1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

CHIẾN TRANH ĐƯỜNG PHỐ_trận Huế Tết Mậu thân 1968 từ góc nhìn phía Mỹ

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 16/01/2017.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.818
    Đã được thích:
    23.117
    Cảm biến cảnh báo áp suất dầu trong động cơ máy bay giảm. Chứng tỏ động cơ máy bay bị hư hại.
    ngthi96 thích bài này.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Các bác giảng giúp em đoạn lý thuyết công kích mục tiêu của trực thăng này với...đọc mà mông lung quá...em rất dốt kỹ thuật hàng không...Xin cảm ơn

    The “school solution” (the procedure taught during flight training) for target attack was to reduce power to 25 psi of torque, while raising the nose of the aircraft to zero out the airspeed. This was best accomplished if the pilot could align the aircraft so that the target was either to his left or right and then dive toward the target. The purpose of losing the airspeed prior to the dive was to allow more time on the target prior to reaching the VNE (velocity never exceeded) of 190 knots. Once inbound to the target, the pilot would push in the armament panel circuit breakers, arm up his switches, and start his gun run..
    Lần cập nhật cuối: 17/07/2018
    Khoam thích bài này.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Sau quá trình lục lọi, tổng hợp tài liệu thì lực lượng đánh Huế mậu thân của ta như sau, khác nhiều so với tài liệu của Mỹ.
    Ban chỉ huy mặt trận trọng điểm Huế gồm các bác: Lê Minh - Phó Bí thư Khu uỷ, Bí thư Thành uỷ Huế làm Chỉ huy trưởng; Lê Chưởng - Phó Bí thư Khu uỷ, Chính uỷ quân khu làm Chính uỷ; Nam Long - Uỷ viên Thường vụ Khu uỷ, Phó Tư lệnh quân khu làm Chỉ huy phó; Đặng Kinh - Khu uỷ viên, Phó Tư lệnh quân khu làm Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng.Lực lượng cánh Bắc gồm Trung đoàn 6 bộ binh; Tiểu đoàn 816 của Trung đoàn 9; Tiểu đoàn đặc công 12, một đại đội 12,7mm (6 khẩu), một đại đội ĐKZ 75 (4 khẩu), một đại đội súng cối 82 mm (6 khẩu), một đại đội công binh, một đại đội trinh sát, một đại đội thông tin, một đại đội vận tải, hai đội biệt động thành phố cùng các lực lượng bảo đảm và lực lượng vũ trang huyện Hương Trà. Cánh này do Nguyễn Văn Thu, nguyên tham mưu phó quân khu Trị Thiên chỉ huy, Trần Anh Liên là chính ủy, Lê Quang Mầu tức Đấu, tức Nguyễn Trọng Đấu (trước chỉ huy trung đoàn 6) là chỉ huy phó, có nhiệm vụ tiêu diệt cơ quan đầu não VNCH đánh chiếm khu thành nội, mục tiêu chủ yếu là Mang Cá, Tây Lộc, Cột Cờ, sau đó phát triển, chiếm lĩnh toàn bộ khu vực tả ngạn thành phố và huyện Hương Trà, tiến lên tiêu hao, tiêu diệt căn cứ Mỹ ở Đồng Lâm, thiết lập chính quyền cách mạng, đánh địch phản kích, giữ vững trật tự an ninh ..Cánh Nam gồm hai tiểu đoàn bộ binh 840 và 810 thuộc Đoàn 5, hai tiểu đoàn bộ binh 815 và 818 của Trung đoàn 9 ( Lê Khả Phiêu là trung đoàn trưởng kiêm chính ủy), hai tiểu đoàn đặc công 1 và 2, một đại đội súng cối 82 mm (6 khẩu), một đại đội súng máy phòng không 12,7mm, một đại đội ĐKZ-75 mm (6 khẩu), một đại đội trinh sát, một đại đội công binh, một đại đội thông tin cùng các lực lượng biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tự vệ.Mục tiêu chủ yếu của cánh Nam là các cơ quan hành chính, cơ quan quân sự tỉnh Thừa Thiên, trung đoàn thiết giáp, nhà lao, khu tam giác hữu ngạn. Sau khi tiêu diệt các mục tiêu này, cánh Nam từ kiềm chế, bao vây, ngăn chặn tiến lên đánh tê liệt căn cứ Phú Bài, giải phóng toàn bộ vùng nông thôn ngoại thành và hai huyện Hương Thuỷ, Phú Vang, đồng thời đánh địch phản kích từ ngoài vào thành phố. Cánh Nam do là Thân Trọng Một cũng là thủ trưởng đoàn 5 chỉ huy( chả biết có giây mơ rễ má với nhà Than Trong trong sách ko nữa), Nguyễn Vạn làm chính ủy.

    Theo sách này thì chủ lực đánh Huế của ta là trung đoàn 4, trung đoàn 6 và Đoàn 5, ko nhắc gì tới trung đoàn 9 (trong khi Trung đoàn 4 chỉ mới thành lập cho chiến dịch Mậu Thân do Phan Sỹ Khứ chỉ huy, sau cũng nhập vào trung đoàn 6 với trung đoàn trưởng là Huỳnh An.)

    Cán bộ chủ chốt từ cấp trung đoàn trở lên đều ko có ai hy sinh như sách đề cập.
    Núi Chi Voi trong sách có lẽ là núi Minh Phụng, nơi đóng bộ chỉ huy tiền phương chiến dịch. Trực ở đó là bác Đặng Kinh.

    Thêm 1 bài tham khảo
    http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c302/n14489/Hue-trong-chien-dich-Mau-Than.html
    Lần cập nhật cuối: 23/10/2020
    Khoamdanngoc thích bài này.
  4. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    Xem phim tài liệu của Mỹ thấy trên cầu đạn bay veo véo, đập vào thép tóe lửa y như mô tả trong sách này, mà lính Mỹ cứ xổng lưng chạy lên như không, như trong 1 ảnh có tay lính đang chạy lên
  5. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    Có thể do bắn đạn mảnh chống bộ binh nên bắn xe tăng chỉ gây choáng cho lính trong xe thôi.
  6. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    Xong được tâm lý chiến Mỹ - ngụy biến thành VC thẩm sát dân thường
  7. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    Tất nhiên là chì, tuy nhiên nó cũng thổi địch thủ lên thêm để tổ ra nó cũng oai khi đánh với địch thủ chì nhuệ vậy
    --- Gộp bài viết: 06/02/2025, Bài cũ từ: 06/02/2025 ---
    Có đọc nhưng không có não để hiểu nên hụt hẫng là phải 18 chiến sỹ cầm chân quân địch đông hơn rất rất nhiều lâng - tác giả đã nói rõ ràng - trong HAI TIẾNG ĐỒNG HỒ, nhé
  8. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    Một danh gia vọng tộc đất Thần Kinh, ngụ làng Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc phường Nguyệt Biều, thành phố Huế). Đại diện từng là quan lại gần thời điểm đó nhất là cụ Thân Trọng Huề (申仲, 1869-1925), tự là Tư Trung; danh thần và danh sĩ cuối triều Nguyễn - thời Pháp thuộc. Cụ Huề thuộc dòng dõi danh thần Thân Nhân Trung (申仁忠, thế kỷ XV) đời Hậu Lê.

    Theo sách, Giáp Thừa Quý thời đứng đầu động Giáp được làm phò mã của Hoàng đế Lý Thái Tổ,. Các tù trưởng họ Giáp, ở động Giáp từ đó liên kết với triều đình Nhà Lý bằng các mối quan hệ gia tộc, thường được lấy công chúa Nhà Lý. Họ "Giáp" còn được Hoàng đế cho đổi họ thành "Thân". Từ đó, dân động Giáp phần nhiều mang họ Thân để ghi ơn Nhà vua, đây có thể được xem là một trong những nguồn gốc của họ Thân ở Lạng Sơn và Bắc Giang, nơi khởi phát chính của họ Thân Việt Nam. Các tù trưởng động Giáp - phò mã Nhà Lý ra sức giúp dật, phò tá Nhà Lý, tạo nên một vùng biên cương ổn định phía Bắc giáp Nhà Tống.

    Trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, một nhánh họ Thân từ Bắc Giang dạt vào Thừa Thiên - Huế. Theo truyền thuyết lưu hành ở vùng này và vẫn được các trang về gia phả, báo chí ngày nay đăng tải, họ Giáp được họ Nguyễn đổi sang họ Thân bằng việc ban cho một “cái mũ”: nét sổ trong chữ Giáp (甲) được trồi lên khỏi bộ “điền” (田) một chút, cải thành chữ Thân (申). Tuy nhiên chữ 申 này nghĩa là "thuyết minh; nói rõ" không phù hợp với nghĩa của chữ mà Hoàng đế Lý Thái Tổ ban cho họ Giáp - nhằm chỉ rõ mối quan hệ. Về mặt chữ 甲: Theo nghĩa gốc, "Giáp" là một loại áo làm từ vật liệu đầy, chắc - thời cổ bằng da thú - mà quân nhân mặc trong chiến tranh để bảo vệ cơ thể khỏi tổn thương từ vũ khí của kẻ thù, xuất phát từ từ chỉ vỏ cứng bọc ngoài để che chở cơ thể một số động vật như loài giáp xác, rùa, tê tê... do đó, chữ "Giáp" thường mang ý nghĩa mạnh mẽ, vững chắc, bảo vệ. Trong số đếm, lịch pháp, Giáp đứng đầu trong Thiên can: xưa lấy mười can lần lượt, cho nên cái gì hơn hết cả đều gọi là "giáp". Về hành chính, đơn vị dân cư thời trước do chính quyền tổ chức ra thường gồm mười hộ ở gần nhau, gọi là "giáp", để tiện bề kiểm soát dân, từ đây sinh ra nghĩa liền kề, bên cạnh, tức là giáp ranh. Thời khoa cử, thi tiến sỹ lấy Tam giáp để chia hơn kém, nên bảng tiến sỹ gọi là giáp bảng, nhất giáp gọi là đỉnh giáp chỉ có ba bậc: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Theo Ngũ hành, Giáp tương ứng với Mộc, theo thuyết Âm - Dương thì Giáp là Dương. Do đó, chữ "Giáp" cũng mang ý nghĩa của Mộc, của sự sinh trưởng, phát triển, tươi tốt. Vì vậy"Giáp" là một từ hay, có nhiều ý nghĩa tốt đẹp, không có lý gì bậc tối cao của một nước (hẳn là thông tuệ rồi) lại đổi chữ 甲 đẹp đẽ ra chữ 申 một cách kém tắm như thế. Nghĩa của chữ mà Hoàng đế Lý Thái Tổ ban cho họ Giáp chắc chắn nhằm chỉ rõ mối quan hệ hai bên phải là chữ 親: "thân", mang nghĩa ruột thịt, họ hàng, thân thuộc, gần gũi, thân thiết, như 双亲 "song thân" (cha mẹ); 亲友, "thân nhân",đặc biệt là việc hôn nhân (结亲, "kết hôn"); Quan trọng nhất là 亲家 "thông gia". Có lã do 申 viết đơn giản hơn nên mới trở thành chữ được ghi vào sách. Vả lại, hẳn những người nghĩ ra cái truyền thuyết "thêm mũ" trên cũng chẳng có hiểu biết gì về chữ Nho nên mới vẽ ra thế. Còn nếu không phải do ai đó nghĩ ra mà quả thực do họ Nguyễn cải họ cho họ Giáp thành họ Thân ở Thừa Thiên như thế thì họ Nguyễn quả là "dốt đặc cán mai" nhỉ!

    Cũng theo các nguồn thông tin ở Thừa Thiên - Huế thì ông nội cụ Thân Trọng Huề là Bố chánh Thân Văn Quyền (1771 - 1873), ngụ làng An Lỗ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, là người đầu tiên trong họ đến làm quan ở Quảng Nam. Theo gia phả, chi Thân Văn do cụ Thân Văn Thẩm (1671 - 1758) khai sinh khi rời quê đến làng Nguyệt Biều (huyện Hương Thủy) dạy học sau đó lập gia đình, định cư tại làng Dương Xuân Hạ (nay là tổ 18, khu vực 5, phường Thủy Xuân, phía Tây thành phố Huế).

    Lúc nhỏ cụ Quyền là người hay chữ nổi tiếng nhưng không ra làm quan chỉ ở nhà dạy học. Mến tài, năm 1823 Trịnh Hoài Đức tiến cử lên Minh Mạng. Nhà vua bổ cụ giữ chức giáo thụ phủ Thăng Hoa, dinh Quảng Nam (nay là huyện Thăng Bình) lúc đã 52 tuổi. Được hơn một năm thì Thân Văn Quyền được điều về kinh giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử giám, Thừa chỉ Viện Hàn lâm. Thân Văn Quyền là người cương trực. Năm 1835, cụ suýt bị mất mạng vì dám “can gián” nhà vua trong việc xử tội Tiến sỹ Nguyễn Trữ (Án sát Hưng Yên), lấy cớ rằng nên chiếu cố kẻ hiền tài. Minh Mạng tức giận sai đưa cụ đi xử trảm. Rất may, nhà vua nghĩ lại, sai đem Hỏa bài tức tốc ra bãi chém An Hòa hủy việc hành hình.

    Cha cụ Huề là Thân Văn Nhiếp (1804-1872), con trai thứ của Bố chính Thân Văn Quyền, từng làm Tổng đốc Bình Phú (Phú Yên, Bình Định).Đỗ Hương tiến (cử nhân) năm 1841, được bổ làm quan ở nhiều tỉnh như Khánh Hòa, Gia Định, Vĩnh Long, Bình Thuận, Bình Định. Tháng 11/1856, Thân Văn Nhiếp được bổ làm Bố chánh Quảng Nam, nơi đang có nạn đói hoành hành lại đang bị “dòm ngó” của phương Tây vào cửa biển Đà Nẵng. Khi Pháp tấn công vào Đà Nẵng ngày 1/9/1858 và chiếm đóng bán đảo Sơn Trà, cụ bị giáng 4 bậc nhưng cho lưu dụng. Sách Đại Nam thực lục viết(Quyển 7, trang 567): “... Trần Hoằng, Nguyễn Tài… đều cách chức bắt đi trước quân gắng sức làm việc. Bọn Văn Nhiếp, Văn Phổ đều giáng 4 cấp lưu dụng”. Thân Văn Nhiếp đã tham gia trọn vẹn cuộc chiến chống Pháp ở Đà Nẵng từ ngày đầu đến ngày cuối. Là người có kinh nghiệm chiến trường nên tháng 4 /1861, triều đình cử cụ vào Gia Định, làm Hiệp tán Quân thứ ở Biên Hòa tiếp tục chống Pháp.

    Cụ Thân Trọng Huề sinh tại Gia Định, mới có 4 tuổi thì cụ Thân Văn Nhiếp mất năm 1872 tại dinh Án sát Gia Định. Từ đó cụ Huề theo mẹ sinh sống ở Gia Định, sau được anh rể là Tham tri bộ Lễ Trần Thúc Nhẫn (1841-1883) đưa về Huế ở với người anh cả là Thân Trọng Trữ để ăn học (tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy). Nhờ chân "ấm sinh", cụ Huề vào học Quốc Tử Giám ở Huế. Năm 1888, 19 tuổi, Thân Trọng Huề thi Hương đỗ trường Nhì; năm sau (1889) được chính quyền Thực dân Pháp chọn du học tại Trường Bảo hộ (Thuộc địa) Paris (Pháp), nhằm đào tạo thành một quan chức của bộ máy chính quyền thuộc địa. Cụ được khen là người thanh liêm, cần mẫn, làm việc một cách khoa học, chuyên nghiệp.

    Thời làm Bố chánh Quảng Nam cũng là lúc Phong trào Duy tân ra đời và phát triển. Có thể “bộ ba Duy tân Quảng Nam” đã được cụ Huề ngầm hỗ trợ bằng cách làm ngơ những việc làm của họ, góp phần quan trọng cho sự lớn mạnh của phong trào trong buổi đầu khó khăn. Khi làm quan ở Huế, cụ Huề thường giao du với những nhà Duy tân như Phan Châu Trinh, Đào Nguyên Phổ... Hoạn lộ của cụ Huề cũng lắm gian truân, một lần bị Nguyễn Thân “bãi chức” vì “dạo chơi trong kinh thành gặp đại quan mà không chịu xuống ngựa vái chào” và một lần bị Tổng đốc Hồ Đệ biếm trích, phải “hạ 4 trật cho về nhà”.

