1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi Prahevajra, 15/07/2025 lúc 07:35.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    193
    Đã được thích:
    0
    ĐIỂM KIM CƯƠNG THỨ BA


    Giảng nghĩa giáo lý thực hành


    Bài bình giảng bắt đầu bằng phần giới thiệu ngắn gọn.

    1. Bài giảng thực hành có ba phần: mở đầu, phần chính và kết luận.

    Mỗi giai đoạn này, phần chuẩn bị, phần chính của bài giảng, và phần kết luận, sẽ được giải thích chi tiết.

    2. Giáo lý sơ bộ được trình bày trước tiên.

    Các pháp sơ bộ bên ngoài là hiểu biết

    Về vô thường và không còn mê muội vào luân hồi.

    Những điều này nhổ tận gốc rễ từ sâu thẳm trong tâm trí

    Mọi thứ bám dính vào cuộc sống này.

    Các bước chuẩn bị cụ thể là

    Lòng từ và thái độ bồ đề tâm mà nhờ đó

    Mọi thực hành đều được chuyển hóa vào con đường Đại Thừa.

    Vì vậy, để bắt đầu, hãy tu tập những pháp sơ bộ này.

    Bất kể thiền định theo cách nào trên con đường Đại thừa, điều quan trọng ngay từ đầu là cần suy ngẫm rằng cuộc sống của mình là vô thường và luân hồi là trạng thái đau khổ. Sau đó, liên quan đến điều này, người ta nên vun trồng lòng từ và thái độ giác ngộ của bồ đề tâm, tức là nghĩ rằng mình sẽ tự đạt được quả vị Phật vì lợi ích của chúng sinh. Điều này là cần thiết vì khi người ta nhận ra rằng cuộc sống là vô thường, họ sẽ không trì hoãn việc thực hành của mình, và việc thừa nhận rằng luân hồi là trạng thái đau khổ sẽ phá vỡ sự bám chấp của người ta vào cuộc sống này. Thông qua việc vun trồng lòng từ bi vô tư, người ta sẽ không rơi vào thái độ của Tiểu thừa; và bằng cách rèn luyện bồ đề tâm, người ta sẽ nhanh chóng đạt đến giác ngộ.

    Những điểm đặc biệt của Đại thừa là phương tiện thiện xảo của từ bi kết hợp với trí tuệ, nhờ đó người ta sẽ không ở trong bất cứ cực đoan nào trong hai cực đoan. Như được nói trong kinh Bát Nhã Ba La Mật Rút Gọn: “Nếu không có phương tiện thiện xảo và trí tuệ, người ta sẽ rơi vào con đường của các Thanh Văn”. Và còn nói thêm trong kinh Ratnavali:

    Tính không được phú cho tinh túy của lòng từ:

    Đó là thực hành của những người muốn giác ngộ.

    Và Abhisamayalamkara nói thêm:

    Nhờ trí tuệ mà không ở lại trong luân hồi

    Cũng nhờ từ bi mà không ở lại trong an lạc niết bàn.

    Đạo lộ thiếu phương tiện thiện xảo thì dài

    Nhưng có phương tiện thiện xảo thì không dài.

    Và trong Doha có nói rằng:

    Những người ôm lấy tính không mà không có từ bi

    Không tìm thấy con đường tối thượng.

    Những người chỉ nuôi dưỡng từ bi

    Ở lại trong luân hồi này họ sẽ không đạt được giải thoát

    Những người có thể kết hợp hai điều này

    Không sống trong luân hồi cũng chẳng ở trong niết bàn.

    Những bước chuẩn bị căn bản như sau.

    3. Những pháp sơ bộ sau đây vượt trội hơn nhiều

    Với mọi quán đỉnh được nhận

    Bạn thực hành hai giai đoạn: phát sinh (và thành tựu)

    Bạn nhận thức thân thể mình như một thần bản tôn

    Như những vị thần của vũ trụ và chúng sinh

    Nhờ vậy bạn lật đổ sự dính mắc vào tồn tại đích thực

    Về những gì thường được nhận thức.

    Nhờ thực hành trên con đường sâu sắc của guru yoga

    Phúc lành vô biên sẽ phát sinh

    Nhờ lòng từ mạnh mẽ của thầy

    Những chướng ngại được xua tan

    Và hai thành tựu đạt được

    Vì vậy, theo các pháp sơ bộ bên ngoài và đặc biệt

    Hãy thiền về hai pháp cao hơn.

    Khi quán đỉnh đã được thọ nhận đúng cách, trước tiên người ta thực hành các giai đoạn phát sinh và thành tựu. Đây được coi là bước vào trình độ căn bản của tư lương đạo 38 sự khởi đầu trên con đường giải thoát. Do đó, quán đỉnh là nền tảng của con đường.

    Khi điều này được tiếp nhận, con đường thực tế được mô tả, trong Mật thừa thông thường như thiền định “trên một chỗ ngồi duy nhất” trên các giai đoạn kết hợp giữa phát sinh và thành tựu. Tuy nhiên, trong bản chú giải hiện tại, phù hợp với Đại Toàn Thiện, quán tưởng một vị thần bản tôn, cùng với đạo sư yoga và sau đó là yoga vi tế của các kinh mạch, khí và giọt tinh hoa,39 đều được phân loại là khái niệm, thấp hơn, giai đoạn thành tựu, và được dạy như là các pháp chuẩn bị cho con đường của Đại Toàn Thiện. Sơ đồ chung này có thể được mô tả ngắn gọn trước tiên là ban quán đỉnh mang lại sự trưởng thành và thứ hai là các giai đoạn phát sinh, thành tựu mang lại giải thoát. Như được nói trong mật điển Bình Minh của Ánh Sáng Bất Hoại:

    Nhiều lời dạy được ban ra

    Bởi đức Kim Cang Trì vĩ đại

    Nhưng tóm lại chúng là hai:

    Những thứ mang lại sự chín muồi và những thứ mang lại giải thoát.

    Chúng tôi sẽ giải thích các quán đỉnh theo số lượng, trình tự và từ nguyên tiếng Phạn của chúng.

    Về số lượng quán đỉnh, vì có bốn phiền não cần được tịnh hóa, bốn ấn của việc thực hành, bốn kinh nghiệm của hỷ lạc, và bốn thân kết quả, vân vân, nên người ta nói, đối với những người tinh tấn trong đó, có bốn quán đỉnh.

    Có một trình tự nhất định (trong các quán đỉnh) được hiểu bằng cách áp dụng chúng vào quan kiến và cung cách mà cái hỗ trợ và cái được hỗ trợ sẽ được thanh lọc. Đầu tiên, quán đỉnh bình tiết lộ rằng các hiện tượng và tâm trí là một vị thần như huyễn, và do đó quan điểm Duy Thức được nhận ra. Quán đỉnh bí mật tiết lộ rằng các hiện tượng không nằm trong bất cứ cực đoan bản thể học nào và vượt ra ngoài cấu trúc khái niệm, và nhờ vậy quan điểm của Trung Đạo được nhận ra. Quán đỉnh trí tuệ tiết lộ sự không thể tách rời giữa hỷ lạc và tính không, và do đó các quan điểm của hai lớp bên trong của Mật tông (Maha và Anu) được nhận ra. Cuối cùng, thông qua quán đỉnh ngôn từ, tính giác siêu việt tâm trí thông thường được tiết lộ là tâm giác ngộ,40 và nhờ vậy quan điểm của Đại Toàn Thiện được nhận ra.

    Khi áp dụng vào phương pháp thanh lọc hỗ trợ và được hỗ trợ, trình tự các quán đỉnh như sau. Khi một người còn sống, tức là khi thân và tâm hợp nhất, chính thân và tâm này (cái hỗ trợ và cái được hỗ trợ) sẽ ảnh hưởng và thanh lọc lẫn nhau. Tinh túy của thân thể là sự đa dạng của các kinh mạch vi tế. Các kinh mạch là cơ sở cho các luồng khí và các giọt tinh chất, và các giọt tinh chất là cơ sở của tính giác, tức là tâm giác ngộ. Theo đó, quán đỉnh bình thanh lọc thân thể và đưa nó đến sự chín muồi. Quán đỉnh bí mật thanh lọc và làm chín muồi các kinh mạch. Quán đỉnh trí tuệ thanh lọc và làm chín muồi các giọt tinh chất. Và quán đỉnh ngôn từ quý giá thanh lọc và đưa tính giác của một người, tâm giác ngộ, đến sự chín muồi.

    Từ tiếng Phạn của “quán đỉnh” là abhiseka. Về mặt từ nguyên, yếu tố tiếng Phạn Abhiseka ám chỉ việc thanh lọc tạp chất, trong khi sikta biểu lộ việc đổ ra phúc lành. Nói cách khác, quán đỉnh thanh lọc tạp chất và truyền tải may mắn. Người ta nói về quán đỉnh vì nhờ đó họ được ban cho quyền năng để đến với linh ảnh về chân lý ngay trong kiếp này trên nền tảng của Hỷ Lạc Viên Mãn.41 Mật điển Đỉnh Kim Cương nói:

    Nghi thức, lời dạy, và hành giả,

    Theo nghi thức của mandala,

    Làm phát sinh bí ẩn của giải thoát viên mãn

    Và dẫn đến ngay trong kiếp này

    Đạt đến nền tảng của Hỷ Lạc Viên Mãn.

    Về những khiếm khuyết phát sinh nếu quán đỉnh không được nhận, Guhyagarbha nói rằng:

    Nếu một người không làm hài lòng vị thầy

    Và nếu tất cả quán đỉnh không được nhận

    Sự học và thực hành của người đó

    Sẽ không có kết quả và chẳng đi đến đâu.

    Và trong mật điển Cực Lạc Huyễn Ảo có nói:

    Nếu, không nhìn chăm chú vào mandala

    Mà yogi vẫn mong ước đạt được thành tựu

    Anh ta giống như một kẻ ngu si đập vỏ trấu

    Dùng nắm tay siết chặt đấm vào bầu trời.

    Mặt khác, những lợi ích đến từ việc thọ nhận các quán đỉnh được mô tả trong mật điển Bí Mật Tối Thượng:

    Nếu được ban truyền quán đỉnh chân chính

    Người ta sẽ đạt được thành tựu ngay cả khi không nỗ lực.

    Vậy là đã có một phác thảo chung về các quán đỉnh. Các giai đoạn của con đường mang đến giải thoát bao gồm giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu. Trong mật điển Guhyashamaja có nói rằng:

    Toàn bộ giáo lý của đức Phật

    Được trình bày hoàn hảo qua hai giai đoạn

    Giai đoạn phát sinh đến trước;

    Giai đoạn thành tựu diễn ra sau đó.

    Trong giai đoạn phát sinh, thông qua sự xuất hiện được quán tưởng của một vị thần bản tôn ở mức độ tương đối, hành giả tu luyện để loại bỏ mọi suy nghĩ thông thường và thanh lọc các uẩn, các nguyên tố và bảy thức. Trong giai đoạn thành tựu, thông qua thực hành phù hợp với lĩnh vực vi tế, tức là tính quảng đại tối thượng, không thể quan niệm được, hoạt động khái niệm của tâm trí thông thường hoàn toàn lắng xuống. Sự hợp nhất của hai giai đoạn này được định nghĩa là con đường dẫn đến thành tựu. Trong mật điển Am Kim Cương có nói:

    Nhờ thực hiện đại ấn

    Người ta đạt được thân kim cương

    Nhờ phương tiện trì tụng quý giá

    Lời nói của người ta trở thành ngữ kim cương vô nhiễm

    Trong sự chú tâm kim cương, tâm trí của người ta

    Sẽ được chứng ngộ như là báu tâm.

    Và:

    Vì vậy người ta nói về bánh xe mandala

    Phương pháp là giới nguyện về hỷ lạc

    Các yogi có niềm tin thành Phật

    Sẽ không mất nhiều thời gian để đạt tới giác ngộ.

    Nếu không thực hành giai đoạn phát sinh thì không thích hợp để tiến tới giai đoạn thành tựu. Như đã nói trong mật điển Lời Cam Kết của Dakini:

    Một con đường không có thần bản tôn

    Là một con đường sai lầm

    Và nó không phù hợp để làm con đường mật tông.

    Mặc dù thân, khẩu, ý của một người, ngay từ đầu là thân, khẩu, ý giác ngộ, nhưng chúng không xuất hiện rõ ràng như vậy, bị che khuất bởi những khuynh hướng thói quen của người đó. Để làm chúng bộc lộ rõ ràng, cần phải thiền định về các mandala của hai giai đoạn. Như đã nói trong mật điển Hevajra:

    Yoga phát sinh là

    Các khía cạnh hình thể của thần bản tôn

    Có màu sắc, khuôn mặt và cánh tay

    Tuy nhiên nó loại bỏ các khuynh hướng tầm thường.42

    Những lợi ích thu được từ việc thực hành này được mô tả trong mật điển Am Kim Cương:

    Những ai thiền về một vị Phật như vậy

    Ngay cả khi họ không đạt đến giác ngộ

    Trong những kiếp sau,

    Họ sẽ đạt được cấp độ của một vị vua vũ trụ

    Hoặc quyền thống trị trên trái đất này

    Hoặc họ chắc chắn sẽ đến những cõi tịnh độ.

    Bây giờ ý nghĩa chung của hai giai đoạn đã được phác thảo, chúng ta phải xem xét cách thiền định khi bắt đầu buổi thực hành.

    Người ta có thể thiền về bất kỳ mandala nào phù hợp, dù là của một vị thần an bình hay phẫn nộ, thuộc gia đình Phật của mình. Ngoài ra, người ta có thể thiền về Kim Cương Tát Đỏa (người hiện thân cho toàn thể các vị thần của các gia đình Phật khác nhau) cùng với phối ngẫu của mình và trì tụng thần chú trăm âm. Như đã nói: “Thiền về một đấng chiến thắng duy nhất là thiền về toàn thể chư Phật”. Tại sao lại như vậy? Đó là bởi vì toàn bộ các vị Phật đều nằm trong ngũ bộ Phật (an bình hay hung nộ), vì họ có cùng bản tính, truyền xuống một vị thần duy nhất, và bản thân vị thần này hoặc là bình an hoặc là phẫn nộ. Mật điển Samputa nói:

    Người ta nên thiền về tất cả các vị thần

    Là một vị thần hòa bình hay phẫn nộ

    Phật là một vũ công không thể tưởng tượng được

    Tôi có quyền gì để nói về điều đó?

    Tất cả đều là sự hóa hiện của tâm trí

    Và do vậy là một gia tộc duy nhất của không tính kim cương

    Sau đó trở thành năm bộ.

    Sau đó người ta nên gia trì tràng hạt của mình. Người ta quán tưởng nó như vị thần yidam thiền định của mình và hòa tan vị thần trí tuệ vào trong nó. Người ta cúng dường và tán thán (cho tràng hạt được quán như một vị thần), và, đọc tụng dharani duyên khởi phát sinh, người ta rải hoa lên nó. Các vị thần phụ mẫu hòa tan thành ánh sáng và tan chảy vào hạt chủ, sau đó biến thành các âm tiết OM AH HUNG. Tất cả các hạt khác sau đó được hình dung như các nguyên âm và phụ âm, và khi một người tụng thần chú, người đó quán từ những chữ cái này phát ra các vị thần và âm thanh của thần chú. Người ta nên giữ tràng hạt của mình bên người theo cách mà người khác không được nhìn thấy nó.

    Đối với mật chú của các vị thần, một số cầu khẩn các vị thần bằng tên, những câu khác cầu khẩn họ từ các âm tiết chủng tử của họ, trong khi những câu khác thể hiện các phẩm tính mà các vị thần được liên hệ. Như được nói trong mật điển Am Kim Cương:

    Cũng như khi, với giọng khẩn thiết,

    Bạn kêu gọi những sinh linh vĩ đại

    Ai nghe thấy bạn sẽ đến,

    Tương tự khi bạn mong ước sự hiện diện của họ,

    Chư Phật, bồ tát, dakini, minh phi

    Đến ngay lập tức khi họ nghe thấy mật chú của họ.

    Mật chú phải cực kỳ rõ ràng. Đây là ý nghĩa của cụm từ “thu hút hoặc tập hợp thông qua mật chú”, được đề cập trong kinh điển của tất cả các tầng lớp Mật tông. Một câu chú đơn lẻ được đọc thuần túy và rõ ràng còn hơn một ngàn câu chú được lẩm bẩm không rõ rệt. Một câu chú được độc mà không mất tập trung còn hơn một trăm ngàn câu chú được đọc xao lãng thiếu tập trung. Mật điển Bí Mật Tối Thượng nói:

    Trì tụng thanh tịnh thì ngàn lần

    Cao hơn trì tụng bất tịnh.

    Niệm với tâm tập trung

    Vượt trội gấp trăm ngàn lần

    Niệm mà không tập trung.

    Và trong Con Đường Bồ Tát chúng ta thấy:

    Trì tụng và khổ hạnh,

    Mặc dù có thể chứng thực là lâu dài,

    Nhưng nếu thực hành với tâm trí xao lãng,

    Thì vô ích, Đấng Biết Thực Tại đã nói vậy.43

    Khi đã quán tưởng bản thân trong hình dạng một vị thần yidam và trì tụng thần chú trong một thời gian ngắn, người ta hình dung vị thầy gốc của mình đang ngồi trên đỉnh đầu và được bao quanh bởi chư Phật, bồ tá, daka và dakini. Người ta cúng dường ngài, tụng những lời ca ngoại và sám hối, cầu nguyện để hoàn thành mục tiêu mong ước của mình. Vì vị thầy là gốc rễ của mọi con đường và là cội nguồn của mọi thành tựu. Mật điển Trí Tuệ Ban Sơ Xuất Hiện Đầy Đủ nói rằng:

    Nhờ lòng tận tụy với thầy nhiều tháng nhiều năm

    Bạn sẽ đi qua tất cả các giai đoạn của nền tảng và con đường.

    Nếu vị thầy luôn hiện diện với bạn,

    Bạn sẽ chẳng bao giờ xa cách toàn thể chư Phật.

    Cũng được nói trong Sự Sắp Đặt của các Samaya:

    Bằng lòng sùng kính không lay chuyển

    Đạt tới cảnh giới Kim Cang Trì trong sáu tháng.

    Và trong mật điển Trí Tuệ Bản Nguyên Siêu Việt nói rằng:

    Hãy quán tưởng vị thầy vĩ đại của bạn

    Như vật trang hoàng cho luân xa đỉnh đầu của bạn.

    Guru Yoga là cần thiết để ngăn chặn những trở ngại xảy ra và để đảm bảo rằng sự chứng ngộ sẽ đến tự nhiên và dễ dàng ngang qua những nền tảng và con đường.
  2. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    193
    Đã được thích:
    0
    Những lợi ích từ việc tu tập các thực hành sơ bộ như sau.

