tướng Marshall đến tham dự một bữa ăn tối vào ngay hôm sau tại Dinh Thống đốc, và yêu cầu ông ta trả lời ngay lập tức.

    Vào lúc 10 giờ sáng, Tướng Marshall cùng các thành viên khác thuộc Hội đồng Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ đã gặp nhau tại Dinh thự Montgomery ở Valletta, thủ đô của Malta, để quyết định xem ai sẽ đảm nhận vị trí trong phiên họp chính thức đầu tiên của “Cricket”. Sau một vài câu nói xã giao của những lời mời trước đây và những câu bông đùa về những căn phòng trong khách sạn lạnh như băng, họ bắt đầu thảo luận trọng tâm vào vấn đề quân sự quan trọng nhất mà “Cricket” phải đối mặt: đòn chiến lược cuối cùng ở mặt trận phía Tây.

    Lúc này đã có sự khác biệt rõ ràng giữa người Anh và người Mỹ về cuộc xâm lăng nước Đức kể từ cuộc đổ bộ ở Normandy đến vài ngày sau khi quả bom của Stauffenberg gài trong chiếc cặp tài liệu suýt giết chết Hitler. Từ Tổng hành dinh của mình ở nước Pháp, Thống chế Bernard Montgomery, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân 21, lập luận về một cuộc tấn công xuyên vào miền bắc nước Đức qua vùng Ruhr - dưới sự lãnh đạo của ông ta. Tất cả những gì mà ông ta cần, ngoài đội quân dưới quyền mình, chính là Tập đoàn quân số 1 của Mỹ. Nhưng các vị chỉ huy chiến trường Mỹ vẫn kiên quyết mở một cuộc tấn công phối hợp của họ xa hơn về phía nam, hướng tới thành phố Frankfurt trên sông Main. Mới đầu, khi quân đội Đức rút lui trong tình trạng hỗn loạn, cả người Mỹ cũng như các nhà chỉ huy chiến trường của Anh đều cảm thấy, với một số lập luận, cho rằng họ có thể giành được chiến thắng toàn diện vào cuối năm 1944 - nếu như được rảnh tay. Nhưng Tư lệnh tối cao Lực lượng Đồng minh, Tướng Dwight D. Eisenhower, là một nhà chính khách quân sự hơn là một chỉ huy chiến trường. Ông đã đi đến biện pháp thỏa hiệp: ông chỉ đạo Montgomery tung một đòn tấn công chính về phía bắc và sẽ được ưu tiên tuyệt đối về hậu cần, nhưng ông vẫn cứ để cho Trung tướng George S. Patton dẫn đầu Tập đoàn quân số 3 của Hoa Kỳ tiếp tục tấn công dưới phía nam với quy mô nhỏ hơn.

    Kết quả là quân Đồng minh đã gây áp lực mạnh mẽ về phía đông trên một mặt trận rộng lớn và tiến dần đến biên giới nước Đức vào tháng 9/1944 – họ chỉ bị dừng lại vì hậu cần trở thành một vấn đề quan trọng. Vì vậy, rất ít điều bất ngờ xảy ra dọc theo các chiến tuyến trên Mặt trận miền tây trong ba tháng tiếp theo giúp cho Hitler có thể tái cơ cấu tổ chức lại các đạo quân vốn đã bị đánh thua liểng xiểng ở nước Pháp, tạo thành một tuyến phòng thủ kiên cố từ Hà Lan đến Thụy Sĩ. Chiến sự tạm lắng cũng giúp cho Quốc trưởng thay đổi chiến lược, thực hiện một cơ hội tiếp theo là tung một đòn phản công bất ngờ mạnh mẽ do chính ông ta đề xuất trong Trận chiến Bulge. Đến khi buộc các đạo quân Mỹ rơi vào trạng thái mất cân bằng, người Đức tung một cái nêm thiết giáp tới tận sông Meuse, và mặc dù sau đó, quân Hitler đã bị đẩy lùi về biên giới nước Đức, nhưng tinh thần và uy tín của quân Mỹ cũng bị suy giảm rất nhiều.

    Cuộc tranh cãi bắt đầu bùng lên bởi yêu cầu của Mont-gomery về một đòn tấn công duy nhất vào nước Đức đã trở nên trầm trọng hơn trong Trận chiến Bulge khi Eisenhower đột ngột chuyển giao khu vực phía bắc thuộc chiến trường Ardennes cho vị thống chế người Anh. Tướng Bradley cảm thấy bị sốc khi buộc phải rút đi một nửa lực lượng đúng lúc ông ta cảm thấy mình đã kiểm soát được hoàn toàn tình hình trên chiến trường, và sau đó càng cảm thấy tức giận hơn khi Montgomery – lúc đó đã giành được thắng lợi – nói với các phóng viên rằng mình vừa phải “thu dọn” một mớ hổ lớn như thế nào. Bradley cảm thấy Montgomery quá phóng đại về vai trò của chính bản thân ông ta và "khai thác trên sự đau khổ của chúng tôi tại Ardennes."

    Biết rất rõ về sự khó chịu của tướng Bradley, Eisenhower đã vạch ra kế hoạch cuối cùng để chinh phục nước Đức. Những đường nét tiến quân trên bản đồ vẫn giống như mùa thu năm ngoái, trải dài dọc theo chiều dài biên giới Đức từ Hà Lan đến Thụy Sĩ. Ở mạn bắc là Cụm Tập đoàn quân 21 của Montgomery, bao gồm ba tập đoàn quân: Tập đoàn quân số 1 của Canada, Tập đoàn quân số 2 của Anh và Tập đoàn quân số 9 của Mỹ. Sau đó là Cụm Tập đoàn quân 12 của Bradley: gồm các Tập đoàn quân Thứ nhất và thứ ba của Hoa kỳ. Ở phía nam là Cụm Tập đoàn quân số 6 của Trung tướng Jacob L. Devers: bao gồm 2 Tập đoàn quân Mỹ số 7và số 1 của Pháp.