    ___
    Mất chức vì… bò!

    Cách đây 94 năm trên tờ Đông Pháp thời báo số ngày 13/12/1928, trong bài "Con bò của ông Tổng đốc", Phan Khôi cho biết: “Ông Thân Trọng Huề, có tiếng là một ông quan thanh liêm, cần mẫn, thông thạo việc Tây việc Nam…

    Tôi đã được tiếp kiến Thân công mấy lần ở Hà Nội, mỗi khi nói chuyện có nhắc lại chuyện xưa tích cũ… Từ hồi ông bắt đầu đi học bên Tây, mỗi ngày làm việc gì, nói chuyện gì đều có ghi vào nhựt ký. Mỗi năm một cuốn to, dồn từ hồi đó đến bấy giờ đã hàng mấy chục cuốn. Sau khi ông tạ thế, tôi có được xem một cuốn nhựt ký của ông, cuốn ấy là cuốn sau cùng…

    Giá bây giờ sử gia nào mà cõng được cả bộ nhựt ký của Thân công thì có thể tìm được ở trỏng nhiều tài liệu lắm về lịch sử hiện thời; không những của nước Nam mà về cả của nước Pháp nữa…”.
    Trong bài Phan Khôi có kể chuyện “hiềm khích” giữa Thân Trọng Huề và Tổng đốc Hồ Đệ liên quan đến chuyện… con bò: "Hồ Đệ có nuôi một bầy bò, trong đó có một con rất to và hung dữ. Con này hay vào các vườn xung quanh để phá phách. Một hôm, vào phá ở dinh Bố chánh, lính đuổi nó không chạy, lính vào bẩm với Thân Trọng Huề.
    Ông đã ra lệnh cho lính 'làm thịt con bò để ăn' dù biết bò đó là của Tổng đốc.
    Lính được ăn mấy ngày thịt bò 'đã đời'".
    Họ Phan kể: “Hôm sau Thân Trọng Huề đến gặp Hồ Đệ và bảo: Trong dinh tôi, có con bò nào không biết, nó vào phá. Đuổi không được, tôi biểu lính đánh chết ăn thịt, chúng nó ăn hết rồi mới nói rằng bò của quan lớn, tôi ngạc nhiên, không biết có phải thật của quan lớn chăng?
    - Thật của tôi.
    - Té ra của quan lớn à? Vậy thì quan lớn nuôi bò làm chi?
    - Con bò ấy chính là nuôi để dành đến ngày đám kỵ cụ nhà tôi.
    - Đến ngày ấy, quan lớn sức đi mua có được không? Quan lớn nuôi lấy mà dùng rồi sắp bán bò ngoài thành nó bán cho ai?
    Quan Tổng đốc làm thinh. Còn Thân công nói mấy lời xin lỗi về sự mình đã tự tiện giết con bò rồi ra về”.
    Kết quả thế nào thì ta đã rõ.
    Một ông quan giỏi và khí phách như vậy mà không làm quan lâu ở Quảng Nam. Tiếc thật!
    ___
    Sau vụ này cụ xin “lánh mình” ra Bắc. Cụ là thành viên sáng lập Hội Khai trí tiến đức ở Hà Nội (1919), tham gia viết trên nhiều tờ báo như Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn, Nam Phong…, đề xuất nhiều cải cách về văn hóa - xã hội, vạch trần tệ tham nhũng của quan lại. Đến năm 1922, Khải Định vời cụ về Huế sung Cơ mật viện Đại thần, nhận lãnh Thượng thư hai bộ: bộ Học và bộ Binh, kiêm Đô Ngự sử Viện Đô sát. Năm 1925, gia phong hàm Thái tử Thiếu bảo. Thân Trọng Huề đã có công góp phần thúc đẩy việc cải cách thi cử; đấu tranh cho bình đẳng giới trong học tập; đặc biệt với tư cách Thượng thư Bộ Binh, cụ đã buộc người Pháp phải ký vào văn kiện lịch sử công nhận lãnh thổ Việt Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bản gốc của văn bản này mới được tìm thấy mấy năm trước đã góp phần chứng minh chủ quyền của nước ta trên hai quần đảo này.
    Ngày 17/7/1925, Thân Trọng Huề lâm bệnh mất tại chức lúc 56 tuổi, được an táng tại quê nhà (làng Nguyệt Biều), và được triều đình truy tặng thực thụ hàm Đông các Đại học sỹ.
    Lần cập nhật cuối: 06/02/2025
    Rains2009hoalongtrang thích bài này.
  9. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    QUOTE="ngthi96, post: 40828059, member: 431853"]Tuy-Cam (?), vợ chưa cưới của Bullington[/QUOTE]Căn cứ vào tên một diễn viên nổi tiếng thời ấy, người cầm cờ đỏ - xanh sao vàng đón QGP 30/4/1975, Thân Thúy Hà, thì bà này là Thân Thúy Cầm.
    Không có nhiều tài liệu cụ thể về hậuhệ cụ Thân Trọng Huề, nổi tiếng nhât theo wiki và các nguồn sao chép là Trần Lệ Xuân - tức vợ ông Ngô Đình Nhu, em trai ông Ngô Đình Diệm - là cháu gọi cụ bằng ông ngoại. Ngoài bà ta và "gia tộc Than-Trong" bên vợ chưa cưới của Jim Bullington thì phần đông người họ Thân đều là cán bộ Cộng sản, ví dụ như người trong topic có nhắc đến: Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, Đại táThân Trọng Một; Còn các nhân vật cùng dòng họ như ông Thân Ngọc Sang, Chính ủy quân khu 7; Thân Đức Nam, Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội giai đoạn 2014 - 2018 và nhiều cán bộ lãnh đạo các tỉnh Bắc Giang, Cà Mau, ...

    Lực sách, kể cả gia phả Thân tộc tại Huế, thì có nhiều đứt đoạn, không có thấy tài liệu về sợi dây liên quan giữa Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, Đại tá Thân Trọng Một, "gia tộc Than-Trong" bên vợ chưa cưới của Jim Bullington và cụ Thân Trọng Huề nên chỉ có thể suy đoán họ có lẽ đều là con cháu Thân tộc, có thể là trực hệ của chi Thân Trọng (cụ Thân Trọng Huề và các anh ruột cụ Huề). Ở đây xin tóm lược một chút về dòng họ lẫy lừng này.

    Các châu vùng phía Bắc và Đông Bắc biên giới Việt - Tàu thời Lý vốn là các châu ki mi thời thuộc Đường. Thành phần dân cư chủ yếu ở khu vực này không phải người Tàu hay người Việt mà là hậu duệ của người Tây Âu Lạc từ thời Vua Hùng. Các sách "Lĩnh Ngoại đại đáp" của Chu Khứ Phi và "Quế hải ngu hành chí" của Phạm Thành Đại đời Tống chép rằng các tộc sống ở khu vực này là người Man, Lão, Dao, Đãn... Sách "Lĩnh Ngoại đại đáp" của Chu Khứ Phi mô tả những tộc người này đều thiện chiến, thích dùng vũ khí, giỏi cưỡi ngựa.

    Sau khi đế chế Nhà Đường sụp đổ, nước Tàu bị chia cắt khá dài, Đại Việt cũng trong thời kỳ phục quốc và ổn định nội chính, vì vậy các tù trưởng đứng đầu các cộng động cư dân tại vùng biên có điều kiện vươn lên trở thành các lực lượng chính trị, quân sự độc lập và khá hùng mạnh, chưa hẳn thuộc về Việt hay Tàu. Sự tồn tại và phát triển của các tù trưởng địa phương độc lập tại vùng biên là khó chấp nhận đối với Nhà Lý bởi họ không ít lần gây ra chiến tranh, xung đột với các tộc xung quanh, cướp phá lẫn nhau, suốt thời thuộc Đường tới thời Lý vẫn tiếp diễn. Đặc biệt, họ gây chiến với cả triều đình trung ương khi đủ lớn mạnh. Trong "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi lại, chỉ trong hơn 40 năm từ thời Lý Thái Tổ tới thời Lý Thái Tông đã có ít nhất 20 cuộc nổi dậy của các thế lực này.

