1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Paul Carell - Hitler mặt trận miền Đông

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi huytop, 30/10/2015.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Chính vì sự tranh cãi, nghi ngờ và âm mưu này mà 2 vị Ngoại trưởng Stettinius và Eden đã thảo luận về câu hỏi của người Ba Lan trên con tàu Sirius vào sáng ngày 1 tháng Hai. Stettinius cảm thấy rằng việc công nhận Ủy ban Giải phóng Quốc gia Lublin do Cộng sản kiểm soát là đại diện chính thức của Ba Lan sẽ là một điều khiến cho Hoa kỳ rất phẫn nộ và Eden cũng đồng tình như thế : người Anh cũng không thể công nhận chính quyền Lublin. Đối với ông, biện pháp khắc phục duy nhất là thành lập “một chính phủ lâm thời mới ở Ba Lan, cam kết tổ chức bầu cử tự do ngay khi có điều kiện thích hợp”. Sau cuộc họp, Eden đã viết trong nhật ký của mình rằng đã có “thỏa thuận hoàn toàn về tất cả các điểm chủ chốt” và ông ta đã cố gắng hết sức để …“thúc giục Ed (Stettinius) hiểu rằng đến lượt [người Mỹ] nên có trách nhiệm cùng nhau gánh vác về vấn đề này. Chúng tôi sẽ ủng hộ họ hoàn toàn nhưng phải có những thay đổi cần thiết trong hành động và cả hai chúng tôi sẽ phải làm tất cả những gì có thể làm được….. ”

    Sự hòa hợp giữa hai nhà Ngoại giao lại được tiếp nối bởi sự xích mích mới của các nhà quân sự cấp cao khi mà các thành viên trong Hội đồng Tham mưu Tối cao Liên hợp (CCS) họp vào buổi chiều và một lần nữa lại tiếp tục thảo luận về phương sách tiến hành chiến dịch ở mặt trận phía tây. Marshall yêu cầu nên có một phiên họp kín để họ có thể nói chuyện thẳng thắn hơn. Khi các nhân viên thư ký và ghi âm ra khỏi phòng họp, Marshall thúc giục rằng kế hoạch tấn công của Eisenhower nên được chấp nhận mà đừng làm rắc rối thêm nữa. Còn Brooke thẳng thừng từ chối và chỉ đồng ý "ghi nhớ" lại như vậy.

    Đó là một trong những lần hiếm hoi Marshall mất bình tĩnh. Giọng ông ta kịch liệt khiến cho những người đối thoại giật nảy mình, ông bày tỏ quan điểm thẳng thừng của mình về Montgomery, người mà ông cho là đứng sau sự phản đối của người Anh, và sau đó tuyên bố rằng nếu kế hoạch Eisenhower không được chấp nhận, ông sẽ đề nghị với Eisenhower rằng ông ta nên từ chức Tổng Tư lệnh Tối cao; không còn cách giải quyết nào khác…

    Đúng là cả hai bên đã tự tạo ra một sự khủng khoảng trong cuộc họp nhằm mục đích dọn đường tới Yalta…

    Vài giờ sau, cả Stettinius và Hopkins đang ăn tối trên tàu Orion với Churchill và Eden. Churchill bày tỏ mối quan tâm với nỗi đau khổ của nhân loại ; mỗi khi nghĩ đến tình hình trên thế giới, ông chỉ thấy toàn là sự đau buồn, đổ máu và ông đưa ra kết luận rằng : hòa bình và ổn định thời hậu chiến phụ thuộc vào sự hòa hợp chặt chẽ giữa Anh và Mỹ.

    Đây không chỉ là một trường hợp cá biệt của chủ nghĩa bi quan. Ba tuần trước đó, Churchill đã điện cho Tổng thống Roosevelt: ..ĐÂY CÓ THỂ LÀ MỘT CUỘC HỘI NGHỊ ĐỊNH MỆNH, DIỄN RA VÀO THỜI ĐIỂM CÁC NƯỚC ĐỒNG MINH LỚN ĐANG BỊ CHIA RẼ VÀ BÓNG ĐEN CỦA MỘT CUỘC CHIẾN TRANH BỊ KÉO DÀI ĐANG HIỆN HÌNH Ở NGAY TRƯỚC MẮT MỖI CHÚNG TA. VÀO THỜI ĐIỂM HIỆN TẠI, TÔI NGHĨ RẰNG SỰ KẾT THÚC CỦA CUỘC CHIẾN NÀY (WW II) CÓ THỂ CHỨNG MINH LÀ ĐÁNG THẤT VỌNG HƠN LÀ CUỘC CHIẾN ĐÃ TỪNG XẢY RA TRƯỚC ĐÓ (WW I)….

    …Và kể từ sau thông điệp đó, không chỉ Bộ ba lớn (Big Three) mà ngay cả các đối tác phương Tây thậm chí còn trở nên chia rẽ hơn, ngoại trừ khi Anh và Mỹ có thể giải quyết những khác biệt của họ vào ngày hôm sau, thì hy vọng đạt được bất kỳ thành công nào mang tính chất lâu dài nào tại Hội nghị Yalta sẽ là không đáng kể.





    3.







    Đôi khi, thật khó khăn cho người Mỹ và người Anh hiểu nhau, nhưng ít ra họ cũng còn có một di sản chung, một triết lý pháp lý chung và một niềm tin chung về dân chủ. Cũng quan trọng không kém, họ có một ngôn ngữ chung và một tiêu chuẩn chung về hành vi của con người. Tuy nhiên, giữa họ và người Nga đặt ra một hố sâu thẳm, không chỉ về chính trị mà còn về bản chất văn hóa, nhân cách và quan trọng nhất là cách cư xử của con người - ví dụ, như các hành vi đối xử với dân thường trên đất đai của kẻ thù.

    Cho đến buổi sáng ngày 1 tháng Hai, những người dân làng Kurzig, một khu vực định cư cách biên giới Đức không xa với làng của Đại tá Fuller, vẫn chưa thấy một người lính Nga nào đặt chân tới, vì nơi này không nằm trên con đường tiến quân dẫn đến Kustrin hoặc Frankfurt trên sông Oder. Ở làng Kurzig thì không có điện và do đó bản tin chiến sự trên radio không thể tới được, nếu không thì người dân có thể biết rằng các mũi nhọn của Zhukov đã ở phía tây từ lâu rồi. Nhưng họ có thể nghe thấy tiếng đại bác nổ ầm ầm và tự hỏi mình nên làm gì. Friedrich Paetzold, một quan chức cảnh sát, đang ở trong Tòa thị chính cùng với người anh họ Otto, Bürgermeister (Thị trưởng) vội vàng đốt tất cả giấy tờ liên quan tới Đảng Quốc xã. Buổi trưa hai người về nhà ăn cơm, nhưng Paetzold sớm bồn chồn và bước ra ngoài thì thấy một nhóm người từ trong rừng đi ra. Người dẫn đầu mặc một bộ đồ ngụy trang trắng toát. Cứ sau 100 yards, anh ta lại quỳ xuống và quan sát mọi vật xung quanh bằng ống nhòm.

    Vội vàng, Paetzold chạy trở lại trang trại. "Người Nga đến rồi!" anh vừa khóc lóc và chạy lên lầu về phòng. Từ cửa sổ, anh quan sát thấy bốn người lính Nga đang tiến lại gần, tay lăm lăm cầm khẩu súng tiểu liên. Khi tay lính Nga đầu tiên giương súng lên ngắm, Paetzold vội vã nhảy lùi lại. Những mảnh kính bắn tung tóe vào mặt anh, rồi phát thứ hai làm vỡ tan cửa sổ tầng dưới. Các lính Nga liền chạy tiến lên phía trước và bắn liên tiếp vào cửa sổ nhà bếp. Những người phụ nữ Đức đang nấp bên trong ngôi nhà vội vàng thét lên.

    Lính Nga lấy hết đồng hồ, sau đó đi từ phòng này sang phòng khác đập phá bát đĩa và đồ thủy tinh quý giá đã lưu truyền qua nhiều thế hệ vỡ tan ra từng mảnh. Paetzold thất kinh nhìn những tên kẻ cướp đến từ phương Đông đang phá hủy mọi thứ mà chúng có thể đặt tay vào, trong trạng thái vô cùng thích thú, thậm chí còn nhổ cả đường dây, ném những chiếc điện thoại qua cửa sổ. Nhìn họ giống như những đứa trẻ, anh nghĩ vậy.