    4. Qua bốn pháp sơ bộ này

    Tâm bạn sẽ bước vào con đường không sai lầm

    Và một khi bạn đi theo con đường tối thượng này đến tự do

    Bản tính nền tảng sẽ nhanh chóng biểu lộ.

    Bạn sẽ đạt được sự thiện xảo dễ dàng trong thực hành chính

    Và sẽ không có trở ngại nào cả.

    Những phẩm tính vô tận bạn sẽ sở hữu:

    Gần tới thành tựu và mọi thứ còn lại.

    Do đó, việc tu luyện trong các pháp sơ bộ là quan trọng nhất.

    Trước khi an trú trong trạng thái tự nhiên, bất biến của tính giác, tâm giác ngộ của Đại Toàn Thiện, người ta phải tu luyện bốn pháp sơ bộ: (1) quán chiếu về vô thường; (2) tu luyện từ bi và bồ đề tâm; (3) quán tưởng thế giới hiện tượng như một cõi Phật và các vị thần, cùng với việc trì tụng thần chú và sự tập trung của yoga vi tế, và (4) thực hành thiền định guru yoga kèm theo những lời cầu nguyện gửi đến vị thầy của mình. Được trang bị những pháp sơ bộ này, người ta khởi đầu mà không mắc sai lầm trên con đường giải thoát. Ý nghĩa của bản tính nền tảng sẽ được hiểu, và sẽ dễ dàng tu luyện các thực hành chính. Không có chướng ngại nào phát sinh, và những thành tựu tối cao và phổ thông sẽ nhanh chóng đạt được. Những phẩm chất này và khác sẽ đạt được. Ngày nay, nhiều người thiền định trên con đường này mà không tu các pháp sơ bộ. Tuy nhiên, đây là một sai lầm.

    Bây giờ con đường thực tế sẽ được thảo luận bắt đầu bằng một bài trình bày ngắn.

    5. Về thực hành chính,

    Thông qua các phương tiện thiện xảo của sự tập trung

    Vào hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm

    Bản tính nền tảng của tâm trí

    Giờ đây sẽ được giới thiệu với bạn

    Trí tuệ nguyên thủy sáng ngời, thoát khỏi mọi tạo tác,

    Sẽ xuất hiện tự nhiên và đồng thời.

    Mặc dù củi nhóm lửa không phải là lửa, tuy nhiên, chính nhờ những phương tiện như vậy mà lửa được nhìn thấy bùng cháy. Theo cách so sánh, hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm không cấu thành nên tính giác thực sự của một người, đó là trí tuệ nguyên sơ tự hiện, không do tạo dựng và cùng phát sinh. Tuy nhiên, nếu một người tinh tấn bằng những phương tiện thiện xảo như vậy, với hỷ lạc tương ứng với các giọt tinh hoa, sự sáng tỏ tương ứng với các luồng khí, còn vô niệm tương ứng với các kinh mạch, những người đã nhận được những chỉ dẫn cốt lõi từ một vị thầy mà họ có lòng sùng mộ chân thành, sẽ, nhờ tất cả những yếu tố này, chứng ngộ trí tuệ ban sơ. Trí tuệ bản nguyên này được mô tả trong kinh Hiển Thị Bao La:

    Sâu xa, an bình, không có suy nghĩ, sáng chói, không được tạo ra

    Cam lộ chân như, giờ đây tôi đã khám phá nó

    Nếu tôi dạy nó, sẽ chẳng có ai hiểu được

    Và vì vậy, tôi sẽ ở lại trong rừng, không nói lời nào.

    Một diễn giải chi tiết về con đường này hiện được đưa ra dưới ba tiêu đề, đầu tiên luieen quan đến phương tiện thiện xảo để đạt được lạc không đồng thời.

    6. Trước tiên, pháp giới thiệu thông qua phương tiện thiện xảo của đại lạc

    Tiếp theo những pháp thiền sơ bộ đã giải thích trước đó

    Hãy quán tưởng ba kinh mạch, thẳng như các trụ cột

    Đi qua trung tâm của bốn luân xa

    Kinh mạch bên phải có màu trắng;

    Kinh mạch bên trái có màu đỏ;

    Mạch trung tâm màu xanh, và giống như một ống rỗng.

    Đỉnh của nó nằm ở huyệt Brahma,

    Kết thúc bên dưới ở trung tâm bí mật.

    Trong kinh mạch trung tâm, ở tầm rốn,

    Có chữ A, từ đó lửa bùng cháy, tạo thành

    Dòng mật hoa chảy xuống từ chữ HANG nằm trong đỉnh đầu.

    Thứ này sẽ đổ đầy bốn luân xa và không gian bên trong thân thể.

    Khi lạc thọ tràn ngập thân thể

    Mật hoa từ chữ HANG

    Chảy xuống không ngừng

    Đến chữ BAM trong tim

    Hãy thiền như vậy cho đến khi trải nghiệm về lạc xuất hiện.

    Sau đó chữ BAM sẽ nhỏ hơn và mịn hơn

    Giờ đây tâm trí bạn lắng dịu, thoát khỏi những suy nghĩ và hình ảnh

    Trong trạng thái không có bất cứ cấu trúc khái niệm nào

    Thông qua phương pháp này, lạc thọ do định sẽ xuất hiện

    Và do đó có trạng thái an trú tĩnh lặng.

    Vị thầy Sri Simha đã ban cho vị thầy Padmasambhava những chỉ dẫn sau đây được lấy từ dòng truyền khẩu về hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm không thể nghĩ bàn. Về phương tiện thiện xảo của đại lạc, một khi đã thiền về thế giới hiện tượng như một vị thần và thực hành guru yoga, người ta nên quán tưởng luân xa của đại lạc, với 32 kinh mạch hướng tâm ở đỉnh đầu. Luân xa hưởng thụ, với 16 kinh mạch, nên được quán tưởng ở tầm cổ họng, luân xa thực tại tối hậu, với 8 kinh mạch của nó nên được quán tưởng ở tầm tim, và luân xa hóa hiện, với 64 kinh mạch nên được quán tưởng ở tâm rốn của hành giả.

    Ba kinh mạch giống như trụ cột nên được quán tưởng như đang đi qua giữa các luân xa này. Mạch roma màu trắng ở bên phải. Mạch kyangma màu đỏ bên trái. Ở giữa là trung mạch “luôn rung động”, có màu xanh lam. Đầu trên của mạch này chạm đến đỉnh đầu, còn đầu dưới nằm ở trung tâm bí mật. Kênh trung mạch tăng kích thước. Lúc đầu nó giống như một cọng lúa mì, sau đó giống như cây ubhi.44 sau đó, nó trở thành như một chiếc bình để khuấy sữa, và cuối cùng, toàn bộ thân thể hành giả trở thành kinh mạch trung tâm, vi tế và trong suốt. Do tâm trí tập trung vào trung mạch, bất kể người ta có thể tập trung vào những kinh mạch khác, chỉ có những phẩm chất của trung mạch mới phát sinh. Đây là một chỉ dẫn quan trọng.

    Bên trong trung mạch, ở tầm rốn, có một chữ A rực lửa.45 nó có kích thước bằng đầu sợi tóc, từ đó bùng lên một ngọn lửa giống như (lông của) đuổi ngựa. Khi nó chạm vào HANG (kích thước bằng một hạt đậu) ở đỉnh đầu, một dòng cam lộ trắng và đỏ chảy ra từ nó và lấp đầy bốn luân xa rồi sau đó là toàn bộ thân thể. Cụ thể, người ta nên quán tưởng nó rơi vào chữ BAM màu xanh lam nhạt ở tim và khiến cho hỷ lạc phát sinh. Khi, thông qua thiền định theo cách này mà không bị phân tâm, người ta kinh nghiệm lạc thọ về cảm giác thể chất, chữ BAM trở nen nhỏ hơn và mịn hơn đến khi nó biến mất. Trong trạng thái tâm trí tiếp theo, không có bất cứ suy nghĩ nào, người ta nên nghỉ ngơi trong trạng thái nhập định. Vào thời điểm đó, nhờ vào chỉ dẫn quan trọng này, trí tuệ nguyên thủy nội tại, an lạc, trống rỗng và thoát khỏi cấu trúc khái niệm sẽ biểu hiện.

    Sự sáng tỏ của lạc không vừa phát sinh được mô tả như sau.

    7. Một trạng thái của tâm trí sau đó xuất hiện

    Vượt qua mọi suy nghĩ, vượt ngoài mọi diễn đạt

    Một trạng thái như không gian vượt trên tâm trí thông thường

    Đây là tính sáng chói đầy hỷ lạc và trống rỗng

    Của trạng thái Đại Toàn Thiện

    Pháp tính trong suốt và không thể nghĩ bàn.

    Nếu hành giả thiền định trong trạng thái thoát khỏi những hình ảnh tinh thần về phương tiện thiện xảo của hỷ lạc, tâm trí sẽ trở nên an lạc tương ứng, và một trạng thái tỉnh giác không có các hoạt động tinh thần sẽ biểu lộ. Nó sẽ trong trẻo, sâu sắc, rộng mở như không gian, và xuyên thấu tất cả. Đó là trạng thái an lạc, sáng ngời của Đại Toàn Thiện, trí tuệ nguyên thủy tự phát sinh, tự biểu hiện. Như đã nói trong mật điển Cõi Bí Mật:

    Tâm trí không thể ôm trọn kim cương của đại lạc,

    Thứ về bản tính là sự bao la của ánh sáng.

    Những kinh nghiệm có được từ phương pháp thiền này như sau.

    8. Khi bạn quen với điều này

    Bốn kinh nghiệm sẽ đến với bạn:

    Mọi thứ bạn nhận thức đều dễ dàng.

    Ngày và đêm bạn không rời khỏi trạng thái an lạc.

    Tâm tư bạn không bị quấy nhiễu bởi những nỗi khổ của dục vọng và hần thù

    Và trí tuệ biểu lộ

    Nhờ đó mà ý nghĩa lời Phật dạy được hiểu.

    Trong số này, có ba kinh nghiệm xảy ra do sự tăng cường (cả chất lượng và số lượng) của các thành phần thiết yếu tinh túy.46 Đây là nhận thức dễ dàng về mọi thứ, kinh nghiệm về hỷ lạc cả ngày và đêm, và thực tế là tâm trí không bị quấy rầy bởi sự dày vò của các phiền não. Nhờ vậy, hành giả sở hữu một trí tuệ phi thường bắt nguồn từ kinh nghiệm về một linh ảnh trực tiếp của tính giác và lòng từ ổn định, liên tục.

    Những phẩm chất nào có được từ phương pháp thiền định này?

    9. Thông qua thiền định liên tục

    Mặt trời của những phẩm chất vô hạn

    Sẽ xuất hiện trong tâm thức bạn:

    Những quyền năng về linh ảnh, thiên nhãn trí, và những thứ khác.

    Sự giới thiệu này vào bản tính của tâm

    Nhờ phương tiện thiện xảo của đại lạc

    Là một chỉ dần trọng yếu và sâu xa.

    Thông qua thiền định thêm nữa về lạc không phi thường, hành giả sẽ đạt được sự ổn định cao hơn trong đó, và nhiều phẩm chất khác sẽ biểu hiện, chẳng hạn như quyền năng về linh ảnh, kiến thức siêu nhiên và khả năng làm ra các phép lạ.47

    Bây giờ có một giáo lý liên quan đến trí tuệ nguyên thủy sáng suốt và trống rỗng, thoát khỏi suy nghĩ miên man. Đầu tiên, giáo lý này giải thích cách hành giả nên thiền về phương tiện thiện xảo của tính sáng tỏ.

    10. Thứ hai là pháp giới thiệu

    Thông qua phương tiện thiện xảo của tính sáng tỏ

    Luyện tập đầu tiên trong các pháp sơ bộ như trước

    Sau đó, quán tưởng ba kinh mạch

    Theo cách mà Ro kyang có phần kết thúc bên dưới

    Cong và xuyên qua kinh mạch trung tâm

    Và đầu trên chạm tới lỗ mxui.

    Khi bạn thở ra không khí cũ ba lần,

    Mọi bệnh tật, thế lực xấu xa

    Tội lỗi và chướng ngại đều bị đào thải.

    Khi bạn hít vào từ từ ba lần,

    Thế giới tĩnh lặng và vật dụng chuyển động mà nó chứa đựng, tan chảy thành ánh sáng.

    Được hút vào lỗ mũi

    Đi qua ro kyang,

    Chúng đi xuyên qua trung mạch

    Rồi sau đó hòa tan thành một quả cầu ánh sáng có kích thước bằng ngón tay cái

    Ngay chính giữa tim bạn

    Hãy tập trung vào điều này lâu nhất có thể.

    Kết hợp các luồng khí trên và dưới lại với nhau.

    Khi thở ra, hãy giữ lại một ít không khí

    Việc hít vào thở ra nhẹ nhàng có tầm quan trọng rất lớn

    Mọi điều tuyệt hảo

    Của chư Phật và những bậc được tán thán

    Tan chảy vào tim bạn

    Đừng rời khỏi trạng thái này

    Thông qua phương pháp này

    Trạng thái tâm trí trong suốt, sáng ngời, và tĩnh lặng sẽ biểu lộ.

    Như trong thiền định trước đây về các kinh mạch, các đầu dưới của những mạch roma và kyangma đi vào trung mạch, trong khi các đầu trên kéo dài vào hai lỗ mũi. Khi hành giả thở ra không khí cũ qua chúng, mọi bệnh tật và ảnh hưởng tiêu cực đều bị đẩy ra ngoài. Khi hít vào chậm rãi, (quán tưởng rằng) tam giới cùng toàn thể các phẩm tính tuyệt hảo của chư Phật, vân vân, đi vào lỗ mũi hành giả dưới dạng ánh sáng năm màu. Những thứ này, cùng với các luồng khí, đi xuống và đi vào trung mạch qua các đầu dưới của roma và kyangma, sau đó chúng đi lên và hòa tan vào trung tâm tim. Thông qua sự chú tâm vào trung mạch chứa đầy các luồng khí của năm trí tuệ, tâm sáng chói trống rỗng minh mẫn, vô niệm, sẽ biểu lộ. Đây là một chỉ dẫn vô cùng sâu sắc mà qua đó hành giả tập hợp toàn thể thế giới dưới sức mạnh của mình và nhanh chóng nhận được phúc lành của chư Phật. Nhờ đó, trí tuệ và sự tập trung sẽ phát sinh như chưa từng có.

    Pháp quán tưởng cần thiết để tu tập về tâm sáng chói như sau.

    11. Hãy quán tưởng ánh sáng rạng rỡ tăng cường

    Từ ánh sáng trong tim bạn

    Khiến bốn luân xa và thân thể bạn bừng sáng

    Và tràn ra ngoài, lấp đầy thế giới bằng ánh sáng

    Nếu thiền như vậy cả ngày lẫn đêm

    Trong vòng vài hôm, những giấc mơ của bạn sẽ dừng lại

    Và bạn sẽ nhìn thấy những hình tướng sáng láng này:

    Một mặt trăng, một ngọn đuốc bùng cháy, đom đóm, các vì sao và tất cả những thứ còn lại

    Bên ngoài và bên trong, khắp nơi đều tràn ngập ánh sáng ngũ sắc

    Vì tâm trí bạn tập trung vào trạng thái sáng tỏ

    Thiền an trú tĩnh lặng, samatha, sẽ biểu lộ.

    Sau khi thiền về ánh sáng trí tuệ trong trung mạch, hành giả quán bốn luân xa tràn đầy ánh sáng, sau đó thấm nhuần toàn bộ thân thể và tràn ra ngoài. Giữ hơi thở bình, hành giả tập trung chú ý của mình vào tuệ quang ngũ sắc, thấm nhuần tất cả thế giới của toàn thể vũ trụ giống như không gian. Khi hơi thở được đẩy ra, hành giả giữ lại một chút hơi bên trong rồi sau đó hít vào từ từ. Khi thiền theo cách này, các dấu hiệu sẽ xuất hiện và chỉ ra rằng khí của ngũ trí được giữ lại bên trong trung mạch. Hào quang ngũ sắc sẽ hiện ra xung quanh am thất thiền định. Vô số màn trình diễn ánh sáng sẽ xuất hiện: những ngọn đuốc rực sáng, mặt trăng mọc, đom đóm, khói, mây, sao, các vòng ánh sáng, các vị thần hóa hiện, vân vân. Lúc đó, cả an trú tĩnh lặng (tâm trí trong trạng thái hoàn toàn phẳng lặng) và tuệ quán sâu sắc (quang minh trần trụi của tâm trí) sẽ xuất hiện kết hợp trong một bản tính đơn nhất.

    Sau đó, hành giả tập trung vào ánh sáng hoàn toàn thanh tịnh.

    12. Ánh sáng sau đó tụ họp trở lại vào tim bạn

    Rồi từ từ giảm dần cường độ cho đến khi

    Tâm trí bạn nghỉ ngơi trong trạng thái trống rỗng

    Không tập trung vào bất cứ điều gì

    Tâm trí bạn sẽ ở trạng thái trống rỗng, trong trẻo và minh mẫn

    Sáng tỏ tự nhiên thoát khỏi mọi tạo tác hóa hiện.

    Toàn bộ biểu lộ của ánh sáng được thu rút từ bốn luân xa quay trở lại luân xa tim của hành giả và ngày càng trở nên vi tế và thanh nhã hơn. Sau đó, anh ta nghỉ ngơi trong trạng thái đó, như chính không gian, chẳng tồn tại như bất cứ thứ gì cả. Nhờ đó, tính giác trong trẻo và rõ ràng, không pha trộn, không do tạo dựng, và không bị giới hạn, sẽ biểu lộ. Đây là trí tuệ bản nguyên, tự phát sinh, sáng chói và trống rỗng.

    Tính quang minh vừa phát sinh đã được xác định.

    13.Đó là trí tuệ ban sơ

    Sáng chói và trống rỗng, không bị chế định.

    Đó là phương thức căn bản của hiện tồn

    Của Đại Toàn Thiện tự nhiên.

    Trạng thái trong suốt sáng tỏ này, không pha tạp, không tạo tác, là pháp nền tảng cho sự tồn tại của Đại Toàn Thiện. Như được nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

    Thoát khỏi sự vận hành tinh thần,

    Không có các đặc điểm,

    Đó là trạng thái

    Của tính sáng tỏ tự phát sinh.

    Những kinh nghiệm sau đây là kết quả của thiền định này.

    14. Khi quen với thiền như vậy

    Bốn kinh nghiệm sẽ biểu hiện

    Bạn sẽ nghĩ những thứ xuất hiện

    Là khó nắm bắt, trong suốt, và không bị ngăn trở.