    Khi Nhà Tống thành lập, các quan lại coi Ung châu và Quế châu tìm cách thu phục các tù trưởng này, có một số các tù trưởng ở gần đồn binh Nhà Tống quy phục, số khác giữ độc lập hoặc theo Nhà Lý. Theo học giả Hoàng Xuân Hãn, chỉ có chừng 1/4 biên giới ở phía Đông Việt - Tống đương thời là định rõ, nghĩa là cả 2 bên Tống - Việt đều tiếp xúc thực sự. Còn về phía Tây đều thuộc những bộ lạc độc lập, ai mạnh thì cai quản họ. Bấy giờ, họ Vi kiểm soát châu Tô Mậu (thuộc Yên Bái ngây nay) và vùng Tư Lang, Lộc Châu, Tây Bình bên đất Tàu ngày nay; Họ Hà (vốn phát nguyên từ Ung châu) kiểm soát châu Vị Long (thuộc Tuyên Quang); Họ Nùng quản lý châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) và các châu Yên Bình, Vũ Lặc, Tư Lăng, Thất Nguyên ở khu vực Tả Giang bên Tàu; Họ Hoàng kiểm soát động Như Tích và châu Vĩnh An (nay thuộc Quảng Ninh) và các châu An Đức, Quy Lạc, Lộ Thành, Điền Châu thuộc Hữu Giang (Tàu); Họ Giáp kiểm soát châu Lạng (vùng đất rộng lớn mà nay thuộc một phần phía Bắc của tỉnh Bắc Giang và vùng phía Nam của tỉnh Lạng Sơn). Sự phân biệt theo địa lý như trên không tuyệt đối chính xác, mà trên thực tế các họ ở lẫn với nhau. Từ những dữ liệu như vậy, học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng, Ung châu của Nhà Tống nằm giữa vùng bao bọc của các châu thuộc Đại Việt, nên quân Đại Việt tiến sang không mấy khó khăn. Và vì nước Đại Việt bấy giờ nhỏ, Kinh thành lại gần biên giới hơn Nhà Tống nên sự tiếp cận của triều đình Nhà Lý với các tù trưởng này dễ dàng hơn.

    Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao bằng các đoàn sứ bộ sang tận Kinh đô của nhau, cả Nhà Tống và Nhà Lý đều sợ người ngoài vào giả mạo buôn bán để do thám, nên chỉ cho người của hai bên sang giao dịch tụ họp với nhau tại những nơi nhất định gọi là Bạc dịch trường (chợ quốc tế). Tại châu Vĩnh Bình, trại Cổ Vạn, châu Tô Mậu, trại Hoành Sơn, châu Khâm, châu Vĩnh An… đều có ghi nhận sự xuất hiện của các bạc dịch trường.

    Tuy nhiên, kế tục Nhà Tiền Lê, Hoàng đế Lý Thái Tổ sau những lần thân chinh và sai các Hoàng tử đi chinh phạt các tù trưởng địa phương, đã nhận ra cách phân phong cho các Hoàng tử về địa phương (như Nhà Tiền Lê) hay đi đánh dẹp bạo loạn không phải là biện pháp hữu hiệu để củng cố quyền lực, tiêu trừ các lực lượng chống đối ở xa. Ngài quyết định dùng chính sách “nhu viễn” (mềm dẻo với phương xa) mà các Quân chủ Nhà Lý kế tục vẫn thực hiện: Triệt để lôi kéo các thủ lĩnh vùng biên cương tự trị giữa Lý và Tống – những người vốn độc lập và không lệ thuộc ai, mà triều đình trung ương Bắc Tống ở quá xa, ít có điêu kiện vươn tới - tham gia bộ máy chính quyền, trao chức vị, bổng lộc ưu đãi đặc biệt cho họ (phong chức Châu mục - quan đứng đầu châu, như Tri châu, Tri phủ). Cách làm của nhà Lý là “làm trước cãi [với Nhà Tống} sau”. Việc lôi kéo được các thủ lĩnh vùng này về theo triều đình sẽ giúp Nhà Lý mở rộng cương thổ phía Bắc; các thủ lĩnh thần phục kéo theo sự quy phục của dân bản địa và có đất đai vùng đó, khi Nhà Tống biết ra thì thường đã chậm. Phương thức rằng buộc chặt chẽ nhất là dùng quan hệ hôn nhân để kết thân với các tù trưởng: gả Công chúa - phong Phò mã cho các Châu mục. Theo sách lược đó, các Công chúa Kim Thành (hay Khánh Thành) được gả cho Châu mục châu Phong Lê Tông Thuận, Công chúa Trường Ninh gả cho Châu mục châu Thượng Oai Hà Thiệu Lãm, Công chúa Ngọc Kiều được gả về châu Chân Đăng cho châu mục họ Lê, Công chúa Khâm Thánh gả cho Châu mục châu Vị Long Hà Di Khánh, Công chúa Diên Bình cả cho Thủ lĩnh Phú Lương là Dương Tự Minh...

    Tù trưởng người Tày Giáp Thừa Quý (966 - 1029) ở động Giáp - châu Lạng được gả Công chúa Lĩnh Nam (Lý Thị Bảo Hòa), phong làm Phò mã, làm Châu mục châu Lạng, cai quản và bảo vệ vùng đất được coi là “phên dậu” phía Bắc của Kinh đô Thăng Long và cũng là phên dậu của Nhà nước Đại Việt. Theo sách và tài liệu Họ Thân, động Giáp của châu Lạng có trung tâm ở phía Nam ải Chi Lăng, tức là vùng Kép (Lạng Giang, Bắc Giang ngày nay) - Giáp Khẩu (tức là huyện Chi Lăng, Lạng Sơn ngày nay). Sở dĩ mang tên này vì xưa kia mọi người trong vùng đều mang họ Giáp. Cơ ngơi gia tộc tù trưởng họ Giáp ở vùng Giáp Khẩu. Giáp bên kia biên giới với châu Lạng là trại Vĩnh Bình (gồm đất các châu Tư Minh, Bằng Tường, một phần Tư Lăng ở Bắc ngạn sông Ô Bi, tức sông Kỳ Cùng thuộc Lạng Sơn). Phò mã Giáp Thừa Quý còn được Hoàng đế cho đổi họ thành "Thân" (xem post trước) để nói lên ý nghĩa tình thân ái đoàn kết giữa các dân tộc và để phân biệt hoàng thân quốc thích với tầng lớp bình dân.

    Các thế hệ từ trườngr họ Giáp - Thân từ đó liên kết với triều đình Nhà Lý bằng các mối quan hệ gia tộc, thường được lấy công chúa Nhà Lý, như đời con Thân Thừa Quý và Công chúa Lĩnh Nam là Thân Thiệu Thái (996-1066, nhiều sách còn chép têm khác là Vũ Tỉnh, có lẽ là thụy hiệu) lấy Công chúa Bình Dương (Lý Thị Giám, con Hoàng đế Lý Thái Tông) năm 1029; đời cháu Thân Cảnh Phúc (申景福, 1030 - 1077, còn có tên Thân Đạo Nguyên, con Công chúa Bình Dương và Thân Thiệu Thái, tương truyền có thể là Vũ Thành, theo thần tích các đền thờ dọc sông Lục Ngạn) lấy Công chúa Thiên Thành (Lý Thị Cảnh) năm 1066... đều được thế tập làm Châu mục.

    Dù đã dùng chính sách kết thân và phủ dụ, vẫn có không ít trường hợp Nhà Lý phải dùng đến vũ lực để dẹp yên vùng biên. Những vùng nhiều biến cố nhất đương thời là Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng. Hoàng đế Nhà Lý thường sai các Hoàng tử, tướng lĩnh trong triều, thậm chí tự mình nhiều lần thân chinh cầm quân đi đánh dẹp các thủ lĩnh địa phương. Điển hình trong chính sách kết hợp vừa đánh dẹp vừa phủ dụ của Nhà Lý là trường hợp cha con Nùng Tồn Phúc – Nùng Trí Cao. Sau khi 2 lần đánh bại cha con họ Nùng, Hoàng đế Lý Thái Tông lại tha tội cho Nùng Trí Cao, phong chức và cấp đất cho Trí Cao cai quản vùng biên Quảng Nguyên.

    Trước khi Thái úy Lý Thường Kiệt đánh Tống khá lâu, quân Đại Vệt, trong đó có quân bản bộ của Phò mã họ Thân, đã nhiều lần đánh sang đất Tống. Cùng với sự kết hợp giữa đức và uy, Nhà Lý mở rộng dần cương thổ lên phía Bắc, sang phía Tả Giang và Hữu Giang.

    Năm 1022, các dân Đại Nguyên Lịch thuộc Khâm châu và trại Như Hồng tới quấy rối trấn Triều Dương. Lý Thái Tổ sai Dực Thánh Vương mang quân tiến sâu vào đốt phá trại Như Hồng bên đất Tống rồi mới trở về. Năm 1028, nhân chúa châu Thất Khê (Thất Nguyên) là Lý Tự chết, Phò mã Thân Thừa Quý mang quân tiến vào đất Tống, bắt dân Tống mang về. Viên quan coi Ung châu của nhà Tống bàn giảng hòa, Lý Thái Tổ chấp thuận.