    Đột nhiên một người lính Hồng quân xông vào căn phòng với lá cờ của một câu lạc bộ súng trường địa phương và một thanh kiếm của ông anh họ Otto. Tay lính Nga đã ném lá cờ xuống đất và cố gắng bẻ gãy con đại bàng phát xít trên đầu cán cờ. Anh ta không thể làm được điều đó. Rồi anh ta cố gắng xé lá cờ bằng tay; nó quá dai không thể dùng tay không mà xé được. Khi thất vọng, người lính Nga bắt đầu chửi thề và nhảy cẫng lên một cách tức giận, Paetzold không thể nhịn được cười. Nếu là một người lính thuộc quốc tịch khác thì có thể đã rút súng bắn gục Paetzold nhưng người lính Nga chỉ im lặng một cách sượng sùng......
    caonam_vOz, viagralessMuahoaLekima thích bài này.
  2. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    .... Thế rồi, những lính Nga trong nhóm xung kích này đã di chuyển ra khỏi Kurzig mà không xảy ra sự cố gì thêm nữa nhưng một nhóm lính khác ở hậu tuyến đã mò đến, họ tìm thấy một nhà máy chưng cất rượu và sau khi uống say túy lúy, họ bắt đầu đốt phá, hãm hiếp và giết người. Frau Lemke, người vợ trẻ của một lính Đức, đã lấy khẩu súng lục của chồng và bắn luôn hai đứa con và tự sát. Cha cô đã tự cắt cổ tay. Trang trại của góa phụ Rettig đã bị đốt cháy và cô ta bị bắn chết trong khu vườn. Vào lúc hoàng hôn, hầu như mọi tòa nhà ở Kurzig đều bốc cháy, và trên con phố chính rải rác những xác chết của những cư dân đang sinh sống trong các ngôi nhà nông thôn cổ truyền. Còn Paetzold, cùng những người thân thuộc và hàng chục người trong làng bị ném xuống các nhà hầm trong trang trại, đều phải nằm co ro trên các đống rơm, chờ đợi những điều rủi ro sắp ập đến.

    Cuối cùng, hai người lính Hồng quân trẻ tuổi cũng lao xuống hầm và tóm lấy người phụ nữ gần cửa nhất, góa phụ Semisch. “Nào, hãy lên nấu ăn cho chúng tôi,” một trong số họ nói. "Có những cô còn trẻ hơn ở đây!" Frau Semisch vừa khóc và cố gắng chỉ ra hai người phụ nữ trẻ đã kết hôn đang chui dưới đống rơm. Khi bà góa bị kéo ra cửa, cô con gái mười tuổi của cô ta đã bám chặt lấy người và khóc, "Mẹ ơi, mẹ ơi!"

    Một giờ sau,Semisch loạng choạng trở lại căn hầm; hầu hết quần áo của cô đã bị xé toạc. Khóc rất to, rồi cô dùng hai tay của mình – giữ chặt lấy quần và rên rỉ, “Thắt lưng! Thắt lưng của tôi đâu rồi!" Con gái chạy ngay đến với cô và nói trong dòng nước mắt. "Mẹ yêu, những người lính đã làm gì với mẹ!" .

    Không một ai trong căn hầm nói lấy một lời…..

    .... Paetzold vô cùng lo lắng cho tính mạng của Otto, người đang bị giam giữ trên lầu, nên lẻn vào nhà, đầu tiên dùng đèn pin kiểm tra nhà bếp, sau đó là các phòng khác. Nhưng mọi ngóc ngách đều trống rỗng. Tất cả đều yên lặng. Cuối cùng anh ta đến hai căn phòng dành cho bà mẹ Otto đang ở. Tưởng như phòng trống rỗng, nhưng trong một tíc tắc, Paetzold nhìn thấy người thị trưởng ngồi gục xuống một góc cạnh tủ quần áo, nơi có nhiều vết đạn lỗ chỗ. Paetzold liền đặt xác Otto trên sàn nhà; đầu anh ta có hai lỗ đạn sâu hoắm.

    Paetzold ngồi phịch xuống ghế, không muốn quay xuống hầm để nói cho bà mẹ và vợ Otto những gì anh đã vừa trông thấy. Anh ngồi trong những tiếng chuông đồng hồ chết chóc báo hiệu từ giờ này qua giờ khác, nhớ lại những kỷ niệm của thời niên thiếu, mỗi ngày trôi qua, anh và Otto đã chơi với nhau thân thiết đến như thế nào và Otto được mọi người, kể cả những người lao động nô lệ Ba Lan yêu mến đến nhường nào. Anh tự hỏi làm sao Chúa Trời lại có thể cho phép xảy ra những điều tàn ác như vậy. Tại sao Ngài không để điều đó xảy ra với Hitler, kẻ đã phá hủy cuộc sống và hạnh phúc của rất nhiều người? Không có câu trả lời nào, và đến rạng sáng, cuối cùng Paetzold cũng quay trở lại căn hầm. Mọi người nhìn lên khi anh bước vào và im lặng ngồi trước mặt mẹ của Otto.

    “Otto đã chết phải không !” Bà ta nói nhỏ. "Ta có thể nhìn thấy điều đó trên khuôn mặt của cháu."

    Paetzold gật đầu và sau một hồi im lặng, anh nói với bà rằng Otto đang yên nghỉ trong phòng ngủ của bà.

    “Ta sẽ không bao giờ có thể ngủ ở đó nữa,” bà già nói. "..bởi vì ta luôn mơ đến hình ảnh của nó…”





    4.






    Vào lúc 9:35 sáng ngày 2 tháng Hai, con tàu U.S.S Quincy đi qua cổng lưới chống tàu ngầm ở lối vào bến cảng Valletta. Đó là một buổi sáng ấm áp, không có mây trên bầu trời. Nhiều người tập hợp thành các đám đông lớn xếp hàng dọc hai bên kênh; tất cả đều đến để nhìn thấy người đàn ông mặc áo khoác nâu và đội mũ vải tuýt đang ngồi trên tầu. Tàu U.S.S Quincy từ từ lướt qua chiếc Orion đang neo đậu, và Winston Churchill - mặc quân phục hải quân, điếu xì gà nhô ra khỏi miệng - vẫy tay. Hình hài trên cầu vẫy lại chào mừng. Có một sự im lặng đột ngột khi mọi người quay và cùng nhìn về phía Roosevelt. Eden nghĩ, đó là "một trong những khoảnh khắc khi tất cả dường như đứng yên và người ta ý thức được đó là một dấu ấn lịch sử."

    Đột nhiên sự im lặng bị phá vỡ: một phi đoàn máy bay Spitfires hộ tống gầm rú trên đầu mọi người, súng nổ vang trời và các ban nhạc của các con tàu đậu trong bến cảng bắt đầu cử hành bản quốc ca “The Star-Spangled Banner”. (Lá cờ lấp lánh ánh sao) chào mừng…

    Franklin Delano Roosevelt nở một nụ cười khúc khích, rõ ràng Tổng thống rất thích thú trước sự tiếp đón trọng thể như vậy. Đây là sự khởi đầu của những gì có thể được coi là đỉnh điểm trong cuộc đời ông. Chỉ trong vài ngày tới thôi, ông và hai Nguyên thủ của hai quốc gia khác sẽ khởi đầu một cơ hội vô song nhằm tạo ra một thế giới mới tươi đẹp.

    Gánh nặng của tuổi tác và nỗi đau dai dẳng hiện rõ trên khuôn mặt ông, nhưng đó cũng là quyết tâm và cái nhìn về số phận định mệnh dành cho cuộc đời Tổng thống. Khi chào tạm biệt bà Roosevelt ở Washington để lên đường dự hội nghị, ông đã tái khẳng định hy vọng cao nhất của mình trong Hội nghị Yalta. “Anh có thể đạt được sự tiến bộ thực sự trong việc củng cố mối quan hệ cá nhân giữa anh và Nguyên soái Stalin,” ông nói với phu nhân như vậy….

    Bất chấp bệnh tật, Roosevelt vẫn quyết tâm tiếp tục tiến hành các chuyến viễn du nhằm đảm bảo hòa bình vĩnh viễn và công bằng cho toàn thế giới. Mối quan hệ giữa ông và Churchill thật đáng chú ý, thân thiết giống hai anh em và như là sự hòa quyện cảm xúc của hai con người ruột thịt. Năm 1940, khi nước Anh lâm nguy, Roosevelt đã mạo hiểm tương lai chính trị của mình bằng cách gửi viện trợ theo hình thức “lend-lease“. Vậy mà sau khi ra tay cứu giúp người anh huynh đệ của mình, Roosevelt suốt ngày ra rả giảng giải cho Churchill về sự vô luân của chủ nghĩa thực dân. Roosevelt hoàn toàn không ấn tượng với những đảm bảo chính thức của người Anh rằng “cần đạt được chế độ tự trị trong Khối thịnh vượng chung Anh,” và vẫn quyết tâm hỗ trợ các dân tộc phụ thuộc - bao gồm cả những dân tộc thuộc địa trong Đế chế Anh - đạt được chính quyền tự trị sau cùng….
  3. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939


    “Tôi tin rằng Ngài đang cố gắng loại bỏ Đế chế Anh,”
    Churchill từng nói riêng với Roosevelt. Điều này không có gì phải nghi ngờ. - “Hệ thống thuộc địa sẽ là các nguyên nhân xảy ra chiến tranh,” Roosevelt đã tâm sự với con trai mình là Elliott. “Khai thác tài nguyên đến từ các nước như Ấn Độ, Miến Điện, Java; lấy tất cả của cải ra khỏi các quốc gia đó, nhưng không bao giờ đặt lại bất cứ thứ gì vào những nước đó, chẳng hạn như giáo dục, mức sống tử tế, mọi yêu cầu tối thiểu về sức khỏe — tất cả những gì mà nước Anh đang làm là phủ nhận giá trị của bất kỳ loại cơ cấu tổ chức nào vì hòa bình trước khi nó được bắt đầu . ” Nhưng chủ nghĩa thực dân chỉ là một trong những vấn đề mà Tổng thống phải đối mặt tại Hội nghị Yalta, và ngay trước khi rời nước Mỹ, ông đã cho gọi Bernard Baruch để xin một lời khuyên.( Bernard Baruch 1870-1965..là Huyền thoại phố Wall, là một trong những người đàn ông quyền lực và giàu có nhất nước Mỹ. Ông là một nhà đầu cơ tài ba, một quan chức nhà nước, một nhà hảo tâm chính trị. Trong Thế chiến Thứ II, ông ta đồng thời là cố vấn đáng tin cậy và là người cộng sự thân tín của Tổng thống Roosevelt,)

    “Bernie thân mến, đêm qua tôi phải làm việc như thời trai trẻ...” – Tổng thống phân bua về đôi tay đang run lẩy bẩy của ông, và bày tỏ hy vọng rằng Baruch có thể cho những lời khuyên nhằm đặt nền tảng cho một nền hòa bình thế giới mới tại Hội nghị Crimea.