    Trong bối cảnh như vậy, Tướng Marshall, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ vẫn đang lắng nghe chiến lược của Tư lệnh tối cao Lực lượng Đồng minh, được trình bày bởi viên Tham mưu trưởng của Eisenhower, Trung tướng Walter Bedell “Beetle” Smith: Montgomery sẽ dẫn đầu Cụm Tập đoàn quân 21 của mình trong mũi tấn công chính xuyên qua vùng Ruhr; còn Bradley sẽ thực hiện nỗ lực phụ trợ với Cụm Tập đoàn quân 12 của Hoa kỳ ở phía nam gần Frankfurt trên sông Main. Smith nói, thời điểm là yếu tố quan trọng nhất cần phải cân nhắc và quân Đồng minh phải tăng tốc tiến về phía đông trong khi quân Đức đang bị thiệt hại nặng nề bởi các đòn tấn công áp đảo đến từ Hồng quân.....
    caonam_vOz, tatpcit, viagraless1 người khác thích bài này.
  5. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Vào buổi trưa, cuộc họp người Mỹ có thêm sự tham gia của Tham mưu trưởng các lực lượng quân sự Anh quốc. Họ cùng nhau thành lập Hội đồng Tham mưu Tối cao Liên hợp (CCS) — và chịu trách nhiệm điều hành cuộc chiến tranh ở phía Tây Âu. Thống chế Alan Brooke, một người đồng cấp với Tướng Marshall, đã ngồi vào ghế. Bề ngoài, con người ông ta toát lên vẻ quyến rũ, ông luôn viết những dòng chữ dí dỏm, châm biếm vào cuốn nhật ký mà ông luôn cẩn thận mang theo bên mình. Alan Brooke tự tin rằng ông biết nhiều về cách thức giành thắng lợi trong cuộc chiến hơn Eisenhower nhưng vẫn phải cố gắng hết sức để che giấu sự nghi ngờ về những ý tưởng của Tư lệnh tối cao. Tuy nhiên, đối với những người bạn thân, ông không hề dấu giếm khi coi Eisenhower như một con người bị ảnh hưởng quá mức bởi người mà ông ta vừa nói chuyện trước cuộc gặp. Brooke cũng dè dặt, thận trọng khi đánh giá về Marshall và ông ta sẽ thích hơn nếu đó là Tướng MacArthur - theo tiêu chuẩn của ông, được coi là vị tướng vĩ đại nhất trong cuộc chiến - ở trên cương vị Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Brooke vẫn lịch sự lắng nghe trong khi Smith thao thao tường trình kế hoạch của Eisenhower, trong tâm trí Brooke luôn luôn nghĩ rằng cái gọi là hướng tấn công – một nỗ lực phụ trợ của Bradley đe dọa sẽ trở nên quan trọng gần như hướng chính của Montgomery. Cuối cùng, Brooke ôn tồn nhận xét là người Anh không cảm thấy có đầy đủ sức mạnh để tiến hành cùng một lúc hai đòn tấn công như vậy và tốt nhất nên đưa ra một sự lựa chọn. Ý kiến cá nhân của ông ta cho rằng, trong 2 hướng tấn công, thì của Montgomery’s ở phía bắc là có vẻ hứa hẹn hơn cả.

    Smith, luôn cảm thấy bứt rứt, khó chịu vì vết loét trong người ngày càng trầm trọng hơn, đã vặn lại ngay rằng Eisenhower đã có dụng ý cung cấp duy nhất cho Montgomery các đơn vị mà ông có thể duy trì về mặt cung ứng hậu cần — bao gồm 36 sư đoàn, với 10 sư đoàn dự bị — và ông ta còn nói thêm rằng “cuộc tiến công ở phía nam không nhằm cạnh tranh với đòn tấn công chính ở phía bắc." Điều này chỉ làm tăng nhanh sự nghi ngờ của Brooke. Ông ta liền nói rằng ông rất hoan nghênh lời giải thích của Smith nhưng vẫn cảm thấy rằng cuộc tấn công của Bradley có thể dễ dàng chuyển hướng, làm ảnh hưởng tới sức mạnh từ phía bắc và khiến cho Montgomery dễ bị sa lầy. Marshall bộc lộ sự khó chịu ra mặt. Kiềm chế sự tức giận của mình, ông nói - như rất nhiều tướng lĩnh Mỹ đã từng nói trước đây – sẽ không an toàn nếu chỉ dựa vào một nét bút chì duy nhất đâm vào thủ đô Berlin. Ông ta cảm thấy điều cần thiết là phải sẵn sàng có một cuộc tiến công phụ trợ để phòng xa nếu như Montgomery gặp trở ngại.

    Đến lúc này, người Anh càng chắc chắn rằng người Mỹ đang âm mưu tiến hành một cuộc tấn công lớn thứ hai, và bắt đầu lại gay gắt chỉ trích kế hoạch của Eisenhower nhằm đưa toàn bộ lực lượng của mình đến sông Rhine trước khi chuẩn bị vượt qua biên giới. Smith sôi nổi phản bác lại rằng Eisenhower chưa bao giờ có ý định xâm nhập toàn bộ khu vực phía tây sông Rhine trước khi thực hiện tiến hành các hoạt động vượt biên. Thiếu tướng Harold “Pink” Bull, sĩ quan tác chiến của Eisenhower, thì nhẹ nhàng xác nhận lại điều này. Ông nói, chưa hề có ý định tiến sát đến sông Rhine nếu không muốn nói là một sự chậm trễ. Nhưng trong thâm tâm của Brooke vẫn tin rằng điều này chỉ được sử dụng như một cái cớ để thay thế một cuộc tổng tấn công dọc theo con sông, thay vì tập trung hỗ trợ cho hướng tấn công chính đến từ Montgomery. Quan điểm là bất kỳ chiến dịch phụ trợ nào mà liên quan đến George Patton đều nhất định sẽ trở thành một chiến dịch chính - Brooke nghĩ - vì vậy đành phải nói một cách lịch sự, để cho chắc chắn, thay vì chấp thuận kế hoạch của Eisenhower, ông ta muốn Hội đồng Tham mưu Tối cao Liên hợp (CCS) chỉ cần lưu ý đến vấn đề này vào thời điểm hiện tại. .

