1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện Ma "Siêu Tầm" !!!

Chủ đề trong '7X - Chi hội Sài Gòn' bởi Cafe_Tialia, 12/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Cafe_Tialia

    Cafe_Tialia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2006
    Bài viết:
    366
    Đã được thích:
    0
    AI HÁT GIỮA RỪNG KHUYA
    3/ Ngàn Khuya Vắng Tiếng
    - Hai vợ chồng tôi ở đây đã quá một năm mà thực quả chưa bao giờ có được cái hân hạnh như anh cả.
    Từ khi chúng tôi mới đến, đã nghe các ông cai và các bác phu già nói dông dài nhiều về chuyện đường rừng. Nào là dã sử của mấy mươi loài chim lạ, nào là sự tích của bao nhiêu loài dã thú? phần nhiều những chuyện đó, tuy lý thú, ý vị nhưng không lấy gì làm hãi hùng.
    Bản tính tôi thích nghe những chuyện hãi hùng thôi, nên chả để ý nhiều đến lời họ nói. Mãi sau này, có một ông Cai già mà anh em áo cộc hay gọi ?oLão Cai Móm?, vì răng ông ra rụng gần hết ?" ông ấy thuật cho tôi nghe một câu chuyện rất kỳ quặc, khủng khiếp. Đầu tiên, tôi không tin, cho là ông ta cố tình bịa đặt, một là để vừa lòng tôi, hai là để dọa vợ tôi cho thú vị. Nhưng được ít lâu, trong một trường hợp cực kỳ quái gở, tôi suýt nữa tán đởm vì sợ hãi rồi từ đó tôi phải tin lời ông Cai già là đúng.
    Từ độ ấy, hễ cứ đêm nào mưa dầm gió bấc, như đêm nay chẳng hạn, là tôi cố thức và lắng tai nghe.
    Tôi thức mãi, lắng mãi, mà chả bao giờ thấy gì cả. Cái lần mà đáng lẽ được nghe thấy, thì tôi lại sợ quá, chết ngất đi thiếu chút nữa mất mạng. Còn về sau này, thì cả vợ chồng đêm đêm thường cùng nhau ngồi lắng tai nghe gần suốt sáng, thế mà cũng chả thấy gì. Chán nản, chúng tôi đành bỏ, không thám thính nữa. Ai ngờ, lần đầu tiên đến đây, anh đã nhận được ngay sự bí hiểm mà tổn bao tâm trí tôi vẫn chưa nhận được, tai anh thật là tai thánh, linh ứng bằng tai Hổ Thần!
    Quả như lời anh nói, sự bí hiểm kia là một điệu hát cô đầu. Trong rừng có ả đào, đó mới là một sự đáng cho là bí hiểm! Nhất là ở mạn rừng này. Bởi lẽ Đồng Giao là một hạt hẻo lánh, dân thưa, nước độc, cô đầu đến làm gì? Trong khi mấy chục năm, có lẽ từ thượng cổ đến giờ, chưa khi nào có một chị quẩng mỡ hay điên rồ đến đây mở một ngôi hang Hồng Lâu cả. Thế thì tại sao ở chỗ này lại được nghe hát ả đào?
    Cứ về đêm, quá giờ Tý, thì mới văng vẳng có tiếng đàn ca réo rắt. Đàn ca ấy lại xuất phát từ mé giữa rừng. Hai tháng đầu khi tôi mới đến, cũng lắm người nói với tôi như thế, tôi đều cho là bịa đặt. Về sau, nghe ai cũng cam đoan là thật, tôi mới đâm nghi ngờ, muốn biết rõ nguyên cớ vì đâu có sự kỳ dị như vậy. Nhưng hỏi ai, họ cũng đều bảo trong rừng đêm đêm nghe có tiếng hát, không biết tại sao mà có. Người đoán đó là ma, kẻ bảo là yêu tinh, có một ông lão nhà ai quyết rằng đó là một thứ Hồ Ly lạc mãi từ bên Tàu đi lần đường núi thẳm qua Vân Nam sang tới xứ Lào, rồi lần mò tới Đồng Giao thì không đi nữa, vì tìm được địa thế hợp với nó. Sau lại có một bà già nói là mắt thấy con quái vật ấy ở trong hang đá nứt mà chui ra, trước thì là con vượn trắng, rùng mình một cái biến ngay ra một cô gái rõ đẹp, vô phúc ai gặp phải thì nó quyến rũ đưa vào hang, đàn bà nó không them bắt, nhưng đàn ông nó túm ngay lấy làm chồng. Kẻ nào đi lại cùng nó, nó rút hết xương tủy, trong ba ngày phải chết.
    Ông ký ga bảo là không phải thế. Theo như ông biết, thì đó là một nàng Tiên mỹ miều diễm lệ, không làm hại ai cả. Nàng ấy ngụ ở thân một cây quế lớn, đi tạt qua cũng ngửi thấy mùi hương xông lên, nhưng cố tìm tòi hàng tháng cũng không ra, bởi lẽ nàng Tiên đã biến cây quế thành một cây gỗ khác rồi. Cứ những ngày tối tăm trời đất hoặc sáng sủa trăng sao. Nàng lại hiện ra. Trời đất buồn thì nàng buồn, trời đất vui thì nàng vui, nàng đều lấy điệu hát câu ca véo von làm thú tiêu khiển. Truyền rằng có khi nàng thổi sáo, nghe như tiếng sáo diều, bay xa ngàn dặm. Nhưng ít khi nàng dùng thứ âm nhạc ấy, thường thường nàng tự mồm ca tay đờn, ca be bé cho một mình nàng nghe thôi, bởi thế có thính tai lắm mới thoáng nhận được một vài điệu bổng trầm.
    Đến lượt ông Cụ Bát ở gần chợ thì không phải Tiên mà là rắn, một thứ bạch xà to lớn hơn con trăn gió, biến hóa vô chừng.
    Khi hỏi đến bà Chánh Ba, người đã từng đi lại hạt Đồng Giao buôn bán, thì bà lại nghiêm nghị hạ thấp giọng xuống và nói se sẽ, một cách rất kính cẩn rằng nàng Tiên đó là một vi Công Chúa trong 12 Chầu Cô hầu Đức Bà Thượng Ngàn. Ấy là cô nương Quỳnh Hoa, vì lỡ tay làm rơi một chiếc chén cẩm ngọc khi rót rượu mời Đức Bà Liễu Hạnh ở Sòng Sơn, nên bị đày ra rừng Đồng Giao. Bởi thế những khi nàng nhớ đến Chầu Bà Thượng Ngàn và mười một chị em, trong lòng buồn rầu, nàng thường hoài vọng, bùi ngùi cất lên một khúc ngõ hầu vợi bớt nỗi lòng.
