1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nhà Trần Việt Nam có nguồn gốc từ đâu?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi OldBuff, 24/04/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. txhan

    txhan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2004
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc
    (Nguyễn Văn Tuấn: Nhân đọc ?oEden in the East?)
    [​IMG]
    Hỏi một người Việt bình thường về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, câu trả lời mà người ta thường nghe là tổ tiên của chúng ta xuất phát từ Trung Quốc. Ngay cả người có kiến thức rộng, có quan tâm đến dân tộc và văn hóa Việt cũng có những ý kiến tương tự. Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa Sử cương; và Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, cũng từng cho rằng người Việt có nguồn gốc hoặc từ Trung Quốc [1] hay từ Tây Tạng [2], dù họ có chút dè dặt và thận trọng trong phát biểu. Gần đây, một người làm chính trị nhưng có quan tâm đến văn hóa Việt Nam, Nguyễn Gia Kiểng, trong Tổ quốc ăn năn (TQĂN), cũng cho rằng nước Văn Lang xưa kia là do người Trung Quốc sáng lập [3] ra.
    Có lẽ cái quan điểm dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm trí của chúng ta, nên văn minh Việt Nam cũng được nghiễm nhiên suy luận là bắt nguồn từ văn minh Trung Quốc. Quan điểm này phù hợp với sách vở của Trung Quốc. Chẳng hạn như trong Hậu Hán thư, các sử gia của Trung Quốc, với một giọng văn cực kỳ trịch thượng và kỳ thị chủng tộc, viết rằng tổ tiên ta ngày xưa giống như loài ?ocầm thú?, xã hội thì chẳng có tôn ti trật tự gì cả, phải đợi đến khi hai quan thái thú của họ là Tích Quang và Nhâm Diên dạy cho tổ tiên ta cách ăn mặc và cách trồng lúa. Sau đó các nhà sử học này thản nhiên kết luận: ?oMiền Lĩnh Nam theo phong hóa Trung Quốc là bắt đầu từ hai thái thú ấy? [4].
    Điều thú vị [hay đáng trách] là nhận xét này đã được giới có học của Việt Nam tiếp nhận và lấy làm một thứ kinh điển, một câu văn giáo khoa, mà không có một chất vấn tính trung thực, hay thách thức tính khoa học của nó [5]. Tính dễ dãi chấp nhận sử liệu ngoại bang của giới có học người Việt đã vô tình gieo vào lòng nhiều người Việt một tâm lý tự ti, đánh giá thấp nền văn hóa Việt Nam khi so sánh với các nền văn hóa khác, như của Trung Hoa chẳng hạn. Đại diện cho sự đánh giá thấp này thì có nhiều, nhưng một câu phát biểu trong TQĂN của Nguyễn Gia Kiểng tưởng tóm lược khá đầy đủ: "[?] chúng ta có lẽ là nền văn minh phù sa muộn nhất. [?] dấu ấn của nền văn minh phù sa: cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm. [?]" [6]. Từ nhận định đó, tác giả của TQĂN cho rằng tổ tiên của chúng ta qua nhiều ngàn năm, tuy sống bên cạnh biển, mà chỉ nhìn biển với cặp mắt sợ hãi, không sáng chế ra ra kỹ thuật hàng hải nào cả.
    Thực ra, chẳng riêng gì giới trí thức Việt Nam, ngay cả một phần lớn trong giới sử học Tây phương cũng từng quan niệm, hay nói đúng hơn là giả định, rằng các nền văn minh Đông Nam Á (kể cả của Việt Nam) chỉ là những chi nhánh của hai nền văn hóa lớn hơn: Trung Hoa và Ấn Độ. Giả định này đã được dùng như là một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy để dạy học cho học sinh (trong đó có cả học sinh người Việt); và một cách vô tình, nó được lưu truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác như là một sự thật! Bởi vì qua nhiều năm, chẳng ai chất vấn lý thuyết này, nên một cách nghiễm nhiên, nó được xem là một ?othuyết chính thống".