    Cuộc thảo luận bị hoãn lại. Sau khi kết thúc, Bedell Smith điện ngay cho Eisenhower đang đóng tại Cung điện Versailles: THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN ĐỘI ANH CỨ KHĂNG KHĂNG ĐÒI HỎI BẰNG VĂN BẢN QUYẾT ĐỊNH RẰNG HƯỚNG CHỦ CÔNG Ở PHÍA BẮC SẼ ĐƯỢC TIẾN HÀNH VÀ NGÀI KHÔNG ĐƯỢC TRÌ HOÃN CÁC CHIẾN DỊCH KHÁC CHO ĐẾN KHI NGÀI ĐÃ LOẠI BỎ HẾT CÁC NỖ LỰC PHÒNG THỦ CỦA QUÂN ĐỨC BÊN BỜ TÂY SÔNG RHINE.

    Trong khi cuộc thảo luận của giới quân sự diễn ra, thì các nhà lãnh đạo chính trị của cả hai quốc gia đều đang ở trên tàu thủy. Churchill đã tham gia các hoạt động kỷ niệm Đội tàu H.M.S. Orion (Đội tàu của Hải quân Hoàng Gia Anh trong WW I), ở bến cảng Valletta, nhưng đang phải nằm bệt trên giường vì bị sốt cao. Còn Tổng thống Roosevelt cũng đã có mặt trên chiếc Tuần dương hạm mới của Hoa kỳ mang tên là Quincy, sẽ đi khỏi Malta trong ba ngày. Roosevelt cảm thấy một ngày cùng với “Cricket” là quá đủ. Có điều, ông ta không muốn vướng vào những cuộc tranh luận kéo dài với Churchill về một kế hoạch ấp ủ trong đầu ông bạn Thủ tướng Anh là tiếp cận với bán đảo Balkan và sau đó vươn tới Vienna và Prague.

    Đó là ngày sinh nhật lần thứ 60 của Tổng thống và cô con gái duy nhất của ông, Tiểu thư Anna Boettiger, đang tổ chức một bữa tiệc cho ông. Trên khắp nước Mỹ, sinh nhật đã được tổ chức vì lợi ích của March of Dimes, một Tổ chức từ thiện yêu thích của Tổng thống.(March of Dimes là một tổ chức phi lợi nhuận của Hoa Kỳ hoạt động nhằm cải thiện sức khỏe của các bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tổ chức được thành lập bởi Tổng thống Franklin D. Roosevelt vào năm 1938, với tên gọi Quỹ Quốc gia về Bệnh bại liệt ở trẻ sơ sinh, nhằm chống lại bệnh bại liệt.ND)






    2.






    Ngày 30 tháng Giêng cũng là một ngày lễ kỷ niệm lớn của nước Đức. Năm 1933 - cùng năm Roosevelt bắt đầu nhiệm kỳ đầu tiên của mình - Tổng thống Paul von Hindenburg đã bổ nhiệm Adolf Hitler làm Thủ tướng Đức. Ngày hôm nay, 12 năm sau, các nhà lãnh đạo Đảng Quốc xã trên mọi mặt trận nhận được yêu cầu phải thuyết trình cho các nhân viên dưới quyền vững tin về viễn cảnh tươi sáng ở phía trước và đảm bảo với họ rằng cuộc chiến sẽ vẫn giành được thắng lợi. SS-Obergruppenführer (Trung tướng) Karl Wolff, người đứng đầu Lực lượng SS và Cảnh sát tại nước Ý, đã nghiêm túc triệu tập tất cả mọi nhân viên chủ chốt của mình. Trước đây, từng làm phụ tá cho Himmler, ông là một người đàn ông to lớn, năng động, khá giản dị, tin tưởng nhiệt thành vào Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia và rất thân thiết với Thống chế SS đến mức ông đã từng ký vào những thư từ cá nhân gửi cho Himmler với bí danh thân mật là “Wolffchen.” (một cách chơi chữ giữa tên của Wolff và Wolfchen – đàn con). Nhưng khi Karl Wolff xem xét những ngôn từ mà ông định phát biểu – thí dụ như “thắng lợi cuối cùng” - chúng dường như bị mắc kẹt trong cổ họng. Làm sao mà cuộc chiến tranh này có thể thắng được, chắc phải đợi chờ một phép màu nào đó? Do vậy, ông ta đã ứng biến một bài phát biểu mà không hề đề cập đến những ngày tươi sáng hơn sắp tới.

    Trước khi dừng buổi nói chuyện, trong đầu Wolff đã lóe ra một quyết định quan trọng nhất trong đời - ông sẽ phải gặp thủ lĩnh của mình, Himmler, và yêu cầu được trả lời trực tiếp cho một câu hỏi: Đâu là những chiếc máy bay đáng kinh ngạc và những Wunderwaffen (vũ khí kỳ diệu) mà Hitler hứa sẽ tung ra để giành thắng lợi trong cuộc chiến? Và nếu Himmler không thể trả lời câu hỏi, ông ta sẽ hỏi thẳng Quốc trưởng; và nếu một lần nữa Fuhrer tránh không trả lời, thì chính ông ta sẽ đòi hỏi một nền hòa bình trong danh dự. Trong con người Karl Wolff luôn dành một tình cảm lớn lao của mình cho những người dân Ý. Tại sao bắt họ phải chịu đựng đau khổ dài lâu như vậy; tại sao mỗi ngày trôi đi lại phải thêm nhiều người lính SS hoặc Wehrmacht chết một cách không cần thiết?

    Khi gọi điện tới Sở chỉ huy của Himmler, Wolff mới phát hiện ra rằng Sếp của mình – ngài Reichsfuhrer-SS (Thống chế SS ) đang ở một nơi nào đó, rất xa về phía đông, thuộc Cụm Tập đoàn quân Vistula , nhưng nếu thực sự cần thiết, một cuộc hẹn có thể được thực hiện trong một tương lai gần. Wolff nhắn lại là sẽ bay trở về Đức trong vài ngày tới.