    Nghe thuyết ấy của bà Chánh Ba, chị em phụ nữ đều tỏ ra sợ hãi, sung kính, ai cũng cho thuyết ấy đúng. Nói cho cùng thì câu chuyện của bà Chánh Ba nói còn có ý vị, nó không hoang đường và hợp lẽ hơn các chuyện khác nhiều.
    Nhưng nó không được ly kỳ rùng rợn bằng câu chuyện của ông Phó Cựu. Ông Phó cả quyết nói rằng ông biết đích tong tích con quái vật hiện ra trong rừng, nó chính là con Sài Kíu. Cái giống Sài Kíu này na ná như loài chó sói, song dữ tợn hơn nhiều. Đầu nó cứng rắn như sắt, có kẻ bẫy được nó, lấy búa bổ mãi vào sọ dừa mà cũng không vỡ. Nó thường hay cúi gằm mặt xuống mà đi, tựa như một con chó dại lờ đờ buồn bã. Thế mà hễ gặp người thì nó nhảy xồ vào mé sau lưng, bá chặt lấy vai, móc mắt, và khi mình ngã xuống rồi, nó cắn vào cổ cho chết, xong tha xác vào một hang hốc giấu đi. Nó đợi cho đến lúc xương thịt rã nó mới đến ăn. Cái giống sài ấy chỉ ham có thịt thiu, thịt rữa chứ không ăn thịt tươi như những loài mãnh thú khác. Ở phía tây nước Tàu, khu vực Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Cúc Tam? có rất nhiều Sài Kíu. Giống đó đi lung khắp chốn, đánh hơi mùi xác chết, phàm giả chỗ nào có mả mới là sục đến, lấy đầu húc vào đất cho bật tung quan tài lên, rồi xé xác ra mà ăn. Bởi thế, trong mấy tỉnh trên, các miền gần rừng rậm, dân cư không dám chôn người chết nữa, họ phải dùng lối táng treo vì giống Sài Kíu không leo trèo được.
    Ăn thi thể mục nát mãi, lâu ngày có con thành tinh, con nào ăn được hơn trăm tử thi thì có linh thính và có phép biến hóa như Hổ bắt được trăm người. Con yêu ở Đồng Giao này chính là con Sài Kíu đã có hạnh phúc ?oxơi? được hơn trăm thây người chết, nên thành ra đủ phép thần thong. Nó cứ hiện lên hát véo von bẫy người ta vào xem. Gần đến sào huyệt của nó, nó sẽ run rủi cho mình vào tử địa, khiến mình bị bỏ xác ở hang sâu vực thẳm, rồi đợi khi nào tử thi đầy các thứ giòi bọ hôi tanh, nó mới đến xé thịt ra đánh chén.
    Cứ nghe thiên hạ xôn xao bàn tán, mỗi người có một cách, một chuyện riêng, mà không chuyện nào giống chuyện nào. Như thế còn xét sao cho rõ được căn nguyên sự mình muốn biết nữa? Thực là khó, bởi thế tôi cứ bán tín bán nghi, nghe kể thì vậy, song không tin ai cả.
    Cho đến lúc tôi được nghe chuyện của ông Cai Móm. Ông là người làm công cho tôi từ lúc tôi vừa chân ướt chân ráo đến Đồng Giao lần đầu. Ông là một cụ già quắc thước, đứng đắn và nghiêm nghị, tôi tin cẩn lắm. Ông lại ít nói, các bạn đồng nghiệp và phu phen kình nể, sợ hãi ông lắm.
    Ông chỉ giao tiếp với tôi trong giờ làm việc, còn ngoài ra, ít khi ông vào nhà tôi chơi lâu độ tiếng đồng hồ. Tuy già mà ông chăm chỉ làm cặm cụi cả ngày nên hóa ra ông chả có mấy lúc rảnh. Cũng do một sự tình cờ mới nói chuyện được với ông trong một đêm, rồi được rõ sự tích khúc hát trong rừng nó ly kỳ, rùng rợn như thế nào.
    Hôm đó vào khoảng tám giờ tối, có một kiện hàng rất quan trọng từ Hà Nội gửi về. Lẽ ra thì sáng hôm sau rag a lấy cũng được nhưng năm giờ sáng phải có đủ vật dụng để khởi công, thành thử ông Cai Móm phải đi lãnh ngay hàng về cho tôi. Đường tối lại vận chuyển bằng xe bò, hì hục đến chin giờ đêm, ông Cai mới về đến trại. Về đến nơi, vừa kịp xếp hàng vào kho thì gió đâu bỗng nổi lên đùng đùng, mưa trút xuống như thác chảy, lại có cả sấm sét. Một cơn bão lớn, đúng là gió núi mưa ngàn.
    Ông Cai không về được, phải xuống bếp ngồi nghỉ cùng tụi cu ly đẩy xe và khuân hàng. Tôi nhân có việc dặn ông lên nhà trên uống nuớc. Ông Cai Móm từ chối hai ba lượt nhất định không ngồi xuống ghế salon, mãi sau tôi cố sức mời, ông nể lắm mới ghé lưng ngồi rất kính cẩn lên chiếc ghế ở góc bàn ăn. Tôi vốn biết ông là người ít nói, cử chỉ rất thận trọng, nên cũng biệt đãi ông. Nhân có một chai rượu nếp cẩm, ngọt lật như đường và rất mạnh của một người bạn thân vừa biếu tôi được vài ngày, tôi bèn sai mở ra, rót mời ông Cai Móm.
    Ông đứng dậy tạ từ hai ba lần, không uống, tôi ép mãi, ông mới chịu đặt môi vào, dốc một hơi cạn hết. Ông là người thích rượu, rượu của tôi lại quá ngon nên khi mời đến cốc thứ hai, thứ ba, ông không từ chối nữa, chỉ cám ơn. Cốc nào ông cũng hớp một hơi là sạch ráo, tôi thấy tửu lực hùng tráng của ông mà vui lòng. Tôi cứ rót, ông cứ uống. Chả bao lâu, chia rượu vơi hẳn, gần hết, tôi đoán chừng ông đã hơi say. Quả nhiên, ông lấy tay ngăn không cho tôi rót tiếp nữa, ông tươi cười đắc ý, vái tôi, nói khà khà:
    - Đa tạ thầy đã yêu mà cho con uống quá nhiều, say rồi thầy ạ! Biết lấy gì mà đáp ơn thầy?