    Năm 1034, dân Việt là Trần Công Vinh chống lại Nhà Lý, mang 600 người chạy vào đất Tống. Lý Thái Tông sai hơn 1.000 quân đuổi bắt. Tống Nhân Tông không muốn gây hấn với Đại Việt, sai đưa 600 người của Công Vinh trả lại cho Đại Việt, nhưng dặn không làm hại họ.

    Năm 1036, dân vùng biên bên Tống thuộc các châu Lạng, Môn, Tô Mậu, Quảng Nguyên, động Đại Phát, châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên nổi lên chống Tống, đánh sang châu Tây Bình, Tư Lăng, Thạch Tây thuộc Ung châu, cướp phá rồi rút lui. Cùng lúc, dân động Giáp bên Đại Việt của Phò mã Thân Thiệu Thái cũng kéo sang cướp phá châu Tư Lăng và động Bằng Tường của Tống, giết tướng giữ trấn Đăng Uyển của Nhà Tống. Tống Nhân Tông cũng bàn giảng hòa với Đại Việt.

    Năm 1050, tướng giữ Ung châu Nhà Tống dụ được các tù trưởng Vi Thiệu Tự, Vi Thiệu Khâm cùng 3.000 dân ở châu Tô Mậu. Lý Thái Tông đòi lại. Tống Nhân Tông trả lại và dặn nên quản lý tốt dân vùng biên không nên để phạm lẫn nhau.

    Năm 1057, Lý Thánh Tông sai sứ sang cống thú lạ cho Nhà Tống, bảo là con lân. Tống đế nghe lời Tư Mã Quang (sợ không chắc là con lân thì các nước khác chê cười), liền thưởng cho sứ Đại Việt rồi bảo mang con thú về. Sang đầu năm sau, tướng Tống là Tiêu Chú mang quân đi tuần, diễu qua các khê động vùng biên. Tống Nhân Tông phải hạ chiếu ngăn cấm kẻo gây hấn. Nhưng Lý Thánh Tông vẫn giận nhà Tống, cho là phản phúc, năm 1059 bèn mang quân đánh vào đất Tống. "Đại Việt sử ký toàn thư" chỉ chép sơ lược: "Vua Thánh Tông tiến quân vào Khâm châu để thị uy rồi rút về". Nhưng các sách Tống chép quân Nhà Lý đánh vào châu Cổ Vạn, giết viên quan quản châu là Lý Duy Tân và đánh động Tư Lẫm phía tây Khâm châu.

    Cùng trong năm 1059, dân Đại Việt chạy trốn tới châu Tây Bình giáp châu Lạng. Viên quan coi châu Tây Bình là Vi Duệ Chính giấu đi. Lý Thánh Tông liền sai Châu mục Lạng châu - Phò mã Thân Thiệu Thái mang quân từ động Giáp vào huyện Như Ngao thuộc châu Tây Bình để đòi lại dân, sự việc bùng nổ thành xung đột kéo dài sang năm 1060. Sách Tàu "Việt kiệu thư" của Lý Văn Phượng chép rời rạc thành 2 sự việc. Năm 1059, Nhà Lý tiến vào Ty Lẫm Quản, Khâm châu; Năm 1060 thì quân Lý liên minh với lực lượng phản Tống ở Giáp Động tiến vào đánh Ung châu. Nhà Tống phải lệnh cho Tri châu là Tiêu Cố, Chuyển vận sứ Tống Hàm và Đề hình Lý Sư Trung cùng chặn đánh. Lý Thánh Tông bèn rút lui, nhà Tống cũng lệnh các cánh quân dừng lại không tham chiến và chờ sự phục tùng của Đại Việt.

    Các sách Tàu khác như "Tục Tư trị thông giám trường biên" hoặc "Tống sử" viết thời Nguyên cho biết chi tiết hơn: vào khoảng 1059 dân cư ở vùng biên giới chạy sang châu Tây Bình của Nhà Tống khá nhiều, được Vi Huệ Chính che chở. Lý Thánh Tông sai Phò mã Thân Thiệu Thái dẫn quân từ Giáp Động kéo vào huyện Như Ngao thuộc châu Tây Bình. Tống đế lệnh cho Ung châu mang quân ra đánh. Đô giám tuần kiểm là Tống Sỹ Nghiêu đem quân từ Ung Châu ra chặn, Thân Thiệu Thái rút lui, Sỹ Nghiêu tiếp tục tiến binh, vượt qua Giáp Động thì bị quân Thiệu Thái đón đánh, giết và bắt khá nhiều, thiệt hại nặng nề.

    Sang năm 1060, Thân Thiệu Thái lại từ Giáp Động tiến sang, giết được Tống Sĩ Nghiêu và các tướng Lý Đức Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật khiến Tống đế phải cử Tiêu Cố đem quân đến Ung Châu hợp với Tống Hàm, Lý Sư Trung cố thủ. Thân Thiệu Thái lướt qua châu Tây Bình, đánh vào trại Vĩnh Bình, làm chấn động Ung châu. Nhà Tống lo lắng, lệnh điểm binh, thay quân già yếu, chuẩn bị thành chiến tranh lớn. Thân Thiệu Thái vẫn tiếp tục tiến quân, bắt sống Chỉ huy sứ Dương Lữ Tài (sách Việt chép là Dương Bảo Tài), nhiều dân, binh và gia súc, khiến cho Tiêu Cố – viên quan coi Quế Châu và Tiêu Chú – viên quan coi Ung Châu đều bị Tống Nhân Tông bãi chức vì bị luận tội “không xét công việc các biên lại, để chúng sinh sự, làm hại cho quan quân”.

    Sau vài tháng, quân Lý vẫn chưa lui. Cánh quân từ châu Tô Mậu của Đại Việt cũng tiến vào Ung châu họp với quân động Giáp. Tống Nhân Tông bèn sai Dư Tĩnh làm An phủ sứ, họp quân với Lý Sư Trung để kháng cự. Dư Tĩnh định dùng kế xúi giục Chiêm Thành đánh từ phía Nam nhưng không kịp thi hành, bèn dùng biện pháp ôn hòa để chủ động điều đình với Đại Việt trước, còn Lý Sư Trung đưa thư về triều kể tội Tiêu Chú “hà hiếp dân man, bắt dân tìm vàng cho riêng mình”. Cuối cùng Nhà Tống phải tìm cách điều đình, sai Dư Tĩnh đi thương nghị. Lý Thánh Tông cử Phí Gia Hựu đi gặp. Dư Tĩnh tặng quà Gia Hựu rất hậu đề nghị trả lại Dương Lữ Tài. Tuy nhiên Lý Thánh Tông không chấp nhận thả Lữ Tài.

    Sách ta cho biết: Năm 1059 có tin báo về triều đình rằng một số dân Việt ở Tây Bình (thành phố Lạng Sơn ngày nay) bị dụ dỗ hoặc ép buộc chạy sang vùng đất do Nhà Tống cai quản, trực tiếp là viên quan Vi Huệ Chinh. Hoàng đế Lý Thái Tông sai Phò mã Thân Thiệu Thái sang bên kia biên giới đòi lại dân. Qua thư từ giao hảo thấy Nhà Tống vẫn làm ngơ, Thân Thiệu Thái dân quân bản bộ kéo sang đất Tống lên thẳng huyện Ngư Ngao làm cho Ung Châu náo động. Tống đế cho viên quan Ngư Ngao là Tống Sỹ Nghiêu đem quân chống lại. Thân Thiệu Thái giả vờ thua trận dụ cho quân Tống đuổi theo đánh chém sang biên giới Đại Việt. Quân Tống bị lừa đến tận động Giáp thì bị trận địa mai phục chuẩn bị sẵn từ trước đánh cho thua to. Hàng loạt tướng Tống như Lý Đức Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Đat và cả Tống Sỹ Nghiêu đều bị giết. Tống đế lại sai viên Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài mang quân ra cứu viện nhưng không cứu được, chẳng những thế Dương Bảo Tài còn bị bắt. Nhà Tống thấy bất lợi sai viên quan Thị Lang Dư Tỉnh sang giảng hòa, Nhà Lý cử viên quan Phi Gia Hữu ra gặp gỡ. Hai bên đàm phán. Phi Gia Hữu mềm mỏng ôn hòa khéo léo được Dư Tỉnh cảm mến, tặng nhiều đồ vật. Hai bên đồng ý tiến hành rút quân, Nhà Tống muốn Nhà Lý thả viên quan Dương Bảo Tài nhưng Nhà Lý không chịu.
    Lần cập nhật cuối: 10/02/2025
    viagraless thích bài này.
  10. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    Chuyện về Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, Đại tá Thân Trọng Một cũng có nhiều điều thú vị, được xem là một huyền thoại sống trong suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ. Ông sớm tham gia Cách mạng, trải qua các chức vụ: Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn trưởng, Trưởng ban dân quân, Phó Tham mưu trưởng Phân khu Trị - Thiên, Chỉ huy trưởng Đoàn 5, nhiều năm giữ chức Thành đội trưởng Thành đội Huế.
    [​IMG]
    Nói đến Thân Trọng Một là nói đến lòng dũng cảm với vô số huyền thoại đánh giặc, như “đánh độn thổ, đánh vỗ mặt, đánh bất ngờ”, “lính ông Một”. Mỗi trận đánh do ông chỉ huy là một kỳ tích của chiến tranh nhân dân. Lính ngụy cứ hễ nghe lính ông Một đã vãi đái, chạy dài. Binh nghiệp của ông gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn của ông: Huế. Huế tự hào, vinh dự có Thân Trọng Một. Trong Thành nội Huế có một con đường mang tên ông.