    Mãi đến thập niên 60 thuộc thế kỷ 20, một số nhà khảo cổ học rất uy tín (phần lớn là Mỹ), dựa vào nhiều kết quả của một loạt nghiên cứu ở Việt Nam và Thái Lan, đã bắt đầu chất vấn sự chính xác và tính logic của thuyết chính thống trên đây [7]. Có thể nói họ là những ?ocon cừu đen? trong giới tiền sử học, vì đã can đảm thách thức một quan điểm mà đại đa số đồng nghiệp đều mặc nhiên công nhận. Nhưng họ không phải là những người đơn độc. Gần đây, đã có một số nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái Lan, và Indonesia công bố nhiều dữ kiện khảo cổ học cho thấy rằng thuyết văn hóa Đông Nam Á xuất phát từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ không còn đứng vững nữa.
    Nhưng trong những nhà nghiên cứu chuyên môn này, chưa ai trình bày dữ kiện một cách có hệ thống và nghiên cứu một cách sâu xa bằng một nhà nghiên cứu ?otài tử? là ông Stephen Oppenheimer trong cuốn sách "Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia" (tạm dịch là "Thiên đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam Á) [8]. Trong tác phẩm này, qua những dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer trực tiếp thách thức cái thuyết chính thống, và làm thay đổi những quan niệm về thời tiền sử mà chúng ta từng hiểu và từng được dạy. Đặc biệt, cuốn sách đặt trọng tâm vào việc thẩm định lại các quan điểm về văn minh vào thời tiền sử ở Đông Nam Á, tác giả cho rằng:
    a. Trận đại hồng thủy [9] tương tự như trong Kinh Thánh là có thật và xảy ra vào cuối thời đại Băng hà (Ice Age).
    b. Trận đại hồng thủy này xảy ra khoảng 8.000 năm về trước làm chìm đắm lục địa Đông Nam Á, và làm cho dân chúng phải di tản đi các vùng đất khác để sống. Họ chính là những người gây dựng nên nền văn hóa Tân Đồ Đá (Neolithic cultures) của Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập và vùng đông Địa Trung hải, và do đó, họ là những người cha đẻ và vun đắp các nền văn minh vĩ đại ở phương Tây.
    c. Những dân tộc thuộc quần đảo Polynesian không phải xuất phát từ Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc từ Đông Nam Á.
    d. Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kỹ thuật trồng lúa. Khoảng 9.000 đến 10.000 năm về trước, một số dân thuộc vùng Đông Nam Á đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên của nhân loại (chứ không chỉ sống bằng nghề săn bắn), họ đã phát triển kỹ thuật trồng khoai và qua đó làm một cuộc cách mạng nông nghiệp.
  2. txhan

    txhan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2004
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    Nói một cách khác cho rõ ràng hơn, qua công trình nghiên cứu này, Oppenheimer đề xuất một thuyết cho rằng Đông Nam Á là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Thuyết này thể hiện một thách thức rất lớn đến các tri thức về thời tiền sử đã và đang được lưu truyền trong giới khoa bảng. Và do đó, Oppenheimer đã, lần đầu tiên, đặt vùng Đông Nam Á vào vị trí xứng đáng của một vùng đất thường bị lãng quên bên cạnh hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ.
    Vùng đất giàu lịch sử nhưng bị lãng quên
    Đông Nam Á là một trong những vùng đất với nhiều sắc dân và nhiều nền văn minh phong phú nhất và cổ nhất của nhân loại. Về mặt địa lý, có hai khu vực riêng biệt: một khu thuộc về đất liền và một khu thuộc về hải đảo. Khu vực đất liền thực ra gồm hai bán đảo: khu rộng lớn bao gồm Miến Điện (ngày nay gọi là Myanmar) thuộc hướng Đông Bắc, Thái Lan ở giữa, và Lào, Cam-bốt, và Việt Nam thuộc hướng Đông và Đông Nam; và khu nhỏ hơn bao gồm bán đảo Mã Lai, chạy dài từ Thái Lan xuống tận Miến Điện.
