1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vụ hoán đổi tên nước Nam Việt thành Việt nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Dilac, 05/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mabun

    mabun Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    1
    Không thể đổi được.
    Cứ tưởng tượng, mới định tăng thêm số cho số điện thoại di động mà dân tình đã nháo nhào. Vậy nếu đổi tên Việt chẳng khác gì Y2K. Chỉ tính riêng giấy tờ thôi đã phải in lại biết bao giấy tờ: cmt, hộ khẩu, giấy khai sinh, sổ hồng....Tiền đâu ra. Hay bác có đủ để tài trợ, tôi vận động đổi người Việt thành người Hưng Yên liền
  2. QuaFeRo

    QuaFeRo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/08/2003
    Bài viết:
    182
    Đã được thích:
    0
    Gửi 2 bác CoDep va Dilac,
    Vậy quốc hiệu Việt Nam có nghĩa là như thế nào? Có đúng thực là mang ý nghĩa như nhà Thanh đã ban cho triều đình nhà Nguyễn "... vậy Thiên-triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ ?oViệt-Nam?; lấy chữ ?oViệt? để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ ?oNam? để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách-Việt..." không? Chữ "Việt" có nghĩa là gì?
    Các bác có thời gian thì giải thích, mở mang cho em biết thêm nhé.
    Thành thực cám ơn.
    Được QuaFeRo sửa chữa / chuyển vào 19:51 ngày 08/07/2007
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Nên đổi tên cho hợp thời đại chứ, nhất là để hội nhập thế giới
    ngày nay.
    Ví dụ có bạn tên là Hoàng, bây giờ đổi tên là David (đọc là đây
    vít) chẳng hạn. Nói đến David thì bè bạn và bà con cứ ngã ngửa
    người ra, chẳng biết ai vào ai cả, nhưng trong công ty toàn tây
    mỹ của bạn ấy thì biết ngày là cậu thấp nhỏ, da vàng mũi tẹt này .
    Trong trường hợp tên Việt, vì bọn Tây cũng đã biết rồi, nên cũng
    chẳng cần phải đổi nữa. Nếu chúng chưa biết, mà tìm một cái
    tên không có chữ Việt, thì tôi cũng nát óc không tưởng tượng
    được ra. Thôi, đành để cho người ta nghĩ rằng chúng ta vốn là
    dân là nước của người Quảng Đông, mà di dân đến đây vậy.
    Người Việt nam trên Internet thật lòng nghĩ ông bà họ vốn ở
    Quảng Đông cũng không ít đâu.
  4. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Chẳng hiểu sao Gia Long thì chấp nhận tên Việt Nam nhưng sao đến thời Minh Mạng thì lại không lấy tên ấy mà lấy tên Đại Nam ?
  5. nguoi_giong

    nguoi_giong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/10/2005
    Bài viết:
    289
    Đã được thích:
    75
    Chắc là giống như Đại Hàn của Hàn Quốc chăng.
    Quốc hiệu Việt Nam có thời kỳ mà đọc thấy buồn cười nhất, mặc dù ý nghĩa của nó thì hoàn toàn nghiêm túc, đó là thời kỳ nhà Hồ: quốc hiệu là "Đại Ngu"
  6. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Chữ Đại trong Đại Nam, Đại Hàn... cũng như nhau, nghĩa là lớn cả. Chữ Hàn có nghĩa là thủ lĩnh, Đại Hàn là thủ lĩnh lớn, nguồn gốc từ Tam Hàn (Samhan) ở Nam Triều Tiên. Nam Triều Tiên vẫn dùng từ Hàn quốc (Đại Hàn dân quốc) chắc là vì trên đất Tam Hàn xưa? Đại Nam là nước Nam lớn, vua Minh Mạng đặt như thế là lấy Trung Quốc làm mốc, chứ Việt Nam khi đó ở phía bắc Mã Lai, lại chẳng đặt tên Bắc Nam. Lại bỏ tên Việt chắc là vì nước có thêm cả dân Miên, Lào nữa, dùng tên Việt dân Miên, Lào lại phản đối (sao không dùng tên Miên hay Lào?), nên đặt tên Nam?
    Đại Ngu sự yên vui lớn, Ngu là "sự yên vui", ai lại đặt chữ Ngu có nghĩa là ngu dốt? Hoặc có giải thích khác theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn (Trung Quốc), Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu, nghĩa là nước Ngu lớn.
  7. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Thế cho nên phải lấy tên gốc của mình, tổ tiên khi xưa đã xưng thế nào nên lấy tên để nhớ về nguồn gốc của mình chứ. Chẳng hạn sang Tây nói tiếng Tây nhưng không phải người Tây mà là người Việt.