    - Cái đó có hề chi! Lúc vui ta cùng uống chơi, có gì mà ơn với huệ. À này, nhân tiện ông ở đây, tôi muốn hỏi ông về chuyện lạ ở đất Đồng Giao này. Chả hay cái điệu hát cô đầu văng vẳng trong rừng đưa ra nguồn gốc nó ở đâu? Thiên hạ mỗi người kể một lối, ông ở đây lâu, chắc hẳn biết rõ hơn mọi người, ông thử nói lại tôi nghe?
    - Thầy đã dạy, con đâu dám trái lời, nhưng để khuya khuya chút nữa, khi nào tĩnh mịch hẳn, con thuật lại thầy nghe mới thú, bây giờ còn ồn ào lắm, vả lại con đương say, nói chả được rành mạch.
    - Chốc nữa ông say quá rồi ngủ mất, tôi biết làm thế nào?
    - Thầy đừng ngại. Con có uống gấp bốn năm lần như hôm nay cũng chả say nữa là. Thầy chịu nán một chút, con xuống bếp hút điếu thuốc lào rồi sẽ lân ngay.
    Khi ông Cai Móm trở lên phòng khách của tôi, nửa giờ sau, thì chuông đồng hồ trong phòng đổ 11 tiếng. Thu Nhi đi ngủ từ sớm, Lệ Thi thì vẫn ngong ngóng nghe được câu chuyện li kỳ mới thôi. Lúc thấy mặt ông Cai Móm trở lên, nàng mừng rỡ như trẻ con được kẹo, vội đứng dậy đón, dắt vào chỗ ngồi cẩn thận, xong rót đưa cho ông một cốc rượu lớn.
    - Nào bây giờ cụ kể đi cho chúng tôi xin nghe! Biếu cụ cốc rượu ngon này. Cụ uống hết bao nhiêu, cứ việc tự tiện, chúng tôi chu tất đủ hết. Cụ bắt đầu đi!
    Lúc ở nhà dưới lên, ông không quên mang theo cái điếu cày, một vật liệu tối cần cho việc kể chuyện cổ tích đêm khuya. Ông đặt điếu xuống gầm bàn, rồi ngồi nghiêm trang trên ghế. Lệ Thi đưa biếu ông cốc rượu, ông giơ hai tay đỡ lấy, uống một hơi dài gần hết nửa cốc, không mời chào từ tốn như trước.
    Uống xong, ông thở khà một tiếng, rồi cất tiếng nói vang vang nghe hùng dũng lắm.
    - Nào, mời thầy cô ngồi gần sát lại đây và xin thầy cô đừng sợ nhé! Câu chuyện này, nó không phải là chuyện bịa đặt, vì nó hoàn toàn đúng sự thật, mà cũng không phải chuyện cổ tích, vì nó mới xảy ra độ dăm chục năm nay. Chỗ xảy ra chuyện con sắp kể đây chính là hạt Đồng Giao ta đó!
    (Còn tiếp)
  2. Cafe_Tialia

    Cafe_Tialia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2006
    Bài viết:
    366
    Đã được thích:
    0
    Đúng nửa đim !!!
    Vác chiếu ra nghĩa trang... hóng gió !

  3. oilfield

    oilfield Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/06/2006
    Bài viết:
    141
    Đã được thích:
    0
    Mình thích mấy cái truyện ma lắm, bạn sưu tầm ở đâu ra hay vậy, đang chờ đọc tiếp tuyện của bạn nè
  4. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Bà chị này chơi ác quá! Ngưng ngay khúc quan trọng nhất là răng?
  5. sn75

    sn75 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2006
    Bài viết:
    4.178
    Đã được thích:
    1
    Đang đọc, tự nhiên có một bàn lạnh ngắt sờ vào ót, muốn xĩu luôn. Thì ra thằng wỉ nhỏ mới uống nước xong rồi khều tui kêu tính tiền .
    Post tiếp đi cà phê ui
  6. Cafe_Tialia

    Cafe_Tialia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2006
    Bài viết:
    366
    Đã được thích:
    0
    Tiếp thì tiếp ! Nhưng phải chờ đúng nửa đêm mới post, đọc mới phê !!! hehhe...
    Truyện này khá hay lại hơi dài đó hen !

  7. Cafe_Tialia

    Cafe_Tialia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2006
    Bài viết:
    366
    Đã được thích:
    0
    AI HÁT GIỮA RỪNG KHUYA
    4/ Oanh Cơ
    Một buổi về xuân, cách đây hơn sáu mươi năm trước, quan huyện tri phủ Nho Quan, sau khi làm Sơn Hưng Tuyên tổng đốc được ba năm thì cáo bệnh về dưỡng lão ở hạt đó, nhân được chiếu chỉ nhà vua phong cho làm Đông Các Đại Học Sĩ, lại vừa sinh được công tử đầu lòng, thiết một lễ ăn mừng rất long trọng trong năm ngày; có tiệc, có đàn, có cô đầu mời rượu, bắt bài bông, nhảy múa và hát ca, lại có cả phường tuồng và phường chèo thiện nghệ lần lượt diễn các tích hay nhất ròng rã suốt năm đêm ngày. Bởi thế, các giáo phường ở mọi vùng lân cận phủ Nho, đều rủ nhau tới phủ đường xin hát.
    Tiếng đồn dinh quan Thượng Nho Quan (là tên mà nhân gian đặt ra để gọi cụ Đông Các) có đãi tiệc bay vào tận Thanh Hóa, các thiếp mời gửi từ hai ba tháng trước, tất cả các quan xứ Bắc và các quan phủ huyện ở lân cận tỉnh Ninh Bình mỗi người đều nhận được một tờ hoa tiên màu hồng chói lọi, trên có mấy hàng chữ Lan Đình đen láy, rất mỹ lệ sắc sảo, viết bằng một thứ mực hảo hạng, thơm ngát, hình như có lẫn mùi xạ, mùi trầm.
    Quan Thượng Nho Quan là một tay cự phách trong làng nghiên bút, bốn đời ông cha đều được phong tước, đến đời ngài thì đỗ cử nhân đệ tam danh trường Nam Định, rồi đỗ tiến sĩ đệ bát danh. Trong quan trường, ngài quen thuộc rất nhiều, đối đãi với ai cũng thuần hậu, có tình, nên các đồng liêu đều một lòng kính nể, quý mến ngài, coi ngài vào hàng thầy chứ không phải vào hàng bạn. Như thế cũng không lấy gì làm quá đáng, trong đám quan lại thời ấy, một phần đông đã thụ giáo của ngài.