    Cũng vào buổi chiều hôm đó, Martin Bormann – lãnh tụ số hai của Đảng Quốc xã và là con người mà Hitler hiện nay đang phụ thuộc nhiều nhất - đã viết một bức thư tràn đầy tình cảm khác thường gửi cho “Mommy bé bỏng” – cách gọi thân mật dành cho bà vợ ông - tại nhà riêng gần Berchtesgaden. Ông ta khuyên vợ mình nên dự trữ một lượng rau khô lớn và như ông nói “khoảng 50 pounds mật ong” . Martin cũng kể cho Frau Bormann về những hành động tàn bạo đang tràn ngập ở phía đông : “Những kẻ Bolshevik đang tàn phá mọi thứ. Họ coi hiếp dâm chỉ là một trò đùa, và các vụ xả súng hàng loạt — đặc biệt là ở các vùng nông thôn — là chuyện xảy ra như cơm bữa. Em và lũ trẻ không bao giờ được phép để rơi vào tay lũ người man rợ này. Nhưng anh rất hy vọng rằng những mối nguy hiểm này rồi sẽ trôi qua và Fuhrer sẽ lại thành công trong việc chống đỡ, vì ông ấy đã chặn được nhiều cú đòn khác tương tự trong quá khứ. Em có thể tưởng tượng được không, trong số hai đến ba triệu người đã bị đuổi ra khỏi các ngôi nhà và những lò sưởi ấm áp dưới tiết trời băng giá, là mọi nỗi thống khổ không thể giải thích được. Những đứa trẻ con đang chết đói và chết cóng, và tất cả những gì chúng ta chỉ có thể làm được trong lúc này là phải thắt chặt trái tim mình, cố gắng hết sức quyết liệt hơn để cứu những người đang còn sống sót và xây dựng lên các tuyến phòng thủ mới.

    Chúng ta sẽ thành công !

    M. (Martin) tận tâm nhất của em.”......
    caonam_vOz, tatpcit, viagraless1 người khác thích bài này.
  6. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Hơn 30.000 con người khốn khổ trong số những người mà Bormann đề cập tới đang cố gắng đào thoát trở lại Đức bằng đường biển trên bốn chuyến tàu thủy. Khởi hành với đích đến là một hải cảng gần Hamburg, đoàn tàu di tản vừa đi vòng qua bán đảo Hela và rời vịnh Danzig ra biển Baltic. Con tàu lớn nhất trong số này, đó là chiếc Wilhelm Gustloff 25.000 tấn, trước đây chưa từng bao giờ chở nhiều hành khách như vậy — gồm 1500 học viên tàu ngầm trẻ tuổi và khoảng 8000 thường dân — gấp tám lần con số trên tàu Lusitania. Không ai biết chính xác có bao nhiêu người tị nạn hối hả, điên cuồng mới đến được Danzig. Mặc dù mọi người phải có vé và giấy tờ cho phép di tản, hàng trăm người vẫn tìm đủ mọi cách lén trốn lên tàu. Một số người đàn ông tự ép mình trong những chiếc hộp, va-li hành lý thậm chí còn ăn mặc, hóa trang thành phụ nữ. Nhiều người tị nạn được biết là đi đến những biện pháp cực đoan thậm chí còn đáng xấu hổ hơn để thoát khỏi bàn tay của người Nga. Gần đây tại Pillau, nơi chỉ có người lớn với một đứa trẻ con được phép lên tàu tị nạn, một số bà mẹ đã ném con của họ từ boong tàu xuống cho những người thân đang còn bị kẹt lại trên bến tàu. Một đứa bé có thể được sử dụng làm tấm vé thông hành lên tàu tới 5-6 lần. Trong cơn điên loạn, một số cháu bé đã bị tuột tay rơi xuống nước, một số khác bị những kẻ lạ mặt cướp mất.

    Khi tàu Wilhelm Gustloff đi về phía tây đến vùng biển Baltic sóng vỗ bập bềnh, một người tị nạn tầm trung niên, Paul Uschdraweit, bước lên boong tàu. Anh ta là một trong những quan chức cấp huyện gan dạ, dũng cảm của Đông Phổ, người đã dám thách thức Gauleiter (Toàn quyền) Koch để cho phép người dân di tản ra khỏi thị trấn quê hương của họ. Bản thân anh cũng khó khăn lắm mới thoát khỏi tay quân Đỏ với người tài xế riêng - Richard Fabian.

    Phần còn lại của đoàn tàu thủy đang chạy ven quanh bờ biển Pomerania để tránh tàu ngầm Nga, nhưng tàu Wilhelm Gustloff do hút quá nhiều nước và chỉ có một mình đơn độc, ngoại trừ một tàu quét mìn duy nhấthỗ trợ. Uschdraweit đưa mắt tìm kiếm các con tàu khác trong đoàn tàu thủy nhưng chỉ có thể nhìn thấy con tàu quét mìn, đang di chuyển cách đó một dặm. Anh vui mừng vì đã có tầm nhìn xa để kiểm soát con tàu và tìm lối thoát tốt nhất trong trường hợp nó bị chìm. Ngay sau đó, thuyền trưởng tàu Wilhelm Gustloff thông báo qua loa phóng thanhyêu cầu những người đàn ông đang mang theophao cứu sinh phải trả lại vì hiện thời không có đủ cho phụ nữ và trẻ em. Không được phép bật radio, không sử dụng đèn pin.

    Lúc này,Biển Baltic có sóng dữ, hầu hết phụ nữ và trẻ em đều bị say sóng dữ dội. Vì bị cấm đi ra phía lan can trên boong tàu, nên mùi hôi thối sớm bốc lên không thể nào chịu nổi. Những người ốm nặng được khênh đến khu vực giữa tàu, nơi độ rung lắc ít nhất. Uschdraweit dễ dàng tìm thấy một chiếc ghế trống và ngồi xuống. Trong tuần qua, anh ngủ rất ít. Lúc ngủ gật, anh tự hỏi liệu anh có bao giờ gặp lại bà xã của mình không, và nếu anh đến Đức an toàn, liệu anh có bị trừng phạt vì dám không tuân theo mệnh lệnh nghiêm ngặt của Gauleiter Koch không?