    Người Quảng Đông ngày nay, khi xưa là nhà Lĩnh Nam cả, là đất của người Việt cổ, nay họ đồng hoá với người Trung Hoa rồi nên họ không phải người Việt nữa, mặc dù thỉnh thoảng họ vẫn dùng từ Việt để gọi mình, nhưng mà là Việt bộ Mễ, chứ không phải Việt bộ Tẩu như Việt Nam.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 15:10 ngày 10/07/2007
  8. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    chữ Việt ngoài chỉ các bộ tộc việt ở phía nam sông trường giang còn có một cách hiểu khác là chữ Vượt về hướng nam, đó là nói về quá trình xâm lấn của các bộ tộc phía bắc (Khựa)
    Nói gì thì nói tên gọi "Việt Nam" vẫn là tên gọi mang đầy đủ tính chất nhân văn, khoa học và chân lý cao cả nhất
    Việt Nam - Hồ Chí Minh
    nếu bây giờ được đổi tên nước ta vậy các bác thử tìm xem có cái tên nào khác để lại nhiều ấn tượng như cái Tên Việt Nam trong lòng người dân Việt Nam nói riêng và cả những người luôn luôn tự hào là con rồng cháu tiên không?
  9. QuaFeRo

    QuaFeRo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/08/2003
    Bài viết:
    182
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bạn trongthanhdhv. Nhân đây em xin được hỏi các bác có am hiểu nhiều về lịch sử và nghĩa của chữ Việt trong quốc hiệu Việt Nam. Cách giải thích về nghĩa của chữ Việt của tác giả Lê Văn Ẩn là có hoàn toàn thỏa đáng không ạ?
    Cũng tiện thể, liên quan đến việc hoán đổi Nam Việt - Việt Nam, em làm copy & paste một cái. Cái này gọi là lòng tự tôn, tự hào một tý. Quốc hiệu Việt Nam là của người Việt Nam đặt ra và sử dụng, không phải đi xin, đi cầu người ngoài nào cả.
    Ai đặt quốc hiệu Việt Nam đầu tiên?
    Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cho biết, ông và một số đồng nghiệp đã phát hiện tổng số 12 bia niên đại thế kỷ 16, 17 có hai tiếng Việt Nam. Ngoài ra, còn một bản in khắc gỗ từ năm 1752 cũng có danh xưng Việt Nam. Như vậy, hai tiếng Việt Nam đã có từ lâu, và theo ông Giác Hải, Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu tiên sử dụng tên gọi này như quốc hiệu.
    * Vì sao ông lại quan tâm đến vấn đề này?
    - Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: Cách đây nhiều năm, tôi tình cờ đọc được một thắc mắc đăng trên báo quốc hiệu Việt Nam có từ bao giờ. Câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng tôi dám chắc phần lớn học sinh trung học, thậm chí đại học không trả lời được, vì đại đa số các sách giáo khoa của chúng ta không đề cập đến vấn đề này, còn tại sao thì xin dành cho các nhà biên soạn sách và các sử gia.
    Ngay cuốn Lịch sử Việt Nam do Ủy ban Khoa học xã hội xuất bản năm 1976 cũng không hề nói tới điều này. Còn cuốn Bách khoa toàn thư Anh (1992) thì cho nhận định, hai tiếng Việt Nam bắt đầu từ thời Nguyễn do việc nhà Thanh bên Trung Hoa năm 1804 đã đảo ngược hai chữ Nam Việt mà Gia Long đề nghị sắc phong năm 1802. Điều này quả cũng có thực. Trong cuốn chính sử nhà Nguyễn Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất ký có ghi lại sự kiện này.
    * Chính sử thời ấy đã khá rõ ràng, vì sao ông, một nhà nghiên cứu về sinh học và ngoại cảm lại không bằng lòng với cách giải thích này?