    Cũng bởi vậy nên khi được tin báo ngài ngoại ngũ tuần mới sinh công tử đầu lòng, lại được thăng hàm Đông Các, các thượng quan và các quan phủ huyện khắp xứ Bắc cùng trong hai trấn Thanh ?" Nghệ đưa đồ lễ đến mừng nhan nhản, từng lớp lính cơ nón sơn, áo nâu nẹp đỏ, khố lục, sà cạp diều, khiêng lễ mễ những cái tráp nặng trĩu trên có phủ nhiễu hồng, lại có đứa đội trên đầu những cái rương bọc da đen niêm phong cẩn thận, trông chả khác gì một đoàn gia đình nhà trai đem các đồ nạp thái đến nhà gái. Họ đi từng cánh một, đông lắm, cùng chỉ hướng Bắc tiến hành cứ theo dọc con đường thiên lý mà ra khỏi cương giới xứ Trung Kỳ, rồi còn đi, đi nữa.
    Nhập với bọn họ, có một ích lợi rất lớn, là đi đường xa khỏi bị tai nạn cướp bóc (vì họ là lính quan), lại tránh được sự bị hổ ăn thịt vì đông người thì hổ không dám hành hung.
    Các giáo phường nghe đồn đại đều rủ nhau đi Nho Quan một chuyến, may ra kiếm được ít nhiều, càng hát hay càng được hậu thưởng, gặp dịp sẽ có cơ phát tài to, đủ sống trong nửa năm không phải vất vả. Các phường đều hội nhau lại, đi nhập bọn với tốp lính quan khiêng lễ vật đông như người trẩy hội.
    Trong hạt Bàn Thạch phủ Thọ Xuân tức là nguyên quán của giáo phường, thuở ấy có hai cô đào chính tông hát hay có tiếng, đã được giải đình đám đến chín mười lần. Hai chị em nhà đó sản nghiệp chẳng có gì, lại mồ côi cha mẹ từ thời ấu thơ, phải sống nương nhờ vào người anh cả, mà người anh lại góa vợ, cũng nghèo. Anh thì làm kép, gẩy đờn khuôn cho các em theo nhịp, kiếm ăn cũng không lấy gì làm sung túc nếu hai cô em không có chút nhan sắc hơn người.
    Cha mẹ ba anh em nhà ấy thuở xưa đều là những tay lỗi lạc, mẹ là một nàng danh kỹ, một đời nổi danh tài tử, cha xuất thân là công tử con nhà thế phiệt, thi ba khoa đều nhượng bảng Tôn Sơn, nên ngán nỗi khoa trường lận đận, bực mình bỏ nhà đi ngao du sơn thủy, mà hát hay đến quên cả giai cấp, lấy ca nhi làm vợ, đổi bút nghiêng ra nghề đàn hát, sống một cuộc đời túng quẫn nhưng thanh nhàn?
    Cuộc sống lãng mạn của người cha đã để di tích trên thế gian trong ba đứa con thơ cùng lãng mạn, tài hoa vì truyền thống. Người anh cả, Văn Quản, từ thuở còn nhỏ lắm, đã thích thổi ống tiêu, ống địch, khi lớn lên thì đoạt giải quán quân trong nghệ thuật bốn cung đàn đáy, cả vùng chẳng có hay đàn hay và thánh thót não ruột hơn chàng. Quản lấy một người vợ ả đào gần nhà, nhưng người vợ ấy, sau ba năm chăn gối, bỗng thụ bệnh mà thác, không để lại đứa con nào. Quản đành sống cô độc với hai người em gái, đời tuy có bạn nhưng vẫn quạnh hiu tẻ lạnh, khiến điệu đàn, những đêm mưa tuôn gió phả, càng bổng trầm chua xót thế nào!...
    Hai người em gái, trái lại, tính khi bao giờ cũng thản nhiên vui vẻ, bởi họ chưa từng bị nỗi thất tình thấm thía như ông anh. Nàng thứ nhất, Huyền Cơ, thanh rất trong, âm rất tình nhưng hơi kém bề diễm lệ, nàng cũng đẹp, song chỉ đẹp một cách dễ coi, xinh xắn, người nhỏ nhắn và da ngăm ngăm, không lấy gì làm khuynh quốc khuynh thành.
    Nàng thứ hai, Oanh Cơ thì là công trình tuyệt mỹ của Hóa Công, gồm cả thanh âm lẫn nhan sắc. Đó là một người đàn bà độc nhất vô nhị trong một thời, mà cứ trong khoảng năm sáu trăm năm, mới được gặp một lần trên cõi phàm tục. Nàng đẹp, một vẻ đẹp oái oăm, huyền bí, oanh liệt lại dịu dàng, tựa hồ đấng thiêng liêng đem hết cả bao nhiêu tinh túy của non sông cây cỏ mà dung đúc vào nhan sắc ấy.
    Nói đến khổ người của mỹ nhân. Tả làm sao cho hết mọi vẻ siêu phàm, xuất chúng? Nội trong các bậc giai nhân trong lịch sử, mỗi người một vẻ đẹp riêng, như Thúy Kiều khác Thúy Vân, Tây Thi khác Trịnh Đán, dẫu cùng ?omười phân vẹn mười? cả. So sánh nàng Oanh Cơ với các giai nhân đó, cũng chưa biết nàng kém họ hay họ phải lu mờ trước vẻ mỹ lệ của nàng. Chỉ biết nàng không béo mập như Dương Qúy Phi, cũng không ẻo lả, mai cốt cách, liễu dung hình như mấy ả tiểu thư bị nhốt trong cung cấm. Oanh Cơ là một người tầm thước, hơi mảnh khảnh, ngực nở, lưng ong. Tạo hóa đã muốn cho ai đẹp, thì cái đẹp đó gồm đủ muôn vẻ mỹ miều, từ tiếng nói, nụ cười cho đến dáng đi điệu đứng, không có cái gì là không ngộ không tươi.
    Các con gái thời cổ, nhất là con gái thôn quê, yếm sẻ, váy hàm ếch, dây lưng sồi, áo vá vai, khăn mỏ quạ? thì nào đâu có các màu mè bề ngoài để làm tăng nhan sắc của mình? Theo cổ tục, con gái không được để ngực phồng lên mà mang tiếng, phải buộc giải yếm cho chặt, mặc yếm cho sát, làm thế nào cho ngực bằng phẳng, lép kẹp đi thì thôi. Bị tục lệ hủ lậu ấy bó buộc, có được phô trương nét lộng lẫy đâu mà chăm chút. Gia dĩ lại thêm cái váy và dây lưng sồi quấn đến ba vòng quanh hông để lòa xòa rũ xuống, nó chỉ tổ làm cho nửa người phía trước bị chìm lấp chôn vùi sau một bức màn đen kịt lùng phùng, như tấm vải sẫm bao vành và phủ kín cái ***g chim vậy.