    Con tàu xả hơi mù mịt và tăng tốc tiến về phía tây, cách bờ biển Pomeranian 25 dặm. Một số ngọn đèn vẫn sáng, phác họa rõ nét về hình bóng của tàu Wilhelm Gustloff so với vùng Baltic tối tăm mịt mờ. Bất thình lình, lúc 9:10 tối, Uschdraweit bị đánh thức bởi một tiếng nổ lớn. Anh đang cố nhớ lại xem mình đang ở đâu thì nghe thấy tiếng nổ lớn thứ hai. Fabian, tài xế của anh ta, lao nhanh qua, không để ý đến tiếng la hét của Uschdraweit. Sau đó là một tiếng nổ thứ ba, làm cho những ngọn đèn đáng lẽ nên phải tắt vài giờ trước đó mới bị tắt phụt. Cũng chính lúc này, ngoài khơi cảng xa xa có một chiếc tàu ngầm của Nga âm thầm ẩn nấp, đang chờ đặt quả ngư lôi thứ tư vào ống phóng nếu cần - hoặc đánh chìm bất kỳ con tàu nào đến giải cứu Wilhelm Gustloff.

    Uschdraweit nghĩ rằng tàu bị trúng bom cho đến khi anh nhận thấy con tàu đang bắt đầu bị nghiêng về mạn trái mới vỡ lẽ ra rằng nó đã bị trúng ngư lôi. Anh mò mẫm đi xuống một lối đi tối đen như mực và bằng cách nào đó đã tìm thấy hành lý của mình; anh ta lấy ra một chiếc áo khoác đi săn có lót lông, một chiếc mũ trượt tuyết, một khẩu súng lục và một hộp đựng bản đồ chứa các tài liệu liên quan. Rồi anh mở khóa một cửa sổ và nhảy xuống đoạn boong-tàu thấp hơn chuyên để đi dạo Ở đây, trời không tối lắm và anh có thể nhìn thấy một người đàn ông đang cố sức vung một cái ghế phang mạnh vào tấm kính trên cửa sổ. Kính vẫn sẽ không bị vỡ. Uschdraweit tìm thấy một cánh cửa dẫn đến mũi tàu, chạy về phía trước và nhìn thấy một đám đông đang lao về phía boong mà không hề có phao cứu sinh bên người. Tại những ô cửa bị kẹt cứng, những người đàn ông đang gắng lách qua những nhóm phụ nữ và trẻ em đang hóa điên, tìm mọi cách đấm, đẩy, gạt họ ra khỏi đường đi. Các sĩ quan của con tàu đang cố gắng ngăn chặn cơn hoảng loạn đang bùng nổ. Một số ít bèn rút súng lục cùng với mọi cử chỉ đe dọa, nhưng họ không thể nổ súng và bị hất sang một bên.

    Con tàu đã nghiêng sang mạn trái tới 25 độ. Trong buồng máy, những người thợ máy vẫn đứng trên vị trí của họ trong khi những người thuyền viên khác đang đóng các vách ngăn, khởi động máy bơm. Trên boong tàu, các thủy thủ đoàn vật lộn với các con thuyền cứu sinh ở mạn trái nhưng chúng đều bị đóng băng đông cứng. Những hành khách đang như phát dại trên boong-tàu đã xô bật các thuyền viên và ngã nhào xuống thuyền.

    Tại mũi tàu, Uschdraweit nhìn thấy những tên lửa màu đỏ — tín hiệu cấp cứu — bắn lên trời và hy vọng rằng các con tàu gần đó đang nhanh chóng đến giải cứu. Bên dưới anh là một khung cảnh của ngày tận thế. Hàng trăm hành khách, đang hò hét một cách điên dại tranh giành nhau để lao tới phần đuôi con tàu đang nhô dần lên khỏi mặt biển. Uschdraweit bắt đầu lên một cầu thang về phía những chiếc thuyền cứu sinh còn lại. Một cái dầm sắt rơi xuống trước mặt anh; anh vội nhảy lùi lại, đi vòng quanh cầu thang. Tàu Wilhelm Gustloff đột ngột tròng trành cùng với những tiếng la hét dữ dội. Uschdraweit liền quay lại và thấy nhiều phụ nữ cùng trẻ em bị hất ra khỏi một con thuyền cứu hộ đang lật úp xuống mặt biển đen ngòm.

    Có ai đó đang nắm vào cánh tay anh. Đó là một người phụ nữ mà anh từng nói chuyện trong thời gian dài chờ đợi ở bến tàu. Cô ta bế một đứa trẻ, và hai đứa trẻ khác đang túm chặt lấy váy của cô ấy. "Giúp em với!" - cô ta khóc. "Ngài là một người đàn ông, ngài phải biết những gì mà em nên làm ngay trong lúc này!" Nhưng anh giờ đây không thể nghĩ ra được bất cứ điều gì. Tất cả các con thuyền cứu sinh đã biến mất; đột nhiên anh nhớ đến những chiếc xuồng hơi (bè khí nén). “Hãy lại đây với tôi!“ Uschdraweit nói. "Tôi sẽ cố gắng đưa bà và bọn trẻ lên một chiếc xuồng."