    Ánh sáng sẽ tràn ngập ngày và đêm của bạn

    Tâm trí sáng suốt và minh mẫn của bạn sẽ không bị các suy nghĩ lay động

    Và thoát khỏi tính nhị nguyên của người nắm bắt và đối tượng được nắm bắt.

    Tri thức sẽ dâng trào từ bên trong

    Thông qua thiền định về các luồng khí (tính sáng), ba kinh nghiệm sẽ xuất hiện. Bạn sẽ có ấn tượng rằng các hiện tượng là không thể nắm bắt và thuộc về sự mở rộng không bị cản trở. Đêm và ngày sẽ sáng rực rõ ràng. Suy nghĩ sẽ dừng lại, trạng thái tâm trí trong suốt và rõ ràng sẽ xuất hiện. Cuối cùng, kinh nghiệm đạt được thông qua nhận thức được duy trì liên tục về tính giác sẽ xảy ra: tính nhị nguyên của chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức sẽ biến mất, và sự thông hiểu rộng lớn sẽ biểu lộ trong một tâm trí linh hoạt và mẫn tiệp.

    Những phẩm chất có được từ phương pháp thiền này như sau.

    15. Thông qua việc tăng cường thói quen

    Thiên nhãn trí sẽ xuất hiện

    Bạn sẽ phát triển quyền năng của linh ảnh

    Nhận thức được các đối tượng siêu tinh thần

    Ngay cả khi chúng bị che khuất bởi những vật khác

    Bạn sẽ có được quyền năng thực hiện các phép màu

    Sự giới thiệu bản tính của tâm

    Bằng phương tiện của tính sáng tỏ là tinh hoa

    Của những chỉ dẫn sâu sắc nhất.

    Thông qua tu luyện yoga về khí, hành giả sẽ đạt được sự chú tâm, nhờ đó, kiến thức siêu nhiên sẽ biểu lộ. Hành giả sẽ có được các quyền năng về linh ảnh, chẳng hạn như khả năng nhìn thấy mọi thứ ngay cả khi chúng bị che khuất bởi một bức tường. Ngoài ra hành giả sẽ có được các thần thông. Như đã nói trong kinh Bát Nhã Tóm Lược:”Thông qua định, bồ tát sẽ tránh xa những thú vui thấp hèn của các giác quan và sẽ sở đắc các thắng trí, xuất thế gian trí và sự chú tâm”.

    Bây giờ có một lời dạy liên quan đến trí tuệ nguyên thủy vô niệm, trống rỗng và tỉnh giác, trong đó các giai đoạn thiền định về phương tiện thiện xảo của vô niệm được giải thích. Nói chung, việc thành tựu trạng thái vô niệm nhờ tập trung vào sự gia tăng kích thước của vùng bên trong trung mạch tương tự như hai thực hành trước. Cụ thể hơn, thông qua ba giai đoạn thúc đẩy, tập trung và tinh chỉnh, hành giả tiến hành theo các điểm đặc biệt của tính giác, rồi bằng phường tiện này, hành giả được đưa vào trạng thái vô niệm nhanh chóng và trực tiếp.

    (Một mô tả được đưa ra lúc này về kỹ thuật đầu tiên, kỹ thuật đẩy).

    16. Thứ ba, thông qua phương tiện thiện xảo của vô niệm

    Bản tính của tâm được giới thiệu

    Hãy thiền như trước đây về các pháp sơ bộ.

    Sau đó thực hiện ba điểm của thực hành chính thức:

    Đẩy mạnh, tập trung và sau đó là tinh chỉnh

    Thực hành đẩy mạnh như sau:

    Quán tưởng trong tim bạn

    Tâm trí bạn nghỉ ngơi, sáng ngời tự nhiên

    Có một chữ A hoặc một quả cầu ánh sáng

    Kích thước bằng ngón tay cái của bạn

    Sau đó đọc HA một cách mạnh mẽ

    Hai mươi lần

    Quán tưởng rằng chữ cái được

    Phóng thẳng lên đỉnh đầu bạn

    Càng lúc càng cao hơn lên bầu trời phía trên

    Cho đến khi nó biến mất khỏi tầm nhìn

    Thư giãn cả tâm trí và cơ thể thật sâu

    Và duy trì trạng thái nhập định

    Dòng tư tưởng ngay lúc đó sẽ dừng lại, và bạn sẽ được nghỉ ngơi

    Trong một trạng thái không thể diễn tả bằng lời nói hay ý niệm.

    Một kinh nghiệm vượt ngoài tầm suy nghĩ

    Nơi không có gì để thấy.

    Sau đó, hành giả nên tiếp tục thiền định như trước (về các kinh mạch, vân vân) cho đến ranh giới trống rỗng của trung mạch. Sau đó, một quả cầu ánh sáng năm màu kỳ diệu bắn ra từ đỉnh đầu và đi vào không gian, ngày càng cao hơn, cho đến khi nó trở nên vô hình. Tiếp theo, hành giải phải đọc mạnh âm tiết HA hai mươi mốt lần, rồi thư giãn cơ thể và tâm trí.48 Khi đó, tính sáng vượt ngoài suy niệm và ngôn từ, siêu việt mọi mô tả, sẽ xuất hiện. Hành giã cũng sẽ trải nghiệm một trạng thái như không gian, vượt ngoài tầm biểu đạt khái niệm.

    Kỹ thuật thứ hai bây giờ được mô tả: tập trung vào tính giác của hành giả.

    17. Bây giờ đến giai đoạn tập trung tỉnh giác

    Quay lưng về phía mặt trời

    Hướng mắt lên bầu trời trong trẻo

    Yên lặng và để hơi thở thư giãn

    Cho đến khi bạn không còn cảm thấy chuyển động của nó nữa

    Và từ bên trong trạng thái vô niệm

    Tự do khỏi tạo tác sẽ xuất hiện

    Một kinh nghiệm thiền về tính không như không gian

    Sẽ nảy sinh.

    Khi bầu trời hoàn toàn trong xanh, hành giả nên ngồi quay lưng về phía mặt trời và tập trung vào bầu trời với ánh mắt bất động. Hành giả nên để hơi thở của mình trôi chảy nhẹ nhàng. Trong khoảnh khắc hơi thở được giữ ở bên ngoài, minh không sẽ xuất hiện. Hành giả sẽ có kinh nghiệm về trạng thái tâm trí trong suốt và rộng mở, như bầu trời, không giới hạn hay thiên lệch. Vì như đã nói: “Ngoài sao, trong vậy”: các phạm vi bên ngoài và bên trong phụ thuộc lẫn nhau.

    Lúc đó, cái thấy về “ba không gian” sẽ xuất hiện. Trên cơ sở không gian bên ngoài trong trẻo và trống rỗng (bầu trời), không gian bên trong không có tạp niệm sẽ xuất hiện. Khi điều này xảy ra, không gian bí mật vô ngại và thâm nhập toàn thể, tính giác trần trụi rỗng rang, sẽ được chứng ngộ, được nhận thức thông qua pháp thiền được phú cho các phương tiện thiện xảo và phúc lành. Đây là một chỉ dẫn vô cùng sâu sắc của vị thầy người Nepal Kamalasila.

    Cuối cùng, kỹ thuật thứ ba được mô tả: tinh chỉnh mọi thứ thành tính giác trần trụi.

    18. Sau đó, không xao lãng, cố định ánh mắt chăm chú của bạn lên trời

    Và trong trạng thái tinh thần sáng suốt

    Nơi mà những ý nghĩ không phát triển hay tan biến,

    Hãy thiền, quán chiếu rằng đất và đá

    Những ngọn đồi, vách đá

    Vũ trụ và chúng sinh trong toàn thể của chúng

    Trở nên giống như không gian, một sợ mở rộng không bị cản trở

    Bạn không có sự nắm bắt

    Ngay cả thân thể bạn như một hình tướng thô thiển, có thật

    Hãy an trú trong trạng thái mà không gian và tâm trí bạn

    Không thể phân biệt được

    Không có sự nhìn nhận về thế giới bên ngoài hay bên trong

    Hoặc cái gì đó ở giữa

    Và trong trạng thái không gian đó

    Hãy thư giãn thật sâu cơ thể và tâm trí bạn

    Ký ức và suy nghĩ, mọi chuyển động tinh thần

    Đều tự nhiên dừng lại

    Với vô niệm lan tỏa và tan biến

    Tâm trí vẫn ở trong tình trạng tự nhiên của nó

    Trạng thái tối hậu của các hiện tượng

    Và tâm trí vượt trên mọi ý niệm và ngôn từ

    Vào thời điểm đó, là không hai

    Một sự chứng ngộ giống như không gian giờ đây ló rạng

    Đây là bản tính tinh hoa của các Đấng Chinh Phục

    Từ quá khứ, hiện tại, đến tương lai.

    Khi sự tỉnh giác của một người hướng vào bầu trời, bầu trời sẽ trở nên rộng rãi và trống rỗng, vào này, người đó sẽ cảm thấy mọi quang cảnh bên ngoài, đất và đá, núi, vách đá, vân vân, chung quy, toàn thể vũ trụ cùng cư dân của nó trở nên hoàn toàn phi vật chất. Chúng tan biến vào trạng thái rộng mở và hội nhập với chính không gian. Ngay cả cơ thể cua chính mình cũng tự nhiên tan biến và trở thành như chính không gian. Mọi thứ giống như những đám mấy tan vào bầu trời. Tâm trí, thoát khỏi vận hành của những suy nghĩ, lắng đọng trong trạng thái tỉnh thức thâm sâu, quảng đại, bao trùm toàn thể, trong đó không có phạm vi bên ngoài hay bên trong, cũng chẳng có bất cứ chiều kích nào ở giữa. Sự chứng ngộ thoát khỏi những cực đoan, giống như không gian, tự nhiên hiển lộ. Trạng thái này được biết đến là nhận ra sự cạn kiệt của các hiện tượng trong tính thanh tịnh bản nguyên. Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể: “Yoga này giống như thiên đạo của loài chim”. Còn Bát Nhã Ba La Mật Tóm Lược nói: “Muốn biết điều này là gì, hãy thẩm tra không gian thanh tịnh”.
  3. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    193
    Đã được thích:
    0
    Những kinh nghiệm có được từ phương pháp thiền định này như sau.

    19. Khi bạn thiền như vậy

    Bốn kinh nghiệm xảy ra

    Mọi hiện tượng dường như không thực chất

    Vì bạn không có cảm giác về vật chất thô

    Cả ngày và đêm bạn không rời khỏi trạng thái vô niệm

    Vì năm độc tự nhiên lắng dịu

    Dòng tâm thức của bạn sẽ mềm mại nhẹ nhàng

    Bạn sẽ nếm trải bảnh tính rộng lớn của mọi thứ.

    Nhờ làm quen với ba yếu tố thúc đẩy, tập trung va tinh chỉnh này, nhiều kinh nghiệm khác nhau liên quan đến trung mạch và bản chất của tính giác sẽ xuất hiện. Biết rằng mọi thứ xuất hiện đều khó nắm bắt, không thể nắm bắt và không có thực chất, người ta sẽ không còn nhận thức về mọi vật như là thô và vật chất nữa. Người đó sẽ duy trì cả ngày lẫn đêm trong trạng thái không có sự vận hành của ý niệm. Phiền não không thể phát sinh, trong bất kể hoàn cảnh nào, người đó sẽ không có hy vọng và sợ hãi. Dòng tâm thức của người đó sẽ mềm mại và nhẹ nhàng. Hiểu rằng mọi hiện tượng đều không sinh như không gian, người ta sẽ không thực hiện các hành động cố ý và chẳng tốn công để lưu ý về chúng.

    Những phẩm chất có được từ việc quen thuộc với vô niệm như sau.

    20. Thông qua tu luyện kỹ thuật thứ ba này về vô niệm.

    Bạn sẽ đắc quyền năng linh ảnh và thần nhãn

    Sự tập trung và nhiều phẩm chất khác.

    Thông qua sự hợp nhất của phương tiện thiện xảo và trí tuệ

    An trú tĩnh lặng và nội quán sâu sắc

    Bạn sẽ đạt được cho bản thân và người khác

    Các mục tiêu trước mắt và cuối cùng.

    Nhờ tu tập trong phương pháp thiện xảo thứ ba (vô niệm), người ta đạt được sự chú tâm thiền định. Những quyền năng của linh ảnh, kiến thức siêu nhiên và một dạng tập trung mà trước đây chưa từng được biết đến, cùng với con đường hợp nhất giữa phương tiện thiện xảo và trí tuệ, cùng với con đường hợp nhất giữa an trú tĩnh lặng và tuệ quán sâu xa, sẽ được thành tựu. Nhờ đó, những nền tảng và con đường tạm thời cũng như tối hậu cùng tất cả những phẩm chất tuyệt diệu sẽ được thành tựu.

    Đến đây kết thúc phần nói về các giai đoạn thực hành thiền định thực sự, hay chủ đạo.

    Bây giờ chúng ta tới phần kết luận thứ ba, đó là phần hỗ trợ nhữ áo giáp phụ trợ cho thực hành chính. Đây là mục tóm lược.

    21. Trong phần giải thích kết luận

    Bốn chủ đề được thảo luận:

    Các kinh nghiệm trong thiền

    Tăng cường, chứng ngộ và thành quả.

    Sau lời giải thích ngắn gọn này là lời giải thích chi tiết hơn.

    Đầu tiên trong bốn chủ đề là mô tả về những kinh nghiệm sai lầm (có thể xảy ra trong quá trình thiền định).

    22. Các kinh nghiệm thiền có hai loại:

    Những thứ không có khuyết điểm đã được thảo luận ở trên.

    Thứ có khuyết điểm đến từ sự dính mắc và bám chấp

    Về hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm

    Những thứ này bao gồm việc bám víu vào những kinh nghiệm

    Hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm.

    Khi xem xét những kinh nghiệm như vậy

    Như các đối tượng tự thân

    Khi bám chấp vào chúng một cách sai lầm

    Và trộn chúng với chất độc

    Hỷ lạc sai lệch báo hiệu dục vọng thô tục

    Hao tổn tinh khí gây ra

    Hầu hết sự bất mãn và ngu độn.

    Tính sáng sai lệch ám chỉ sự nhiễu loạn điên cuồng

    Của khí và những cơn giận thông thường .

    Nó chủ yếu dẫn đến sự lan truyền

    Những ý nghĩ thô tục hoặc kích động.

    Vô niệm sai lệch là trạng thái vô minh thông thường,

    Chủ yếu bao gồm trạng thái trì trệ tinh thần

    Buồn ngủ, uể oải,

    Trạng thái trống rỗng trong tâm trí.

    Khi những trạng thái sai lệch

    Hoặc những trải nghiệm khiếm khuyết như vậy xảy ra,

    Bạn phải xác định chúng

    Và dùng pháp đối trị để tu sửa chúng.

    Nhờ tu luyện theo cách mô tả ở trên, những kinh nghiệm thiền định sẽ xảy ra, có thể là tốt hoặc xấu. Các kinh nghiệm tốt đã được mô tả. Những kinh nghiệm xấu thì vô hạn, nhưng tóm lại chúng có ba loại, kết quả từ việc sai lầm dính mắc và kẹt vào hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm.

    Khi thiền về hỷ lạc, hành giả dính mắc vào nó. Nghĩ rằng bản tính của tâm là lạc không, anh ta tập trung mạnh mẽ vào chính lạc không. Nghĩ rằng, ngoài thiền định về hỷ lạc như vậy, mọi thứ khác đều là con đường sai lầm. Anh ta coi đó là mục đích tự thân. Anh ta không nhận ra rằng hỷ lạc được trộn lẫn với thuốc độc của dục vọng. Đây là năm khiếm khuyết có liên hệ với các pháp đối trị.49 Ngoài ra còn có năm khuyết điểm cần bị loại bỏ. Kinh nghiệm sai lầm về hỷ lạc có hại cho giọt tinh chất và dẫn đến thất thoát giọt tinh hoa. Một dục vọng quá mức phát sinh sẽ dẫn đến việc mất đi sức mạnh. Khi giọt tinh hoa bị xuất tiết, cảm giác buồn chán phát sinh. Vì những giọt tinh túy bị khuấy nhiễu và đục ngầu, tâm trí chìm xuống và trở nên uể oải. Cuối cùng, người ta trở nên dính mắc chặt chẽ vào đối tượng ham muốn của mình.

    Khi thiền về khí (ánh sáng), một lần nữa hành giả phải đấu tranh với năm hiếm khuyết liên quan đến pháp đối trị. Hành giả bị dính mắc vào trạng thái sáng, anh ta kẹt trong bản tính của tâm là quang và không, anh ta từ bỏ mọi con đường khác, coi kinh nghiệm về ánh sáng chính là chung cuộc, và anh ta không biết rằng kinh nghiệm về ánh sáng bị nhiễm độc bởi sân hận. Ngoài ra còn có năm khuyết điểm cần được loại bỏ. Đây là thực tế về ánh sáng sai lạc, thứ nhất, có hại có các luồng khí, khiến chúng trở nên cực kỳ hỗn loạn, thứ hai, nó khiến một dạng tức giận tầm thường bùng nổ, thứ ba, nó khiến những suy nghĩ của ta trở nên thô thiển, thứ tư, nó khuấy động các luồng khí và làm nhiễu loạn sự lưu thông của chúng, và thứ năm, nó dẫn đến một tình huống mà ta không còn muốn ở lại cùng một nơi nữa.

    Khi hành giả thiền về vô niệm, anh ta dính mắc vào trạng thái không có ý niệm, anh ta kẹt vào bản tính của tâm như là hoàn toàn trống rỗng; quay lưng lại với mọi con đường khác, anh ta coi trạng thái trống rỗng đó là mục đích tự thân, và anh ta không biết trạng thái vô niệm bị ô nhiễm bởi chất độc của tính vô minh. Sau đó, đây là năm khiếm khuyết liên quan đến pháp đối trị. Sau đó có năm khuyết điểm cần bị loại bỏ. Một kinh nghiệm sai lệch về vô niệm sẽ gây hại cho trạng thái không suy nghĩ (của nhận thức phi khái niệm). Trạng thái trống rỗng này của tâm trí trở thành trạng thái vô định của tính vô minh tầm thường. Nó buồn tẻ vì không có tính sáng suốt, nó mịt mờ vì không minh mẫn. Do không bị loại bỏ, trở thành sáng trần trụi, tâm trí chỉ trống rỗng. Trong trạng thái hoàn toàn trống rỗng của tâm trí, trống rỗng và không tỉnh giác, mọi vận hành của nhận thức đều dừng lại.