    Baruch, người luôn thừa nhận mình là “the master of the obvious,” (người hiểu sâu sắc những vấn đề tưởng chừng rất đơn giản) đã chuẩn bị sẵn sàng và trình cho Tổng thống một lá thư tư vấn : “... Trong Kinh thánh và lịch sử có những sứ mệnh mà nhiều người đã đặt ra nhằm mục đích giúp đỡ nhân loại…Chưa bao giờ, tôi thấy có nhiều cơ hội thuận lợi như công việc của Ngài đang sắp sửa bắt tay vào…Ngài không chỉ mang theo niềm hy vọng của thế giới, mà còn có cơ hội để thực hiện thành công tất cả những nỗ lực trước đây bằng cách tạo ra một nền hòa bình khiến cho những cố gắng của họ có thể đơm hoa kết trái… Chúng ta có thể học hỏi mọi điều từ những sai lầm trong quá khứ. Nhiệm vụ của Ngài phải thành công. Trên tất cả, tôi hy vọng và cầu nguyện cho tất cả những ai đang nhìn vào công việc Ngài đang làm và tôi có thể nói rằng Ngài sẽ không làm cho họ thất vọng…”

    Vô cùng xúc động, Roosevelt cho biết ông sẽ nhờ Thiếu tướng Edwin “Pa” Watson, thư ký của ông, đọc lại cho ông bức thư trước mỗi cuộc họp. “Bernie…Tớ sẽ không đưa cậu cùng đi được..” Tổng thống nói. “Cậu hay bị say sóng. Nhưng tớ hứa là tớ sẽ không đưa ra bất kỳ điều xuất nào cản trở một hiệp ước về hòa bình. Còn khi tớ đưa cậu đi, cậu sẽ phải ngồi ngay bên cạnh “Papa” đấy. " (Ý nói ngồi cạnh Thiếu tướng Edwin “Pa” Watson.ND)

    “Đừng vội đưa ra bất kỳ đề xuất nào,” Baruch khuyên và quàng tay qua vai Tổng thống - đây là lần đầu tiên ông ta thể hiện tình thân mật với Roosevelt ở cấp độ như vậy. "Và hãy nhớ," Baruch nói thêm, "Ở bất cứ cuộc họp nào, Ngài phải là người chủ tọa..”

    Roosevelt ứa nước mắt, và Tổng thống cúi đầu nhằm che giấu đi cảm xúc bất thường này, Ngài chỉ im lặng….





    o O o





    George Marshall đã báo cáo với Tổng thống ngay sau 11 giờ sáng ngày 2 tháng Hai. Ông cùng với Đô đốc Hạm đội Ernest King đến nơi nghỉ của Tổng thống. Cả Marshall và King đều sững sờ trước khuôn mặt xanh xao và hốc hác của Tổng thống. Không biết gì về sự quan tâm của hai vị tướng, Roosevelt lắng nghe một cách thích thú khi họ mô tả không khí gay gắt trong các cuộc họp với Tham mưu trưởng Anh quốc và phản ứng dữ dội của người Anh khi Bradley đưa quân vượt sông Rhine.

    Tổng thống đã yêu cầu một sĩ quan đồ bản mang đến cho ông một tấm bản đồ và sau khi xem xét cẩn thận, ông nhận xét rằng ông từng biết rất rõ địa hình, đã từng thực hiện chuyến tham quan bằng xe đạp xuyên qua vùng Bonn -Frankfurt và do đó có thể nhiệt tình chấp thuận kế hoạch của Eisenhower. Marshall và King không muốn Roosevelt làm việc quá sức và họ rời đi ngay sau nửa giờ. Khi lên chiếc sà lan đưa họ vào bờ, họ vẫn còn ấn tượng lo lắng trước hình ảnh bơ phờ của Tổng thống đến mức cả hai vẫn nhìn nhau với vẻ kinh ngạc, nhưng trước sự chứng kiến của thủy thủ đoàn, họ chỉ còn cách lắc đầu.

    Ngay trước buổi trưa, Churchill lên tàu Quincy cùng với hai cô con gái là Sarah và Eden. Vào bữa trưa sau đó, Thủ tướng, mặc dù vẫn chưa hoàn toàn khỏi bệnh, đã dẫn dắt cuộc trò chuyện bằng sự dí dỏm sắc bén và những lời diễn thuyết xuất sắc của mình. Có lúc Roosevelt nhận xét rằng Hiến chương Đại Tây Dương chưa bao giờ được Churchill ký - chính ông đã từng viết tên Thủ tướng vào bản sao của chính mình. Ông nói đùa hy vọng rằng Churchill sẽ ký vào văn bản và thực hiện bản Hiến chương thành công. Churchill trả lời một cách nghiêm túc rằng khi ông vừa mới đọc Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, ông rất vui khi thấy nó dường như được xuất hiện trong bản Hiến chương đó.(Hiến chương Đại Tây Dương là tuyên bố chung của Tổng thống Hoa kỳ Franklin Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill và ngày 14/8/1941 sau ba ngày thảo luận sôi nổi trên tàu US Augusta và Thiết hạm HMS Prince Of Wales neo đậu tại vịnh Placentia ở Newfoundland khi WW II bắt đầu. Nội dung chứa đựng chứa đựng những nguyên tắc chung trong chính sách quốc gia của từng nước mà hai nhà lãnh đạo Anh - Mỹ hy vọng dựa vào đó sẽ tạo ra một thế giới mới tốt đẹp hơn. Ngày 1/1/1942, đại biểu 26 nước Đồng Minh đã gặp nhau tại Washington ký Tuyên bố Liên Hợp Quốc cam kết ủng hộ bản Hiến chương này)…

    Sau bữa trưa, Eden nói với Ngoại trưởng Hoa kỳ Stettinius rằng ông ta nghĩ rằng nhìn Tổng thống thoải mái hơn so với cuộc họp ở Quebec vào mùa thu năm trước, nhưng ông lại viết trong nhật ký của mình, "... làm tôi có ấn tượng về sự suy giảm sức khỏe trong con người Tổng thống..” Tuy nhiên, Ngoại trưởng Stettinius không được an tâm trước những lời trấn an của Eden. Ông ta vẫn nhớ rất rõ toàn bộ cơ thể cũng như bàn tay của Roosevelt đã run như thế nào trong bài diễn văn nhậm chức gần đây. Và chỉ vào bữa trưa, Roosevelt đã nói rằng ông đã ngủ tới 10 giờ đồng hồ trong đêm hôm qua, trên chuyến du hành lênh đênh trên biển đến Malta, nhưng vẫn không cảm thấy là mình đang trong tình trạng “ngon giấc”…

    Chiều hôm đó, Tổng thống và con gái ông đã được Toàn quyền Malta hướng dẫn một chuyến tham quan thảnh thơi dài 30 dặm xung quanh hòn đảo. Nhật ký của Tổng thống sau đó ghi rằng "thời tiết thật là thú vị." Cảm thấy khỏe hẳn lên bởi màn dạo đầu thú vị này, Roosevelt đã gặp Churchill và các Tướng lĩnh thuộc Hội đồng Tham mưu Tối cao Liên hợp (CCS) lần đầu tiên trong căn phòng sĩ quan của tàu Quincy vào lúc 6.00 tối. Như thường lệ, Churchill nói phần lớn, còn Roosevelt gật đầu thay cho những lời phát biểu. Một câu hỏi mang tính chất quyết định nhất về chiến lược ở mặt trận phía tây đã được giải quyết một cách dễ dàng đáng ngạc nhiên khi Churchill dễ dàng chấp thuận kế hoạch của Tổng Tư lệnh tối cao Eisenhower. Nhưng Thủ tướng Anh quốc đã đề nghị giải quyết một vấn đề, chỉ để đưa ra điều mà mọi người đang lo sợ từ lâu nay sắp đến: ông đề nghị đưa Thống chế Harold Alexander, người đang chỉ huy tất cả các lực lượng Đồng minh ở Ý, về làm cấp phó cho Eisenhower với mục đích phụ trách tất cả các hoạt động trên đất iền. Các nhân vật quan trọng nhất trong Hội đồng Tham mưu tối cao Hoa kỳ thẳng thừng từ chối.

    Không nản lòng, Churchill đề nghị Montgomery chỉ huy phần lớn quân đội Đồng minh khi đã vượt qua sông Rhine. Một lần nữa, Hội đồng tham mưu lại nói không. Churchill đã bác bỏ một cách thiện chí và cuộc họp bị hoãn lại. Trong khi Marshall đang đợi xà lan để lên bờ, ông ta được gọi lại để gặp Roosevelt, người nói rằng Churchill vẫn lo lắng làm sao mong được bổ nhiệm Alexander làm phó. Marshall trả lời rằng ông sẽ không bao giờ chấp thuận sự bổ nhiệm như vậy, và thế là lời đề nghị đó đành phải hủy bỏ.....
    caonam_vOz, viagralesstatpcit thích bài này.
  4. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939



    5.