    - Năm 1974, khi công tác ở Viện Khoa học Việt Nam, tôi bắt đầu nghiên cứu về ngoại cảm, về khoa học dự báo và tôi có được đọc tập sách dự báo Sấm Trạng Trình, được coi là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Khi nghiên cứu tập sấm này, đến bản AB 444 trong kho sách của Viện Hán Nôm, tôi bất đồ tìm thấy hai chữ Việt Nam ngay trong những dòng đầu tiên: Việt Narn khởi tổ xây nền. Theo quan niệm chính thống, hai chữ Việt Nam không được phép có mặt trước năm 1804, trong khi cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm lại sống cách ta 500 năm. Vấn đề đặt ra là có thật hai chữ Việt Nam đã được dùng cách đây hơn 500 năm để chỉ tên gọi đất nước? Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm còn những ai đã dùng danh xưng Việt Nam? Liệu có những bằng chứng khảo cổ về vấn đề này? Song lúc đó không có điều kiện tiếp xúc với bản gốc nên phải tạm gác lại. Đến 1980, khi được tiếp xúc với bản gốc, tôi đã dành hơn 20 năm nay để nghiên cứu. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (thế kỷ 19), thì từ thời nhà Trần, tiến sĩ Hồ Tông Thốc đã viết bộ sách Việt Nam thế chí. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi, trong thế kỷ 15 cũng đã nhiều lần nhắc đến hai tiếng Việt Nam. Song đáng tiếc, Việt Nam thế chí không còn nữa, chỉ còn được dẫn bài tựa trong Lịch triều hiến chương loại chí; còn Dư địa chí chỉ được khắc ván in ở thế kỷ 19 khi đã có quốc hiệu Việt Nam rồi, những bản trước không có niên hiệu rõ ràng.
    * Ông có thể nói rõ hơn về quá trình tìm kiếm nguồn gốc tên gọi đất nước?
    - Sau khi đọc được bản gốc Sấm Trạng Trình, tôi đã khẳng định được hai tiếng Việt Nam đã được sử dụng từ thế kỷ 15. Song bản sấm này được truyền lại qua những bản chép tay, cũng không ai dám chắc tác giả là cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi liền chuyển qua tra cứu thơ văn của cụ để so sánh. Thật bất ngờ, hai tiếng Việt Nam được cụ nhắc tới bốn lần: Trong tập thơ Sơn hà hái động thường vịnh (Vịnh về núi non sông biển) đã đề cập tới. Rõ hơn, trong các bài thơ gửi trạng Giáp Hải, cụ có viết: "Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại, Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam"; còn trong bài gửi trạng Nguyễn Thuyến, "Tiền đồ vĩ đại quân tu ký / Thùy thị công danh trọng Việt Nam".
    Dẫu sao, đó cũng mới chỉ là những văn bản chép tay. Để khẳng định thêm, tôi đã đi tìm trong bi ký (bài ký trên bia đá). Nhờ một số nhà khoa học Viện Hán Nôm, tôi đã tìm ra trong bia trùng tu chùa Phúc Thánh (Quế Võ, Bắc Ninh) năm 1664, phần bài Minh có câu Việt Nam cảnh giới, Kinh Bắc thừa tuyên. Sau đó là bia trùng tu chùa Bảo Lâm (Chí Linh, Hải Dương) năm 1558, Việt Nam đại danh lam bất tri kỳ cơ, bia chùa Cam Lộ (Hà Tây), năm 1590, Chân Việt Nam chi đệ nhất. Tuy nhiên, phát hiện quan trọng nhất là tấm bia Thủy Môn Đình ở biên giới Lạng Sơn do trấn thủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộc soạn năm Cảnh Trị thứ tám (1670), có câu : Việt Nam hầu thiệt trấn bắc ải quan (Cửa ải phía Bắc Việt Nam). Đây là tấm bia có niên đại muộn hơn song nó có danh tính người soạn, hơn nữa đây là một mệnh quan triều đình, là phát ngôn chính thức.
    Cho đến nay, sau tôi một số nhà nghiên cứu khác đã phát hiện tổng số 12 bia có hai tiếng Việt Nam. Tất cả đều có niên đại thế kỷ 16, 17. Ngoài ra, còn một bản in khắc gỗ có danh xưng Việt Nam năm 1752. Như vậy, hai tiếng Việt Nam đã có từ lâu, và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên sử dụng, sử dụng nhiều nhất và có ý thức nhất.
    * Theo những nghiên cứu của ông, có thể lý giải vì sao Nguyễn Bỉnh Khiêm là nguời đầu tiên sử dụng hai tiếng Việt Nam?
    - Dân tộc ta bắt nguồn từ một bộ tộc Việt trong Bách Việt - chỉ tất cả các dân tộc phía nam Trung Hoa. Trong toàn bộ lịch sử, ta luôn dùng tử việt, để chỉ dân tộc và đất nước ta. Song cha ông ta cũng dùng từ "Nam" với ý nghĩa tương tự. Bài thơ Thần-tuyên ngôn độc lập đầu tiên, Lý Thường Kiệt viết: Nam quốc sơn hà nam đế cư. Từ Nam được dùng với nghĩa phương Nam để đối lại với phương Bắc (Trung Quốc). Trong thế kỷ 18, danh y Tuệ Tĩnh khi viết bộ sách khảo cứu về cây thuốc nước ta, lấy tên là Nam dược thần hiệu. Ngày nay ta vẫn nói thuốc nam-thuốc bắc.