    Nàng Oanh Cơ là một thiếu nữ đã chịu ẩn mình sau thứ quần áo thô lỗ ấy, thế nên nhan sắc nàng mới gìn giữ được lâu bền. Nếu không, ắt hẳn từ đã lâu kia, nàng không còn tuyết trong giá sạch nữa! Nàng càng khó lòng giữ gìn trinh bạch, vì nàng là một cô đầu! Cái bộ y phục cổ hủ của nước Nam ta thuở xưa, tuy nó có nhiều điều bất tiện và thiếu mỹ thuật, song nó cũng có chỗ ích lợi, nhất là Oanh Cơ!
    Vẻ đẹp tuyệt diệu của nàng, mãi sau này mới có người nhận biết, còn khi nàng chưa xuất giá, chỉ có Huyền Cơ được rõ mà thôi. Oanh Cơ không chỉ có sắc đẹp, nàng lại có thanh nữa. Nàng hát rất hay, giọng trong trẻo, đầm ấm, khi não ruột lúc lâm ly, dịp khoan dịp nhặt, điệu bổng điệu trầm, thánh thót véo von, giọng nàng thực là một cây đàn muôn điệu mà nàng tựa hồ như làm bá chủ tất cả các âm thanh, muốn sai khiến chúng thế nào cũng được.
    Những hôm ngoài trời mưa phùn rả rích, gió bấc vi vu, những hôm mà lòng người cũng bị đè nén nặng nề bực bội, những hôm đó mà được ngồi trong căn nhà cỏ, trước ngọn đèn dầu thưởng thức vài khổ hát của nàng Oanh, thì cái thú tao nhã đậm đà của sự thẩm âm rũ sạch lòng mình hết những nỗi ưu phiền ô trọc, đưa tâm hồn mình lâng lâng lên cõi thơm tho sáng lạn, tưởng có phải chết sau phút thanh kỳ đó, thực không ân hận tý gì!
    Nói thế cũng không phải quá đáng. Thực vậy, ai đã được nghe Oanh Cơ và Huyền Cơ hát, nhất là nghe Oanh Cơ thì không bao giờ có thể quên được giọng thanh tao thánh thót ấy. Oanh Cơ là một con chim tuyệt quý mà tiếng hót vô song đã làm rực rỡ cả một thời dĩ vãng không tên, nàng là một ca nhi sống trong bóng tối, nhưng tài sắc đã trùm đời, khiến đấng Hóa Công tạo ra nàng lại ghen tỵ với nàng, mà gây ra nỗi thảm họa sau này, tấn bi kịch xảy ra giữa chốn rừng thẳm núi thiêng. Giữa hạt Đồng Giao độc địa.
    Oanh Cơ là kẻ sống sót sau tấn bi kịch ấy. Nàng là một cái mồi ngon quý mà loài mãnh thú rất thèm thuồng ham muốn, chỉ lăm le rình để bắt tha đi. Người đáng quan tâm chú ý nhất trong chuyện này, chính là nàng vậy.
    (Còn tiếp)
  8. Cafe_Tialia

    Cafe_Tialia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2006
    Bài viết:
    366
    Đã được thích:
    0
    AI HÁT GIỮA RỪNG KHUYA
    5/ Tai Nạn Và Gặp Gỡ
    Ông Cai Móm kể tới đây thì ngừng lại.
    Sở dĩ ông im bặt, không nói nữa, vì xa xa, ông thoáng nghe tiếng hổ gầm. Ông trầm ngâm lặng lẽ hồi lâu, chú ý lắng tai nghe trong đêm vắng. Một lát, ông cúi sát lại gần tai tôi, nói nhỏ:
    - Thầy cô thử lắng tai nghe xem, có phải tiếng hổ gầm chăng? Hổ gầm xong, lại vẳng nghe có tiếng đàn bà ca đứt quãng. Thầy cô cứ chú ý một lúc, sẽ nhận rõ ngay.
    Tôi và Lệ Thi hết sức chăm chú. Quả nhiên, chúng tôi nghe có tiếng ?oà?uuuôômm? vang động xa lắm ở trong rừng. Nhưng chỉ có thế thôi, ngoài ra không còn tiếng gì nữa. Lắng tai mãi cũng thế, ngoài tiếng dế than trùng khóc, tiếng gió rít lá rơi, chẳng có tiếng hát xướng đàn ca gì cả.
    Chán nản, tôi bảo ông Cai:
    - Chúng tôi nghe chả thấy gì, chỉ có tiếng hổ gầm ở tận đâu đâu?
    - Lắng mãi chán tai vô ích. Thôi ông kể nốt cau chuyện Oanh Cơ đi, nghe đang thú vị?
    Lệ Thi cũng nói leo:
    - Rồi sau thế nào nữa, hở ông Cai? Ông vừa nói có tấn bi kịch, bi kịch ấy làm sao, ông tiếp đi!
    Ông Cai cầm cốc rượu nếp cẩm, uống nốt chỗ còn sót lại. Ông vừa để cốc xuống, Lệ Thi vội vàng rót bồi thêm rõ đầy. Ông Cai quen thói, khà một cái rất đắc ý, xong, liếm môi, ông nói tiếp:
    ?Hai nàng Huyền Cơ và Oanh Cơ có tiếng hát hay nhất xứ. Trong mấy cuộc hát đình, hát đám, nàng Huyền đã chiếm giải đến chín mười lần, vì có sức hát giọng tốt. Nàng Oanh hát hay hơn chị, song không sung sức, chỉ ca trong nhà được mà thôi, ra đình giọng bé quá, bị tiếng ồn ào át đi, không trổ tài được.
    Dù thế mặc dầu, các quan khách đã từng nghe được Oanh, thì không muốn nghe Huyền nữa. Như thế là một sự nhục nhã cho Huyền, thế mà nàng không ghen tị với em, chỉ quý hóa, kính phục em thêm mà thôi. Lúc nào có các Thượng quan, công tử mời đến hát mừng, chị lại nhường cho em, mặc sức em trổ tài cùng quý khách. Nhưng hễ gặp quan viên tầm thường, không phải là người trí thức, thế nào Huyền cũng tranh lấy hát, cho em được nghỉ ngơi dưỡng sức dưỡng thần. Oanh rõ biết lòng chị như vậy, yêu chị như mẹ, yêu anh như cha, ở với anh chị một niềm kính nhường hiếu thảo.