    Miến Điện có nhiều chùa chiền được kiến trúc một cách phi thường, nhiều lâu đài được chạm khắc rất tinh vi. Ở miền Bắc Thái Lan cũng còn lưu lại nhiều công trình kiến trúc vĩ đại mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo. Vịnh Hạ Long thuộc phía bắc Việt Nam trồi lên những tác phẩm thiên nhiên như được chạm bằng đá vôi, mà có lẽ từng là một vùng lục địa khoảng mười ngàn năm trước đây. Cổ Loa, một huyện nhỏ của Việt Nam ngày nay, có lẽ là một trung tâm đô thị (hay một thành phố) đầu tiên của vùng Đông Nam Á, với niên biểu được ước đoán vào khoảng niên kỷ thứ ba trước Dương lịch. Những công trình kiến trúc ở Huế và Đà Nẵng cho thấy sự tương phản giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Thành phố Huế, tuy lâu đời hơn, nhưng có nhiều công trình kiến trúc trẻ hơn, TP Đà Nẵng, nơi mà nhiều tháp Chàm còn lưu lại như những dấn ấn của văn minh Ấn Độ. Cam-bốt có đền Angkor Wat nối tiếng, và nhiều dấu vết của một nền văn minh sáng chói trước đây. Ai là người đã xây dựng những công trình này? Trong Thiên Đàng ở Phương Đông, Oppenheimer chứng minh rằng chính những người dân địa phương đã xây dựng những công trình đồ sộ này. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ chỉ qua thương mại, chứ không phải qua xâm lăng.
    Với một lịch sử lâu đời và nhiều nền văn minh phong phú như thế, song Đông Nam Á lại không được các nhà sử học để ý đến như các vùng đất khác. Đây là một ví dụ về thành kiến của giới sử học Tây phương. Khoảng 200 năm trước đây, các nhà sử học khám phá rằng phần lớn hai họ ngôn ngữ Ấn và Âu (Indian và European) thuộc vào một họ ngôn ngữ mà ngày nay chúng ta gọi là nhóm Ấn-Âu (Indo-European language group). Khám phá này được đánh giá như là một thành quả vĩ đại của tri thức vào thời gian đó. Nhưng mỉa mai thay, trước đó vài năm, người ta đã phát hiện ra một nhóm ngôn ngữ khác, có tên là Austronesian, nhưng không đem lại một sự chú ý nào đáng kể trong giới khoa bảng Tây phương cả. Nhóm ngôn ngữ này hiện diện rất rộng, từ các vùng như Madagascar, Đài Loan ngày nay, Hawaii, và Tân Tây Lan, vượt Thái Bình Dương, đến tận Ấn Độ dương khá lâu, có thể trước khi Phật Thích Ca ra đời.
    Sách viết về nguồn gốc văn minh thế giới hoàn toàn không đề cập đến Đông Nam Á. Ngay cả khi đề cập đến khu vực này trong vài năm gần đây, các sách cũng chỉ viết một cách sơ sài vài hàng, với giọng văn thiếu nghiêm túc, nhưng lại tập trung vào hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, nhất là vào thời 2.000 năm trước đây. Mãi đến thời gian gần đây, văn minh của Thời đại Đồng thiếc Đông Sơn (Bronze Age), và các nền văn hóa trước đó (vào niên kỷ thứ nhất trước Dương lịch) của Việt Nam mới được công nhận như là văn minh nguyên thủy của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, số lượng nhà khảo cổ học trực tiếp gắn bó và chuyên môn nghiên cứu về các nền văn minh này vẫn còn rất ít, nếu không muốn nói là chỉ ?ođếm đầu ngón tay?. Trong khi đó, các trung tâm nghiên cứu thuộc các nước trong vùng như Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, v.v. thì lại bị hạn chế về chuyên môn, lẫn thiết bị và tài chính để làm có thể tiến hành những nghiên cứu loại tiền phong.
    Khoảng trống lịch sử
    Có lẽ vì những lí do kể trên, ngành khảo cổ học, tuy với một bề ngoài mang vẻ chính xác cao, nhưng thực tế thì có khá nhiều khoảng trống. Khoảng trống lịch sử đáng chú ý nhất là quá trình tiến hóa sau thời kỳ nước biển bị dâng cao, và đặc biệt là vào thời kỳ Đồ Đá Mới, khoảng 8.000 năm trước đây, nhất là sự lãng quên cho nền văn minh Đông Nam Á, vì thiếu dữ kiện. Thực vậy, ngoài Việt Nam và Thái Lan là hai nước có nghiên cứu khảo cổ tương đối trưởng thành và có khá nhiều dữ liệu gần đây, ở các nơi khác trong vùng, giới khảo cổ học chỉ mới bới đào phần trên mặt của thời đại Đá mới và Đồng thiết (Neolithic và Bronze Age). Cộng thêm vào đó là sự thiếu thốn các văn bản trong thời tiền sử thuộc vùng đất này cũng làm cho việc nghiên cứu thêm nhiều khó khăn. Nhưng dù sao đi nữa, so với các vùng khác trên thế giới, Đông Nam Á vẫn là một địa phương có nhiều thiếu sót về dữ kiện trong thời tiền sử.