    Ông quê làng Dương Xuân Hạ (nay là tổ 18, khu vực 5, phường Thủy Xuân, phía Tây thành phố Huế), theo gia phả phái họ Thân Văn
    Vào thế kỷ XIV, ngài thủy tổ Thân Đại Lang cùng gia đình được cử đi về phương Nam theo chính sách mở cõi của Nhà Trần rồi dừng chân, định cư tại làng An Lỗ (may thuộc phường Phong An, thị xã Phong Điền, thành phố Huế). Các đời con cháu tách ra, sinh sống ở các nơi khác. Phái Thân Văn do cụ Thân Văn Thẩm (1671 - 1758) khai canh khi rời quê đến làng Nguyệt Biều (phường Thủy Biều) dạy học sau đó lập gia đình, định cư tại làng Dương Xuân Hạ năm 1698. "Cụ Thẩm mang hạt thị từ Nguyệt Biều về đây gieo, khi cây lên cao khỏi mặt đất, cụ mang trồng để đánh dấu thời gian phái họ Thân định cư", cụ ông Thân Văn Hoàng Long - bậc cao niên được họ phái Thân Văn tin tưởng giao trông coi từ đường bên gốc cây thị cổ thụ - kể.

    GS.NGƯT Thân Trọng Ninh, bậc cao niên họ Thân Văn lý giải việc ngài khai canh trồng cây thị vì đây là loài cây quý hiếm. Ngoài việc đánh dấu mốc thời gian phái họ định cư tại đây thì các bộ phận của cây có nhiều tiện lợi, tác dụng như quả dùng để ăn, làm thuốc an thần và tẩy giun. Hạt dùng làm trà uống để giữ sắc đẹp. Vỏ, rễ chữa nôn ói, chữa các vết loét. Gỗ dùng làm điêu khắc, viết bảng chữ in để lưu trữ trong các bảo tàng vì có độ dẻo, mềm, không vênh, tráng và mối mọt.

    Cụ ông Hoàng Long cho biết, từ đường của phái họ cũng như cây thị đã trải qua nhiều biến cố lớn. Ngày Ất Dậu (23/5) năm 1885, Kinh đô Huế thất thủ, Pháp chiếm đóng nhà thờ họ Thân Văn làm cứ điểm quân sự khống chế một vùng rộng lớn, bảo vệ cho đồn Nam Giao. Một thời gian sau, giặc Pháp rút đi thì từ đường trở thành tro bụi… Ít năm sau, từ đường họ Thân lại được xây dựng quy mô hơn. Đến 2 cuộc kháng chiến đánh Pháp, chống Mỹ cứu nước, nhà thờ họ Thân ở làng Dương Xuân Hạ nhiều lần bị quân địch giội pháo sập nát, đến nay đã 5 lần tu sửa. Thế nhưng cây thị cổ thụ dù bị bom, pháo, napan tàn phá vẫn sừng sững hiên ngang như một “chiến sĩ quả cảm”, dù thân cây chịu nhiều vết thương do bom đạn gây ra. Trong đó, sự nghiệp Cách mạng của Anh hùng Thân Trọng Một có nhiều năm tháng “gắn” với cây thị cổ thụ này.

    Các bậc cao niên làng Dương Xuân Hạ cho biết trong 2 cuộc kháng chiến đánh Pháp, chống Mỹ cứu nước, tại gốc cây thị cổ thụ này là nơi tụ họp của nhiều thanh niên trai tráng trong làng, rồi họ chia tay nhau lên đường tham gia Cách mạng. Nhiều người ngã xuống vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Người làng Dương Xuân Hạ luôn kể về cây thị cổ thụ với con cháu mình, xem nó như “nhân chứng đặc biệt” về cuộc chiến đấu ngoan cường của Anh hùng Thân Trọng Một. Chính tên ông là Thân Trọng Thoan, sinh năm 1920, con thứ 4 trong một gia đình có 6 anh chị em.

    Lấy vợ từ năm 17 tuổi, cô gái nghèo Phan Thị Cháu hiền thục ở Phá Tam Giang. Vợ vừa mang thai, ông đã bị gọi đi ở không công cho một chức sắc làng Dương Xuân Hạ theo lệ cũ bắt buộc đối với kẻ ngụ cư. Không cam chịu kiếp tôi đòi, Thoan chia tay vợ trẻ, bỏ làng đi biệt xứ, vào tận Sài Gòn rồi phiêu bạt dang Nam Vang. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông bảo bè bạn giang hồ: “Nước độc lập rồi, tao về Huế giải phóng cho gia đình tao, vợ con tao, không lang thang nữa”.

    Chỉ ít lâu, ông trở thành một người lính vệ quốc quân của Trung đoàn 101, đơn vị vũ trang Cách mạng đầu tiên của đất cố đô, khi chưa tròn tuổi 20. Không may dính đạn trong trận tấn công khách sạn Morin năm 1946, ông được đưa vào Bình Điền nhờ cơ sở cưu mang. Khi Huế vỡ mặt trận, đơn vị rút lên rừng lập chiến khu, ông vẫn nằm lại nhà dân ở Bình Điền trị thương. Sau khi vết thương lành, ông không lên chiến khu mà quay trở lại Dương Xuân Hạ, tập hợp bạn bè lập một đơn vị chiến đấu ngay giữa quê hương. Những chiến sỹ đầu tiên của lực lượng du kích được đặt bí danh theo số thứ tự. Là người sáng lập và chỉ huy, Thân Trọng Thoan trở thành Thân Trọng Một, những người kế tiếp tham gia vào có số thứ tự “Hai”, “Ba”, “Bốn”...

    Từ đây, tên tuổi của Thân Trọng Một bắt đầu khiến kẻ địch phải khiếp sợ khi ông tổ chức nhiều trận đánh địch dũng cảm, kiên cường. Từ những bạch binh (lính tay trắng, không vũ khí) áo vải, ông nghĩ kế dùng gậy gộc, giáo mác phục kích giết giặc, cướp súng. Ông chỉ đạo các chiến sỹ trong đội đào hố, ngụy trang dưới đống lá khô, khi lính giặc đi đến thì xuất kích bằng gậy, giáo mác khiến địch không kịp trở tay.

    Trận Lò Dầu, ông cho chiến sỹ ngụy trang trong bụi, tấn công bất ngờ một toán lính khố đỏ khi chúng nghỉ ngơi, diệt nửa tiểu đội, thu 6 súng. Trận Gò Sóng với những gậy tre vạt nhọn, những bạch binh lại bất ngờ đánh thẳng vào đội hình một trung đội ngụy binh đi tuần đường sắt, diệt 18 tên, thu đủ 18 súng. Hay tin, một viên Đại tá Pháp đang dẫn quân đi tuần gần khu vực đàn Nam Giao đã phải thốt lên “khủng khiếp”, vội vã thu quân về Trường Quốc học để cố thủ, không dám hành quân tiếp ứng. Ít lâu sau, dụng kế mỹ nhân, ông lại tổ chức dụ địch vào bãi mìn ở làng Võ Xá, diệt 8 tên. Sử dụng súng ống thu được, ông táo bạo tổ chức đơn vị tấn công hạ đồn Đôn Bạc giữa ban ngày. Chỉ sau 15 phút, toàn bộ lính đồn Đôn Bạc đã bị tiêu diệt. Khi quân địch từ hai đồn khác chi viện đến nơi thì đơn vị của ông đã rút hết an toàn.