    Trong buổi bình sinh, cha mẹ nàng Huyền và Oanh đã được hân hạnh thừa tiếp Nho Quan tri phủ. Quan phủ khi xưa có nghe thân mẫu và thân phụ hai nàng đàn hát. Sau một cuộc thẩm âm, quan phủ nhận biết ông kép già, đương kính cẩn nắn nót cung đàn để vừa lòng ngài, cũng là một nhà nho có tài thi phú, chỉ vì lỗi thời nên phiêu dạt lênh đênh? Sự tri ngộ ấy xui quan viên cùng kép hát dừng việc xướng ca để ngâm vịnh với nhau suốt sáng, trống dùi xếp xó nhường chỗ cho bút nghiên, rồi hai tay thâm nho cùng đọ sức với nhau trong một trường bút chiến thanh tao nhã đạm. Rốt cuộc, quan phủ rất cảm phục tình tình cao siêu và văn tài lỗi lạc của ông kép. Ông kép cũng kính nể quan phủ vì chỗ có thanh nhãn biết xem người, hai bên ý hợp tâm đầu, vong niên vong giai cấp mà kết tình bằng hữu.
    Đến sáng, quan phủ ra đi, có đem tặng cha nàng Oanh một hòm trân châu để làm kỷ vật. Ông kép già tặng lại bạn một cây sáo ngọc của tổ tiên lưu lại đã ba đời. Từ thuở chia phôi, trong quan trường, ông phủ lưu lạc mãi đâu đâu, ông kép già thì mãi bo bo an cư tại Bàn Thạch. Hai bên không từng gặp nhau nữa.
    Ông phủ ngày một thăng quan tiến chức, dần dần ra Tổng Đốc Hưng Tuyên, rồi cáo lão về Nho Quan. Về phần ông kép, thấm thoát một tuổi một già, sống cơ hàn rồi chết cũng cơ hàn. Nhà tranh vách nứa, ông chỉ có một thửa vườn nho nhỏ cùng một mái nhà gồi, thác đi thì lưu lại cho con, thế là hết. Sản nghiệp chỉ có bấy, các con và vợ góa phải lần hồi bán giọng để sinh nhai.
    Tuy hai nàng Huyền và Oanh có tiếng hát hay, song hàng tháng mới có một lần được gọi hoặc có người đến hát. Hát hàng tuần suốt ngày hay thâu đêm tới sáng, khi tan cuộc chỉ được độ ba quan tiền kẽm không đủ cung khách và chi tiêu. Thiên hạ có phải luôn luôn lúc nào cũng có cuộc vui mừng sung sướng để mượn dịp mà ca hát cả năm đâu!
    Bởi thế, cuộc sinh hoạt của ba anh em nàng Oanh không lấy gì làm sung túc. Đã nhiều lần, Văn Quản nghe nói ông bạn xưa của cha mình hiện là quan Thượng Thư Chí Sĩ ở Nho Quan, cũng đã dự định trẩy thăm quan Đông Các một lần, một là để nối dây liên lạc bấy nay đứt quãng, hai là để mong có dịp được ngài nghĩ tình đề bạt hoặc cứu giúp cho ít nhiều. Nhưng ngày giờ thấm thoát, đường xá xa xôi, Quản chưa lúc nào rảnh việc nhà mà đi được. Muốn đi, ít ra cũng phải có tiền lộ phí, và phải có vốn để lại cho hai em sinh sống trong dăm tháng, nửa năm. Bởi lẽ, anh ra đi, không có ai đàn cho hai em hát nữa, mà mượn một người kép lạ thì bất tiện biết dường nào! Cũng vì thế nên Văn Quản đành nấn ná chưa đi, vì chưa nghĩ được cách nào hoàn hảo cả.
    Đến nay nghe nhà quan Đông Các có đại tiệc. Quản nhất định thu xếp, bán đồ đạc quý giá trong nhà còn lại, và nếu thiếu thì vay mượn bà con ít nhiều. Đi kỳ này, tiện thể có cuộc ca vũ, cho cả Huyền Cơ và Oanh Cơ đi cùng, khiến hai nàng có dịp trổ tài, hầu chiếm giải quán quân trong khi thi hát. Quản một mực trù tính như vậy, chỉ đợi xếp xong mọi việc là đi. Trong giáo phường đã có nhiều bạn đồng nghiệp rủ nhau thành một đoàn đông lắm, cùng hướng Nho Quan thẳng tiến, đi chen vào với đám binh sĩ mang lễ vật của quan phủ Thọ Xuân.
    Quản rất muốn theo bọn ấy cho có bạn và đỡ lo tai nạn. Khốn nỗi, khi họ khởi hành, anh ta chưa gom góp đủ số tiền lệ phí, trong giáo phường ca nhi đi quá nửa, ai cũng lo giữ lấy vốn liếng riêng để chi dụng dọc đường. Hóa nên Quản phải dằn lòng chờ đợi.
    Đợi đến bốn năm ngày mới bán các đồ vật của cha để lại và thu thập được dăm bảy quan tiền, có thể túc dụng cho ba anh em trong cuộc Bắc trình. Nhân có tốp lính cơ ở Quảng Hóa cũng đem đồ mừng ra Ninh Bình, nếu kịp tới Đò Lèn thì gặp họ. Quản bèn sắm sửa hành lý cẩn thận định ngày đưa hai em gái lên đường. Gần đến kỳ xuất hành, không may, Huyền Cơ lâm bệnh, nằm liệt tám chín hôm mới dậy được, chạy thầy thuốc mất non một quan tiền.
  9. Cafe_Tialia

    Cafe_Tialia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2006
    Bài viết:
    366
    Đã được thích:
    0
    Khi Huyền khỏe mạnh, có thể xông pha mưa gió được thì tính ra đã chậm mất ngót nửa tháng trời. Có đi nhanh lắm may ra mới khỏi lỡ ngày đại hội dinh quan Đông Các. Ba anh em tức tốc đeo nải quẩy ghánh, vội vã lên đường, dẫu Huyền Cơ chưa lấy gì làm cứng cáp cho lắm. Đi suốt ngày, mỗi đêm chỉ nghỉ có vài giờ, cứ đầu trống canh tư là đã dậy đi rồi, thế mà cũng mất ba hôm mới tới Lò Đèn.
    Tới Lò Đèn, ba anh em vào quán nghỉ chân, đợi xem có đoàn lính tráng nào ra Bắc thì xin nhập bọn cho chắc chắn. Nhưng đợi đến hai ngày, chả thấy đoàn nào cả. Thì ra họ đã ra Nho Quan từ trước hết rồi. Hiện nay, chỉ còn độ ba hôm là tới ngày đại tiệc, không còn phường hát hay đám lính nào chưa khởi hành nữa, đợi cũng vô ích mà thôi. Lác đác trên đường, chỉ có dăm ba tốp người đi ra phía Bắc, hỏi ra ai cũng nói rằng đi quanh quẩn trong vùng mà không ra khỏi ngoài biên giới. Mãi sau cùng mới bắt gặp một lớp bảy người cho biết rõ họ buôn gạo tải ra Bỉm Sơn, rồi mua chè ở Bỉm Sơn tải về bán ở các vùng gần tỉnh lỵ. An hem Văn Quản buộc lòng phải theo đám ấy, ra đến Bỉm Sơn, họ đều rẽ về lối Phố Cát, Thạnh Thành, để mặc ba anh em trơ trọi lần mò đi về phía đèo Tam Điệp.