    Trong "Thiên đàng ở phương Đông," Stephen Oppenheimer đặt một câu hỏi mà ai cũng phải suy nghĩ: người dân vùng duyên hải Đông Nam Á làm gì khi mực nước biển [10] dâng cao làm ngập xứ sở họ vào thời gần Thuộc kỷ pleitoxen? Câu trả lời của Oppenheimer dựa vào ba lý lẽ quan trọng:
    i. Thứ nhất, vào thời cao điểm của Thời đại Băng hà (khoảng 20.000 đến 18.000 năm trước đây), Đông Nam Á là một lục địa rộng gấp hai lần Ấn Độ ngày nay, và bao gồm cả phần đất mà người Tây phương thường gọi là bán đảo Đông Dương, Mã Lai Á và Indonesia. Vào thời đó, Biển Nam (South China sea), Vịnh Thái Lan và Biển Java là một vùng đất khô nối liền các khu vực của lục địa. Theo địa chất học, bán phần của vùng đất bị ngập chìm này được gọi là Thềm lục địa Sunda (tiếng Anh là Sundaland). Vùng đồng bằng của thềm lục địa này bị chìm đắm rộng lớn bằng Ấn Độ ngày nay. Sau Thời đại Băng hà, cuối cùng chỉ còn một số núi rải rác chung quanh quần đảo Mã Lai. Vùng biển nối giữa Hàn Quốc, Nhật Bản, và Đài Loan mà ngày nay ta gọi là Biển Đông (East China sea) từng là vùng đất liền. Một bằng chứng rất thuyết phục mới nhất (ba năm trước đây) là những công trình xây cất, tòa nhà được kiến trúc rất độc đáo vừa được khám phá dưới lòng biển thuộc Đài Loan.
  3. txhan

    txhan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2004
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    ii. Thứ hai, Oppenheimer chứng minh rằng khoảng 9.000 đến 10.000 năm về trước, một số dân vùng Đông Nam Á đã là trở thành những nhà canh nông chuyên nghiệp, không chỉ là những người sống bằng nghề săn bắn ban sơ như giới khảo cổ học Tây phương mô tả. Ông trình bày dữ kiện liên quan đến trồng trọt khoai lang (khoai mỡ, yam) và khoai nước (taro) được tìm thấy ở Indonesia, mà tuổi cỡ 15.000 đến 10.000 trước Dương lịch; kỹ thuật trồng lúa có sắp sỉ tuổi cũng được tìm thấy ở Mã Lai Á.
    iii. Thứ ba, dựa vào dữ kiện và các yếu tố địa chất học, Oppenheimer cho rằng vào khoảng 8.000 năm trước đây, mực nước biển tăng một cách đột ngột và gây ra một trận đại hồng thủy, và trận lụt vĩ đại này đã làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế giới này phải di tản đi các vùng đất khác để mưu sinh. Tuyến đường di cư là theo hướng nam về Úc Đại Lợi, hướng đông đến Thái Bình Dương, và hướng tây đến ấn Độ Dương, và hướng bắc vào vùng đất liền Á châu.
    Trong quá trình di cư đến các vùng đất mới, họ đem theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, yêu thuật, và đẳng cấp xã hội đến vùng đất mới. Thực vậy, ngày nay, dấu vết của cuộc di dân trên vẫn còn ghi đậm trong các quần đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia; dân chúng những nơi này nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Austronesian có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Có lẽ người ta không ngạc nhiên khi thấy trong các dân tộc vùng Đông Nam Á, Trung Đông, Úc châu, và Mỹ châu đều có những câu truyện thần thoại về trận lụt vĩ đại này, và các câu truyện này có độ tương tự rất cao. Điều này chứng tỏ rằng các sắc dân này xuất phát từ một nền văn hóa nguyên thủy. Theo Oppenheimer, những người tỵ nạn này là những hạt giống cho những nền văn minh lớn khác mà sau này được phát triển ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập, và Địa trung hải.