    "Ngài điên rồi! Em không thể đưa các con em vào vùng nước đầy băng giá như thế này”. Đột nhiên, cô phẫn nộ trừng mắt nhìn anh. "Các ngài chỉ biết đứng nhìn bất lực mà không biết phải làm một điều gì cả!" Đôi mắt mở to đầy sợ hãi, cô ta dồn các con về phía cầu sau của con tàu.....
    caonam_vOz, gaume1, tatpcit1 người khác thích bài này.
  7. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    ….Nỗi sợ hãi tột cùng của cô ta đã giải tỏa một phần nào cho Uschdraweit. Anh nhìn xuống những cơn sóng dữ dội. Trời lạnh buốt, dưới mức đóng băng. Anh nghe thấy vài phát súng lục ở boong trên cùng với các tiếng la hét cũng như các ngọn sóng chồm lên tàu làm ướt đẫm khuôn mặt anh. Bản năng sợ chết của loài vật ập vào trong suy nghĩ. Mình phải sống! Làm sao mà mình lại để vợ sống cô đơn trong một thế giới đảo điên như vậy ? Cuối cùng thì Uschdraweit cũng tìm cách trấn tĩnh lại được bản thân. “Đằng nào cũng vậy, chết thì phải cho ra chết!” Anh nhớ một tay sĩ quan hải quân đã ra lệnh cho anh không được hút thuốc trên tàu — và anh ta trả lời lại một cách tếu táo rằng: “Vâng! Chắc chắn sẽ được phép hút thuốc nếu như tàu bị chìm”. Uschdraweit quyết định hút một điếu thuốc trước khi chết. Sau khi rít sâu vài hơi, anh ném lên boong trên; lấy một tiếp điếu thứ hai, anh không hút và lại ném nó đi một cách lo lắng. Sang đến điếu thuốc thứ ba anh mới hút cho đến hết. "Làm thế nào anh lại có thể hút thuốc được vào thời điểm như thế này?" có tiếng người bực bội hỏi. Đó là một sĩ quan cấp cao của O.T. (Tổ chức Xây dựng quân sự Todt – rất khét tiếng vì sử dụng đội ngũ lao động cưỡng bức trong WW II) và người đó trên cổ vẫn đeo một huân chương chữ thập.

    - “Ngài cũng nên hút một điếu. Dù sao thì mọi thứ cũng sẽ sớm kết thúc thôi. "

    Viên sĩ quan nhìn anh như thể đang bị mất trí, lẩm bẩm nói lảm nhảm điều gì đó rồi biến mất. Một thủy thủ khác đang đứng bên cạnh lan can vội vàng xé bộ đồng phục và nhảy xuống mặt biển. Một bóng người cao lớn đang bước về phía Uschdraweit trong ánh sáng mờ ảo. Đó là một sĩ quan học viên tàu ngầm với khuôn mặt nhợt nhạt và đôi mắt mở to. Anh ta chỉ vào đùi mình nơi có một khúc xương dính qua chiếc quần ngụy trang và máu từ chân anh đang nhỏ tong tỏng xuống sàn tàu phủ đầy băng.

    "Chúa ơi ! Chuyện gì đã xảy ra với cậu thế ?" Uschdraweit muốn biết nguyên do. “Tôi đang ở bên dưới tàu ... trúng ngay một mảnh đạn. Giờ đây, mọi thứ đối với tôi đã kết thúc. Ch-ó chết !” Anh ta từ từ lê bước quay đi và lẩm bẩm : "Ở bên dưới hầm tàu... hàng ngàn người sẽ bị chết đuối như một lũ chuột ... và tôi sẽ phải cố gắng sang phía bên kia con tàu thôi..”

    Ba con tàu đã đến nơi để giải cứu: hai tàu khu trục 600 tấn — T-36 và Löwe — và một chiếc sà lan. Ngay trước 10.00 giờ đêm, Thuyền trưởng Hering của tàu T-36 đã nhìn thấy tàu Wilhelm Gustloff sắp bị chìm. Khi bắt đầu điều khiển tàu T-36 lại gần, ông ta nhìn thấy một chiếc tàu sà lan khác tiến sát đến cạnh con tàu khốn khổ, nhưng vì những ngọn sóng lừng quá lớn khiến hai con tàu bắt đầu nghiến sát vào nhau. Mọi người hoảng loạn nhảy từ boong trên của tàu Gustloff xuống con tàu sà lan đang bị sóng lớn đánh ụp xuống. Cũng có một số người đã nhảy vào lòng xà lan an toàn; nhưng rất nhiều người bị rơi xuống nước và bị nghiền nát giữa khe hở của hai con tàu. Hering nhận ra rằng mọi thứ sẽ hỏng bét nếu mình cũng làm như thế; một bên của tàu khu trục T-36 sẽ bị dập nát. Hering chỉ có thể đứng nhìn và gắng sức vớt lên những người còn sống sót. Ông ta liền tắt động cơ con tàu để máy sonar có thể định vị được dễ dàng vị trí tàu ngầm của đối phương mà ông biết chúng vẫn ẩn mình dưới biển, đang sẵn sàng chụp thêm những con mồi mới.

    Không hề biết các con tàu cứu hộ đang túc chực sẵn ở đó, Uschdraweit bám vào thành lan can để không bị trượt trên boong tàu. Mũi tàu của Wilhelm Gustloff gần như sắp tiếp cận tới mặt biển. Anh nhìn thấy một trung úy hải quân và gọi, "Mọi thứ đã kết thúc rồi." Viên trung úy bò lại gần; đó chính lại viên sĩ quan đã ra lệnh cho anh không được hút thuốc.

    - “Nào, bây giờ chúng ta sẽ tự cứu lấy bản thân,” tay Trung úy nói với Uschdraweit. “Trườn sang bên trái và nắm lấy chiếc xuồng mà chúng tôi sẽ đẩy xuống cho cậu. Nhanh lên, nếu không mọi việc sẽ quá muộn đấy. "

    Gió rít ầm ầm bên tai, Uschdraweit thận trọng bắt đầu đi xuống cây cầu. Lập tức, anh bị trượt chân trên boong tàu băng giá và đâm sầm vào lan can. "Nhanh lên!"- anh đã hét lên. Trung úy và ba học viên sĩ quan tàu ngầm đã cởi nút được một chiếc xuồng hơi và đẩy mạnh về phía Uschdraweit. Đóng băng cứng như một tảng đá, nó đập thẳng vào ống chân anh và chỉ có đôi ủng nặng nề của anh ta mới cứu anh khỏi bị gãy xương. Nhưng Uschdraweit thậm chí còn chẳng màng nghĩ đến nỗi đau của mình nhiều hơn nữa.