    Tóm lại, điều này dẫn đến ba mươi kinh nghiệm sai lầm. Đối với phương pháp thông thường để sửa chữa chúng, điều cần thiết là phải xác định từng kinh nghiệm và áp dụng pháp đối trị tốt nhất theo từng trường hợp. Điều này dễ hiểu. Tuy nhiên, có một cách phi thường mà qua đó những kinh nghiệm sai lệch này được sửa chữa bằng một điểm then chốt duy nhất, đó là nhận ra tính giác của hành giả. Sau khi xác định được bất kỳ trở ngại nào phát sinh, hành giả nên, với lòng sùng kính và cầu nguyện mạnh mẽ tới đạo sư của mình, cầu xin phúc lành của người đó. Sau đó, hành giả nền tìm kiếm nguồn gốc của chướng ngại, nơi nó trú ngụ, và người bị tổn hại vì nó. Và khi không tìm thấy gì, hành giả nên nghỉ ngơi trong trạng thái sáng suốt của tâm tỉnh giác tươi mới rộng mở trần trụi. Vào thời điểm đó, mọi kinh nghiệm sai lệch sẽ lắng xuống trong sự tỏa rạng của tính giác, và khi đó anh ta trở thành cái được gọi là “hành giả nhận ra các chướng ngại chính là thành tựu”. Vì thực ra, tất cả những gì biểu hiện, mọi thứ xảy ra, mọi sai lệch và mọi phẩm chất chỉ là sự hiển lộ của tính giác, không có gì khác. Khi hành giả khỏe mạnh, đây là sự hiển lộ của tính giác, khi anh ta không vui, đây cũng là tính giác, khi anh ta ốm đau, đây là tính giác, khi anh ta vui vẻ, đây cũng là tính giác. Ngoài tính giác, đơn giản là chẳng có gì cả. Nếu hành giả có thể nắm bắt được điểm quan trọng này, anh ta sẽ thực sự hạnh phúc. Chính nhờ cách này mà bản thân tôi đã loại bỏ mọi chướng ngại, và tôi thực sự là một người hạnh phúc! Bất cứ chướng ngại và kinh nghiệm không mong muốn nào đến với hành giả đều cần được chuyển hóa hoàn toàn thành một thực hành phẩm hạnh. Đây là điều mà điều mà các hành giả cần làm. Ngoài ra, nếu sử dụng các phương pháp khác, họ được nhắn nhủ là sẽ thất vọng. Đây là điểm quan trọng nhất. Vì vậy, bất cứ điều gì xảy ra và bất kỳ ý nghĩ nào phát sinh, hành giả nên nhận thấy rõ tính giác sáng chói của mình trong đó. Nếu làm điều này, ngay cả khi đi tìm chướng ngại, anh ta cũng không tìm thấy chúng. Ở đây, tôi đã tiết lộ điểm quan trọng nhất của Đại Toàn Thiện Tự Nhiên, và tôi đã nói về nó theo cách mà bản thân tôi thực hành.

    Chủ đề thứ hai trong lời dạy kết thúc này liên quan đến phương tiện thiện xảo mà qua đó (như đã nói ở trên) tiến trình chú tâm được cải thiện. Có hai điều cần ghi nhớ: sửa chữa bất kỳ kinh nghiệm sai lệch nào và tăng cường các pháp tập trung giống nhau này.

    Đầu tiên, có những cách để sửa chữa những kinh nghiệm sai lệch.

    23. Vì lợi ích tiến bộ

    Sử dụng phương tiện thiện xảo để chống lại

    Những kinh nghiệm thiền khiếm khuyết

    Và tăng cường sự tập trung của bạn.

    Có ba cách để sửa chữa

    Những kinh nghiệm khiếm khuyết như vậy.

    Những hành giả giỏi nhất sẽ sửa chúng

    Thông qua áp dụng quan điểm:

    Mọi hiện tượng đều là sự quy kết của tinh thần;

    Chúng như ảo ảnh và không thể bị ghim chặt.

    Chúng tất cả như không gian, đều bình đẳng và vượt ngoài sự bám chấp.

    Về phía chúng, chúng trống rỗng.

    Thiền giả tự tin đạt đến trạng thái

    Không bám dính vào bất cứ thứ gì.

    Những kinh nghiệm sai lầm và mờ tối xuất hiện

    Như bản tính nền tảng của tâm trí.

    Mọi trở ngại do vậy đều thúc đẩy phẩm hạnh

    Mọi nghịch cảnh đều là trợ thủ cho giác ngộ.

    Trên nền tảng hỷ lạc, tâm trí luôn vui vẻ.

    Và giác ngộ rạng ngời như không gian vô tận.

    Những hành giả giỏi nhất hiểu rằng mọi vật đều không có bản thể nội tại; rằng chúng giống như ảo ảnh huyễn thuật.50 Do đó, các chướng ngại chuyển hóa thành sự mở rộng tự do của bản tính nền tảng, và sự chứng ngộ về thực tại tối hậu xuất hiện. Mọi hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn đều xuất hiện theo cách của ảo ảnh huyễn thuật, và ngay từ đầu, không có bản thể nội tại. Như đã nói trong chương “Đế Thích” của Bát Nhã Ba La Mật trong 8000 Dòng:

    Và Tu Bồ Đề nói: “Các thiện nam tử! Nếu có một hiện tượng cao hơn niết bàn, ta tuyên bố rằng ngay cả điều đó cũng giống như một giấc mơ và giống như một ảo ảnh huyễn thuật. Và cũng giống như một giác mơ và một ảo ảnh huyễn thuật, các hiện tượng của niết bàn cũng vậy, vì chúng không khác biệt. Các ngươi không nên nói rằng chúng khác biệt.”

    Chắc chắn, chúng sinh phàm phu sống trong ảo tưởng của nghiệp. Các yogi sống trong ảo tưởng của thiền định. Về phần mình, các vị Phật an trú trong ảo tưởng của tính thanh tịnh. Mọi hiện tượng đều như huyễn. Mật điển Chiến Thắng Bất Nhị có câu này:

    Qua màn trình hiện phong phú của ảo ảnh huyễn thuật,

    Có sự xuất hiện, đối với các yogi, sự tự phát sinh,

    Các quả thanh tịnh cho thành tựu của họ,

    Và nhiều kinh nghiệm linh ảnh khác nhau.

    Đối với chúng sinh trong tam giới,

    Nghiệp và phiền não đau khổ xuất hiện.

    Đối với chư Như Lai xuất hiện

    Bí mật không thể hình dung của trí tuệ toàn tri

    Cũng với những hành vi giác ngộ thanh tịnh và quyền năng.

    Hành giả nên hiểu rằng nền tảng, con đường và thành quả đều là những ảo tưởng. Như đã nói trong mật điển Đại Dương Trí Tuệ Nguyên Thủy:

    Ngay từ đầu, nền tảng đã không tồn tại:

    Đó là ảo ảnh của một đặc tính sáng tỏ.51

    Mọi cái hiểu,

    Quan điểm về thường và đoạn,

    Mọi kinh nghiệm trong thiền,

    Mọi thứ có thể phát sinh, chỉ đơn giản

    Là ảo tưởng trong sự chứng ngộ của hành giả.

    Hành giả cần hiểu rằng mọi hiện tượng đều là sự hiển thị của các giai đoạn phát sinh và thành tựu huyễn ảo. Mật điển Đại Dương Trí Tuệ Nguyên Sơ nói:

    Thân của thần bản tôn là huyễn ảo,

    Xuất hiện mà trống rỗng,

    Không thể diễn tả, vượt ngoài tâm trí suy luận.

    Hình sắc và tính trống không của nó không thể tách rời.

    Nó vượt ngoài mọi cực đoan bản thể học.

    Tuy nhiên các đặc trưng của nó thì đầy đủ và không bị nhầm lẫn với nhau.

    Vì vậy, người trí nên hiểu mọi thứ.

    Sau khi minh họa theo cách này rằng mọi hiện tượng, xuất hiện rõ ràng trong khi không có thật, đều là ảo ảnh biểu hiện trong những điều kiện nhất định, điều này cho thấy rằng các hiện tượng không có sự tồn tại đích thực. Bây giờ để mang lại sự giải thoát khỏi ảo tưởng của nghiệp (tức là tam giới), ảo tưởng của Pháp được đặt ra (thiền định về con đường và sự không tồn tại của tự ngã cá nhân), mục đích của nó là ảo tưởng của trí tuệ nguyên thủy (thành tựu trạng thái tỉnh thức hoàn hảo). Do đó, chúng ta được chỉ dẫn để hiểu vấn đề. Mật điển Những câu hỏi của Nhà Huyễn Thuật Bạt Đà La nói:

    Ảo tưởng xuất hiện thông qua nghiệp

    Là mọi chúng sinh sống trong sáu cõi

    Ảo tưởng biểu hiện qua các điều kiện

    Giống như những vật phản chiếu trong gương.

    Những ảo tưởng thông qua Pháp biểu hiện

    Là mọi nhà sư đang vây quanh tôi

    Và Tôi đức Phật hoàn hảo đích thực

    Là ảo tưởng được biểu hiện bởi trí tuệ nguyên thủy.

    Khi đã hiểu điều gì cần áp dụng và điều gì cần loại bỏ, hành giả nên tu luyện trong bản tính huyễn ảo của mọi sự, hành giả nên hiểu rằng mọi hiện tượng đều nằm ngoài các cực đoan của tồn tại và không tồn tại. Trong mật điển Chiến Thắng Phi Nhị Nguyên có nói:

    Ảo tưởng này vượt ngoài cả tồn tại lẫn không tồn tại

    Ngay cả ở giữa cũng không trú ngụ.

    Các hiện tượng tương đối là không thật; chúng chỉ là các ảo ảnh huyễn hoặc.

    Chúng tự phát sinh: một màn trình diễn không ngừng nghỉ.

    Bản tính huyễn ảo của mọi sự vật được giải thích rộng rãi trong Thừa Siêu Việt, là bản bình luận của tôi về Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định (phần thứ ba của bộ ba hiện tại), mà tôi mời bạn nghiên cứu.

    Hành giả trung căn sửa chữa các kinh nghiệm sai lệch như sau.

    24. Đối với những người có sức mạnh trung bình

    Những kinh nghiệm sai lệch được khắc phục thông qua thiền.

    Họ đạt được tính sáng suốt rõ ràng

    Bằng cách tập trung tâm trí chặt chẽ

    Và giữ chúng bằng chánh niệm.

    Họ an trú không xao lãng

    Trong trạng thái an lạc, sáng suốt, không ý niệm.

    Vì xao lãng và mất tập trung

    Là sai, nên điều quan trọng trong việc hành thiền

    Là không được phân tâm dù chỉ một giây.

    Các khuyết điểm của thiền định đều phát sinh vì tâm trí không tập trung và lang thang trong xao lãng. Từ đó làm nảy sinh các chướng ngại cho cả thứ hỗ trợ là các kinh mạch, khí, giọt tinh hoa, và cho cả thứ được hỗ trợ chính là tâm trí. Các hành giả có năng lực vừa phải nên nhận thức rằng có những phương pháp chung và riêng để sửa chữa tình trạng khó khăn này. Phương pháp chung bao gồm việc nhận ra và thiền về tính giác thanh tịnh mỗi khi chướng ngại xuất hiện, phân biệt sự minh mẫn của nó trong các trạng thái hỷ lạc, sáng chói và vô niệm. Theo cách này, khía cạnh khiếm khuyết của thiền định xuất hiện hoàn toàn và trọn vẹn như chính thiền định. Điều này tương tự như lời giải thích được đưa ra trong mật điển Hỷ Kim Cương Hai Phần:

    Giống như ngọn lửa thiêu đốt

    Là ngọn lửa phục hồi (sức khỏe)

    Giống như khi có nước trong tai,

    Càng nhiều nước sẽ càng đẩy nó ra ngoài ...

    Có ba cách đặc biệt để sửa chữa những kinh nghiệm sai lệch.

    25. Khi chủng tử bị mất

    Quán tưởng trong bình kim cương

    Chữ HUNG, từ đó một ngọn lửa rực cháy

    Đốt cháy toàn bộ tinh khí trong thân thể.

    Thiền rằng không còn lại gì cả

    Việc này sẽ xua tan khiếm khuyết.

    Áp dụng điểm quan trọng này ngay cả khi chủng tử của bạn

    Bị mất do bệnh tật hoặc tác động của thế lực xấu.

    Khi bạn đã phá hủy mọi sự bám dính vào hỷ lạc,

    Hãy thiền về lạc như là không.

    Theo dõi chặt chẽ trạng thái tinh thần của dục vọng thông tục

    Và không can thiệp vào nó

    Duy trì tình trạng không có hy vọng và sợ hãi.

    Theo cách này, dục vọng sẽ tự nhiên lắng xuống.

    Trí tuệ bản nguyên, lạc và không sẽ nảy sinh.

    Cảm giác chán nản là một lỗi lầm

    Xuất hiện do giọt tinh chất bị yếu đi.

    Để chống lại điều này, hãy thiền về

    Định hỷ lạc của bùng cháy và nhỏ giọt.

    Sự đần độn chiếm ưu thế là một sai lệch xuất hiện

    Khi các giọt tinh chất được chế luyện

    Không tách biệt với những thành phần đã bị thoát hóa.

    Trong trường hợp này, hãy ngồi ở tư thế thẳng đứng;

    Giữ hơi thở bình, quán tưởng ánh sáng tràn ngập tim bạn

    Và toàn thể thế giới. Sau đó thiền về ánh sáng trống rỗng.

    Nhờ đó sự đần độn bị xua tan.

    Khi thiền về hỷ lạc tính không, có năm sai lầm liên quan đến pháp đối trị. Những lỗi sai này xuất phát từ nhầm lẫn về việc lẫn lộn hỷ lạc tính không với khoái lạc. Nếu hành giả quan sát bản chất của khoái lạc này, nó sẽ trở nên trống rỗng một cách sống động. Bằng cách thiền như vậy, hành giả sẽ xóa tan các khiếm khuyết. Trong năm khuyết điểm cần loại bỏ, nếu dục vọng tầm thường phát sinh, thiền định tập trung vào bản chất của nó sẽ khiến nó lắng xuống và biểu hiện thành đại lạc. Nếu tinh dịch chuẩn bị thất thoát, hành giả nên quán tưởng một ngọn lửa bùng lên từ HUNG màu lam đậm trong bình kim cương và đốt cháy toàn bộ tinh dịch (chứa trong cơ thể). Thông qua việc tập trung vào thực tế là không còn gì sót lại, khiếm khuyết sẽ bị xua tan. Cảm giác chiếm ưu thế của hôn trầm và uể oải ban đầu bị xóa tan bằng thiền định về khí (ánh sáng) như đã mô tả trước đây. Khi cảm giác hôn trầm xuất hiện, hành giả nên cải thiện chất lượng của các giọt tinh hoa. (Việc này được thực hiện bằng cách nghĩ rằng) từ A ngắn (a-she)52 một ngọn lửa bùng lên, và bằng cách chạm vào HANG trên đỉnh đầu hành giả, khiến một dòng cam lộ chảy xuống rồi lấp đầy thân thể hành giả. Một lần nữa, khi ngọn lửa bùng cháy đến tận lỗ chân lông trên da hành giả, nó khiến các thành phần tinh túy tan chảy, rồi hành giả thiền định rằng bên trong cơ thể tràn ngập hỷ lạc. Điều này được xác nhận trong mật điển Hỷ Kim Cương Hai Phần bắt đầu từ dòng: “Nhờ tumo rực lửa ở rốn”. Nó còn được nói thêm trong Samputa:

    Từ một điểm không lớn hơn ngọn tóc

    Tia sáng lóe lên như ngàn tia sét

    Chúng phát ra từ lỗ chân lông hành giả và khiến

    Chư thiên và a tu la mười phương sợ hãi.

    Kinh nghiệm sai lệch về tính sáng được sửa như sau.

    26. Nếu bạn dính mắc vào tính sáng

    Điều này phải được thanh lọc đến trạng thái không còn bất cứ bám chấp nào nữa.

    Nếu tâm trí bạn buồn ngủ và không minh mẫn,

    Hãy thiền về nó như thể nó sáng láng và rạng rỡ.

    Nếu tâm trí bạn hỗn loạn và kích động,

    Hãy nhắm mắt lại, thiền bên trong tim bạn

    Trên một ngọn đèn, lá thư, bông sen, thanh kiếm hoặc hai chày kim cương bắt chéo,

    Những thứ này đi xuống mãi

    Như thể được gắn vào một sợi dây dài

    Cho đến khi chúng chạm tới nền tảng vàng

    Cơ sở của toàn cũ trụ

    Chắc chắn việc này không thể không làm tiêu tan mọi hỗn loạn và kích động

    Khi cơn giận dữ thông thường và ý nghĩ phóng đãng quấy nhiễu

    Hãy giữ thái độ bất động rồi tất cả chúng sẽ lắng xuống

    Trong trí tuệ ban sơ như tấm gương

    Sáng ngời và trống rỗng.

    Khi các khiếm khuyết phát sinh từ việc đánh giá quá cao pháp đối trị, trong trường hợp này là bám chấp vào tính sáng, xảy ra, thì thông qua việc nhận ra bản chất của những khiếm khuyết tương tự này và thông qua quan sát chúng, chúng sẽ tự động biến mất, không để lại bất cứ dấu vết nào. Trong năm khiếm khuyết cần loại bỏ, sân hận thông thường sẽ bị xua tan khi quan sát bản chất của nó. Sự u độn lú lẫn sẽ bị xua tan khi làm cho tâm trí sáng suốt, minh mẫn và thiền về nó. Nếu khí bị khuấy động và hỗn loạn, khiếm khuyết này có thể được khắc phục bằng cách nhắm mắt lại và thiền về chủng tự của vị thần trong tim mình. Nếu có nhiễu động mạnh trong tâm trí và hành giả không thể tập trung, nên quán tưởng trong tim mình có một bông sen hoặc chày kim cương bắt chéo, vân vân. Thứ này đi xuống như thể trên một thân cây hoặc sợi dây thừng, xuống đến nền tảng hoàng kim vô cùng mạnh mẽ của chính vũ trụ. Nếu thiền về điều này trong thời gian dài, khiếm khuyết sẽ bị xua tan. Không còn nghi ngờ gì về chuyện này.

    Kinh nghiệm sai lệch về vô niệm được sửa chữa như sau.

    27. Khi một kinh nghiệm sai lệch của vô niệm bộc lộ

    Không bám víu vào nó chính là điểm then chốt để thanh lọc nó

    Khi trạng thái vô minh này được nhận ra

    Và trực tiếp quan sát, nó sẽ ngay lập tức lắng xuống

    Trí tuệ bản nguyên của pháp giới biểu hiện

    Trong trường hợp trì trệ, lờ đờ hoặc trống rỗng tinh thần

    Hãy quán tưởng trong tim bạn một luồng sáng

    Bắn qua huyệt Brahma

    Và ở lại, độ cao một chiếc cung, lơ lửng trong không khí.

    Khi bạn tập trung vào đó

    Tâm trí bạn thoát khỏi mọi hoạt động.

    Đây là một chỉ dẫn quan trọng và sâu sắc.