    Ngoài phần nghiên cứu về thần thoại và truyền thuyết, Oppenheimer còn dùng một nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất và mang tính khoa học và chính xác hơn là di truyền học. Các dữ kiện di truyền học chứng minh rằng các sắc dân trong quần đảo như Tân Guinea, Polynesia, Melanesia, v.v. có cấu trúc di truyền tố giống với các sắc dân thuộc vùng Đông Nam Á ngày nay. Gần đây, còn có một số nghiên cứu di truyền học cho thấy người Hán có nguồn gốc từ Đông Nam Á và có thể cả Bắc Á.
    Ông Oppenheimer viết, "Lý thuyết mà tôi trình bày trong cuốn sách này, lần đầu tiên, đặt Đông Nam Á vào trung tâm của các nguồn gốc văn hóa và văn minh. Tôi cho rằng nhiều người phải di tản khỏi vùng duyên hải của họ ở phương Đông vì lụt lội. Những người tỵ nạn này từ đó vun đắp những nền văn minh vĩ đại ở phương Tây."
    Một vùng đất văn minh tiến bộ
    Theo Oppenheimer, Atlantis của Đông Nam Á, tạm gọi là "Sundaland", bởi vì vùng này là một thềm lục địa Sunda, nơi từng là trung tâm hàng đầu về cuộc cách mạng thời đại đồ đá mới (Neolithic Revolution), bắt đầu phát triển kỹ thuật trồng trọt, dùng đá để nghiền hạt lúa, vào khoảng 24.000 ngàn năm trước đây, tức là trước cả Ai Cập và Palestine khoảng 10.000 năm.
    Một loạt khám phá khảo cổ gần đây đã đủ để xét lại thuyết cho rằng Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đã khai hóa hay truyền bá văn minh cho các nước thuộc vùng Đông Nam Á. Thực vậy, khám phá về hạt lúa ở hang Sakai (miền Bắc Thái Lan) gần đây cho thấy cư dân ở đây đã biết trồng lúa rất xưa, có thể trước cả thời kỳ nước biển dâng cao vào khoảng 8.000 năm về trước, ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 6 hay thứ 7 trước Dương lịch. Hệ thống nông nghiệp được tìm thấy ở Indonesia có niên biểu lâu đời hơn cả thời đại mà những thành tựu được xem là "cách mạng" về trồng lúa ở Trung Quốc. Thực vậy, ở Indonesia, kỹ thuật về trồng khoai lang và khoai nước được ước đoán có tuổi từ 15.000 đến 10.000 năm trước Dương lịch. Ở Việt Nam, khám phá ở Phùng Nguyên và bằng kỹ thuật định tuổi dùng Carbon-14 cho thấy tổ tiên ta từng trồng trọt ngũ cốc khoảng 5.000 đến 6.000 năm trước đây, tức là còn sớm hơn nhiều niên biểu của những thành tựu của người Trung Quốc. Ngoài ra, Nhà khảo cổ học rất uy tín gốc Mỹ, Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, trong một loạt nghiên cứu từ 1965 đến 1968, cho thế giới thấy nền văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15.000 năm trước dương lịch. Một Nhà khảo cổ học danh tiếng khác người Úc, Giáo sư Peter Bellwood, đã từng viết rằng quê hương nguyên thủy của cây lúa rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Dương - Mã Lai - Miến Điện, vì ở đây khí hậu nhiệt đới là môi trường thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp. Trong Eden in the East, Oppenheimer cũng có kết luận tương tự: thay vào một mô hình cho rằng Trung Quốc là xứ sở nguyên thủy của kỹ thuật trồng lúa, chúng ta lại có một mô hình khác mà trong đó các dân tộc "man di" nói tiếng Nam Á ở Đông Dương dạy người Trung Quốc các kỹ thuật trồng lúa.