    Ngay khi năm người đàn ông vừa lên được chiếc xuồng, một cơn sóng lớn hất tung họ đập mạnh vào cửa sổ bên cạnh cầu tàu. Uschdraweit nhìn thấy những người tị nạn bị kẹt lại ở đằng sau tấm kính cửa sổ con tàu đang nhìn chằm chằm vào bọn anh như những con cá trong bể nhìn ra. Quả là một giấc mộng khủng khiếp và kỳ lạ. Cơn sóng tiếp theo đã cuốn anh ra biển. Cú sốc lạnh đột ngột khiến Uschdra-weit bùng nổ năng lượng và anh ra sức bơi về phía chiếc xuồng đang bị trôi dạt. Vì một lý do nào đó, nỗi kinh hoàng của anh đã biến mất. Anh ta và bốn người khác vẫn tóm kịp chiếc xuồng.

    "Chèo nhanh, chèo mạnh vào ! Chúng ta sắp bị sóng ập xuống đầu đấy !“. Cả năm người đều một tay bám chặt cái xuồng, tay còn lại khua nước một cách điên cuồng. Khi họ đã di chuyển được 50 yards, thì áo khoác lông và ủng của Uschdraweit dường như đang kéo tụt anh xuống nước. Anh cố gắng trèo lên xuồng nhưng viên trung úy bảo tất cả mọi người hãy chèo thêm 50 yards nữa.

    Cuối cùng, tất cả bọn họ chui được vào trong xuồng một cách vụng về. Lần đầu tiên Uschdraweit nghĩ rằng mình có thể sống sót. Anh ngoái nhìn lại và thấy phần cao nhất của con tàu thủy đang giống như một chiếc tháp nghiêng. Lúc này, anh có thể nghe thấy những tiếng gào đến lạc giọng của hàng trăm phụ nữ và trẻ em. Một thứ âm thanh của ngày tận thế vọng đến gần như khiến anh phát điên. Đó là giây phút khủng khiếp nhất của cái đêm kinh hoàng này…..

    Mũi tàu bắt đầu chìm xuống ; toàn thân con tàu bị rung lắc, chao đảo rất mạnh. Các vách ngăn bị sập và dòng nước bắt đầu ào ạt tràn xuống các tầng dưới. Tàu Wilhelm Gustloff từ từ nghiêng sang một bên, tiếng la hét càng chói tai hơn. Uschdraweit, khuôn mặt hoang dại, cũng gào lên: "Nếu như mọi thứ mà không kết thúc sớm ..." Người Trung úy Hải quân liền giữ chặt vai anh.

    Cuộn phim định mệnh quay nhanh dần và con tàu Wilhelm Gustloff, vẫn đang rú còi báo động, dần dần bắt đầu chìm xuống mặt biển một cách nặng nề. Cả năm người trên chiếc xuồng hơi đều nhìn theo bóng con tàu đang chìm dần, thấp dần, thấp dần cho đến khi nó biến mất trên mặt biển bao la……
    caonam_vOz, tatpcitgaume1 thích bài này.
  8. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    … “Có người vẫn còn sống kìa ! ” - Trung úy kêu lớn.

    Uschdraweit nhìn thấy một cánh tay đang vùng vẫy và vội vàng nắm lấy. Anh kéo một thủy thủ trẻ tuổi lên xuồng. Bây giờ họ đã sáu người, và họ ngồi sát nhau run rẩy trong cơn gió lạnh, lặng lẽ đăm chiêu nhìn ra biển. Nhiều xác chết đang dập dờn trôi nổi trên biển trong những chiếc phao cứu sinh. Những kẻ sống sót cảm thấy quá chán nản để nói chuyện với nhau. Cái xuồng cứ thường xuyên, dập dềnh trên đỉnh các ngọn sóng, và họ nhìn thấy một con thuyền cứu sinh cách họ không xa —ngoài ra chẳng còn gì khác. Đó là dấu hiệu duy nhất của sự sống ở xung quanh họ.

    Trong chiếc xuồng hơi, Uschdraweit nhận thấy nước đang từ từ dâng lên chân mình, nhưng anh không nói gì cả. “Chắc chỉ lát nữa thôi , xuồng của chúng ta sẽ bị chìm ..” – Viên trung úy nói. Khi con sóng cao tiếp theo đánh dâng chiếc xuồng của họ đến tầm quan sát của chiếc thuyền cứu sinh thì anh ta ra lệnh cho mọi người chèo xuồng bằng tay. Trung úy yêu cầu được phép lên thuyền, nhưng tiếng ai đó hét lên rằng họ đã chở quá đầy người rồi. Khi những người trong xuồng tiếp tục chèo, con thuyền cứu sinh nhanh chóng rời đi.

    Uschdraweit đã dùng một mảnh gỗ làm mái chèo cho đến khi nhận ra rằng tay mình đã bị tê cóng vì lạnh. Anh ta liền ném thanh gỗ đi và tiếp tục sử dụng lại đôi tay của mình để chèo, và ngay lập tức, sự sống dường như chảy mạnh trở lại trong huyết quản của họ. Viên trung úy liên tục rầy la để bắt cả 4 thủy thủ trẻ chèo thuyền liên tục; những người thủy thủ trẻ tuổi càu nhàu nhưng rốt cuộc, họ vẫn vâng lời.

    Hai chiếc tàu khu trục T-36 và chiếc Löwe đang âm thầm trôi giạt trong bóng tối, động cơ vẫn tắt, lưới hạ cánh vẫn hạ xuống ở hai bên, chờ cứu những người sống sót lên tàu. Gần như tất cả cùng một lúc, các máy sonar của T-36 bắt được tín hiệu một con tàu ngầm di chuyển gần xung quanh họ. Hering liền ra lệnh khởi động lại máy móc và di chuyển ra khỏi sự kiếm tìm của tên cướp biển giấu mặt (marauder).