    Khi thiền trong trạng thái vô niệm, năm khiếm khuyết phát sinh và bao gồm sự bám chấp mạnh mẽ vào pháp đối trị sẽ bị xua tan bằng cách quan sát bản chất của chúng. Bây giờ, đối với năm khiếm khuyết cần loại bỏ, trước tiên là thông qua việc quan sát bản chất trạng thái vô minh thông thường của tâm trí mà sự sáng suốt trong trẻo của trạng thái vô niệm được khơi dậy. Ngay tại khoảnh khắc đó, trạng thái vô minh thông thường lắng xuống trong trí tuệ nguyên thủy của pháp giới. Cũng như trước, tính trì trệ, lờ đờ và trống rỗng của tâm trí đều bị xua tan bằng cách khơi dậy trạng thái sáng suốt trong trẻo. Chúng cũng có thể bị xóa tan bằng cách tập trung vào một luồng sáng rực rỡ, có hình dạng giống như một quả trứng, bắn lên từ tim và lơ lửng trong không gian (trên đầu) ở khoảng cách một cây cung. Đây là một chỉ dẫn cốt lõi được gọi là “tiết lộ trạng thái sáng suốt của tính giác”. Nó đã được truyền lại cho chúng ta từ vị thầy Garab Dorje.

    Bài giảng này dành cho các hành giả thuộc hàng trung căn, kết luận như sau.

    28. Nói chung, điều quan trọng là không được dính mắc vào bất cứ thứ gì.

    Nếu bạn không có hy vọng hay sợ hãi,

    Bạn sẽ thoát khỏi mọi chướng ngại.

    Nghỉ ngơi trong trạng thái thanh tịnh

    Bản tính sáng chói và trống rỗng của tâm trí

    Nơi không có những suy nghĩ lan man nẩy nở

    Khi đó bạn chắc chắn sẽ thoát khỏi những con đường nguy hiểm

    Của những chướng ngại và khuyết điểm cần phải từ bỏ.

    Khi bản chất của những chướng ngại, cùng các hoàn cảnh tốt và xấu được nhận ra, thì đơn giản là không có gì ngoài (sự hiển thị của tính giác). Chỉ cần tự đặt mình vào trạng thái tỉnh giác, trống rỗng, sáng ngời và thoát khỏi mọi quy định, hành giả sẽ xóa tan mọi chướng ngại có thể xảy ra. Như đã nói trong Đạo Ca:

    Bất cứ thứ gì bạn có thể dính mắc vào, hãy từ bỏ nó.

    Khi bạn chứng ngộ, mọi thứ chỉ là (tính giác).

    Hành giả hạ căn có thể loại bỏ chướng ngại theo những cách sau đây.

    29. Những hành giả thuộc có năng lực thấp nhất

    Tu sửa kinh nghiệm khiếm khuyết của họ

    Bằng cách áp dụng hành động ba phần:

    Thông qua cái nhìn chăm chú, thông qua các các yếu tố vật chất,

    Và thông qua các liên kết cát tường.

    Cách nhìn chăm chú thuộc về

    Thế ngồi bảy điểm của Đại Nhật

    Hai chân bắt chéo, cái nhìn không dao động,

    Hơi thở chậm,

    Hai tay kết ấn thiền,

    Cổ hơi cong,

    Đầu lưỡi đặt trên vòm miệng,

    Mắt nhìn xuống dọc theo mũi,

    Tâm khí nhờ vậy được giữ cân bằng

    Và thiền định nhất tâm hoàn hảo

    Thoát khỏi sự biểu hiện của hôn trầm, trạo cử.

    Vì mọi sai lệch đều phát sinh từ sự nhiễu loạn

    Của các kinh mạch, khí và giọt tinh chất

    Và những thứ này lại phát sinh thông qua sự nhiễu loạn

    Của các điểm then chốt trên thân thể.

    Vì vậy, điều quan trọng là phải giữ chúng không bị xáo trộn

    Trong trạng thái nhập định

    Vì mọi phẩm chất tốt đẹp

    Khi các mạch, khí, giọt tinh hoa

    Không bị xáo trộn và vận hành đúng cách

    Điều cần thiết là bạn phải hiểu

    Các yếu huyệt của thân thể.

    Mọi trở ngại và sự bất lực không thể tiến bộ trong quá trình thực hành đều xuất phát từ thực tế là người ta không biết những điểm chính của tư thế cơ thể và khi nào, làm thế nào để tập trung vào các kinh mạch và luồng khí. Ngược lại, mọi điều tuyệt diệu đều đến từ việc thực hiện đúng đắn những điểm chính yếu của tư thế thân thể của hành giả. Mọi cảm giác dễ chịu, khó chịu, cùng với toàn bộ kinh nghiệm thiền định tốt và xấu đều xảy ra thông qua hoạt động tốt và xấu của các mạch, khí và giọt tinh chất của tổ hợp thân kim cương. Có một câu chuyện trong kinh văn Luật Tạng rằng một số con khỉ, sau khi quan sát một vị Duyên Giác, đã đi đến khu rừng nơi các con khỉ khác sinh sống. Chúng quan sát thấy một vài con trong số chúng đang nằm xuống, một số con thì tức giận hung hăng, vân vân. Những con khỉ mới đến đã áp dụng các điểm chính của tư thế thân thể (mà chúng đã học được khi quan sát vị Duyên Giác). Kinh ngạc, những con khỉ khác đã bắt chước chúng và trong một thời gian ngắn đạt được bốn định và năm loại tri thức siêu nhiên.

    Vì vậy, chỉ cần ngồi thẳng, giữ tư thế khoanh chân, với ánh mắt không lay chuyển, hai tay trong ấn thiền, đầu lưỡi chống lên vòm miệng, cổ hơi cong, hơi thở nhẹ nhàng chậm rãi, ánh mắt hạ xuống, hành giả sẽ thấy rằng thiền định nhất tâm sẽ tự nhiên đến vì các kinh mạch, khí, giọt tinh chất được đưa vào tầm kiểm soát tự nhiên, sự tỉnh giác của hành giả vẫn duy trì trong trạng thái tự nhiên của nó. Vào lúc đó:

    30. Trong các bài tập yoga

    Và những phần tu luyện khác của thân thể

    Một điểm quan trong là duy trì

    Trạng thái thoải mái không gượng ép

    Không có bất cứ kích động nào

    Điểm quan trọng nữa là

    Cách giữ hơi thở nhẹ nhàng

    Sẽ có lợi từ cách mạnh mẽ

    Và ngược lại

    Cách nín thở mạnh mẽ sẽ có lợi từ cách nhẹ nhàng.

    Thực hành đúng thể trạng của bạn

    Là vấn đề có tâm quan trọng tối cao.

    Rèn luyện thể chất giúp người ta tập trung vào các điểm then chốt của các kinh mạch và khí. Khi gắn kết với các bài tập yoga bất tử với 32 giai đoạn của nó, và trong các bài tập tương tự khác liên quan đến các mạch và khí, hành giả nên tiến hành theo cách thư giãn và thả lỏng mà không có bất cứ kích động nào về thể chất. Đây là điểm then chốt quan trọng. Cách nín thở nhẹ nhàng sẽ được tăng cường bằng cách nín thở mạnh mẽ, còn cách nín thở mạnh mẽ sẽ được hưởng lợi từ cách nín nhẹ nhàng. Cả hai cách thở đều được hỗ trợ bởi khí trung tính.53 Đây cũng là một điểm then chốt quan trọng.

    Sau đây là giải thích chi tiết về những điểm chính của thân thể liên quan đến ba pháp thiền về hỷ lạc, sáng suốt và vô niệm.

    31. Đặc biệt, khi thực hành về hỷ lạc

    Điểm quan trọng là bạn phải khoanh tay ngang khủy,

    Mắt nhìn xuống, trong khi tập trung tâm trí vào hỷ lạc.

    Khi thực hành tính sáng,

    Tay bạn đặt úp lên gối;

    Hơi thở nên nhẹ nhàng,

    Và mắt bạn cần nhìn thẳng vào không trung.

    Mặt khác, trạng thái vô niệm đạt được

    Nhờ việc duy trì thế ngồi bảy điểm.

    Khi thiền về hỷ lạc, ngoài việc ngồi trong tư thế bảy điểm, thì việc bắt chéo hai tay cũng là một điểm then chốt, vì điều này gợi ra kinh nghiệm về hỷ lạc và đưa các thành phần thiết yếu cùng các luồng khó vào tầm kiểm soát. Đối với thiền về tính sáng, cổ của hành giả nên hơi cong về phía sau, tay nên che đầu gối, hơi thở nên chậm rãi nhẹ nhàng, mắt nên nhìn thẳng vào không gian. Đây là những điểm then chốt để an trú trong trạng thái thực sự của tính sáng. Trạng thái vô niệm sẽ được hoàn thành chỉ bằng cách duy trì trong tư thế bảy điểm.
  4. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    193
    Đã được thích:
    0
    Ba yếu tố vật chất có thể được áp dụng để khắc phục những chướng ngại hoặc kinh nghiệm sai lệch.

    32. Yếu tố vật chất là

    Một nơi thực hành phù hợp với thời điểm trong năm

    Người đồng hành và đồ ăn (cả thực phẩm và đồ uống).

    Áp dụng bất cứ điều gì giúp cho kinh nghiệm.

    Các yếu tố vật chất liên quan đến thiền về hỷ lạc bao gồm việc tiêu thụ thực phẩm bổ dưỡng, thuốc và viên mật ong, cũng như sự đồng hành của một mudra, hoặc vị phối ngẫu đủ tiêu chuẩn. Những thứ liên quan đến thiền về hỷ lạc bao gồm việc tiêu thụ thực phẩm làm mát và các địa điểm ở độ cao có tầm nhìn rộng. Liên quan đến thiền về vô niệm, những cân nhắc về vật chất gồm các địa điểm ấm áp và tối tăm, thực phẩm tạo nhiệt và cách sinh hoạt thoải mái, chậm rãi.

    Có ba cách để sửa chữa những kinh nghiệm sai lệch thông qua việc tạo ra những kết nối tốt lành.

    33. Việc tạo ra các mối liên hệ tốt lành

    Đối phó với việc mất tinh khí,

    Một dây ba sợi chỉ được một thiếu nữ bện thành

    Và được gia trì thần lực bởi mật chú

    Nên được buộc quanh eo bạn.

    Việc này ngăn ngừa các chất lỏng tinh yếu bị xuất lậu.

    Khi những ý nghĩ nảy nở

    Trạng thái vô niệm đạt được

    Nhờ nuốt một viên thuốc gồm có

    Đàn hương, nghệ tây rắn hổ, và “mỡ lớn”.

    Trong những lúc tinh thần uể oải, nếu bạn uống

    Một viên thuốc gồm có nghệ tay, long não, bồ đề tâm,

    Sự tập trung sẽ đạt được, các mật điển nói.

    Nếu trong kinh nghiệm về hỷ lạc, tinh dịch bị xuất tiết, hành giả nên quán mình trong hình dạng của một vị thần phẫn nộ và, trong khi trì tụng thần chú hung tợn, hành giả nên thắt bảy nút trong một dây chỉ ba sợi được dệt bởi một cô gái trẻ chưa bị vấy bẩn bởi quan hệ ********. Hành giả nên buộc nó quanh eo hông và buộc đầu dây quanh chân đến của chày kim cương. Nếu hành giả ngủ với một dụng cụ như vậy tại chỗ, giải pháp sẽ được tìm thấy.

    Khi những ý niệm sinh sôi, kinh nghiệm sáng suốt bị lu mờ. Nếu, khi bụng đói, hành giả dùng một việc thuốc làm từ cây đàn hương trắng và đỏ, nghê tây của naga (tức rắn hổ mang), và “mỡ lớn”,54 thiền định nhất tâm sẽ được thành tựu.

    Sự trì trệ và hôn trầm của tinh thần đánh cắp kinh nghiệm vô niệm. Những trạng thái này bị xua tan thông qua việc uống một viên thuốc có chứa long não, nghệ tây, bồ đề tâm đen và đỏ. Đây là chi tiết trong mật điển Mayajala:

    Đàn hương, nghệ tây hổ mang, và mỡ lớn

    Với những thứ này trâm trí phát triển an bình tự nhiên

    Định được thành tựu.

    Nghệ tây, long não và bồ đề tâm

    Là vật liệu giác ngộ,

    Giống như không gian, bất hoại

    Một hành giả tiêu thụ Aksobhya

    Sẽ vượt qua tuổi già.

    Sau đó, chúng ta đến với các phương pháp để tăng cường trí tuệ nguyên thủy của hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm. Phần này bao gồm các giáo lý chung và riêng. Đầu tiên, phương pháp chung được mô tả như sau.

    34. Để tăng cường trạng thái hoàn hảo

    Của hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm,

    Tốt nhất bạn nên hướng tâm trí mình

    Vào bất cứ đối tượng nào phù hợp

    Do đó, hãy bắt đầu bằng cách tập trung vào một đối tượng,

    Rồi sau đó thiền định sẽ tự động thoát khỏi mọi tham chiếu.

    Điểm trọng yếu này là thâm sâu nhất.

    Nó là tối cao và cần được những người may mắn áp dụng nghiêm túc.

    Từ chối phương pháp này, bỏ qua nó,

    Vì cậy có những thiên tư đặc biệt,

    Thực sự là đi theo con đường của những kẻ ngu ngốc.

    Hãy tránh xa con đường tệ hại này của những người thiếu kinh nghiệm.

    Hỗ trợ cho việc tập trung vào hỷ lạc tính không là sự bùng cháy và nhỏ giọt của giọt tinh hoa. Hỗ trợ cho việc tập trung vào quang minh tính không là những luồng khí đa sắc.55 Hỗ trợ cho việc tập trung vào trạng thái vô niệm là bầu trời quang đãng (tức là không mây). Khi hành giả ngày càng ít bị xao lãng, khi tập trung vào những hỗ trợ này, mọi ý nghĩ đều lắng xuống. Sau đó, thậm chí không cần phải chú ý đến chúng, hành giả sẽ tự nhiên và tự ý an trú trong các trạng thái khác nhau của hỷ lạc, sáng chói và vô niệm, tất cả đều là kết quả của phần chỉ dạy sâu sắc này. Như đã nói trong Sutralamkara:

    Tập trung tâm trí của bạn

    Trên bấy kỳ đối tượng nào phù hợp

    Sau đó hãy thiền rằng không có gì.

    Sau đó, hãy từ bỏ cả thứ này.

    Một số người nói rằng không có ích gì khi gắn kết với những thực hành mang tính khái niệm có các đặc trưng. Điều này là không đúng. Hành giả nên hiểu rằng những người đó không có chút kinh nghiệm nào về thực hành và không đáng tin cậy.

    Giải thích cụ thể bao gồm ba phần. Phần đầu giải thích cách nâng cao tập trung của thiền sinh vào hỷ lạc.

    35. Đặc biệt, cách tốt nhất để tăng cường

    Sự tập trung vào hỷ lạc

    Là bằng cách kéo rút luồng khí ở dưới thấp,

    Để kéo các giọt tinh hoa lên từ trung tâm bí mật của bạn

    Và để chúng tan chảy, hòa tan trong đỉnh đầu của bạn.

    Sau đó, trầm lặng trong trạng thái không tham chiếu.

    Sau đó, hội hợp các luồng khí ở dưới và ở trên lại với nhau

    Giữ hơi thở bình

    Tập trung tâm trí của bạn vào tim.

    Ở lại trong bản tính không sinh.

    Bạn nghỉ ngơi trong trạng thái hỷ lạc và sáng chói,

    Thoát khỏi sự sinh sôi của tâm trí.

    Khi một hành giả có thượng căn hợp nhất với một karmamudra hay phối ngẫu thật, và khi một hành giả trung căn nhận được hỗ trợ từ một phối ngẫu trí tuệ quán tưởng, những giọt tinh chất sẽ giáng xuống trung tâm bí mật. Vào lúc đó, bằng cách mạnh mẽ kéo khí lên, những giọt tinh hoa này được tập hợp lại như thể ở trên một sợi tơ, rồi chúng hòa tan vào âm tiết HANG trên đỉnh đầu. Sau đó, yogi nghỉ ngơi trong trạng thái thoát khỏi mọi tham chiếu, và rồi tiếp theo khi giữ hơi thở bình, anh ta thư giãn trong trạng thái thoát khỏi mọi hoạt động tinh thần. Anh ta vẫn ở trong trạng thái không thể tưởng tượng của trí tuệ bản nguyên lạc và không. Về phối ngẫu quán tưởng, Samputa nói:

    Nếu các yogi sống

    Trong một xã hội cộc cằn, thô lỗ,

    Tiết lộ thực hành này,

    Sẽ bị chửi rủa.

    Vì sợ điều này, họ sẽ tự giam mình

    Để thực hành với một phối ngẫu tinh thần.

    Phần này có thể được giải thích chi tiết hơn một chút. Quán tưởng bản thân trong hình dạng của thần bản tôn yidam hợp nhất với một phối ngẫu, hành giả nên quán trước mặt mình một cô gái rất đẹp, và nên nhìn cô ấy với lòng khao khát trong một thời gian dài. Vì cô ấy được hình dung là Vajrayogini, không gian bí mật của cô ấy được gia trì, và khi hành giả quán tưởng phối kết với cô ấy trong sự hợp nhất, hành giả lưu ý rằng, khi ngọn lửa bùng cháy từ chữ A ở rốn anh ta, chữ HANG trên đỉnh đầu tan chảy và những giọt tinh chất chảy xuống từ đó. Hành động hợp nhất (quán tưởng) này nên được thực hiện nhiều lần. Kéo luồng khí phía dưới lên trên, hành giả nên tạo ra trạng thái căng thẳng về thể chất, mở và đóng đùi của mình nhiều lần. Những giọt tinh chất sau đó dần dần đi xuống cổ họng, tim, rốn, gốc của chày kim cương, đến đỉnh của chày vajra, rồi từ đó đến nhụy hoa sen của người phối ngẫu, nơi chúng xuất hiện màu trắng đậm. Khi quá trình này diễn ra từng bước, hành giả nhận thức được hỷ, tối thượng hỷ, không hỷ và đồng phát hỷ. Nếu cảm thấy các giọt tinh túy của mình sắp bị mất, hoặc nếu muốn ngăn chặn sự xuất tiết của chúng, hành giả nên giữ luồng khí bên dưới ở đúng vị trí của nó rồi ép mạnh luồng khí bên trên xuống. Thốt ra âm PHAT, người phối ngẫu tưởng tượng, nữ bản tôn, bị đẩy trở lại các giọt tinh chất, trong khi bản thân vẫn được quán tưởng trong hình dạng của vị bản tôn nam, nên kéo chúng lên bằng cách thốt ra âm tiết HUNG. Khi thốt ra âm PHAT, hành giả nên, chỉ bằng một động tác nhanh gọn, thu rút các giọt tinh chất qua lỗ mở của kim cương, còn với các âm PHAT và HUNG, hành giả kéo chúng lên, đưa chúng vào trong đỉnh đầu của mình. Cuối cùng, ngay cả người phối ngẫu tưởng tượng cũng tan chảy vào bản tính hỷ lạc và cũng được kéo lên rồi hòa tan vào chữ HANG. Sau đó, ngay cả chữ HANG cũng biến mất, hành giả nên duy trì trạng thái này. Sau đó, hành giả nên thực hành kéo các giọt tinh chất lên, trải rộng chúng, vân vân, theo cách sau.