    Không những trong lĩnh vực nông nghiệp, mà ngay cả trong lĩnh vực kỹ nghệ chế biến, sản xuất, người Đông Nam Á, mà đặc biệt là người Việt Nam, đã phát triển kỹ thuật làm đồ đồng, đồ thiết và đồ gốm khá cao. Về các sản phẩm đồ đồng và thiết, người dân ở vào thời Phùng Nguyên đã từng sản xuất vũ khí, và mức độ sản xuất đã tăng vọt trong thời đại Đông Sơn. Thực vậy, vào thời Phùng Nguyên (tức là lúc thời kỳ khởi đầu của vua Hùng) tỷ lệ vũ khí tìm thấy trong các di vật dưới 1%; nhưng đến thời cuối vua Hùng, tỷ lệ này tăng lên khoảng 50 đến 63%. Nhiều khí giới khai quật gần đây ở Đông Sơn cho thấy cư dân ở đây là từng sản xuất nhiều vũ khí phức tạp (có chạm trổ tinh vi), có thể đánh xa và gây tổn thương hàng loạt cho đối phương. Người Trung Quốc vẫn cho rằng họ là người phát minh ra vũ khí dùng trong chiến trường. Đối chiếu với những khám phá ở Đông Sơn và Phùng Nguyên, xem ra thuyết người Trung Quốc khám phá ra vũ khí đầu tiên không còn vững nữa!
    Về đồ gốm, người Việt Nam đã sản xuất nhiều sản phẩm nghệ thuật công phu và thanh tú, và những sản phẩm này không những được bán trong khắp vùng Đông Nam Á, mà còn xuất khẩu qua tận xứ Melanesia. Thị trường xuất khẩu này đã hình thành trước sự ảnh hưởng của Ấn Độ. Các dụng cụ bằng đá tìm được ở Úc châu cũng từ Hòa Bình mà ra: tuổi của các đồ đá này được định là 14.000 đến 20.000 năm trước Dương lịch. Đồ gốm ở Nhật với tuổi khoảng 10.000 năm trước dương lịch cũng xuất phát từ Hòa Bình. Giáo sư Solheim II nhấn mạnh rằng cả hai nền văn minh nổi tiếng của Trung Hoa là Lung Shan và Yang Sao đều xuất phát từ Hòa Bình. Như vậy, từ đồ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng Đông sơn, tất cả đều chứng minh nền văn minh Việt Nam thời tiền sử đã đạt tới một trình độ cao trên thế giới. Quan trọng hơn là những phát triển này xảy ra trước thời văn minh Lung Shan và Yang Sao (Ngưỡng Thiều) ở Trung Quốc.
  4. txhan

    txhan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2004
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    Trước, và đặc biệt là trong, thời kỳ nước biển dần dần dâng cao, người Sundaland di dân đến những vùng đất láng giềng: Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, và vài hòn đảo từ Madagascar đến Philippines, Tân Guinea, và sau này họ chiếm luôn vùng Polynesia cho đến Hawaii và Tân Tây Lan. Họ là những người thầy ở các vùng đất mới, dạy người địa phương những kỹ thuật trồng trọt và xây dựng. Người Hòa Bình còn truyền bá văn minh nông nghiệp đến nhiều nơi trên thế giới: Nhật, Đài Loan khoảng 4000 năm trước Dương lịch; Philippines, Indonesia khoảng 3000 năm trước Dương lịch; Madagasca và Đông Phi châu khoảng 2.000 năm trước Dương lịch.
    Bắc xuống Nam, hay Nam lên Bắc?
    Theo thuyết của Oppenheimer thì người Trung Quốc và Ấn Độ ngày nay có gốc gác từ Đông Nam Á, chứ không phải nguồn gốc của người Đông Nam Á là ở Trung Quốc hay Ấn Độ. Đây cũng là một đảo vòng xoay 180 độ về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Mà, xem ra thuyết của Oppenheimer có nhiều "đồng minh". Một số học giả khác (như Madelaine Colani, J. Hornell, P. V. van Stein, Heine Geldern, Bernard Karlgren, N. J. Krom) cũng cho rằng làn sóng người từ Bắc Việt tràn xuống phía Nam và vào Ấn Độ trước khi vùng này bị giống dân Aryan xâm chiếm. Giáo sư Solheim II căn cứ trên những dữ kiện khảo cổ thì thấy rằng giống người Hoà Bình tràn lan xuống phía nam, lên hướng bắc, và sang hướng tây. Tại mỗi nơi, người Hòa Bình phối hợp với dân địa phương để tạo thành các chủng tộc mới của mỗi vùng.