    "Kìa, tàu khu trục của ta đấy!" - Ai đó trên xuống hét lên, và tất cả họ bắt đầu chèo xuồng một cách điên cuồng. Uschdraweit không thể nhìn thấy gì cho đến khi một cái bóng mờ xuất hiện rất nhanh cách đó 100 thước; và một chùm đèn pha rọi bất ngờ quét qua và bắt trúng họ. Điều tiếp theo mà anh biết, một con sóng lớn đã đánh tan chiếc bè khi nó áp sát được vào sườn của chiếc tàu khu trục T-36. Viên trung úy hải quân bám chặt vào một sợi dây chão được ném xuống từ chiếc khu trục hạm trong lúc bốn thủy thủ trẻ tranh giành nhau trên tàu. Uschdraweit giục viên trung úy trèo lên, nhưng người sĩ quan hải quân bám chặt vào sợi dây và ra lệnh ngắn gọn, “Đi đi. Tôi sẽ là người lên cuối cùng. ” – và thế rồi, có một bàn tay của người nào đó nắm chặt lấy cánh tay của Uschdraweit và giật mạnh anh lên boong tàu T-36. Khi anh loạng choạng đứng dậy khỏi boong tàu, anh thấy chiếc xuồng trôi đi một cách vô định, với viên trung úy vẫn còn đang loay hoay ở trong đó.

    Uschdraweit đã được trợ giúp kịp thời ở bên dưới con tàu. Các thủy thủ đã sạch lột quần áo của anh, quấn chặt anh vào trong một cái chăn và đặt anh như một gói hàng trên một cái võng. Cơ thể anh run lên; cái ấm đột ngột còn gây cảm giác đau hơn cái lạnh cóng. Nhưng tất cả những gì anh suy nghĩ trong lúc này chỉ hướng tới hình ảnh người trung úy hải quân trên chiếc xuồng - người đã cứu sống cuộc đời anh .

    Hering đã cứu được hơn 600 người ra khỏi vùng biển Bantic. Một số bị chết cóng; số khác đang dần dần bị thần chết lôi đi. Sau đó, một tàu ngầm thứ hai xuất hiện trên màn hình sonar và chiếc T-36 buộc phải bỏ chạy, lạng lách đánh võng để tránh ngư lôi. Vào lúc này, giọng nói của Quốc trưởng lại vang vọng sang sảng trên cái loa phóng thanh, ca ngợi cái ngày trọng đại của 12 năm trước khi mà ông ta lên nắm quyền; sau đó, bất thình lình, tiếng nói bị ngắt đột ngột. Một thủy thủ bước vào căn phòng chật ních người và nói với những hành khách đang run rẩy : “Mọi người đừng sợ, chúng tôi sẽ bắn depth-charges bây giờ đấy !”.. (depth-charges – gọi là bom sâu hoặc thủy lôi chìm, vũ khí chuyên để chống tàu ngầm). Tiếng nói của người thủy thủ bị cắt ngang bởi một tiếng nổ ầm ầm, và con tàu liên tục rung chuyển do những tác động mạnh của sóng âm dưới biển. Sau đó, một tiếng gầm khác, và một tiếng nổ khác nữa. Cuộc đấu tay đôi chết người cứ liên tục tiếp diễn. Chiếc tàu ngầm đã bắn trượt một quả ngư lôi khác và thêm một lần nữa Hering lại đưa con tàu T-36 của mình thoát khỏi vòng nguy hiểm.

    Phụ nữ và trẻ em khóc thút thít; thậm chí còn cảm thấy tồi tệ hơn vụ chìm tàu, vì ai cũng nghĩ rằng rằng mình đã thoát chết. Bên cạnh Uschdraweit là một cậu bé 16 tuổi, nước mắt cứ chảy dài trên khuôn mặt còn non tơ của cậu. Chỉ vì cậu nghe bản thông báo trên tầu Wilhelm Gustloff yêu cầu dành phao cứu sinh cho phụ nữ và trẻ em và cậu ta đã làm theo bản thông báo đó. Sau đó, mẹ cậu đã ra sức thuyết phục cậu đeo phao vào người, vì cậu có thể cứu được bà nếu như cậu làm như vậy. Nhưng trong cơn hoảng loạn, họ đã bị xa cách nhau vĩnh viễn. “Nếu cháu không đeo phao cứu sinh, mẹ cháu vẫn sẽ còn sống,” – và cậu ta tiếp tục nói với Uschdraweit trong dòng nước mắt. "Cháu biết bơi mà."

    Cuối cùng, chỉ có 950 người được các tàu cứu hộ cứu. Hơn 8000 người thiệt mạng trong thảm họa trên biển lớn nhất thế kỷ - gấp hơn 5 lần số người thiệt mạng trên tàu Titanic.

    Vào lúc bình minh, khi chiếc T-36 hướng đến Kolberg, tất cả các nam giới còn sống sót được yêu cầu tập hợp lại trên boong. Uschdraweit leo lên thang. Đứng trước mặt chính là tài xế Fabian. Hai người đàn ông không nói nên lời, ôm choàng lấy nhau thật chặt…..
    caonam_vOz, tatpcitgaume1 thích bài này.
  9. vuanthai

    vuanthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/03/2004
    Bài viết:
    385
    Đã được thích:
    68
    Hôm nay mới vào lại diễn đàn, cám ơn Huytop nhé. Chiến trường Hungary cực kỳ khốc liệt, cuộc chiến vì dầu mỏ và đồng minh khiến Đức ném vào đây rất nhiều lực lượng và tổn thất khá nặng. Đọc đến hết chiến dịch KORAT III thấy hụt hẫng. Vì chiến tranh chưa kết thúc tại Hungary. Sau KONRAT III, các sử học Đức đã lần nữa cố tình quên đi thất bại lớn đau đớn trong cuộc phản kích qui mô lớn nhất cuối cùng của đề chế3 : Chiến dịch Mùa xuân thức tỉnh ( operation spring awekening). Đây là chiến dịch thảm bại khủng khiếp của Đức và sau chiến dịch này Đức không còn lực lượng xung kích nữa. Mấy ngày sau thảm bại này, cả Nga và Anh Mỹ đồng loạt mở cuộc tổng tiến công vào đất Đức kết thúc chiến tranh.
    caonam_vOz thích bài này.
  10. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Cám ơn bác...Thực ra muốn làm tiếp kiểu đó nhưng nó khô khan quá nên mới chuyển sang làm tiếp cuốn này ...Hy vọng sẽ trở lại sau...

Chia sẻ trang này