    Trước thời điểm cuộc họp cũng trong ngày hôm đó tại Spa – nước Bỉ - Bradley đã có cuộc họp với các viên Tư lệnh thuộc các Tập đoàn quân số 1-3-9 Hoa kỳ - đó là các Trung tướng Courtney Hodges, George Patton và William Simpson – nhằm thông báo vềchủ trương từ Eisenhower. Khi họ biết rằng Montgomery sẽ phụ trách đòn tấn công chủ lực và Tập đoàn quân 9 của Simpson sẽ vẫn nằm dưới quyền chỉ huy của Thống chế Anh quốc, phản ứng của họ có thể đoán trước được.

    Cả ba đều là những người bạn học đồng niên cũ với nhiều kinh nghiệm chung, và khởi đầu sự nghiệp quân sự của họ cũng không mấy gì suôn sẻ. Tại Học viện West Point, Simpson tốt nghiệp xếp loại thấp trong lớp học của ông ta, trong khi Patton và Hodges bị trượt vỏ chuối năm 1905. Cuối cùng, Patton tốt nghiệp cùng với Simpson vào năm 1909, nhưng Hodges, bị coi là học môn toán rất “kém”, bắt đầu học lại từ đầu, với tư cách là một anh binh nhì trong Quân đội Chuyên nghiệp. Tất cả đều đã tham gia chiến dịch truy đuổi “Pancho” Villa ở Mexico và chiến đấu trên mặt trận trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất.(Francisco "Pancho" Villa 1878-1923 là một vị tướng và là một trong những nhân vật nổi bật nhất trong cuộc cách mạng Mê-xi-cô).Mặc dù có sự khác biệt nhau về tính cách, nhưng tất cả bọn họ đều hung hãn, cực kỳ kiệt xuất và luôn khát khao tiêu diệt quân Đức khi cờ đến tay họ.

    Cả ba người cùng lắng nghe với vẻ lo lắng ngày càng tăng khi Bradley tiếp tục giải thích rằng Hodges và Patton có thể tiếp tục các cuộc tấn công cục bộtrong điều kiện hiện tại của họ nhắm vào Phòng tuyến Siegfried — người Đức gọi nó là Bức tường phía Tây — nhằm hỗ trợ cho chiến dịch của Montgomery được tiến hành một cách xuân xẻ. Sau đó, trận chiến sẽ tùy theo tình hình mà định liệu.

    Patton giận dữ nói luôn. Ông ta và Hodges đều có cơ hội tốt hơn nhiều so với ông bạn người Anh để đến sông Rhine trước. Hơn nữa, ông ta - và cảm thấy chắc chắn rằng Hodges cũng đồng ý với ý kiến mình– cho rằng không hề đánh giá cao về các mũi nhọn tiến công của người Anh. Đối với Patton, đây là một cách ngu xuẩn và thiếu hiểu biết nếu không để người Mỹ trong vai trò kết thúc chiến tranh. Mọi sư đoàn chết tiệt đều nên tấn công trong cùng một thời điểm, và nếu họ làm vậy, quân Krauts sẽ không thể có đủ nguồn lực để ngăn chặn quân Đồng minh






    6.






    Cả Eden và Churchill đều lo ngại rằng Roosevelt đã tránh nói chuyện với họ về các vấn đề chính trị sẽ được xem xét tại Yalta, và một bữa tối nhỏ trên tàu Quincy vào tối hôm đó đã được sắp xếp đặc biệt để khắc phục mối lo ngại như vậy. Ngoại trưởng Mỹ Stettinius cảm thấy rằng tại bữa ăn tối hôm đó “thái độ của Mỹ và Anh” đối với Ba Lan, Liên hợp quốc và cách đối xử với nước Đức thời hậu chiến đã được làm rõ, nhưng Eden lại tỏ ra buồn rầu. Đối với ông ta, chưa có vấn đề nào được hoàn thành một cách trọn vẹn. Eden đã viết trong nhật ký của mình: ...Thậm chí khó có thể tiếp cận với các vấn đề nghị sự trong hội nghị được. Tôi đã nói khá gay gắt với Harry [Hopkins] về điều đó, khi ông ấy bước vào sau, chỉ ra rằng chúng tôi sẽ bước vào một hội nghị quyết định và cho đến nay vẫn chưa đồng ý về những giải pháp mà chúng tôi sẽ thảo luận cũng như cách xử lý vấn đề với một chú Gấu Nga, mà họ chắc chắn sẽ hiểu sâu về những điều nằm sâu trong tâm trí của chúng ta….

    Eden nghĩ rằng Tổng thống là người “không thể đoán trước được”, và cả ông ta (Eden) và Churchill đều “không yên tâm” vì cảm thấy chưa có một cuộc tham vấn Anh-Mỹ thực sự nào ở cấp cao nhất.

    Sau bữa tối, cả Roosevelt và Churchill đều lên xe đến sân bay Luqa để lên đường bay tới cuộc họp cùng Stalin. Ngài Thủ tướng chui lên chiếc Skymaster bốn động cơ của mình và đi ngủ. Còn Tổng thống vẫn ngồi trên ghế lăn, được đưa vào một thang máy đặc biệt và nâng vào trong máy bay của ông, đó là chiếc C-54 đã được tu sửa lại. Đây là lần đầu tiên, Tổng thống sử dụng chiếc máy bay này. Bên cạnh việc không thích sự đơn điệu trên chuyến bay, Roosevelt coi việc một chiếc máy bay chỉ được chế tạo cho mục đích cá nhân của mình là một khoản chi phí không cần thiết. Tuy nhiên, ông rất sôi nổi, vui vẻ và phấn khích. Phía trước đặt ra những cuộc phiêu lưu mới. Tổng thống được thông báo rằng máy bay của ông sẽ khởi hành chậm hơn vài giờ, vì vậy ông ta tranh thủ chợp mắt một chút.

    Trời lạnh và đầy sao khi 700 người, những thành viên và đội ngũ bảo vệ liên quan tới Hội nghị Yalta lên 20 máy bay U. S. Skymasters và 5 máy bay Yorks của Anh. Bầu không khí trên sân bay tối đen đã trở nên căng thẳng sau khi nhận một báo cáo từ Cục tình báo Mỹ cho rằng Hitler có thể biết chính xác địa điểm dành cho cuộc họp Big Three. Ba đêm trước đó, trong một phi vụ làm quen với đường bay do Trung tá Henry T. Myers thực hiện đã gần như kết thúc trong thảm họa. Khi hạ cánh xuống phi trường Saki nằm trên bán đảo Crimea, Myers phát hiện thấy nhiều lỗ đạn phòng không nhỏ trên chiếc máy bay của mình. Hoặc là những đợt gió thuận đã đưa ông ta qua đảo Crete vẫn nằm trong tay người Đức, hoặc là các xạ thủ Thổ Nhĩ Kỳ đã nhầm máy bay của ông với máy bay Đức.

    Vào lúc 11 giờ 30 phút đêm, khi một cơn mưa phùn lạnh giá nhẹ nhàng trút xuống sân bay Luqa, chiếc máy bay đầu tiên cất cánh cho một hành trình dài 1375 dặm đến phi trường Saki. Những chiếc máy bay khác theo sau theo một khoảng cách đều đặn, kế hoạch bay của họ kéo dài 3 tiếng rưỡi hướng về phía đông, sau đó ngoặt lên phía bắc 90 độ về phía bắc để tránh đảo Crete. Máy bay của Tổng thống cất cánh lúc khoảng 3 giờ rưỡi sáng, ngay trước Churchill’s. Không có hộ tống, chiếc chuyên cơ đặc biệt, tắt đèn, nhanh chóng biến mất trong màn mưa phùn u ám. Khi tiếng động cơ của máy bay nhỏ dần, số phận của Tổng thống Hoa Kỳ sẽ không được biết đến trong gần bảy giờ đồng hồ ; tất cả các máy bay trong đoàn đều phải duy trì trạng thái im lặng vô tuyến vô cùng nghiêm ngặt…..
    tatpcit, caonam_vOzviagraless thích bài này.
  5. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Nửa đầu của cuộc hành trình trên bầu trời là không bình thường. Nhưng ngay sau khi sáu máy bay chiến đấu P-38 tham gia hộ tống cùng với chiếc C-54 của Roosevelt trên vùng núi của Hy Lạp, băng giá bắt đầu hình thành trên cánh của cả bảy chiếc máy bay. Một chiếc P-38 bị buộc phải tách rời đoàn, vì một trong các động cơ của nó bị hỏng hóc, và quay trở lại sân bay Athens. Các nhân viên đặc vụ bảo vệ trở nên lo lắng vì lớp băng đến mức họ đã nghĩ đến việc đánh thức Tổng thống và đeo cho ông một chiếc phao cứu sinh Mae West, nhưng nguy hiểm lúc này đã qua đi và chỉ sau buổi trưa, theo giờ Crimea (hai giờ trước giờ Malta), phi công đã lượn một đường cong 90 độ tại một trạm thu phát sóng vô tuyến đóng gần Phi trường Saki — động tác cho thấy họ là một người bạn.