    Bây giờ là hướng dẫn ngắn gọn về các điểm chính của thân thể, việc quán tưởng cần thực hiện trong quá trình giáng xuống, kéo rút lên, trải rộng, vân vân, của giọt tinh chất.

    36. Thỉnh thoảng thực hiện

    “Rung lắc mạnh của sư tử”

    Kéo xuống, đảo ngược, kéo lên, lan tỏa các giọt tinh hoa.

    Và tự tin an định trong bản tính của tâm.

    Thực hiện các khía cạnh trọng yếu

    Của bài tập yoga này

    Như bạn đã thấy chúng được trình bày

    Theo dòng truyền của bạn.

    Một giải thích chi tiết như sau.

    37. Để kéo các giọt tinh hoa xuống

    Thực hiện mudra ôm ấp

    Và, ngồi thẳng, tạo ra

    Một áp lực xuống phần dưới của bạn.

    Quán tưởng rằng giọt bồ đề tâm

    Được tạo ra để chảy xuống từ HANG.

    Và khi nó rơi vào trung tâm bí mật của bạn,

    Tập trung vào hỷ lạc từ đó.

    Về yoga “rung lắc dữ dội của sư tử”, hành giả nên áp dụng tư thế mà tứ chi của mình chạm đất rồi rung lắc bản thân. Với cổ cong lên, hành giả nên kéo rút khí từ dưới lên, với môi ở vị trí mỉm cười, hành giả nên nói HA nhẹ nhàng. Hướng dẫn này thường có lợi cho toàn bộ quy trình: việc thu rút xuống, đảo ngược và lan tỏa các giọt tinh chất. Đặc biệt, khi hành giả khiến các giọt rơi xuống, anh ta nên ngồi khoanh chân và quán trước mặt mình là vị phối ngẫu tưởng tượng. Thực hiện mudra ôm ấp, hành giả ngồi thẳng với thân thể thẳng đứng, nhờ đó một áp lực nhẹ sẽ đè lên phần dưới anh ta. Tùy vào tỷ lệ giọt bồ đề tâm giáng từ HANG xuống trung tâm bí mật, kinh nghiệm về hỷ lạc sẽ gia tăng tương ứng và hành giả tập trung chú ý của mình vào đó. Nhờ thực hành này, các giọt tinh chất sẽ chảy xuống tất cả các vị trí quan trọng trong các kinh mạch.

    38. Sau đó đảo ngược dòng chảy và kéo nó lên trên.

    Giữ hai nắm tay ngang với thận của bạn

    Và “nối liền đại dương và tảng đá”.

    Kéo luồng khí ở dưới lên trên

    Và chạm đầu lưỡi vào vòm miệng của bạn

    Cuộn mắt lên, đẩy xuống và lắc đầu.

    Quán tưởng các giọt tinh hoa

    Như thể được xâu trên một sợi tơ

    Tan chảy mỗi giọt vào giọt tiếp theo

    Cho tới khi chạm đến đỉnh đầu.

    Những giọt tinh chất giáng xuống đi vào trong trung tâm bí mật giờ đây phải được đảo ngược lên trên. Ngồi thẳng, hành giả ấn nắm tay của hai bàn tay vào hai bên ngang thận, hóp bụng lại về phía cột sống. Hành giả kéo luồng khí bên dưới lên trên mạnh mẽ, và đặt đầu lưỡi lên vòm miệng. Cuộn hai mắt lên, hành giả nín thở, đẩy cổ xuống, lắc đầu như một lá cờ. Hành giả quán tưởng các giọt tinh chất như thể được xâu trên một sợi dây lụa và mỗi giọt hòa tan vào giọt kế tiếp nó, bắt đầu từ trung tâm bí mật rồi cứ thế lên đến đỉnh đầu và cuối cùng tan chảy thành chữ HANG. Đây là cách hành giả cần để kéo rút các giọt tinh chất lên trên.

    Sau đó các giọt tinh chất sẽ được lan tỏa khắp toàn thân.

    39. Để các giọt tinh hoa lan tỏa,

    Hãy làm như bạn đang kéo một cây cung

    Và khuấy động mạnh mẽ tay chân bạn

    Sau đó, đặt đầu lưỡi của bạn vào răng

    Phát ra âm Si , rít lên qua hơi thở của bạn.

    Đầu tiên, hành giả nên làm một cử chỉ bằng cánh tay như thể đang kéo cây cung. Sau đó, thực hiện yoga “sự rung lắc mạnh mẽ của sư tử”. Sau đó, ngồi xuống xếp bằng rồi chạm vào sống răng bằng đầu lưỡi, thở ra, tạo ra âm thanh rít gió SI. Các giọt tinh chất sẽ dần dần lan tỏa, thậm chí chạm đến lỗ chân lông của làn da hành giả. Thấy rằng các giọt tinh hoa lan tỏa khắp mọi nơi trong hệ thống các kinh mạch, hành giả nên nghỉ ngơi một lúc trong trạng thái trống rỗng không có suy nghĩ lan man.

    40. Bây giờ hãy nghỉ ngơi với niềm tin vào bản tính của tâm trí.

    Nằm ngửa, hít thở nhẹ nhàng, tâm trí thoải mái.

    Đừng nghĩ về bất cứ điều gì, đừng nắm bắt bất kỳ thứ gì.

    Nghỉ ngơi trong bản tính thoát khỏi mọi chuyển động tinh thần.

    Bằng phương tiện này, đại lạc, giác ngộ

    Sẽ được thành tựu mà không gặp trở ngại.

    Khi giọt tinh chất lan tỏa, hành giả nên nằm ngửa và thư giãn sâu từ bên trong, an trú mà không có bất cứ suy nghĩ nào như thể vô thức, bình thản và thoải mái trong trạng thái tự nhiên của tâm trí. Điều này được gọi là “tự tại an trụ trong tính thanh tịnh bản nguyên của lạc và không”. Không có chướng ngại nào đối với cõi giới chỉ có một và đơn nhất (của pháp thân). Người ta nắm bắt được tính quảng đại của thực tại tối hậu, tìm thấy, như được nói, “ngồi nhà thực sự của mình”. Sau đó, ngồi thẳng, thiền kiên định về chính trạng thái này. Nếu, vì không biết về thực hành này, người ta chỉ tiếp tục tu luyện trong ba giai đoạn, tức là sự giáng xuống của các giọt tinh chất, sự đảo ngược của chúng và lan tỏa, thì người ta sẽ trở thành cái được gọi là “một hành giả nhiệt thành dừng lại kiệt sức giữa chừng trên con đường”. Một người như vậy không có được độ xác tín về bản tính nền tảng chân thực của tâm trí, không chỉ trong kiếp sống hiện tại mà còn trong các kiếp tương lai. Chỉ dẫn quan trọng này được cho là phương pháp vĩ đại nhất của Đại Toàn Thiện Tự Nhiên.

    Phần thứ hai của giải thích cụ thể liên quan đến cách thức mà sự tập trung của hành giả vào tính sáng có thể được nâng cao.

    41. Cách tốt nhất để tăng cường

    Sự tập trung của bạn vào tính sáng

    Là thông qua hơi thở.

    Những cách nhẹ nhàng và mạnh mẽ

    Mà hơi thở được giữ lại

    Tăng cường lẫn nhau.

    Đặc biệt, quan trọng là phải kết hợp xen kẽ

    Giữ hơi thở chậm và nhẹ nhàng

    Cả bên ngoài và bên trong.

    Như được dạy rằng người ta nên thực hành theo nhiều cách khác nhau

    Liên quan đến số lượng, màu sắc, sờ chạm, vân vân

    Nhưng ở đây, thông qua hướng dẫn độc đáo

    Tất cả sẽ được thành tựu

    Tu tập này quả thực là phương pháp cao nhất.

    Nếu, sau khi luyện cách giữ hơi thở nhẹ nhàng, hành giả giữ nó mạnh mẽ, các phẩm chất ưu tú sẽ biểu hiện tươi mới. Ngược lại, cách nín thở mạnh mẽ sẽ tăng cường cách nín thở nhẹ nhàng. Điểm quan trọng là nín thở bên trong rồi sau đó nín thở bên ngoài. Một lần nữa, sau khi nón thở bên ngoài, hành giả nên nín thở một lúc ngắn bên trong. Ngoài ra, nhiều cách khác được dạy thông qua đó kinh nghiệm về tính sáng được nâng cao: ví dụ, tập trung không phân tâm vào số lần thở của mình, tập trung vào màu sắc của các luồng khí liên quan năm nguyên tố, tập trung vào mối liên hệ ấm hay lạnh của chúng, hoặc tập trung vào các hình dạng (quán tưởng) khác nhau của khí.57 Tuy nhiên, tất cả những điều này chẳng gì hơn là các kỹ thuật tập trung và tự chúng không thể đưa người ta trực tiếp chạm tới thực tại tối hậu.

    Trong bối cảnh này, một phương pháp được dạy theo đó, thông qua một chỉ dẫn quan trọng duy nhất, các luồng khí được phong bế trong trung mạch, với kết quả là thực tại tối hậu biểu lộ mà không cần bất kỳ hỗ trợ hay tham chiếu nào.

    42. Áp dụng tất cả những điểm chính của thân thể

    Như đã giải thích trước đây

    Đặc biệt là một cái nhìn chăm chú bất động,

    Hít thở đều và rất chậm

    Qua miệng và cả hai lỗ mũi.

    Thư giãn hoàn toàn trong trạng thái “bình thường”,

    Tức là trạng thái tự nhiên, rộng mở và tự do.

    Điểm then chốt của tâm trí không phải là tập trung’vào bất cứ điều gì, mà là để mặc mọi thứ tự nhiên như vậy.

    Nằm ngửa và duỗi tay chân

    Sau đó hét lên HA , tập trung tâm trí của bạn vào bầu trời.

    Nghỉ ngơi bình thản, không bị xao lãng,

    Thoát khỏi sự sinh sôi và tan biến của các suy nghĩ.

    Khí – tâm sau đó nghỉ ngơi trong trạng thái an lạc

    Của sự mở rộng tự nhiên và tự do.

    Đây là cánh cửa mà qua đó phát sinh

    Mọi phẩm tính hoàn hảo, vô số và vô ngại.

    Ngồi với thân thể trong tư thế bảy điểm, hành giả thở đều và rất chậm qua miệng và mũi, thư giãn tâm trí trong một khoảnh khắc ở trạng thái không có suy nghĩ. Sau đó, hành giả đếm hơi thở mình. Vì, tại thời điểm đó, các luồng khí bị phong tỏa trong trung mạch, kết quả là khi hành giả không nghĩ về bất cứ điều gì, thần khí sẽ lắng đọng trong tính thanh tịnh nguyên thủy. Sau đó, với cánh tay và chân duỗi ra, hành giả nên nằm ngửa. Tập trung mắt vào bầu trời rồi thốt lên mạnh mẽ âm Ha ba lần, hành giả nín thở bên ngoài. Khi để tâm trí mình trong trạng thái tự nhiên, trí tuệ nguyên thủy không có chủ thể nhận thức, nói cách khác, trạng thái cạn kiệt của các hiện tượng trong thực tại tối hậu, sẽ ngay lập tức biểu lộ. Điều này được gọi là “Đại Toàn Thiện, hiện diện tự nhiên như mandala của kim cương giới, không gian bất hoại”. Pháp thân, trạng thái của Phổ Hiền, đã được đạt tới.

    Thiền định như vậy lâu dài sẽ mang lại những phẩm chất tuyệt diệu.

    43. Sau đó cơ thể cở thể cảm thấy nhẹ nhõm

    Không có hơi thở được cảm nhận.

    Mọi vận động tâm trí đều dừng lại.

    Tâm trí sáng tỏ và minh mẫn

    Và ở đó trí thiên nhãn xuất hiện.

    Thần túc đạt được

    Làn da của bạn sẽ lấp lánh và tỏa sáng;

    Và sự tập trung sẽ xuất hiện.

    Những dấu hiệu sẽ chỉ ra

    Rằng khí tâm giờ đã đi vào kinh mạch trung tâm

    Đây là một chỉ dẫn tối cao.

    Nó cực kỳ bí mật, sâu xa nhất.

    Thân thể sẽ cảm thấy nhẹ như bông. Không có chuyển động nào của hơi thở được cảm nhận, và moi sự tạo dựng ý niệm sẽ lắng xuống. Tâm trí sẽ vẫn sáng ngời và trong trẻo, thần nhãn vi tế hoặc tri thức siêu nhiên sẽ biểu hiện. Thần túc thông, nhanh như ngựa, sẽ đạt được. Da hành giả sẽ trở nên bóng và sáng, một loại tập trung mới sẽ xuất hiện. Ngoài ra, hành giả sẽ nhìn thấy khói và phần còn lại của mười dấu hiệu thanh tịnh.

    Phần thứ ba của lời giải thích cụ thể liên quan đến cách mà hành giả tập trung của hành giả vào trạng thái vô niệm được nâng cao.

    44. Để tăng cường tập trung của bạn

    Vào trạng thái vô niệm như không gian,

    Hãy để tâm trí và thân thể nghỉ ngơi thật sâu

    Và tập trung nhất tâm vào một đối tượng

    Khi bạn cố định mạnh mẽ vào đối tượng àny

    Không bị xao lãng

    Mọi suy nghĩ khác đều lắng xuống

    Trong trải nghiệm duy nhất về đối tượng này

    Khi đó ngay cả ý niệm về đối tượng này cũng biến mất hoàn toàn.

    Hình tướng của sự vật vẫn còn,

    Nhưng không có sự nắm bắt nào vào nó.

    Nó phát sinh nhưng lại trống rỗng.

    Một lần nữa, hành giả ngồi ở tư thế bảy điểm, ngoại trừ việc anh ta phải nhìn chăm chú vào một vật gì đó, ví dụ như hình ảnh một vị thần. Vào lúc đó, tất cả các suy nghĩ sẽ lắng xuống trong kinh nghiệm đơn giản về vị thần, sau đó, chính suy nghĩ về vị thần sẽ tự nhiên lắng xuống và trí tuệ nguyên sơ phi khái niệm, xuất hiện nhưng trống không, sẽ hiển lộ.

    Những điểm quan trọng khác sau đây liên quan đến việc nâng cao tập trung vào trạng thái vô niệm.

    45. Đây là điểm trọng yếu, và ngoài ra

    Bạn nên tu luyện như sau

    Thỉnh thoảng tập trung vào một vật thể bên ngoài nào đó.

    Thở ra và ngưng thở càng lâu càng tốt.

    Trạng thái vô niệm sẽ xuất hiện.

    Đôi lúc giữ hơi thở bên trong

    Giữ nguyên không dao động và không xao lãng

    Tập trung vào một đối tượng trong cơ thể bạn

    Dù là phần trên hay phần dưới.

    Đôi khi hãy để mặc tâm trí bạn

    Như nó đang là, không hỗ trợ.

    Duy trì trạng thái mà

    Tuy mọi thứ xuất hiện, nhưng bạn không dính mắc vào chúng.

    Trên cơ sở lời giải thích trọng yếu này,

    Trí tuệ của pháp thân, thoát khỏi các suy nghĩ,

    Sẽ, tự nảy sinh, từ bên trong.

    Đôi khi hơi thở được giữ bên ngoài, khi nhìn chăm chú vào một hòn đá, một ngọn núi, một tảng đá lớn, hoặc thứ gì đó tương tự, trạng thái vô niệm sẽ xảy ra. Đôi khí, hơi thở được giữ bên trong, và khi hành giả tập trung vào bốn luân xa, vào các âm tiết trong các kinh mạch, vào ánh sáng, hoặc trên thân thể các vị thần, trạng thái vô niệm cũng sẽ đạt được. Đôi khi, thông qua việc ổn định tâm trí mà không có bất cứ hỗ trợ nào, trong trạng thái quảng đại và trống rỗng mà chẳng có gì được nắm bắt, trí tuệ ban sơ liên tục của tính bình đẳng sẽ biểu lộ.

    Bài giảng về cách tăng cường tập trung vào hỷ lạc, tính sáng và vô niệm đã kết thúc.

    46. Cách chung để nâng cao tập trung

    Vào hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm

    Nghỉ ngơi trong sự tích lũy cả trí tuệ và công đức,

    Thanh tẩy mọi che chướng

    Thực hành các giai đoạn phát sinh và thành tựu.

    Và con đường sâu xa được ca ngợi nhiều nhất là guru yoga.

    Lời chỉ dẫn này là tối thượng và tối hậu.

    Những người may mắn ước muốn giải thoát

    Nên tha thiết đón nhận nó.

    Chính nhờ hành động thiện hạnh mà người ta hiểu được bất thiện, do đó, việc tích lũy thiện hạnh và tịnh hóa ô nhiễm là những cách sâu sắc để tiến bộ trên con đường. Như kinh Nhiều hành động của đức Phật nói: “Bằng cách tích lũy thiện hạnh, người ta hoàn thành mong muốn của mình”.
  5. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    193
    Đã được thích:
    0
    Chủ đề thứ ba của bài giảng kết thúc liên quan đến sự chứng ngộ đạt được từ việc đi theo con đường không sai lầm của thực tại nền tảng.

    47. Những chứng ngộ phát sinh thông quan thiền định như vậy

    Đều có chung hương vị

    Chúng không đa thù, chúng chẳng dị biệt.

    Giống như nhữung người đến từ ba hướng

    Rồi gặp nhau tại một nơi duy nhất,

    Và giống như những dòng suối khác nhau chảy qua,

    Hợp lại thành một trong một biển cả duy nhất.

    Hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm

    Bất cứ phương pháp nào trong số này mà người ta có thể thực hành

    Khi chuyển động tinh thần đạt đến trạng thái nghỉ ngơi hoàn toàn

    Và trong bản tính của tâm trí, không gian bất sinh, tan biến.

    Tâm trí giác ngộ, không có mọi khái niệm

    (Dù là tồn tại hay không tồn tại).

    Mặt trời của bản tính nền tảng, bừng sáng và trống trải,

    Sẽ mọc lên từ bên trong

    Trong sự chứng ngộ này, bất biến và bất động

    Không có gì để thêm vào, chẳng có gì để bớt đi.

    Đó là bản tính của nó như lại tạng

    Tương xứng với chính không gian.