    Vì sao có thể coi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên sử dụng Việt Nam như là quốc hiệu? Thế kỷ 15, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê ở nước ta, nhà Minh bên Trung Quốc lấy cớ đem quân can thiệp. Nhà Mạc đầu hàng, Đại Việt lúc đó bị biến thành một quận của Trung Quốc, không còn quốc hiệu. Mạc Đăng Dung được nhà Minh phong làm An Nam đô sứ ty. Trên thực tế Mạc Đăng Dung vẫn là vua một nước, để vừa đối phó với triều đình phương Bắc, vừa an dân, tên nước được gọi là Việt Nam. Lúc ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm là học giả đứng đầu cả nước, nên nhiều khả năng ông đặt ra cách gọi này.
    Do Trạng Trình được coi là một nhà tiên tri lỗi lạc, cũng có người muốn thần bí hóa bằng cách giải thích: Do nhìn thấy trước việc nhà Thanh phong vương cho Gia Long và gọi nước ta là Việt Nam nên ông đã gọi trước tên nước là Việt Nam để tránh sự lúng túng cho hậu thế: Tên gọi là do ngoại quốc áp đặt. Trên thực tế, vài chục năm sau, nhà Nguyễn để tránh bị phụ thuộc đã đổi tên nước là Đại Nam.
    Dù giải thích thế nào, thì quốc hiệu Việt Nam cũng được Trạng Trình sử dụng đầu tiên, nhiều nhất và có ý thức nhất. Từ nguồn gốc này, lịch sử quốc hiệu đất nước không còn phụ thuộc vào hai triều đại phong kiến nữa.
    * Nhân đây, ông có thể giải thích thế nào là quốc danh, quốc hiệu?
    - Các tên gọi Văn Lang, Vạn Xuân, Đại Việt... đều được các sử gia sử dụng làm quốc hiệu. Còn các học giả xưa vẫn viết "Ngã Việt quốc, ngã Nam nhân" (Nước Việt ta, người Việt ta). Hai tiếng Việt Nam, qua các thư tịch cổ thì mới chỉ là quốc danh, song rất hạn chế. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tên gọi Việt Nam chính thức thành tên gọi đất nước (quốc danh). Hiến pháp 1946 viết "Nước Việt Nam là một nước theo chế độ dân chủ cộng hòa". Như vậy, Việt Nam dân chủ cộng hòa mới trở thành quốc hiệu, đến nay 1976 quốc hiệu này được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Nguồn: http://viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20030314121732
    Tin thêm:
    http://vietnamnet.vn/tet/baoxuan/2006/01/535866/
    http://vietnamnet.vn/psks/2005/06/463021/
    Được QuaFeRo sửa chữa / chuyển vào 01:09 ngày 11/07/2007
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Quảng Đông là Lĩnh Nam.
    Đất ViệtNam không phải Lĩnh Nam.
    Có lẽ bạn nên tìm hiểu về địa lý một chút nữa.
    Người Quảng Đông là người Trung Hoa chính tông,
    không phải đồng hoá với người Trung Hoa. Họ vốn
    ở Quảng Đông trước khi có nước ViệtNam cổ, và họ
    vẫn ở Quảng Đông bây giờ, không đi đâu hết. Chỉ có
    Hoa Kiều gốc Quảng Đông mới đi khỏi Trung Hoa thôi.
    Bạn cho rằng người Quảng Đông cổ là người Việt Nam cổ?
    Cái này cần học nhiều môn khác nhau mới biết nổi người
    Quảng Đông và người ViệtNam nhiều nghìn năm trước đã
    không cùng một dân tộc rồi, nếu ta tin theo thuyết loài người
    có chung một tổ tiên từ châu Phi. Vùng Đông Nam Á trước khi
    người Hán đến, và trước khi có nước ViệtNam cổ, đã có rất
    nhiều dân tộc khác nhau, không phải chỉ có một dân tộc đâu .
    Cái thuyết dân tộc Việt, dân tộc Bách Việt, chỉ có ở Internet,
    mà không có ở một công trình nghiên cứu dân tộc nào cả.
    Việt bộ Mễ hay Việt bộ Tấu cũng đều là chữ Hán cả, được
    người Hán viết ra từ xưa, khi chưa biết có người Việt ở trên đời.
    Đừng lấy chữ nghĩa (ra đời sau) để giải thích nguồn gốc dân tộc
    (có từ lâu trước khi có chữ viết).

Chia sẻ trang này