    Lúc 12:10 trưa, máy bay Roosevelt chạm xuống một đường băng bằng các khối bê tông giống như sàn gạch và dừng lại ở cuối đường phủ đầy băng. Vùng đồng quê xung quanh không hề có bóng dáng cây cối, bằng phẳng và ảm đạm. Khi máy bay hạ cánh đến khu vực nhà ga, những người trên máy bay có thể nhìn thấy những người lính Nga trong bộ quân phục trông lịch sự đóng quân xung quanh sân bay, súng tiểu liên luôn sẵn sàng. Một trung đoàn Hồng quân danh dự đứng nghiêm trong khi một Dàn kèn quân đội hoành tráng chơi các bản nhạc chào mừng. Ngoại trưởng Nga Vyacheslav M. Molotov, Đại sứ Harriman và Ngoại trưởng Hoa kỳ Stettinius lên chuyên cơ để chào Tổng thống và thông báo cho ông biết rằng Nguyên soái Stalin vẫn chưa kịp đến Crimea.

    Lúc 12:30 P.M. chiếc Skymaster của Thủ tướng Anh quốc hạ cánh, được hộ tống bởi sáu chiếc P-38. Churchill đi tới máy bay của Roosevelt và quan sát trong khi Tổng thống ngồi trên thang máy hạ xuống mặt đất và được đưa lên một chiếc xe jeep Mỹ viện trợ theo hình thức “lend-lease“ do Giám đốc Michael Reillylái cùng các nhân viên của Sở đặc vụ bâu kín xung quanh.Chỉ huy Đội Diễu binh danh dự Nga đã có bài phát biểu chào mừng hai nhà lãnh đạo phương Tây và dàn Quân nhạc đã thổi vang lừng bản nhạc “The Star-Spangled Banner”. (Lá cờ lấp lánh ánh sao) chào mừng…. Chiếc xe Jeep bắt đầu di chuyển thật chậm, và Churchill vẫn đi bộ bên cạnh, một điếu xì gà 8 inch thò ra như một khẩu đại bác nhỏ….

    Roosevelt được đưa lên một chiếc sedan Limousine để tiến hành một chuyến đi dài 75 dặm tới đến Yalta. Không hề có một phương tiện giao thông nào khác trên toàn bộ chặng đường di chuyển. Các người lính Hồng quân có vũ trang trong những chiếc áo khoác dài, nặng, được thắt dây ngay ngắn đứng xếp hàng trên đường cách nhau khoảng 100 thước Anh/1 người. Một số đội mũ Astrakhan, những người khác đội mũ màu xanh lá cây, xanh lam hoặc đỏ tươi. Mỗi người lính Hồng quân đều bồng khẩu Tokarep SVT-40 chào khi chiếc xe Limousine chở Tổng thống đi qua. Tiểu thư Anna Boettiger giật mạnh ống tay áo của cha mình. “Bố nhìn kìa,” cô ta ngạc nhiên nói, “nhiều người trong số họ là con gái!” Đóng chốt tại các ngã tư là các cô gái mặc đồng phục khác, mỗi người đều có một lá cờ đỏ và vàng. Nếu đường đi an toàn, cô gái tuần tra chỉ lá cờ vàng của mình về phía chiếc xe, cắm cả hai lá cờ dưới cánh tay trái và chào một cách thân thiện bằng tay phải. Họ gây ấn tượng rất mạnh cho người Mỹ và khiến các đặc vụ Mỹ cảm thấy dễ chịu hơn trong công việc đảm bảo an toàn cho vị Tổng thống của họ.

    Một phần ba chặng đường đầu tiên của con đường quốc lộ trải dài trên vùng đất phủ đầy một tuyết mỏng manh, nhẹ nhàng , không hề có cây cối, gợi nhớ đến những vùng đồng bằng lớn của nước Mỹ. Nhưng không giống như nước Mỹ, vùng quê này rải rác những chiếc xe tăng bị phá hủy, nhiều tòa nhà bị đốt cháy, những chiếc xe hơi chỉ còn trơ trọi cái khung cũng như mọi dấu vết của một trận chiến khốc liệt vừa trôi qua. Sau khi đi qua Simferopol, thủ phủ của Crimea, con đường bắt đầu uốn lượn trên một dãy núi hiểm trở. Đoàn xe mô-tô hộ tống dẫn đường đoàn xe Tổng thống chạy xuống phía bên kia sườn núi qua nhiều điền trang ở nông thôn rồi đến bên bờ Biển Đen, sau đó quay về phía nam, chạy dọc ven quanh bờ biển. Đoàn xe đi qua Yalta khoảng 6 giờ chiều và tiếp tục di chuyển thêm 2 dặm nữa thì đến Cung điện Livadia, là nơi ở đồng thời là trụ sở làm việc dành cho phái đoàn của Tổng thống Roosevelt. Cung điện bao gồm 50 phòng, do Kiến trúc sư Krasnov thiết kế theo phong cách thời kỳ Phục hưng của Ý, và được xây dựng dưới triều đại của Sa hoàng Nicholas, vào năm 1911. Tọa lạc ở độ cao khoảng 150 feet so với mặt nước biển, tòa nhà bằng đá granit trắng nhìn ra toàn bộ mặt biển bao la và những ngọn núi cao hùng vĩ.

    Đối với Ngoại trưởng Stettinius, đó là một cảnh tượng ngoạn mục, khiến ông ta nhớ đến những khu vực bên bờ biển Thái Bình Dương của nước Mỹ.

    Cung điệnLivadia đã được biến thành một nhà điều dưỡng bệnh lao dành cho công nhân sau cuộc Cách mạng tháng Mười. Người Đức đã cướp phá nó một cách hiệu quả, thậm chí còn tước bỏ những bức tường ốp trong các căn phòng. Họ chỉ để lại hai bức tranh nhỏ và đầy những ổ sâu mọt phá hoại. Trong 10 ngày qua - dưới sự giám sát của Kathie, con gái Đại sứ Harriman - người Nga đã lấp đầy cung điện bằng đồ nội thất cũng như cả đống đồ đạc từ khách sạn Metropole ở Mátxcơva chở tới và đưa một nhóm lớn những người thợ lành nghề như thợ thạch cao, thợ sửa ống nước, thợ sửa đường thông hơi, thợ điện và thợ sơn, tân trang lại các cửa sổ bị hỏng, các bức tường bị bong tróc, và cải tạo lại hoàn toàn một nhà máy sưởi trung tâm. Công việc giết lũ sâu bọ trong lâu đài được dành lại cho những công nhân vệ sinh, các nhân viên thuộc U.S.S Catoctin của Mỹ, một con tàu hải quân hộ tống đang neo đậu tại Sevastopol, đã hoàn thành mọi công việc sửa chữa cuối cùng dành cho Cung điện Livadia.

    Roosevelt được cấp một dãy phòng ở tầng một với một phòng ăn riêng; đây từng là phòng chơi bi-a của Czar (Sa hoàng). Tướng Marshall được sử dụng phòng ngủ của Hoàng đế; còn Đô đốc King hóm hỉnh thì nghỉ ngơi trong phòng boudoir của Czarina và các đồng nghiệp của ông không bao giờ muốn ông ta quên nơi đó (căn phòng trang điểm của Czarina Alexandra – Hoàng hậu Nga đầu Thế kỷ XX). Tuy nhiên, với tất cả mọi thứ xa xỉ này, có một nhược điểm đối với 216 người Mỹ: chỉ có Roosevelt là có phòng tắm riêng. Các nữ hầu phòng người Nga bước vào tất cả các phòng tắm khác mà không cần gõ cửa, hoàn toàn không để ý đến sự bối rối, giật mình của những quý ông lịch lãm người Mỹ….
  6. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Riêng Churchill và phái đoàn Anh quốc không rời khỏi sân bay vội, mà họ theo Bộ trưởng Ngoại giao Nga Molotov đến một căn lều lớn hình bầu dục, được sưởi ấm, nơi các bàn ăntráng miệng tự chọn chất đầy trà nóng, rượu vodka, rượu mạnh, rượu sâm banh, các món trứng cá muối, cá tầm hun khói và cá hồi, và trứng luộc, trứng lòng đào, pho mát và bánh mì đen kiểu Nga.

    Sau bữa ăn tráng miệng, thời gian hành trình đến Yalta lâu gấp đôi nếu so với phái đoàn của Tổng thống Roosevelt. Vừa mới dùng bữa tráng miệng buổi trưa do một số nhân viên ngoại giao Nga trọng thị cung cấp, bữa tiệc chính thức dành cho Churchill được tổ chức tại Alushta, một thị trấn nhỏ ven biển phía bắc Yalta, và được Molotov chiêu đãi một bữa ăn trưa được chuẩn bị hết sức công phu. Những người Anh lịch sự đã phải cố gắng hết sức để giả vờ đói. Khi đã ăn uống no nê, họ lên xe đi qua nơi ở của Roosevelt tại Cung điện Livadia, đi xa hơn 6 dặm nữa lướt qua Cung điện của Hoàng thân Yusopov, kẻ sát thủ đã giết Rasputin, nơi mà Stalin sẽ ở lại trong những ngày Hội nghị. Họ tiếp tục đi về phía nam dọc theo bờ biển 4 dặm đường nữa thì mới đến nơi ở dành cho phái đoàn Anh quốc – đó là Cung điện Vorontsov. Mặc dù không lớn hoặc xa hoa như Cung điện Livadia, nhưng nó rất thoải mái và sang trọng. Nhìn từ một phía, nó giống như một lâu đài Scotland, từ một phía khác giống như một cung điện của người Moorish(những người Hồi giáo ở bán đảo Iberia bị trục xuất vì không cải đạo ở Thế kỷ XVI-XVII). Những con sư tử được chạm khắc tuyệt đẹp được đặt một cách thích hợp ở hai bên lối vào, và trong phòng ăn, Churchill nhìn thấy một bức tranh trông rất quen thuộc. “Trước đây, tôi đã thoáng có lần nhìn thấy bức tranh này…” Ông ta nói với viên Tư lệnh Thompson. Đó là một bức chân dung gia đình của Herberts mà ông đã thấy ở Wilton vì em gái của Hoàng tử Vorontsov(vị chủ nhân trước của Cung điện) đã kết hôn với gia đình Herbert.