    Từ đây mới bắt đầu cuộc hành trình nguy nan và khó nhọc. Ba anh em sợ hãi không dám đi bạo, cứ phải chờ có ai ra đường ấy mới lủi thủi theo đi. May sao gặp được vài ba người thợ mộc, song họ chỉ đi đến đền Sòng mà thôi. Khỏi đền Sòng, lúc ấy mới thưa người, không còn ai đi nữa.
    Vô kế khả thi, anh em nàng Oanh không biết làm sao cho tiện. Đành lần mò vào trong đền xin ngủ trọ một đêm, rồi nhất định mai sáng vượt đèo Tam Điệp. Đi suốt ngày, ra công cố sức bước rõ nhanh, thể nào cũng sẽ qua khỏi chỗ nguy hiểm ấy. Kẻ cướp thì không sợ mấy, vì nghèo chẳng có gì, có lẽ họ chả thèm đếm xỉa đến. Sự đáng sợ nhất, ấy chỉ là ông Cọp, cái ông Ba Mươi vô tình mà dữ dội, hễ không may gặp phải, thì hết đường chạy trốn kêu van!
    Ba anh em cùng thành kính lên cửa đền, quỳ xuống lễ hết cả mọi linh vị thờ thánh Mẫu và các thần hộ bạ cùng các ông Hoàng bà Chúa. Khi đến tượng thần Bạch Hổ, cả ba cùng khấn hứa rất lâu, cầu đức Bạch Hổ phù trì cho giữa buổi xông pha rừng núi, đừng có xui xảy ra tai nạn hiểm nghèo nào.
    Cái đêm ngủ trọ ở đền Sòng, ba anh em nhắm mắt làm sao cho nổi! Đền làm ở giữa một nơi rừng sâu núi thẳm, chung quanh toàn là cảnh rùng rợn hoang vu, hễ cứ khuất bóng mặt trời là nghe muôn vàn tiếng kêu, tiếng hú, sợ đến sởn tóc gáy. Những ngày không có hội, thiếu gì loài mãnh thú ác đều qua lại mé ngoài đền. Bước ra khỏi đền buổi tối trời, tức là tính mệnh khó toàn vẹn lắm, có đi một lũ đông khi sáng sủa, họa chăng mới có thể tránh khỏi hàm hổ vuốt beo. Cả đêm chỉ nghe tiếng vượn hú, cú kêu, hòa với muôn vàn thứ tiếng khác nghe rất lạ, và? xé vừng không khí, trội hơn tất cả các thứ tiếng, một tiếng ?oà?uôm? rung động cả rừng, vang trong đêm tối, dội vào da thịt và xương sống một luồng khí lạnh, lạnh hơn hơi lạnh mùa đông?
    Đương lúc băn khoăn lo ngại, trời sáng lúc nào không rõ. Ba anh em Văn Quản thấy ánh bình minh mà vẫn chưa dám đi ra. Đợi khi mặt trời đỏ chói cả vừng đông, bấy giờ mới quẩy ghánh xách nải, biệt ông từ bà đồng, lo lắng ngần ngại đi lên, trông mé đèo Tam Điệp thẳng tiến. Từ Sòng Sơn tới Tam Điệp còn xa lắm, lại ngoằn ngoèo khuất khúc, chả biết theo hướng nào cho khỏi lạc. Chơ vơ một người anh và hai đứa em gái ngơ ngác trên quãng đường rừng hoang vắng, không đánh bạo cố đi cũng chả còn kế hoạch gì! Vả chung quanh mình, chẳng có ai để hỏi dò cho biết lối, thôi cứ đành nhắm mắt đưa chân, cúi đầu thành kính trước thần linh, rồi phó mặc tấm thân cho số mệnh, muốn đến đâu thì đến.
    Ba anh em đi mãi, hết sức bước nhanh gấp bội, mong sao lên đến đèo Tam Điệp. Đường hai bên toàn cây cối lau sậy. Quản dắt tay Oanh, Oanh dắt tay Huyền im lặng theo gót nhau mà tiến. Đi mãi, đi mãi, hình như đã quá trưa rồi. Nhưng ô hay! Chưa thấy ô đèo gì cả? Chỉ toàn một màu ruộng thăm thẳm đường đá quanh co, chả thấy dốc nào lên núi xuống núi mà chỉ thấy ven núi mà thôi. Chết mất! Hay là lạc đường rồi!
    Văn Quản định thần suy nghĩ. Thôi, phải rồi! Có lẽ ở đền Sòng ra độ chừng mươi dặm, có một chỗ rẽ, một về Đông, một về Tây. Anh em đinh ninh rằng đi Nho Quan phải chếch theo hướng Tây, thành bây giờ mới tới chỗ này, tiến mãi mà chẳng rõ đâu là đèo Tam Điệp!
    Nhầm thật. Nhưng may còn sớm để lộn lại được, chiều sẽ về tới đền, sáng mai lại ra đi sớm. Cố đi ba ngày, may ra sẽ đến Nho Quan, cũng còn kịp! Vả chăng từ sáng đến giờ, không gặp sự rủi ro gì, cướp cũng không mà ác thú cũng không, có lẽ đức Thánh Mẫu đã thương hại phù trì cho đó! Bao giờ xong việc trở về, thế nào cũng sẽ vào đền lễ tạ Mẫu, không dám quên ơn ngài mở lòng từ bi mà săn sóc đến cho!
    Nghĩ vậy, Quản nhủ hai em quay gót, đi lộn trở ra. Đi mãi đến tận chiều, chân Huyền Cơ và Oanh Cơ sây sướt rướm cả máu. Ngoảnh nhìn tứ phía, nào thấy bóng dáng đền Sòng ở đâu, chỉ có ngàn nội xanh um, cây cỏ cao ngất, đường đi thì chỉ là một vệt lờ mờ giữa một bãi rậm rạp, hoang vu. Ba anh em lúc ấy lo ngại đến cực điểm, cùng vừa đi vừa niệm Phật, mong sao ra khỏi bãi lau sậy để thấy được bóng đền Sòng.