    "Có lần vào mùa mưa, do đồng bằng không còn chỗ trú chân nên bộ đội rút lên rừng ẩn nấp và mỗi người chỉ có độc nhất một bộ quần áo. Lính tráng thiếu cái mặc khiến anh Một rất trăn trở. Hay tin lính đồn An Lỗ nhận được quân trang, anh Một không ngần ngại cùng đồng đội bí mật đột kích chiếm đồn, bắt lính xếp hàng dài giữa sân rồi lệnh 'Tất cả cởi hết quần áo ra!'. Nghe tiếng anh Một, lính ngụy răm rắp làm theo mà không biết chuyện gì đang xảy ra...”, cụ ông Thân Văn Hoàng Long kể.

    Súng ống thu được ngày một nhiều, bộ đội các huyện mạnh dần lên nhập lại với nhau trở thành tiểu đoàn bộ đội địa phương. Thân Trọng Một được cử làm Tiểu đoàn phó, ông Nguyễn Chi làm Tiểu đoàn trưởng. Sau trận đánh ác liệt vào tháng 12/1950, Thân Trọng Một bị thương, sa vào tay giặc. Biết tiếng tăm và tài năng quân sự “có một không hai” của ông nên quân địch không giết mà tìm cách mua chuộc, nhờ ông huấn luyện cho một đội quân gan dạ, tinh nhuệ như “lính của Thân Trọng Một”. Tuy nhiên, ông càng huấn luyện thì quân lính của địch lại càngvbị thương, tử vong rất nhiều khiến địch sợ hãi vô cùng. Khi trốn thoát về chiến khu, ông được phân công làm Phó Tham mưu trưởng Phân khu Trị - Thiên.

    Cay cú vì bị đánh nhiều trận đau, địch lần lượt bắt cha mẹ Thân Trọng Một - ông Thân Trọng Du, bà Trương Thị Liệu - tra tấn. Vườn nhà ông chúng chặt trụi, mang cả xe vào ủi phẳng nhà cửa để “thằng Một không còn chỗ mà về”. Vợ ông, bà Phan Thị Cháu phải ôm hai đứa con Hồng và Lạch về quê ngoại Phú Vang nương thân nhưng vẫn liên tục bị tên Đồn trưởng Đồn Nam Giao lần theo truy bức khủng bố. Gạt nước mắt, bầ phải đi bước nữa nhằm có chỗ tử tế cho hai người con của Thân Trọng Một nương thân. Nhiều năm sau ômg mới chịu tái hôn với bà Đầm, một cán bộ phụ nữ xã, tại mặt trận Phú Lộc.

    Trong những năm chống Mỹ, Thân Trọng Một là Thành đội trưởng Thành đội Huế. Một lần, đơn vị trinh sát của Thành đội cần bổ sung quân. 7 chiến sĩ thuộc loại “lỳ” nhất từ các đơn vị khác giới thiệu lên. Thân Trọng Một dẫn cả 7 người xuyên đêm, tiến về căn cứ Mỹ ở am Cây Sen. Đến sát hàng rào căn cứ, ông lệnh cho anh em đi thấp người xuống, sau đó kê nòng súng AK quạt vào trại địch nguyên cả băng đạn. Lập tức, đạn trong căn cứ nã về phía họ như mưa, hỏa châu treo sáng rõ từng ngọn cỏ. Ông lại bắn tiếp 1 băng AK, khiêu khích cho chúng vãi đạn loạn cả lên. Một hồi sau, ông ra lệnh rút. Cách hàng rào căn cứ 200m, ông bắt cả tiểu đội xếp hàng ngang, và tự tay kiểm tra... đũng quần từng chiến sỹ. Năm người ướt quần, ông nhận về đơn vị trinh sát, hai người quần khô, ông trả về bộ binh. Ông bảo: “Đụng súng đạn, ai cũng sợ cả. Nhưng sợ mà còn... tè được mới là dũng cảm. Sợ đến mức tè không được là chưa dạn dày trận mạc, chưa làm nổi lính trinh sát”.

    Chọn lính đã lạ, cách dạy lính của ông còn lạ hơn. Lính mà ăn nói không đúng mức, thiếu lễ độ với người trên, gặp ông không ăn bạt tai thì cũng bị ăn gậy. Nóng nảy, nhưng ông lại là người rất tinh, suy nghĩ hết sức thấu đáo. Biết tính ông, bộ đội vừa sợ, vừa kính trọng nhưng cũng rất quý và thương ông. Với tài lãnh đạo, cầm quân đánh trận giỏi, ông rất được bộ đội và nhân dân tin tưởng, ái mộ. Đi đâu nghe bảo “lính ông Một” là nhân dân hết sức giúp đỡ, đùm bọc. Đồng bào các dân tộc ở Thừa Thiên, những vùng có bộ đội Thân Trọng Một đóng đều tuyệt đối tin tưởng vào ông. Một lần rẫy mỳ (sắn) chống đói của đồng bào đang xanh mướt thì bị địch thả chất độc da cam hủy diệt. Thân Trọng Một ra lệnh cho bộ đội đi chặt hết cây để cứu củ. Xót của, đồng bào chạy ra ngăn cản, bắt đền, không cho “bộ đội phá hoại của dân”. Khi nghe bộ đội trình bày “ông Một biểu chặt”, đồng bào đổi ngay thái độ, vì “ông Một nói chặt là phải chặt thôi”, dù không hiểu lý do. Mấy ngày sau bới mỳ lên, họ mới phục ông hiểu rộng. Cây mỳ nào chặt cây thì còn củ, cây nào để nguyên thì củ dưới đất đều bị thâm đen.

    Dân quý và tin, lính thì khỏi phải bàn, chỉ cần nghe nói đến tên ông, họ sẵn sàng nhảy ngay vô lửa. Đi họp ở quân khu về, ông và cần vụ thấy có hai người lính cứ bám theo lẵng nhẵng. Dù anh cần vụ cho biết đã thấy họ trình giấy công tác ra Quảng Bình để xin cấp lương thực, ông biết ngay đó là hai chú lính đào ngũ. Cả khi ruột tượng gạo đi đường bị họ lấy mất, người cần vụ gợi ý, ông cũng vẫn im lặng. Đường chiến tranh khó khăn, di chuyển mất nhiều ngày, hai anh lính đào ngũ ngày càng rạc người vì đói, không thể không nhận ra. Đến lúc đó ông mới bảo người cần vụ làm một mâm cơm thịnh soạn mời họ cùng ăn. Ăn xong, ông ôn tồn nói: “Ăn hết gạo rồi thì phải trả cái bòng cho bác chứ!”. Biết không giấu được “ông già” tinh mắt và nhân hậu, hai anh lính thú nhận hết. Họ nói, máu dũng cảm họ không thiếu, nhưng ngặt gặp tay chỉ huy luồn trên đạp dưới, không chịu nổi, nên đành bỏ trốn...

    Nói chuyện một lúc, hai anh lính sinh nghi hỏi: “Bác ơi, bác có phải là Trung đoàn trưởng Thân Trọng Một không?”. Ông bảo: “Phải!”. Mặt hai anh lính sáng rực lên, dứt khoát đòi theo và được ông dẫn về đồng bằng, từ bỏ ý định đào ngũ. Hai người lính ấy, một người tên Khôi sau này làm trinh sát, đã lọt vào giữa đồn Mỹ ở Quảng Trị rồi gọi pháo bắn vào, chấp nhận hy sinh. Người kia tên Hiệp, nổi tiếng là một dũng sỹ đánh mìn diệt địch trên đỉnh đèo Hải Vân.

    Ông sẵn sàng “nhường cơm, xẻ áo” cho cấp dưới khi gặp cảnh đói, rét. Bộ đội Thừa Thiên - Huế thời chống Mỹ sống chiến đấu dựa vào sự cưu mang, đùm bọc của nhân dân; nhưng dân cũng quá nghèo nên bộ đội thường xuyên bị đói. Lo Ban Chỉ huy Thành đội sống quá thiếu thốn, giảm sức chiến đấu, Bộ Tư lệnh Quân khu thường xuyên yêu cầu bộ phận hậu cần ưu tiên cho Thành đội Huế. Một lần, dừng chân qua đêm bên sông A Rí, hai thầy trò Thân Trọng Một thức dậy thì gùi hàng lương thực biến mất. Vừa sợ vừa bực, lại biết khu vực nghỉ chân là nơi đóng quân của đơn vị 439, anh Chiến, cần vụ của ông, xin phép vào báo với BCH Tiểu đoàn. Nghe anh cần vụ đề xuất, Thân Trọng Một đột nhiên úp mặt vào tay rưng rức khóc. Ông bảo: “Tao là thằng chỉ huy tồi. Lính có đói thì mới có thằng ăn cắp. Nó lấy gùi hàng là nó chửi tao, cảnh cáo tao đó!”. Chuyến đó hai thầy trò ông quay lại Quân khu kể hết sự tình và yêu cầu chi viện ngay lương thực cho Tiểu đoàn 439.