    Cũng giống như ở Livadia, tất cả các đồ nội thất, đồ dùng và nhân viên phục vụ đều được đưa từ Moscow tới. Khi Tướng Hastings Ismay, Tham mưu trưởng của Chur-chill, bước vào cung điện, ông nhận ra hai nhân viên bồi bàn từng phục vụ ông tại khách sạn Nationale ở Moscow. Khi họ phớt lờ nụ cười nhận ra của Ismay, ông ta cảm thấy bối rối, nhưng khi chỉ còn một mình họ và ông, thì họ đã quỳ xuống, hôn tay ôngrồi nhanh chóng đứng dậy và rời đi mà không nói một lời….







    7.







    Vào đêm trước của hội nghị quyết định số phận của nước Đức Hitler, Tòa án Đức Quốc xã vẫn đang cố gắng tiếp tục xử lý những con người trước đó đã thất bại trong các âm mưu nhắm vào người đứng đầu của nền Đệ tam Đế chế. Tòa án Nhân dân đã kết án hàng trăm bị cáo đồng lõa trong âm mưu đánh bom ngày 20 tháng Bảy , trong số đó có Karl Goerdeler, cựu Oberbürgermeister (Thị trưởng) của Leipzig. Chính ông là người đã viết bức thư bí mật cho các tướng lĩnh Đức vào năm 1943: ...

    Thật là một sai lầm lớn khi cho rằng sức mạnh đạo đức của nhân dân Đức đã bị kiệt quệ; trên thực tế nó chỉ đơn thuần là đã bị suy yếu một cách thận trọng, có chủ đích. Hy vọng duy nhất của sự cứu rỗi là làm rõ những bí mật luôn được giấu diếm cũng như sự khủng bố, khôi phục lại một nền công lý và chính quyền minh bạch, và do đó để mở đường cho một cuộc phục hưng đạo đức vĩ đại. Chúng ta không được lung lay niềm tin rằng người dân Đức sẽ tin tưởng công lý, sự thật và trung thực trong tương lai, như họ đã từng làm tốt đẹp trong quá khứ. Và cũng như ở những thời kỳ trước đây, một số ít phần tử thoái hóa không muốn thực hiện như vậy sẽ phải bị quyền lực pháp lý của nhà nước kiểm soát. Giải pháp thực tế là đưa ra các lời cảnh tỉnh, thậm chí chỉ trong vòng 24 giờ, trong đó sự thật có thể được công bố, nhằm khôi phục niềm tin rằng công lý và chính phủ minh bạch sẽ lại thắng thế.

    Các thủ tục tố tụng vào ngày 3 tháng Hai được tiến hành như thường lệ bởi Roland Freisler, Chủ tịch của Tòa án Nhân dân. Ông ta thực sự là con người khôn ngoan, hóm hỉnh và có khả năng. Từng là một người Bolshevik hăng hái thời trai trẻ, giờ đây ông lại được Hitler ví như là “Vishinsky của tôi” và trong sáu tháng qua, ông ta đã sống và làm việc đúng với danh hiệu của Fuhrer ban tặng như vậy. (Andrey Vyshinsky. 1883-1954 là một nhà chính khách Liên Xô, nhà ngoại giao và Công tố viên trưởng trong các phiên tòa tại nước Nga vào những năm 1930…Trong các phiên tòa Đại thanh trừng (1934–38), Vyshinsky đã truy tố nhiều nhà lãnh đạo, các tướng lĩnh quân sự nổi tiếng của Liên Xô trước đây về tội phản quốc, ông nổi tiếng khắp thế giới với tư cách là một công tố viên của phòng xử án rất hung hãn và đầy thù hận.)

    Đóng vai trò là một Công tố viên trưởng và thẩm phán, Roland Freisler chế giễu, tấn công, đe dọa các bị cáo và khi tất cả những biện pháp như vậy không thực hiện thành công, thìông ta liền hét toáng lên. Giọng nói chói tai của ông ta có thể nghe thấy từ các hành lang xa xôi khi ông ta cao giọng công kích Ewald von Kleist-Schmenzin, một địa chủ quí tộc. Không hề nao núng, Kleist tự hào thừa nhận rằng ông ta luôn chiến đấu chống lại Hitler và Đảng Nazi. Những tù nhân khác trước vành móng ngựa cũng chăm chú lắng nghe và hy vọng rằng họ sẽ đối mặt với tòa án với sự bình đẳng về nhân cách và phẩm giá. Băn khoăn trước những câu trả lời của Kleist-Schmenzin, Freisler đột nhiên cho tạm dừng việc xét hỏi với ông ta và chuyển sang phần xét xử với Fabian von Schlabrendorff, một sĩ quan tham mưu trẻ tuổi và là cựu luật sư. Anh ta không chỉ là một trong những người tham gia vào Điệp vụ ngày 20 tháng Bảy mà chính anh ta còn dám đặt một quả bom hẹn giờ vào máy bay của Hitler vào tháng Ba năm 1943, tuy nhiên, quả bom này không phát nổ. Kể từ khi bị bắt, nhiều kiểu tra tấn đã không thể moi được những lời thú tội từ anh ta hoặc tên tuổi của bất kỳ một đồng phạm nào.Fabian von Schlabrendorff đã bị đánh bằng dùi cui nặng; đinh ghim đã được ấn vào đầu ngón tay của anh ta bằng một thiết bị bắt vít; và các dụng cụ tra tấn quái gở, ví dụ như có hình dạng giống như những cái ống thông khói nhà bếpbên trong có những chiếc đinh nhọn như kim cắm vào đôi chân trần và một cơ cấu vặn vít sâu dần đâm vào hai đùi và cẳng chân của anh ta.

    Freisler bắt đầu bằng cách cầm một tập hồ sơ chứa bằng chứng nhằm buộc tội Schlabrendorff, và rít lên, "Anh là một kẻ phản bội!". Thình lình ngay sau đó, tiếng còi báo động của cuộc không kích vang lên và tòa án vội vàng bị đình hoãn. Các tù nhân bủn rủn cả chân tay và bị dồn xuống cùng một nơi trú ẩn với Freisler. Khoảng 25.000 feet trên cao, gần 1000 Pháo đài bay thuộcTập đoàn quân Không quân Thứ tám của Hoa Kỳ bắt đầu thi nhauấn nút cắt bom. Schlabrendorff nghe thấy một tiếng nổ lớn chói tai và tin chắc chắn rằng đó là một “ngày tận thế”. Khi lớp bụi tan đi, anh ta nhìn thấy một cái xà nhà khổng lồ đã rơi đúng chỗ ẩn nấp của một nhân viên tòa án và chính Freisler. Bác sĩ được gọi đến; nhưng Freisler đã chết. Khi Schlabrendorff nhìn thấy Freisler hồn lìa khỏi xác nhưng vẫn ôm chặt tập tài liệu chứa các bằng chứng buộc tội anh, niềm hân hoan cay đắng ập đến trong tâm trí. Anh tự nhủ: “Đức Chúa Trời thật kỳ diệu. Mình là bị cáo; hắn ta là thẩm phán. Bây giờ hắn đã chết và mình vẫn còn sống ”. Những nhân viên Gestapo hối hả đưa Schlabrendorff, Kleist và một bị cáo khác ra khỏi căn hầm, đẩy lên một chiếc ô tô nhỏ và hướng về nhà tù Gestapo. Vẫn còn là đầu giờ chiều, nhưng bầu trời đã tối mịt mù khói và tro bụi rơi xuống toàn thành phố. Ngọn lửa đã ở khắp mọi nơi. Ngay cả tòa nhà Gestapo ở số 9 Prinz Albrechtstrasse - điểm đến của họ - cũng đang bốc cháy dữ dội. Nhưng hầm trú bom chỉ bị hư hại nhẹ, và khi Schlabrendorff đi ngang qua một tù nhân khác, đó là Đô đốc Wilhelm Canaris - Cựu lãnh đạo Cơ quan Tình báo Quân sự Đức (Abwehr) và là người âm mưu lâu năm chống lại Hitler – Schlabrendorff hét lên, "Freisler đã chết!"

    Nguồn tin tốt lành đã được chuyển đến các tù nhân khác như Tướng Franz Halder, cựu Tham mưu trưởng Lục quân, Cố vấn luật sư Carl Sack, và những người khác. Với rất may mắn, Đồng minh sẽ giải phóng họ trước khi các phiên Tòa tiếp theo được tiến hành…
  7. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939


    8.