    Đi giờ lâu nữa, thì ra khỏi bụi lau, đến một khu đất rộng, cỏ không cao lắm, cây cũng mọc thưa, nhưng toàn là cổ thụ rườm rà xanh thắm, to đến vài ôm cả. Chung quanh khu bình địa ấy, bốn bề là sườn đồi thoai thoải, rừng ú um tùm, ngàn lau trắng xóa. Ngoảnh đầu tìm đường cũ vừa đi buổi sáng, chả biết nó ở tận đâu đâu. Thực là rừng hoang cảnh vắng, chơ vơ ba kẻ nhỡ đường, không còn biết nương vào đâu nữa!
    Giữa đám bông lau gió rung phơi phới, một đàn cò trắng từ đâu bay về. Xem có vẻ tối, cũng biết lúc đó đã chiều rồi. Thoáng chốc, màu trời sẫm lại, chả bao lâu nữa trời tối bây giờ!
    Trong chốn thung lũng hẻm này, chung quanh đều là ngàn sâu, nội thẳm, ba anh em biết chạy đàng nào? Biết lấy chỗ nào nương thân cho khỏi sợ vuốt hùm móng báo? Một màu cỏ cao, cây rậm, thực là hết kế thoát thân.
    Oanh Cơ biết rằng khó lòng sống thoát đêm nay, nghĩ thương anh chị và thương thân, òa khóc. Huyền Cơ mủi lòng cũng khóc, Văn Quản không can đảm được nữa, ứa hai hàng nước mắt, song cố trấn tĩnh để lo tìm một kế trong trường hợp tối nguy này.
    Đương khi than thở, bỗng đâu nghe tiếng gọi, làm cho Oanh kinh sợ thất đảm, mặt tái mét đi, ngừng không khóc được nữa, ôm lấy chị. Huyền cũng sợ hãi như Oanh, cả hai ôm chặt lấy nhau, tưởng đâu ma quỷ trong rừng hiện lên dọa nạt. Duy có Văn Quản, tuy thấy rợn gáy rùng mình, mà vẫn cố giữ lấy vẻ táo bạo, gọi to lên rằng:
    - Ai đó? Xin làm phúc cứu anh em tôi với!
    Quản vừa dứt lời, thì thấy ngay trên cây cổ thụ mọc giữa chỗ ba anh em ngồi nghĩ, một người tráng sĩ vạm vỡ nhảy xuống hỏi chào.
    Tráng sĩ nói:
    - Các ngài cao danh quý tánh là gì? Đi đâu mà lạc vào đây?
    Văn Quản vội nêu họ tên và đem câu chuyện định trẩy Nho Quan như thế nào nói một lượt cho tráng sĩ rõ. Tráng sĩ nghe xong lắc đầu:
    - Chết nỗi! Đường đi Nho Quan phải theo hướng đông đi ra chợ Ghềnh, sao ông lại không biết! Ở đây là hạt Đồng Giao, nhưng ở phía tây, cách đền Sòng còn xa, phải đi theo lối khác mới tới được! Đường này là đường xuyên sơn đi lên Mường lên Mán kia mà! Thôi, ông trót nhỡ đường rồi, thì phải ngụ ở chốn này một đêm, mai tôi sẽ giúp đưa qua đèo Tam Điệp. Tôi quê ở vùng Nam Định, tên là Lê Trọng Việt, bình sinh chỉ thích nghề săn bắn mà thôi. Tôi vào đây săn báo và săn hươu, nên có làm cái nhà sàn con trên cây này. Định đêm nay nằm rình các thú đến thung lũng này uống nước thì sửa một mẻ, vả nay gần ngày vọng, có trăng sáng, bắn sẽ thú lắm.
    Tráng sĩ nói đến đây ngừng lại, ngoảnh đầu nhìn lên ngọn cây. Bỗng chàng hít hơi rõ mạnh, rồi nhăn trán có vẻ lo nghĩ. Chàng vội vã bảo Văn Quản:
    - Bây giờ tôi leo lên trước, thả dây xuống. Ông chặt chẽ vào nách một cô em, tôi kéo lên xong lại thòng dây xuống cho cô khác lên. Sau cùng đến lượt ông. Nếu ông leo được thì, khi tôi đem hai cô lên cả trên cây rồi, ông nên trèo lên ngay đừng chậm trễ nhé! Mà khi thả dây xuống, ông cố làm cho lẹ tay một chút, xin ông nhớ kỹ cho đấy!
    Đoạn, tráng sĩ nhảy lên cây thoăn thoắt, chỉ một chốc đầu dây sà xuống đến gốc cây rồi. Quản và Huyền cùng đồng lòng để Oanh lên trước, bèn túm nhau lại buộc dây vào nách Oanh. Xong dặn Oanh nắm chặt lấy dây, không được thả. Vừa buộc cho Oanh xong, bỗng thấy một mùi hôi thối ở đâu xông lên sặc sụa, rồi nghe một đàn chim khướu ríu rít kêu, bay đậu cả vào cây cổ thụ. Tráng sĩ đứng ở trên cây, ra sức kéo Oanh Cơ lên tận nhà sàn dựng ở gần ngọn. Oanh vừa sắp tới nơi, một quang cảnh bi đát, khủng khiếp và thê thảm bỗng hiện ra trước mắt nàng và tráng sĩ.
    Một con hổ vàng to, từ đâu không rõ, hình như ở rừng sậy, nhảy xổ lại phía gốc cây, giữa lúc xuất kỳ bất ý. Văn Quản và Huyền Cơ vừa buộc dây xong, đương ngước mắt nhìn Oanh Cơ không biết rằng có tai nạn ngay cạnh mình. Hổ xông lại chỉ trong nháy mắt, đã thấy dưới gốc cổ thụ có hai xác người đương giãy giụa, máu me đầm đìa.
    Oanh vừa leo được lên sàn, thấy anh chị bị hại thảm thiết, đau đớn quá, lòng như bị xé tan, bào rách. Nàng kêu lên một tiếng rồi ngã gục, suýt nữa rơi từ trên cao xuống tận mặt đất. Tráng sĩ lúc bấy giờ tay chân luống cuống vì Oanh, không có thì giờ lấy đao lấy nỏ. May sao dây buộc Oanh còn vướng ở người nàng nên nàng không bị rớt, tráng sĩ vội vực nàng vào sàn nứa, rồi mới đem ba ngọn phi tiêu đứng trên cây ném xuống. Hổ đang ngoạm đùi Văn Quản, bị một mũi phi tiêu ném trúng cổ, một mũi trúng sườn, đau quá, vùng gầm lên một tiếng, bỏ mồi chạy mất. Tráng sĩ phóng theo một mũi tên cắm vào đít hổ, hổ nhảy cao, biến vào bụi sậy.
    (Còn tiếp)

  10. mafia7x

    mafia7x Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2007
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Cafe_Tialia ơi, đâu rồi, viết tiếp truyện đi nào. Để xem tiếp theo sẽ thế nào đây...

Chia sẻ trang này