    Thương anh em xung quanh thiếu thốn, có giai đoạn phải ăn toàn tai nai, môn thục, tàu bay, hạt ghém thay cơm, ông ra lệnh đem những nhu yếu phẩm ưu tiên cho Thành đội trưởng, chia cho họ hết. Thương ông, lính không dám nhận. Ông bèn bày ra trò đánh tú lơ khơ mỗi đêm tại lán ông. Khi anh em quây lại, ông sai cần vụ đem thịt bò khô với lương khô ra nấu cháo, chia cho mỗi người một bát, xem như cùng cải thiện.

    Mùa đông, gặp một đơn vị bộ đội đang ém quân ở Đình Môn chuẩn bị vượt sông Hương đánh quận Nam Hòa, thấy một anh lính áo quần rách rưới, ông cởi chiếc áo bông đang mặc cho ngay, còn mình thì chịu rét. Gặp một tiểu đội phòng không đang trực chiến, nghe họ than buồn, nhớ nhà, ông không ngần ngại đem chiếc radio đang dùng tặng ngay cho họ. Áy náy, người lính cần vụ gắt: “áo cũng cho, đài cũng cho, rồi thủ trưởng mặc bằng cái chi, nghe tin tức bằng cái chi?”. Ông bảo: “Cha mẹ chúng đẻ chúng ra, nuôi 18, 20 tuổi chưa nhờ cái chi, họ cho con đi kháng chiến, còn không tiếc, răng mình lại tiếc áo, tiếc đài với họ được?”.

    Ông còn được đánh giá là một cán bộ chỉ huy quân sự tài ba, đặc biệt là việc tổ chức đường lối chiến tranh nhân dân ở chiến trường Trị -Thiên. Lừa mãi không giết được ông, tề ngụy rất kính nể ông. Suốt ngày, máy bay địch cứ bay trên vùng trời chiến khu, gọi loa: “Kính thưa ông Thân Trọng Một. Ông là một tướng tài. Quân đội quốc gia sẵn sàng chấp nhận mọi yêu cầu của ông”.

    Tết Mậu Thân 1968, ông là Chỉ huy trưởng đoàn Năm, được phân công cánh Nam sông Hương đánh vào nội thành Huế. Nhà thờ họ Thân là căn cứ, một trong những trung tâm đầu não, nơi truyền đi các mật lệnh chỉ huy đánh chiếm giải phóng Huế. Ông Hoàng Long kể: “Anh Thân Trọng Một lúc đó làm Chỉ huy trưởng Đoàn 5, đơn vị có nhiệm vụ đánh vào nội thành Huế. Cạnh cây thị có một cái khe tựa giao thông hào được tán cây thị phủ kín nên anh Một chọn để tập trung lực lượng, họp bàn phương án tác chiến, tấn công".

    Nhận thấy Trung đoàn xe tăng Tam Thai của địch có hỏa lực rất mạnh, ông yêu cầu chỉ huy cho tiêu diệt cứ điểm này với quyết tâm “Dù phải hy sinh một phần ba lính đặc công của đoàn Năm cũng phải diệt cho được trung đoàn xe tăng”. Nhờ sự tính toán kỹ lưỡng, khéo léo nên trung đoàn xe tăng địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn, làm bàn đạp cho các cuộc tấn công địch kế tiếp.

    Sau khi làm chủ nội thành Huế, sẵn thực phẩm, bia rượu chiến lợi phẩm, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 810 tổ chức một buổi liên hoan mừng chiến thắng tại Trường Đồng Khánh, mời Thân Trọng Một đến dự. Khi bước vào, mặt ông đằng đằng sát khí, tay xách theo một... cây gậy. Bàn tiệc kê một dãy dài suốt hội trường. Ông chậm rãi đi từ đầu bàn đến cuối bàn, xách gậy đập, bia rượu vỡ chảy lênh láng, thức ăn văng tứ tung. Xong, ông gọi Tiểu đoàn trưởng đến phê bình vì tội chủ quan khinh địch. Đến lúc đó, những người có mặt lạnh toát sống lưng: chỉ cần một quả bom địch rơi đúng chỗ, xương máu tổn hao đã đành mà nhiệm vụ chiến đấu trong đợt Mậu Thân cũng ra mây khói.

    Ông Hoàng Long kể rằng, phát hiện ra điểm bí mật ở từ đường họ Thân, quân địch cho máy bay càn lướt, ném bom dữ dội hòng tiêu hủy tất cả: "Biết có bộ đội hoạt động ở cây thị, địch dùng máy bay thám thính dò la và phát hiện ra nơi ẩn nấp. Chúng thả một loạt đạn pháo làm gãy hết các nhánh chính và toàn thân cây cháy đen. Một mảnh đạn pháo cắm sâu vào thân".

    Sau 26 ngày đêm Quân giải phóng làm chủ thành phố thì đến lúc phản công của Mỹ - ngụy. Từ đường họ Thân là tiêu điểm cho việc tập trung bắn phá. Ông Hoàng Long kể: “Máy bay thám thính lượn đảo nhiều vòng trên không bỗng nhiên một quả khói màu định vị, sau đó là các phương tiện hiện đại trút xuống khu vực vô số bom napalm, đạn pháo, rocket. Làng mạc, nhà thờ họ cày xới tan hoang, trở thành vùng đất cháy rộng lớn. Hai cây cổ thụ xanh tươi tràn đầy nhựa sống sau trận mưa bom bỗng chốc tan tành. Cây mít biến mất hoàn toàn, cây thị chỉ còn trơ gốc”...

    “Địch ném 3 quả bom napan xuống khu vườn thiêu rụi toàn bộ cây cối. Lúc đó, cây thị cổ thụ bị bom đạn phạt sạch cành lá. Nhà thờ họ Thân cũng bị bom đạn giội nát không nhận ra đâu là nền móng. Bọn giặc càn vào làng bắt cha mẹ anh Một tra tấn đến chết”... "Mọi người ai cũng nghĩ cây sẽ chết, nhưng chẳng bao lâu sau cây lại đâm chồi, nảy nhánh và phát triển. Vết đạn hiện vẫn còn hằn sâu và khoét một lỗ hổng tại thân cây. Nhiều đơn vị khác khi hành quân qua đây đều dừng lại nghỉ chân và cũng là nơi đưa tiễn hàng trăm thanh niên lên đường nhập ngũ”.

    Sau khi đất nước thống nhất, mọi người trở về quê gây dựng lại cuộc sống, ông được cử đi học kỹ sư ngành trông trọt và chăn nuôi ở Ấn Độ. Năm 1977, ông là Chủ nhiệm Công ty Hải sản Bình Trị Thiên. Năm 1983, ông nghỉ hưu. Ông được Đảng, Nhà nước ta tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương, năm 1986 được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Cấp dưới của ông, nhiều người cũng là Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân như: Trần Phong, Nguyễn Văn Thái, liệt sỹ Nguyễn Viết Phong…

    Khi phái Thân Văn xây dựng lại từ đường, ông được giao trọng trách. Rồi ông mất năm 1993 sau một cơn đau tim dữ dội. Tháng 6/1999, tên ông được đặt cho con đường nằm bên phải chợ Tây Lộc thuộc phường Tây Lộc.

    Để tưởng nhớ nguồn cội, ngày 12/3/2009 phái Thân Văn dựng bia ký ở gốc cây thị. Tới tháng 11/2010, dòng họ Thân và người làng Dương Xuân Hạ càng tự hào khi Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) long trọng tổ chức lễ công nhận và gắn bia “Cây Di sản Việt Nam” cho cây thị cổ thụ. Đây cũng là cây Di sản đầu tiên được vinh danh tại tỉnh Thừa Thiên - Huế.

    Nhặt nhạnh từ nhiêu nguồn.
    Xem thêm sách Thân Trọng Một - Con người huyền thoại https://www.quansuvn.net/index.php/topic,31736.0.html
    Lần cập nhật cuối: 26/02/2025
    Rains2009 thích bài này.

Chia sẻ trang này