    Mới đây thuyết Bắc-tiến còn có căn cứ khoa học vững vàng (dù lúc viết sách, ông Oppenheimer không biết đến), đó là: trong một bài báo khoa học quan trọng được công bố trên Tạp chí của Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Mỹ (một tạp chí khoa học rất uy tín trên thế giới), một nhóm nghiên cứu thuộc Trường ĐH Texas (Mỹ) và Viện Nghiên cứu Di truyền học Trung Quốc cho thấy nguồn gốc của người Trung Hoa (và cả người Đông Á) rất có thể là do người từ Đông Nam Á di dân lên [11], chứ không phải ở Bắc di dân xuống Nam! Như vậy, cho rằng dân tộc Việt là xuất phát từ người Trung Quốc có thể là một ngộ nhận. Phải hiểu ngược lại thì mới đúng!
    Một vài nhận xét
    Eden in the East là một tác phẩm độc đáo, được soạn thảo rất công phu và khoa học. Điều đáng chú ý là tác giả là một bác sĩ chuyên khoa về nhi đồng, không phải là một nhà khảo cổ học. Tuy nhiên, với khả năng và kiến thức khoa học của tác giả, ông đã tiếp nhận tri thức và xử lý thông tin từ nhiều nguồn như di truyền học, nhân chủng học, thần thoại, văn học dân gian, ngôn ngữ học, hải dương học, và khảo cổ học để cho ra đời một cuốn sách làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và khảo cổ học phải ngẩn ngơ. Thực vậy, Oppenheimer đã, không những trực tiếp chất vấn, mà còn thách đố, những thuyết mà giới chuyên môn, kể cả các học giả Việt Nam đề ra và chấp nhận như những "chân lý" thời tiền sử. Kể từ ngày xuất bản cuốn sách cho đến nay (khoảng 3 năm), theo tôi biết, chưa một ai trong giới chuyên môn về Đông Nam Á học chất vấn tính khoa học của thuyết mà Oppenheimer đề xuất. Thực ra, tất cả những bài điểm sách (khoảng 20 bài) mà tôi đọc qua không có một bài nào chất vấn cách làm việc hay khoa học tính của tác giả; tất cả đều ngợi khen một cách nồng nhiệt. Có người còn cho rằng đây là một quyển sách quan trọng vào bậc nhất trong ngành Đông Nam Á học!
    Đối với người viết bài này, một điểm yếu của quyển sách là những dữ kiện hay bằng chứng liên quan đến các câu chuyện thần thoại. Tác giả cố thuyết phục độc giả bằng cách trình bày mối tương quan giữa các nền văn hóa bằng những câu chuyện thần thoại có motif giống nhau, để từ đó chứng minh cho thuyết của ông (tức là văn minh nhân loại xuất phát từ Đông Nam Á). Tác giả thậm chí còn dùng thống kê học để thẩm định mối tương quan này! Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy những dữ kiện như thế có vẻ hời hợt, và thiếu tính thuyết phục cao. Đành rằng, nhiều nền văn hóa, và đặc biệt là những văn hóa thuộc vùng Á châu - Thái bình dương, có nhiều truyện thần thoại giống nhau, hay ít ra là song song nhau về lụt lội. Đây không phải là những sự ám chỉ tối tăm đến những sự kiện mang tính Freud trong tiềm thức nhưng là những sử kiện rõ rệt liên đới đến những thảm họa khi mực nước biển dâng cao sau thời đại Băng hà. Nhưng phương pháp xác định nguồn gốc của những câu chuyện thần thoại này là một vấn đề.
    Tuy nhiên, giữ cái điểm yếu đó trong khi đọc sách, tôi vẫn phải công nhận tác giả đã khảo cứu rất cẩn thận, tiếp thu và xử lý tài liệu rất chuyên môn. Thêm vào đó là lối hành văn trong sáng, và lý luận vững vàng, tác giả đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ lại về nguồn gốc tổ tiên và văn minh của nhân loại ngày nay. Chúng ta cần nhiều tác phẩm loại này hơn nữa trong lĩnh vực khảo cổ học để cho thấy rằng tổ tiên chúng ta không chỉ sáng tạo ra địa cảnh (hay hải cảnh) mà chúng ta đang sống, nhưng địa cảnh và hải cảnh cũng tạo ra chúng ta.