    Tại Cung điện Livadia, Roosevelt - người chưa bao giờ tin rằng có nhiều lính biệt kích ngầm của Đức có thể có mặt tại đây - đã trải qua một đêm yên tĩnh để chuẩn bị dự khai mạc hội nghị. Sáng hôm sau, trên hiên tắm nắng nhìn ra biển, ông gặp gỡ các cố vấn quân sự của mình để họp giao ban lần cuối cùng trước cuộc họp Big Three đầu tiên vào buổi chiều hôm đó. Đô đốc William Leahy cho biết họ đều cảm thấy Eisenhower nên yêu cầu liên lạc trực tiếp với Bộ Tổng tham mưu Liên Xô, và Tướng Marshall chỉ ra rằng việc thông qua các nhân vật thuộc Hội đồng Tham mưu Tối cao Liên hợp (CCS), như người Anh nhấn mạnh, sẽ không còn thực tế nữa – vì mất quá nhiều thời gian mà người Nga lúc này chỉ còn cách Berlin có 40 dặm đường….

    Những người thuộc Hội đồng Tham mưu đã chuẩn bị rời đi khi Đại sứ Harriman và Ngoại trưởng Stettinius bước ra ngoài hiên cùng ba quan chức Bộ Ngoại giao: Freeman “Doc” Matthews, Charles “Chip” Bohlen và Alger Hiss. Stettinius kêu gọi các mọi người nên ở lại để nghe những quan điểm đối ngoại của Bộ Ngoại giao. Thường xuyên được Matthews nhắc nhở và tư vấn, Stettinius đã liệt kê các chủ đề mà ông cảm thấy Big Three nên xem xét. Quan trọng nhất là Ba Lan, việc thành lập tổ chức Liên Hiệp Quốc, đối xử với nước Đức thời hậu chiến, và giải quyết những sự khác biệt giữa chính phủ Trung Quốc và những người Cộng sản. Người duy nhất không tham gia vào các cuộc thảo luận là Hiss.(Về sau, có nhiều người cho rằng Hiss là một điệp viên Sô-viết…, ông ta đã từng có những lời thuyết phục Roosevelt nên nhượng bộ Stalin tại Yalta. Không có bằng chứng nào cho thấy Hill đã đưa ra bất kỳ lời khuyên nào như vậy trong hội nghị Yalta cho Tổng thống hoặc các cố vấn của ông ấy.Tác giả…)

    Tổng thống đồng ý với phái đoàn rằng không nên công nhận chính phủ Lublin và yêu cầu có một văn bản về Ba-lan mà ông có thể giao cho cả Churchill và Stalin….





    o O o





    Cũng vào buổi sáng hôm đó, Stalin đã đến nơi sau một chuyến hành trình dài trên tàu hỏa tẻ nhạt từ Mátxcơva. Vào lúc 3 giờ chiều, trên đường tới Cuộc họp toàn thể đầu tiên được tổ chức Cung điện Livadia, ông ta dừng lại ở Cung điện Vorontsov để chào xã giao Churchill. Stalin bày tỏ sự lạc quan của mình về cuộc chiến; Nước Đức đã cạn kiệt bánh mì và than đá, và hệ thống giao thông cung ứng hậu cần của họ đang bị đứt gãy ở rất nhiều địa điểm.

    “Ngài sẽ làm gì,” Churchill hỏi, “..nếu như Hitler di chuyển về phía nam – chẳng hạn như Dresden?”

    “Chúng tôi sẽ bám sát sau gót ông ta..!”. Stalin bình tĩnh trả lời, và nói thêm rằng con sông Oder không còn là một rào cản lớn nữa. Hơn nữa, Hitler đã sa thải những vị tướng giỏi nhất của mình, ngoại trừ Guderian— “..và hắn ta luôn là một nhà phiêu lưu...” Người Đức thật ngốc nghếch khi bố trí tới 11 Sư đoàn Thiết giáp xung quanh Budapest. Họ không thể thấy nước Đức không còn là một cường quốc trên thế giới và không thể có đủ lực lượng rải ra ở khắp mọi nơi? “Nhưng rồi họ sẽ hiểu ra vấn đề đó..” Stalin dứt khoát kết luận, “lúc đó thì đã quá muộn…”

    Stalin cáo lỗi ra về và lên xe tiếp tục đi đến Cung điện Livadia trong một chiếc Packard sang trọng cùng Molotov và một thông dịch viên, để bày tỏ sự kính trọng tương tự đối với Roosevelt. Đã 4.15, còn 45 phút nữa trước giờ khai mạc Hội nghị như dự kiến, vào thời điểm họ đặt chân vào căn phòng làm việc dành cho Tổng thống Mỹ. Chỉ có Bohlen, người nói tiếng Nga trôi chảy, là người Mỹ duy nhất có mặt trong căn phòng cùng với Roosevelt. Sau khi cảm ơn Stalin về những nỗ lực lớn đã tạo ra sự thoải mái và thuận tiện cho ông, Roosevelt nhận xét đùa rằng nhiều người đã đặt cược trong chuyến bay trên biển: liệu người Nga có thể đến được Berlin trước khi người Mỹ giải phóng Manila (Philippin) hay không ? Stalin thừa nhận rằng người Mỹ có thể sẽ đạt được mục tiêu trước tiên, bởi vì “hiện tại, cuộc chiến rất cam go đang diễn ra trên phòng tuyến Oder.”

    Roosevelt nói với Stalin rằng ông đã bị ảnh hưởng bởi sự tàn phá trong chuyến đi xuyên bán đảo Crimea đến mức khiến ông phải nên "tàn bạo" hơn đối với người Đức so với cách một năm trước. “Tôi hy vọng Ngài sẽ lại đề nghị nâng ly chúc mừng vụ hành quyết năm vạn sĩ quan của Quân đội Đức như trước đây..”Tổng thống nói. Stalin trả lời rằng mọi người đều nên “tàn bạo” hơn đối với người Đức, và sự tàn phá ở Crimea không là gì so với Ukraine. “Người Đức là những kẻ man rợ và họ có vẻ căm thù tàn bạo hơn trong công việc sáng tạo của loài người”.

    Sau khi thảo luận ngắn gọn về tình hình quân sự hiện thời, Roosevelt hỏi Stalin đã hòa hợp như thế nào với Tướng de Gaulle trong chuyến đi hồi tháng Chạp vừa xong của ông ta tại thủ đô Moscow.

    “Tôi không thấy de Gaulle là một người quá phức tạp,” Stalin trả lời. “Nhưng tôi cảm thấy ông ấy không thực tế khi cho rằng người Pháp, vốn đã không phải chiến đấu nhiều trong cuộc chiến tranh này mà vẫn đòi hỏi quyền lợi như người Mỹ, người Anh và người Nga, những người đã gánh vác gánh nặng trong toàn bộ cuộc chiến tranh…”.

    Roosevelt, người vốn không ưa nhà lãnh đạo Pháp và coi ông ta chỉ là một mối phiền toái ưa rắc rối, tiết lộ với nụ cười ngạo nghễ rằng tại Casablanca, de Gaulle đã tự so sánh mình với Joan of Arc (Gioanna of Arc là một nữ anh hùng Dân tộc Pháp 1412-1431 có biệt danh "Trinh nữ xứ Ooc-lê-an". Cô nổi tiếng vì là một lãnh chúa, người chỉ huy quân sự và anh hùng trong các cuộc chiến đấu ở Chiến tranh 100 năm giữa nước Pháp và Anh . Ngày 23 tháng 5 năm 1430, cô bị phe Burgundy, phe quý tộc Pháp thân Anh, bắt sống và bị giao cho quân Anh. Cô bị đưa ra xét xử bởi giám mục phe thân Anh, bị kết tội là phù thủy và phải lên giàn hỏa ngày 30/5/1431, khi mới 19 tuổi. Năm 1456, Giáo hoàng Canlicto Tam Thếcho tra xét lại vụ án, xóa bỏ các cáo buộc chống lại cô và tuyên bố cô vô tội, sau đó phong Gioanna là một con người tử vì đạo. Đến thế kỉ XVI, Gioanna trở thành biểu tượng của Liên đoàn Công giáo Pháp, và đến năm 1803, cô được công nhận là một Anh hùng dân tộc của nước Pháp dưới thời Napoleon Bonaparter. Cô được phong thánh năm 1920. Gioanna of Arc là một trong chín vị Thánh bảo trợ của nước Pháp.ND). Stalin đánh giá cao giai thoại này đến nỗi ông cười nhẹ. Khác với Churchill, Stalin chỉ tiếp đón với phong thái lịch sự kiểu ngoại giao, nhưng lúc này ông ta đã rất nồng nhiệt nói chuyện với Tổng thống. Trên thực tế, cả hai đều rất hợp nhau đến mức bắt đầu trao đổi tâm sự. Roosevelt thông báo cho Stalin về một tin đồn gần đây rằng Pháp không có kế hoạch sát nhập hoàn toàn bất kỳ lãnh thổ nào của Đức nhưng sẵn sàng đặt nó dưới sự kiểm soát của quốc tế. Stalin lắc đầu và lặp lại những gì de Gaulle đã nói với ông ta ở Moscow: sông Rhine là ranh giới tự nhiên của Pháp-Đức và ông ta muốn quân đội Pháp đóng quân thường trực tại đó.