    Giống như mọi người đến từ nhiều hướng khác nhau đều đến và tụ họp tại một nơi, mặc dù hành giả thiền định riêng rẽ về ba phương pháp là hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm, nhưng sự chứng ngộ mà chúng sản sinh ra, mục tiêu đã định của chúng thì hoàn toàn giống nhau: trạng thái trần trụi, là tỉnh giác, trống rỗng. Bản tính của nó là một tính giác bao trùm toàn thể không tồn tại như bất cứ vật gì. Nó là tính sáng suốt thanh tịnh không ngừng. Nó là tính giác tự nhận thức. Nó không có những che chướng thô cùng những tấm màn tinh tế, và nó tự chiếu sáng. Mặc dù tính giác hiện diện trong mọi người, nhưng chỉ những ai nhận được gia trì từ thầy mới có thể kinh nghiệm nó. Nhờ bản tính của nó, nó là sự tự chiếu sáng không có đối tượng.58 Sự sáng suốt sâu sắc nội tại này không phụ thuộc vào các điều kiện. Nó là sự sáng chói nguyên thủy và không phát sinh ngẫu nhiên. Đây thực sự được gọi là trí tuệ bản nguyên của quang minh. Kinh Bát Nhã trong 8000 Câu nói: “Về tâm trí, tâm trí không tồn tại. Bản tính của tâm là tính sáng”.59

    Tính sáng là thế nào?

    48. Vào lúc đó, trong biển samadhi

    An trú và nội quán,

    Nhất tâm, minh bạch, thuần tịnh

    Các hiện tượng giống như ảnh phản chiếu

    Không có bản thể nội tại

    Được phản chiếu mà không có sự thiên vị hay bám chấp.

    Bản tính của chúng được nhận ra như là

    Hình sắc và tính không trong sự hợp nhất.

    Các hình tướng là trống rỗng;

    Chúng giống như những huyễn ảnh ảo thuật.

    Chúng không thể được ghim chặt.

    Sự mở rộng bao la của chứng ngộ này

    Của sự hợp nhất không thể chia cắt này

    Sự sáng chói phát sinh bên trong

    Được đưa ra thông qua lời chỉ dẫn cốt lõi này.

    Những thứ phản chiếu trên (bề mặt của) đại dương trong suốt chỉ là nước, không gì khác. Những hình ảnh phản chiếu và nước không phải là một, cũng chẳng phải là nhiều. Những ảnh phản chiếu xuất hiện trong nước, nhưng chúng không thể được nắm bắt. Tương tự, nhiều hình dạng xuất hiện trong bản tính trong suốt của tâm trí. Tuy nhiên sự xuất hiện của các đối tượng giác quan không làm vấy bẩn tâm, và tâm không nắm bắt chúng. Các đối tượng giác quan xuất hiện với các thức giác quan, nhưng không bị vấy bẩn bởi sự nắm bắt (của tâm), chúng biểu hiện theo cách ảo ảnh huyễn thuật. Vì khi an trú tĩnh lặng, nhất tâm, mang một bản tính duy nhất với tuệ giác sâu sắc, chân thực và sáng suốt, các đối tượng xuất hiện được nhận thức nhưng trống rỗng, vì tâm không nắm bắt chúng. Trạng thái này được gọi là “sự sáng chói xuất hiện mà không có bản thể nội tại”.

    Như đã nói trong Xác minh Kiến Thức Hợp Lệ,60

    Mọi thứ được tập hợp trong tâm trí.

    Ngay cả khi tâm trí không còn chuyển động,

    Tâm trí, với sự trợ giúp của đôi mắt, nhìn thấy hình dạng

    Là ý thức giác quan của việc nhìn.

    Tính sáng chói được biểu hiện thông qua sức mạnh của ai?

    49. Nhờ sự ban phúc của thầy mà bạn thấy được

    Trí tuệ nguyên thủy tự sinh, không thể diễn tả,

    Vượt ngoài cả ngôn ngữ và tư tưởng.

    Và trong khoảnh khắc nhìn thấy,

    Phi thời gian là ba thời,

    Không có sự khác biệt nào chia tách tương lai với quá khứ.

    Đây là Trí Tuệ Vượt Qua, Trung Đạo;

    Sự Tĩnh Lặng (của mọi ý nghĩ và nỗi khổ), Đại Ấn;

    Đại Toàn Thiện của thực tại tối hậu tinh túy,

    Đó là trạng thái bản tính nền tảng

    Nơi, ngay từ đầu,

    Các hiện tượng đều cạn kiệt.

    Đó là sự sáng suốt của tâm trí

    Trí tuệ nguyên thủy tự sinh,

    Được gọi bằng nhiều tên khác nhau, nhưng tất cả đều có một ý nghĩa:

    Thực tại tối hậu, vượt ngoài mọi phạm vi

    Về lời nói, tư tưởng, diễn giải:

    Tâm giác ngộ,

    Bản tính như không gian, nơi luân hồi và niết bàn vốn không hai.

    Nhờ ân phúc của thầy mà bản tính sáng tỏ của tâm trí được thấy. Như đã nói ở một trong những Đạo Ca:

    Khi lời chỉ dẫn của đạo sự đi vào trái tim họ,

    Họ coi nó như một báu vật trong tay mình.

    Khi nhìn thấy bản tính giống như không gian này, không thể nói, không thể nghĩ, vượt ngoài khả năng giải thích, hành giả hiểu rằng giữa quá khứ và tương lai không có sự khác biệt, rằng không có gì có thể bị lấy đi khỏi bản tính này và chẳng có gì có thể được thêm vào nó. Khi nhìn thấy điều này, hành giả được giải thoát khỏi mọi xiềng xích. Như đã nói trong Abhisamayalamkara:

    Chẳng có gì bị lấy đi từ nó,

    Không có gì nhỏ nhất để thêm vào.

    Tính thanh tịnh hoàn hảo được nhìn thấy một cách hoàn hảo.

    Khi được thấy một cách hoàn hảo, chính là tự do tuyệt đối.

    Mặc dù cái thấy về bản tính nền tảng của tâm trí này được gọi bằng nhiều tên, Prajnaparamita (Sự hoàn hảo của trí tuệ), Madhyamaka (trung đạo), Quân bình hay Tĩnh lặng, Mahamudra (đại ấn), Mahasandhi (đại hoàn hảo), vân vân, nhưng ý nghĩa luôn giống nhau: tính giác, tâm giác ngộ sáng tạo toàn thể, giống như không gian. Như được nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

    Đối với bản tính đơn nhất của chính tôi, đấng sáng tạo toàn thể,

    Nhiều cái tên được đặt ra trong những tuyên bố của đoan tùy tùng tôi.

    Một số người gọi tôi là tâm giác ngộ,

    Số khác là bản tính như không gian.

    Một số gọi tôi là trí tuệ nguyên thủy tự phát sinh.

    Một số gọi là pháp thân.

    Một số gọi là báu thân.

    Một số gọi là ứng thân.

    Một số coi tôi là đấng toàn năng,

    Số khác coi là tri thức trên mọi phương diện,

    Số khác coi là ba hay bốn trí tuệ nguyên thủy,

    Số khác quả thực là năm trí .

    Đối với một vài người, tôi là trí tuệ nguyên thủy và là tính bao la tột cùng.

    Nhưng tất cả danh xưng này đều chỉ

    Tâm trí giác ngộ, đơn nhất, tự phát sinh.

    Đây là điều mà những người thấy tôi, tự phát sinh, sẽ nói.

    Bây giờ đến phần kết luận của chủ đề thứ ba: sự chứng ngộ này là một trạng thái vượt ngoài tâm trí bình thường.

    50. Vô hạn, vượt ngoài mọi thiên lệch,

    Chẳng bị ràng buộc trong cạm bẫy của các giáo điều,

    Thoát khỏi tâm trí lan man,

    Bất nhị, hoàn hảo, đại bình đẳng,

    Trí tuệ của các Đấng Chiến Thắng,

    Không gian bao la vượt trên mọi cực đoan.

    Đây là điều mà các hành giả cần nhận thức đầy đủ.

    Cái thấy về bản tính nền tảng không đạt được thông qua lý luận xuất phát từ các thừa khác nhau và các hệ thống giáo lý khác nhau. vì nó vượt ngoài phạm vi của ngôn từ và chân lý tương đối. Nó vượt trên các hình ảnh tinh thần được sử dụng trong các thực hành truyền cảm hứng,61 vì nó vượt ngoài tâm trí, phi nhị nguyên và giống như không gian. Nó vượt ngoài mọi suy nghĩ và giải thích. Vậy thì làm sao nó được biết đến? Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

    Nếu bản tính nền tảng

    Bạn thực sự muốn nhận ra,

    Hãy xem xét một phép so sánh:

    Thực tế là nó giống như không gian

    Khi bạn nhận ra, thì, bản tính không sinh của thực tại,

    Bạn nghỉ ngơi trong bản tính vô ngại của tâm trí.

    Thực tại tối hậu như không gian

    Quả thực được chỉ ra bằng phép loại suy.

    Vì nó giống như không gian.

    Khi hành giả tu luyện pháp này bằng cách tập trung vào những điểm than chốt, điều quan trọng là không can thiệp vào hoặc cố gắng thay đổi tâm trí mình. Vì trong trạng thái như vậy, mọi hy vọng và sợ hãi, mọi nỗ lực và phấn đấu đều tan biến, người đó sẽ an trú trong trạng thái trần trụi, hoàn toàn trần trụi của tính giác tự giác ngộ. Như Vua Sáng Tạo Toàn Thể nói một lần nữa:

    Hỡi Mahasattva,

    Nếu bạn muốn nhận ra bản tính của tâm trí mình,

    Vì điều này được thực hiện bằng cách không muốn nó,

    Đừng trì hoãn trong tính bình đẳng vô niệm.

    An trú tự nhiên trong một cảnh giới không chấp nhận hay bác bỏ.

    An trú tự nhiên trong trạng thái bất động.

    Vì bản tính của tâm trí vốn như thực.

    Trong tính như thực, mọi thứ được thiết lập.

    Vì vậy, đừng thay đổi trạng thái như thực này.

    Đừng thiền về thứ gì khác

    Ngoài trạng thái tối hậu của vạn sự.

    (Đó chính là bạn, vậy đừng nhìn đi nơi khác)62

    Chư Phật không tìm thấy gì,

    Dù họ tìm kiếm.

    Mọi việc đã làm xong, không cần phải làm lúc này!

    Mọi thứ đã đạt được, nên bây giờ không còn gì để đạt tới!

    Đừng nghĩ rằng bạn khôgn được nghĩ đến bất cứ thứ gì.

    Chỉ cần đặt tâm bạn vào trạng thái bình đẳng tính.

    Kye! Hãy nghe, Mahasattva!

    Toàn thể chư Phật trong quá khứ

    Chẳng tìm thấy gì ngoài tâm trí mình.

    Họ không sửa đổi tính như thực;

    Họ không thiền định khái niệm.

    Tâm trí của họ, tự do khỏi các ý niệm,

    Đã thành tựu hoàn hảo.

    Chư Phật hiện tại và sau này

    Sẽ đạt được thành tựu

    Trong trạng thái vô niệm, bình đẳng.

    Chủ đề thứ tư của bài giảng kết thúc là trình bày kết quả.

    51. Các kết quả khác nhau của những mức độ tập trung này

    Khi đã hoàn toàn thuần thục, thì như sau:

    Ngay lập tức, thông qua sự hợp nhất

    Của hỷ lạc, sáng suốt, vô niệm,

    Vô số phẩm tính, thiên nhãn trí,

    Quyền năng của các linh ảnh, tất cả đều đạt được.

    Và ở cấp độ cuối cùng,

    Những phẩm chất giác ngộ, viên mãn

    Của ba thân được thành tựu.

    Mục đích kép cho bản thân và người khác

    Đạt được tự nhiên.

    Bằng cách thiền định đúng đắn và tuần tự trên con đường, thông qua việc làm chủ sự chú tâm vào hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm, người thực hành sẽ, trong thời gian ngắn, đạt được các quyền năng linh ảnh, kiến thức siêu nhiên, vân vân. Cuối cùng, người đó sẽ đạt được giác ngộ hoàn hảo của phật quả. Được ban cho ba thần và trí tuệ nguyên thủy, người đó sẽ làm việc vì lợi ích của chúng sinh cho đến chừng nào luân hồi còn tồn tại. Theo đó, từ bên trong không gian của pháp than, tương tự như bầu trời, người đó sẽ xuất hiện trong sắc thân, các thân của hình tướng, giống như mặt trời và mặt trăng, người đó sẽ làm việc vì lợi ích của người khác, như Sutralamkara nói:

    Biết rằng các thân Phật

    Đều được bao gồm trong ba thân

    Ba thân được cho là

    Hoàn thành các mục tiêu của mình và mọi người.63

    Uttaratantra nói rằng:

    Đấng Biết Thế Gian với lòng đại từ

    Nhìn chăm chú mọi chúng sinh thế giới

    Và, trong khi không bao giờ dao động khỏi pháp thân,

    Ngài xuất hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau,

    Ngại sinh ra ở Đâu Suất,

    Rồi từ cõi đó đi xuống.

    Ngài đi vào tử cung của mẹ và được sinh ra.

    Ngài phát triển kỹ năng trong mọi nghệ thuật.

    Thích thú trước sự hiện diện của các nữ hoàng.

    Sau đó, ngài từ bỏ tất cả và thực hành khổ hạnh.

    Sau đó, ngài đi đến nơi giác ngộ của mình,

    Chiến thắng ma vương và đạt quả vị phật hoàn hảo

    Ngài quay bánh xe pháp

    Rồi đến trạng thái vượt mọi đau khổ

    Đây là những hành động mà đức phật đã biểu lộ

    Nơi những vùng đất bất tịnh, cho đến khi nào luân hồi còn tồn tại.

    Abhisamayalankara nói:

    Đến khi nào luân hồi này còn tồn tại

    Đến khi ngài làm việc vì lợi ích chúng sinh

    Hóa thân của bậc thánh chẳng hề gián đoạn

    Và chừng nào luân hồi còn kéo dài

    Thì hoạt động của ngài không ngừng nghỉ.

    Do đó, kết luận.

    Tôi nguyện đi theo con đường này

    Thứ dẫn đến chính bản chất giác ngộ

    Vô nhiễm, thoát khỏi mọi ô trược

    Con đường này là nguồn của bình an hoàn hảo

    Của lợ ích và niềm vui

    Con đường này quá khứ đã mang lại phẩm hạnh hoàn hảo

    Trở thành ngọc quý trang hoàng thế giới.

    Nơi có nước thanh tịnh

    Nơi có hoa và tiếng vo ve ngọt ngào của những chú ong,

    Nơi chim công nhảy múa,

    Nơi hoa sen tỏa sáng,

    Một nơi trở nên đẹp đẽ và vinh quang

    Nhờ sự khổ hạnh của người thông thái

    Ở một nơi như vậy, trong cô tịch

    Cầu cho bầu trời thanh bình làm mái nhà của tôi

    Từ tồn tại trong luân hồi

    Hào lửa thấm đẫm nỗi đau

    Nguyện cho tôi được hòa mình vào dòng nước mát của sự chú tâm Vững chắc của mình

    Dẫn dắt mọi chúng sinh tới

    Nơi an bình, hạnh phúc, tự do,

    Và an lạc không khiếm khuyết.

    Đây là phần trình bày về các giai đoạn chú tâm mà hành giả nên thiền định, điểm kim cương thứ ba của Thừa Thanh Tịnh Siêu Việt, một bản bình luận về Tìm Nghỉ Ngơi trong Thiền Định, giáo lý của Đại Toàn Thiện.

    KẾT LUẬN

    Giờ đây chuyên luận này đã hoàn tất, sau đây là phần kết luận chung cho toàn bộ cuốn sách, bắt đầu bằng lời hồi hướng công đức.

    1. Nhờ công đức giải thích

    Giáo lý tính túy này

    Sâu và rộng,

    Một pháp thực hành sẽ dẫn đến thanh thản,

    Nguyện cho mọi chúng sinh đạt tới giác ngộ

    Được trang hoàng bằng hai tích lũy cao cả

    Tận hưởng sự tráng lệ vô tận của những hành vi giác ngộ

    Nhờ đó thỏa mãn mọi mong ước.

    Nhờ công đức có được từ việc đưa ra hệ thống giáo lý và thực hành kỳ diệu này, nguyện toàn thể chúng sinh đạt được giác ngộ hoàn hảo, trạng thái được tô điểm bằng vẻ tráng lệ vô cùng của trí tuệ và phẩm hạnh.

    Nơi chốn, biên soạn, và tác giả của chuyên luận này giờ đây được mô tả.

    2. Là sự chưng cất tinh túy

    Từ những điểm trọng yếu trong thực hành của ông

    Drime Ozer, con của Đấng Chiến Thắng

    Vì lợi ích của những người sẽ đến,

    Đã ghi lại lời diễn giải tường minh này

    Trên sườn núi Grangri Thokar.

    Được phú cho hào quang trí tuệ vô nhiễm và uyên bác vĩ đại, (Drime Ozer), người thừa kế tinh thần của Liên Hoa Vương vinh quang, Padma Gyalpo xứ Oddiyana, đã biên soạn văn bản này trên sườn núi, Gangri Thokar, vua của các ngọn núi. Ông đã làm vậy vì lợi ích của các thế hệ tương lai, cô đọng trên cơ sở kinh nghiệm của chính mình về các điểm trọng yếu của những chỉ dẫn cốt lõi về Đại Toàn Thiện Tự Nhiên.

    Người đọc văn bản này được khuyến khích làm việc vì lợi ích của người khác.

    3. Những ai mong muốn giải thoát,

    Hãy siêng năng áp dụng lời tôi.

    Vì như vậy bạn sẽ hoàn thiện hai mục tiêu

    Cho nhu cầu trước mắt và tối hậu.

    Và nhanh chóng được hài lòng

    Trên hòn đảo đại lạc.

    Những người trong các thế hệ tương lai thực hành để đạt được giải thoát nên nỗ lực thiền định theo những chỉ dẫn của chuyên luận này. Thực hành ngày đêm, họ sẽ nhanh chóng đạt được giác ngộ, hoàn thiện mục tiêu kép vì lới ích của chính họ và những người khác, nhờ đó đạt được hạnh phúc tráng lệ cao cả của đại lạc từ giác ngộ vô thượng. Như đã nói trong Ratnakuta:

    Giác ngộ này là nơi trú ngụ của những người tinh tấn

    Đây không phải là nơi của những người không cố gắng

    Đến đây hoàn tất giải thích kết thúc chuyên luận.

    Nguyện bầu trời là tâm trí chúng sinh

    Được lấp đầy bởi những đám mây công đức tích tập

    Từ việc biên soạn bản chú giải được trình bày hoàn thiện này

    Và ban xuống những cơn mưa hạnh phúc và lợi ích:

    Sự xuất sắc của mục tiêu kép.

    Nguyện cho mọi chúng sinh được dồi dào

    Với sự phong phú của giác ngộ hiển lộ.

    Hoàn toàn từ bỏ các con đường sai lầm

    Và đi vào Thừa Thanh Tịnh Siêu Việt này

    Giáo lý cao cả về bản tính kim cương, sâu xa và rộng lớn.

    Nguyện cho mọi chúng sinh được đến thành trì giải thoát

    Lời dạy này là ngôi sao ban ngày của ngàn ánh sáng,

    Một mandala tuyệt diệu của văn bản, lý luận và hướng dẫn cốt lõi,

    Giúp xua tan bóng tối tâm trí

    Và làm nở hoa sen giác ngộ.

    Lặp đi lặp lại trong những kiếp trước

    Tôi đã rửa sạch tâm nhãn tôi trong đó

    Và trong kiếp này tôi đã làm chủ một lần nữa

    Tinh hoa của các kinh điển, mật điển, các chỉ dẫn cốt lõi

    Và trở thành chuyên gia về ý nghĩa sâu sắc đó.

    Khi trên bầu trời trong xanh của giới luật vô lậu,

    Trí tuệ với ngàn vạn hào quang phát sinh

    Bông sen đa sắc của không gian quảng đại nở rộ,

    Và ánh sáng giải thoát bao trùm toàn thể

    Xuất hiện khắp mười phương.64

    Tiếp nối truyền thống từ các chúng sinh vĩ đại trong quá khứ,

    Theo dấu chân của những chúa tể vĩ đại trong loài người tôi đã bước,

    Và với những quán đỉnh ban phúc của đức Liên Hoa tự sinh,

    Trên sườn núi Gangri Thokar, tôi đã biên soạn văn bản này.

    Thừa Thanh Tịnh Siêu Việt.

    Thuộc truyền thống vô thượng yoga, đỉnh kim cương.

    Được trang hoàn bằng nhiều từ ngữ và ý nghĩa tuyệt diệu.

    Đó là cỗ xe tối cao trên con đường tới tự do.

    Mong mọi người may mắn đều được hưởng niềm vui trong đó.

    Thừa Thanh Tịnh Siêu Việt, một bản chú giải cho Tìm Nghỉ Ngơi Trong Thiền Định, một giáo lý về Đại Toàn Thiện, được biên soạn bởi Longchen Rabjam, một yogi được đào tạo bài bản về các chủ đề sâu sắc và rộng lớn, viết ra, giờ đây đã hoàn tất.

    Thiện hạnh! Thiện hạnh! Thiệnh hạnh!
  6. Prahevajra

    Prahevajra Thành viên quen thuộc Staff Member

    Tham gia ngày:
    04/09/2015
    Bài viết:
    193
    Đã được thích:
    0
    PHỤC LỤC


    Đại cương cấu trúc của Điểm Kim Cương Thứ Ba


    Giáo lý sơ bộ

    Các pháp sơ bộ bên ngoài và riêng biệt

    Các pháp sơ bộ cao cấp

    Lợi ích của các pháp sơ bộ

    Giáo lý chính

    Một trình bày ngắn gọn

    Trình bày chi tiết

    Tập trung vào hỷ lạc

    Tập trung vào tính sáng

    Tập trung vào vô niệm

    Kế thúc giáo lý: hướng dẫn hỗ trợ tiến hành các thực hành chính.

    Những kinh nghiệm sai lệch về hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm

    Tăng cường hỷ lạc, sáng tỏ, vô niệm

    Sửa chữa các kinh nghiệm sai lệch

    Bởi những hành giả thượng căn

    Bởi những hành giả trung căn

    Phương pháp chung

    Phương pháp đặc biệt

    Sửa chữa hỷ lạc sai lệch

    Sửa chữa tính sáng sai lệch

    Sửa chữa vô niệm sai lệch

    Kết luận

    Bởi hành giả hạ căn

    Tư thế thân thể và cách nhìn chăm chú

    Yếu tố vật chất

    Kết nối tốt lành

    Sự tăng cường của hỷ lạc, sáng tỏ và vô niệm

    Hướng dẫn chung

    Hướng dẫn cụ thể

    Tăng cường hỷ lạc

    Tăng cường sáng tỏ

    Tăng cường vô niệm

    Đạt được chứng ngộ

    Kết luận

    GHI CHÚ

    Các chữ viết tắt

    GP (General Presentaiton): Longchen Rabjam, Đại Dương Chú Giải Tao Nhã, một bản trình bày chung, trong Ngal gso skor gsum.

    TPQ (Treasury of Preciuos Quality), quyển 1: Jigme Lingpa và Longchen Yeshe Dorje, Kangyur Rinpoche, Kho Tàng Những Phẩm Tính Quý Giá, do nhóm Padmakara dịch (Boston Shambhala Publication, 2010).

    TPQ (Treasury of Preciuos Quality), quyển 2: Jigme Lingpa và Longchen Yeshe Dorje, Kangyur Rinpoche, Kho Tàng Những Phẩm Tính Quý Giá, do nhóm Padmakara dịch (Boston Shambhala Publication, 2013).

    WB (Way of Boddhisattva): Shantideva, Con đường Bồ Tát, bản dịch của Boddhicharyavatara, dịch bởi nhóm Padmakara, bản chỉnh sửa (Boston Shambhala Publication, 2006).

    ----------------

    1. bSam gtan ngal gso.

    2. Sems nyid ngal gso.

    3. Ngal gso skor gsum.

    4. Respectively, shing rta, phreng ba, and don khrid.

    5. sPyi don legs bshad rgya mtsho.

    6. Shing rta chen po.

    7. Shing rta rnam par dag pa.

    8. sGyu ma ngal gso. Thừa Thanh Tịnh Siêu Việt, trong lời bình cho khổ thơ 23 ám chỉ rõ ràng đến Thừa Xuất Chúng (Shing rta bzang po).

    9. ’Jig rten pa’i bsam gtan rtog med rang gsal gyi ting nge ’dzin khams gsum pa’i sems kyi spyod yul can. GP, p. 97.

    10. ’Jig rten las ’das pa’i bsam gtan gyi ngal stegs shes rab dang ting nge ’dzin zung ’brel khyad par can gyi zhi lhag sgom pa. Ibid.

    11. Dus bzhi rnal ’byor gyi sgrub pa zab mo.

    12. Man ngag lta ba’i rdzong phreng.Chúng tôi không thể tìm thấy văn bản này, rõ ràng là hơi khác so với văn bản tôn vinh nổi tiếng hơn của đạo sư Liên Hoa Sinh có tựa đề Tràng Hoa của Cái Thấy (Man ngag lta ba’i phreng ba).

    13. Để có cái nhìn đầy đủ về chủ đề phức tạp này, xem TPQ q1, trang 284-316.

    14. rang bzhin rdzogs pa chen po: trong cách diễn đạt này, thuật ngữ “tự nhiên” (rang bzhin) ám chỉ thực tế là “khuôn mặt” hay “sự giống nhau” (bzhin) của thực tại tối hậu được thể hiện chính xác như nó vốn có mà không có bất cứ sự chỉnh sửa hay chế định nào.

    15. Ở tầm mức tối thượng, Prajanaparamita và Đại Toàn Thiện là như nhau. Tuy nhiên, có một khác biệt đáng kể trong cách chúng xác lập nền tảng, cũng như trong các thực hành thiền định liên quan. Xem TPQ, q2, trang 436-454.

    16. Đây là những gì người Tây Tạng thực sự nói. Thực tế nó có vẻ mâu thuẫn với mô tả trước đó cho thấy một lỗi của người ghi chép.

    17. Xem ghi chú 12.

    18. Diễn tả này không có nghĩa là vô hạn thực sự. Nó biểu thị một khoảng thời gian trôi qua, được Vasubhandu định nghĩa trong Abhidarmakosa của ông là 1058 kiếp. Một kiếp là một khoảng thời gian bao gồm sự hình thành, tồn tại và hoại diệt của một hệ thống vũ trụ cùng với một khoảng thời gian trống rỗng trước khi hình thành một vũ trụ tiếp theo.

    19. dag mnyam dkyil ’khor gcig: ám chỉ hai chân lý tối hậu của mật tông. Theo chân lý rốt ráo tương đối, mọi hiện tượng đều thanh tịnh khi là sự biểu hiện của các thân và các trí. Theo chân lý rốt ráo tuyệt đối, bản tính tột cùng của các hiện tượng là “bảy sự tráng lệ của chư như lai”. Xem TPQ, q2, trang 341.

    20. Về mô tả năm con đường Đại Thừa, xem TPQ, q1, trang 391-92.

    21. Người Tây Tạng nói về sáu nguyên tắc này như sau: (1) rang ldog ma ’dres, (2) dgag dgos yongs rdzogs, (3) ngo bo gnas ’gyur, (4) yon tan yar ldan, (5) gnad kyis mi ’gal, và (6) dus skabs kyi gtso bor ’gyur bya ba.

    22. Mỗi một trong ba giới nguyện đều giữ lại các đặc điểm riêng của mình ở chỗ thẩm quyền từ người mà hành giả thọ giới, thái độ mà hành giả thọ giới và các nghi lễ được sử dụng đều khác nhau.

    23. Tất cả đều có cùng mục đích, đó là giải thoát tâm trí. Xem TPQ, q1, trang 297.

    24. Văn bản đọc là thams cad log la mkhar rtsigs, có lẽ là lỗi của người chép. Khenchen Pema Sherab đã sửa lại thành thams cad long la mkhar rtsigs.

    25. dngos po.

    26. Có hai loại thực hành trong truyền thống mật tông. Thứ nhất, có thiền định theo con đường giải thoát (grol lam), thứ hai, có thiền định theo con đường phương tiện thiện xảo (thabs lam). Ngắn gọn, con đường giải thoát nhấn mạnh đến ba loại trí tuệ (xuất phát từ việc lắng nghe, suy ngẫm và thiền về giáo lý). Nhờ phương tiện này mà đạt được tính chắc chắn trong quan điểm mật tông, và áp dụng vào việc thực hành giai đoạn phát sinh. Mặt khác, con đường của phương tiện thiện xảo nhấn mạnh phương pháp và bao gồm các thực hành liên quan đến, trong số những thứ khác, các kinh mạch, năng lượng khí, và giọt tinh túy, nhờ đó trí tuệ nguyên thủy nộ tại nhanh chóng phát sinh.

    27. Như được kể rằng sau thời kỳ đàn áp giáo lý Phật bởi vua Lãng đạt ma, một vị thầy được gọi là Hồng Sư và một vị khác có tên là Thanh Bào Học Giả đã từ Ấn Độ đến Tây Tạng tuyền bá các hoạt động liên quan đến những cuộc truy hoan công cộng và giết chóc. Nhiều người Tây Tạng đã bị dẫn đi lạc lối.

    28. Ba trong bốn yếu tố đen còn lại là khiến cho mọi người hối hận về những điều không nên hối hận, nói năng với các bậc thánh bằng những lời gắt gỏng, khó nghe, và đối xử với chúng sinh bằng tính xảo quyệt, lừa dối.

    29. Nghĩa là bản tự bình luận cho Tìm Nghỉ Ngơi trong Bản Tính của Tâm Trí.

    30. Xem lời đức Liên Hoa Sinh được trích dẫn trong TPQ, q2, trang 208.

    Đại Vương, trong giáo lý mật tông của tôi, cái thấy được điều hướng tới pháp thân, nhưng hành vi thì hòa hợp với con đường của Bồ Tát. Đừng để hành vi của ngài bị lạc trong cái thấy. Nếu vậy, ngài sẽ không hiểu được thiện hạnh hay tội lỗi, và ngài sẽ không thể sửa chữa những tiêu cực của mình sau này. Mặt khác, nếu cái thấy của ngài đi theo và đồng hành với hành vi của mình, ngài sẽ bị trói buộc bởi sự vật và các thuộc tính của chúng, và sự giải thoát sẽ tránh xa ngài. Giáo lý mật tông của tôi chủ yếu tập trung vào tâm trí; cái thấy là điều quan trọng nhất. Trong tương lai, nhiều người sẽ có sự xác thực về lời nói nhưng sẽ không có sự chắc chắn về cái thấy, và họ sẽ đi đến các cõi thấp hơn.

    31. Xem WB, chương 5, câu 23.

    32. như trên, chương 9, câu 151, 152, và 154.

    33. như trên, chương 8, câu 22.

    34. như trên, chương 4, câu 17.

    35. như trên, chương 2, câu 57.

    36. như trên, chương 7, câu 14.

    37. như trên, chương 1, câu 4–6.

    38.Xem TPQ, q 1, trang 391.

    39. Giải thích về các mạch, khí và giọt, xem TPQ, q2, trang 155-164.

    40. Giải thích về ý nghĩa từ nguyên của tâm giác ngộ hay bồ đề tâm, xem TPQ, q2, trang 236.

    41. Hoan Hỷ Địa là cấp đầu tiên của Bồ Tát, hay địa.

    42. Văn bản nên đọc ở đây: lha yi rnam pa’i gzugs kyis ni/ /bzhin lag kha dog gnas pa ni/ /skyes pa tsam gyis rnam par gnas/ /’on kyang bag chags phal pas so/ /

    43. WB, chương 5, câu 16.

    44. Thân cây này có đường kính bằng một đồng xu nhỏ.

    45. Đây là đường thẳng đứng của chữ A trong tiếng Tây Tạng, nhọn ở phần dưới và mở rộng về phía trên. Trong bối cảnh hiện tại, nó được hình dung theo hướng ngược lại, tức là phần nhọn ở trên cùng.

    46. khams dangs ma: Đây là từ đồng nghĩa của “giọt tinh hoa” (thig le)

    47. Để biết thông tin chi tiết về những phẩm chất giác ngộ này, xem TPQ, q1, trang 387-89.

    48. Không rõ thứ tự đọc âm tiết HA và quán tưởng về sự soi chiếu của quả cầu ánh sáng (hay chữ A) diễn ra như thế nào. Trong cả bản gốc và chú giải, chúng tôi đã dịch chính xác những gì Longchenpa nói.

    49. gnyen po las gyur pa lnga: theo Khenchen Pema Sherab, “pháp đối trị” (gnyen po) ở đây nên được hiểu là một phẩm chất tốt (hỷ lạc) bị làm hỏng bởi năm thái độ này.

    50. sgyu ma: thuật ngữ Tây Tạng này luôn được hiểu theo nghĩa là “ảo ảnh huyễn thuật”, tức là một hình dạng giả tạo do ảo thuật tạo ra trên cơ sở các chất liệu không liên quan đến hình dạng giả ảo (ví dụ trên cơ sở một hòn đá và một cành cây, nhà ảo thuật tạo ra hình dạng một con voi). Nó được phân biệt với loại hình dạng giả tạo phát sinh thông qua nhận thức sai lầm trên cơ sở các vật thể có một vài điểm giống với đối tượng ảo tưởng. Ví dụ, từ một góc độ nhất định và dưới một ánh sáng nhất định, một khối đá có thể trông giống như một người đàn ông.

    51. rang bzhin gyu ma: như đã giải thích trong Thừa Xuất Chúng, bản tự bình luận cho Tìm Nghỉ Ngơi trong Tính Huyễn Ảo, cách diễn đạt này ám chỉ bản tính sáng ngời của tâm trí, phật tính, là nền tảng của tính thanh tịnh.

    52. Xem chú thích 45.

    53. Theo Dilgo Khyentse Rinpoche, khí trung tính tương ứng với khí đi kèm lửa, khí bao trùm toàn thể và khí hỗ trợ sự sống, tất cả đều được tập hợp lại và giữ trong hơi thở bình. Ngược lại, khi di cuhyeern lên trên có đặc tính nam, khí hướng xuống có đặc tính nữ. Xem TPQ, q2, trang 161, 431 và 288.

    54. Tức là mỡ người.

    55. Xem TPQ, q2, trang 162.

    56. Chúng tôi không thể tìm thấy văn bản này trong phiên bản hiện tại của Sutralamkara.

    57. Xem TPQ, q2, trang 162.

    58. Điều này có nghĩa tính giác thoát khỏi tính nhị nguyên của sự phân biệt chủ thể và đối tượng. Cái nhìn và cái được nhìn thấy là cùng một trí tuệ nguyên thủy, hay tính giác.

    59. Trích dẫn này theo truyền thống được hiểu là ám chỉ đến ba lần quay bánh xe Pháp. Trong lần quay đầu tiên (các giáo lý, ví dụ, bốn sự thật cao cả, chuỗi mười hai sự phát sinh tương thuộc, vân vân) các hiện tượng (ở đây là tâm trí) được khẳng định. Trong lần quay thứ hai (giáo lý về Bát nhã ba la mật, tức là tính không), sự tồn tại chân thực của các hiện tượng bị phủ nhận (tâm trí không tồn tại). Trong lần quay thứ ba (giáo lý về Phật tính), bản tính sáng ngời của tâm thức được khẳng định.

    60. Pramanaviniscaya (Tshad ma rnam par nges pa): Lương Quyết Định Luận.Đây là một trong bảy tác phẩm vĩ đại của Pháp Xứng về kiến thức xác thực. (tshad ma sde bdun).

    61. Hai hình thứ thiền mở ra cho hành giả: thiền khát vọng (mos sgom) và thiền “thực sự hoàn hảo” (lam nges rdzogs). Trong trường hợp đầu tiên, khi hành giả không quen với việc thực hành quán tưởng bản thân như một vị thần, và anh ta nghĩ rằng: “Mình là vị thần” hoặc “vị thần giống như thế này hoặc thế kia”, thì cùng một vị thần này xuất hiện trong tâm trí người đó theo cách khái niệm, giống như bất cứ ý tưởng trừu tượng nào khác. Điều này được gọi là sự biểu lộ của vị thần dưới dạng một đối tượng hoặc hình ảnh trong tâm trí.

    62. rang nyid yin gyis gzhan du ma tshol cig: dòng này có trong văn bản của Vua Sáng Tạo Toàn Thể, bị bỏ sót trong trích dẫn của Longchenpa. Nó được khôi phục lại ở đây để làm sáng tỏ ý nghĩa.

    63. Longchenpa chỉ trích dẫn dòng đầu tiên và dòng thứ tư của khổ thở này. Toàn bộ khổ thơ (Sutralamkara, x, 65) được cung cấp trong bản dịch để làm rõ nghĩa.

    64. Một số tên của Longchenpa được đưa vào trong cách diễn đạt của khổ thơ này: tshul khrims blo gros (trí tuệ của kỷ luật), dri med’ od zer (các tia sáng vô nhiễm), klong chen rab ‘byams (không gian bao trùm toàn thể).

    (Hết Sách)

Chia sẻ trang này