    Cuộc trao đổi này đã truyền cảm hứng cho Roosevelt đến mức ông thông báo rằng giờ đây ông ta muốn tiết lộ vài điều, có vẻ như không thận trọng, những điều mà ông sẽ không nói ra trước mặt Churchill: Sau chiến tranh, người Anh muốn có một lực lượng 200.000 lính Pháp đóng quân dọc theo biên giới phía đông nước Pháp; Lực lượng này sau đó có thể ngăn chặn bất kỳ cuộc tấn công nào từ Đức trong khi người Anh đang tập hợp quân đội của riêng họ. “Người Anh là một dân tộc đặc biệt,” Roosevelt nói thêm một cách khó hiểu.. “và họ vừa muốn có bánh và lại muốn ăn bánh nữa ..” (muốn được hưởng lợi cả hai chiều trong khi chỉ có một chiều là có thể xảy ra.ND).......
    caonam_vOztatpcit thích bài này.
  8. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Chúc mừng sinh nhật (muộn) ông chủ thớt nhé.
  9. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    CÁM ƠN BÁC ...PHẢI BẢO TRỌNG BÁC NHÉ.....
    danngoc thích bài này.
  10. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939


    Stalin đã lắng tai nghe khi Roosevelt tiếp tục tiết lộ rằng ông đã gặp rắc rối như thế nào với ý định của người Anh liên quan đến các khu vực chiếm đóng ở nước Đức thời hậu chiến. "Ngài có nghĩ rằng nước Pháp nên có một khu vực chiếm đóng không?" - Stalin hỏi Tổng thống.

    “Đó không phải là một ý kiến tệ lắm,” Roosevelt trả lời và nói thêm, “..nhưng chỉ vì lòng thương.”

    "Đó sẽ là lý do duy nhất để cho họ một khu vực" là câu trả lời chắc chắn của Stalin. Molotov, lặng lẽ cho đến bây giờ, đã lặp lại lời nói của Stalin với sự kiên định không kém. Ông ta là một nhà đàm phán rắn rỏi, lanh lợi, được Roosevelt đặt biệt danh là “Stone-Ass”, vì trong một buổi hội nghị, ông ta có thể lặp đi lặp lại cùng một vấn đề….

    Tổng thống nhận thấy rằng còn ba phút đến năm phút mới đến giờ họp, vì vậy ông đề nghị tất cả mọi người tiến đến phòng họp kế bên, nơi các nhân viên quân sự của Big Three (Bộ ba lớn) đã tập trung, tề tự đông đủ ; Roosevelt muốn có càng ít người càng tốt chứng kiến sự xuất hiện của ông trong các cuộc họp như vậy. Ngồi trên ghế của một chiếc xe lăn nhỏ, Tổng thống được đưa vào một căn phòng rộng lớn, mà trước đây Sa hoàng Nicholas hay sử dụng làm phòng tiệc và phòng khiêu vũ. Khi đến bàn họp lớn hình tròn, Roosevelt tự nâng mình lên ghế hội nghị bằng cánh tay lực lưỡng của mình. Còn Bohlen ngồi bên cạnh với tư cách là thông dịch viên.

    Lúc này các nhiếp ảnh gia quân sự đang thi nhau chụp được những bức ảnh khi Stalin, Churchill, Stettinius, Eden, Molotov, Marshall, Brooke và các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị cũng như các thông dịch viên ngồi an tọa trong các vị trí dành cho họ. Các cố vấn chuyển ghế lên phía sau sếp của họ. Tất cả, mười người Mỹ, tám người Anh và mười người Nga quây quần bên bàn để bắt đầu cuộc hội nghị định mệnh. Sự chuẩn bị công việc đã thấm sâu vào trong từng con người . Một số thì húng hắng ho trong sự lo lắng, còn số khác thì hắng giọng…

    Stalin mở đầu hội nghị bằng cách đề nghị Tổng thống đưa ra những nhận xét mở đầu, như ông đã từng làm ở Teheran. Những người Mỹ chưa hề gặp Stalin trước đây đều ngạc nhiên sao mà ông ta lại thấp như vậy - chỉ cao 5 foot 6 (khoảng 1m68)- và cách ăn nói của ông ta rất thân thiện và chân thành.

    Rất thoải mái tự nhiên, Roosevelt cảm ơn Stalin và tiếp tục nói rằng ông ta đại diện cho những con người đang mong muốn hòa bình trên toàn thế giới và đều mong ước chấm dứt chiến tranh càng sớm càng tốt. Vì bây giờ chúng ta đã hiểu nhau hơn nhiều so với trước đây, nên tôi cảm thấy an tâm khi đề xuất rằng các cuộc thảo luận được tiến hành theo cách thức thân mật, trong đó mỗi người sẽ nói ra suy nghĩ của mình một cách thẳng thắn và tự do. Ông đề nghị trước tiên chúng ta nên thảo luận về các câu hỏi về mặt quân sự, "đặc biệt là những câu hỏi ở mặt trận quan trọng nhất, mặt trận phía đông."

    Đại tướng Alexei Antonov, Phó Tổng Tham mưu trưởng Liên Xô, đọc một bản thông báo về tình hình chiến sự mới nhất, ông ta nói về sự phát triển của cuộc tấn công mới, sau đó là bản tóm tắt ngắn gọn về tình hình mặt trận phía tây của Đại tướng Marshall. Tiếp theo, Stalin thừa nhận rằng Hồng quân có 180 sư đoàn ở Ba Lan chống lại 80 sư đoàn Đức. Ưu thế về pháo binh của Liên Xô là áp đảo — 4 chọi 1. Có 9000 xe tăng Liên Xô trên khu vực đột phá và 9000 máy bay trên một mặt trận tương đối hẹp. Stalin kết luận bằng cách hỏi Đồng minh có mong muốn gì thêm về phía Hồng quân hay không?

    Cũng phát biểu một cách thân mật, Churchill, bày tỏ lòng biết ơn của Anh và Mỹ về sức mạnh to lớn và những thành công của cuộc tấn công vĩ đại và chỉ yêu cầu Hồng quân tiếp tục đà tấn công của họ. “Cuộc tấn công hiện tại không phải là kết quả của mong muốn của phía Đồng minh,” Stalin trả lời một cách đầy chứng thực, và nhấn mạnh một điểm đặc biệt là Liên Xô không bị ràng buộc bởi bất kỳ thỏa thuận nào tại Teheran để tiến hành một cuộc tấn công mùa đông. “Tôi đề cập đến điều này chỉ để nhấn mạnh tinh thần của các nhà lãnh đạo Liên Xô, những người không chỉ hoàn thành các nghĩa vụ chính thức mà còn đi xa hơn và hành động theo những gì họ quan niệm là nghĩa vụ đạo đức của họ đối với các đồng minh của họ.”

    Theo yêu cầu cá nhân của Churchill, ông đã tiến hành cuộc tấn công lớn của Liên Xô trước thời hạn để giảm bớt một số áp lực của người Mỹ trong Trận chiến Bulge. Ông nói ngắn gọn về việc Hồng quân sẽ tiếp tục tiến công, trong điều kiện thời tiết và đường xá cho phép.

    Roosevelt đã kêu gọi sự thẳng thắn, trung thực và ông đã cảm thấy những người đang ngồi trong căn phòng này đã đạt được điều đó. Tiếp theo, ông ta nhanh chóng đưa ra một số nhận xét xoa dịu, và Churchill tham gia bằng cách bày tỏ hoàn toàn tin tưởng rằng Hồng quân sẽ tấn công khi có thể.

    Với ngoại lệ duy nhất trên, nói chung không khí của Phiên họp toàn thể đầu tiên, như Ngoại trưởng Stettinius đã ghi lại trong sổ tay của mình, “các bên đều có sự hợp tác cao nhất”, và mọi người đều ở trong tâm trạng thân thiện khi Phiên họp kết thúc lúc bảy giờ kém mười. Một lúc sau, hai người của NKVD kể lại rằng cận vệ của Stalin đã không thấy ông ta đâu cả. Sự hoảng sợ lặng lẽ lan rộng khi họ lặng lẽ chạy qua các hành lang để tìm kiếm - cho đến khi Stalin bình tĩnh bước ra khỏi căn phòng vệ sinh.

    Ngày đầu tiên kết thúc bằng bữa tiệc chiêu đãi chính thức tại Cung Livadia do Tổng thống Hoa kỳ dành cho hai người đồng nghiệp của ông cùng các Bộ trưởng Ngoại giao và một số cố vấn chính trị chủ chốt — tổng cộng là mười bốn người. Bữa tiệc tối được kết hợp giữa Nga và Mỹ: trứng cá muối, cá tầm và rượu sâm panh Nga, gà rán kiểu miền Nam nước Mỹ, thêm rau và bánh nướng nhân thịt. Hàng chục lần nâng cốc đã được đề xuất và Stettinius thích thú lưu ý rằng sau khi Stalin uống hết nửa cốc vodka, ông sẽ đổ đầy nước vào cốc. Stettinius - người đang ghi chép chi tiết về diễn biến hội nghị, còn tinh ý hơn khi biết rằng Tướng Marshal thích hút thuốc lá Mỹ hơn.

    Khi Molotov chúc mừng Stettinius và bày tỏ hy vọng được gặp ông ta tại Moscow, Roosevelt còn nói đùa rằng: “Ngài có nghĩ Ed sẽ cư xử ở Moscow như Molotov đã làm ở New York không?” và ngụ ý rằng Mr."Stone-Ass" đã trải qua một thời gian “gay-time” ở đó ( Ý nói về sự tận hưởng bản thân vui vẻ, nồng nhiệt khác hẳn với phong thái trước đó của Molotov.ND)

    “Ông ấy [Stettinius] có thể đến Moscow dưới một cái tên giả ..” Stalin nói. ….
    caonam_vOztatpcit thích bài này.

Chia sẻ trang này