    Tóm lại, nhiều khám phá khảo cổ học mới đây, và nhất là cuốn sách Eden in the East, đã nhanh chóng đưa vùng đất bị lãng quên của Đông Nam Á vào một nơi trang trọng của bản đồ thế giới, và là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Và qua những khám phá này, chúng ta đã có dữ kiện để đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam, chất vấn những thuyết mà ta từng được dạy và từng tin như là những chân lý. Chúng ta có bằng chứng để phát biểu rằng trước khi tiếp xúc với người Hán từ phương bắc (Trung Quốc) đến, tổ tiên chúng ta đã tạo dựng nên một nền văn minh khá cao, nếu không muốn nói là cao nhất trong vùng Đông Nam Á. Đô thị cổ xưa nhất trong vùng là do tiền nhân của chúng ta xây dựng. Tổ tiên chúng ta là những nhà kỹ thuật giỏi, đã biết sản xuất vũ khí để đánh giặc, đã đúc được những trống đồng tinh xảo để truyền lại những ý tưởng và triết lý cho hậu duệ, và cũng có thể nói họ cũng là những nghệ sĩ tài ba, ham thích múa hát và thổi kèn. Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kỹ thuật trồng lúa trước người Hán, hay là những người thầy dạy cho người Hán trồng lúa (chứ không phải ngược lại.) Và có thể tổ tiên chúng ta cũng chính là tổ tiên của người Trung Quốc ngày nay. Đã đến lúc phải trả lại sự thực và danh dự cho tổ tiên chúng ta.
    Nguyễn Văn Tuấn 13/01/2007
    Chú thích:
    1. Trong Việt Nam Văn hóa Sử cương (Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh tái bản năm 1992), ở trang 24-25, Đào Duy Anh viết: "Nay ta hãy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn Đông bác cổ, mà xem gốc tích của dân tộc ta như thế nào. Có người cho rằng tổ tiên ta phát xuất từ Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị mà di cư xuống miền trung châu Bắc Việt. Nhưng theo ông Aurousseau dẫn chứng có điều rất kỹ càng thì tổ tiên ta lại là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, sau bị nước Sở (đời Xuân thu) đánh đuổi phải chạy xuống miền nam ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc Việt và phía Bắc Trung Việt. Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời thượng cổ, giống người Indonesian bị giống Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang bán đảo Ấn Độ Chi-na, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở đây là giống Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy đi thẳng mãi sang Indonesia quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía nam thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở phía bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt Nam."
  5. txhan

    txhan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2004
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    2. Trong Việt Nam Sử Lược (Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sài gòn, 1971), ở trang 5, Trần Trọng Kim viết: "Theo ý kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; còn người Thái thì họ theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm la (tức là Thái Lan) và các nước Lào.
    Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán tộc (tức người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.
    Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu."
    3. Trong Tổ quốc ăn năn (Paris, 2001), ở trang 122, Nguyễn Gia Kiểng viết: " ? cuộc Nam tiến của người Trung Hoa đến Quảng Đông, Quảng Tây thì khựng lại vì gặp bức tường núi gần 100 cây số. Chỉ có một số ít người vượt được núi, hợp với thổ dân mà tạo ra nước Văn Lang."
    4. Sách Hậu Hán thư (tức sử của Trung Quốc) chép: "Phàm đất thuộc bộ Giao Chỉ, tuy đã đặt quận, huyện, nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng ngôn ngữ vẫn khác nhau, phải có thông ngôn mới hiểu. Người như cầm thú, không phân biệt trưởng ấu (tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải quấn qua đầu làm áo. Sau đó những người tội phạm Trung Quốc đến ở lẫn với họ, mới biết ngôn ngữ dần dần thấy hóa theo lễ. Đến thời Quang Vũ Trung Hung, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân, bấy giờ mới dạy cho dân biết cày cấy, biết đội mũ đi giày, đặt mối lái, dân mới biết hôn nhân, dựng học hiệu dạy lễ nghĩa ?"
    5. Trong một cuốn băng video ca nhạc mang tựa đề "Cây đa, bến cũ" do Trung tâm Thúy Nga thực hiện và phát hành, người diễn đọc (Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn) lập lại câu văn của Hậu hán thư và phát biểu rằng Quan thái thú Nhâm Diên là người đã dạy cho dân Việt Nam cách trồng lúa.
    6. Trích Tổ quốc ăn năn (Paris, 2001) của Nguyễn Gia Kiểng, trang 306.
    7. Về các bài báo khoa học mang tính tiền phong trong ngành khảo cổ học ở Đông Nam Á, xin xem những bài sau đây: (i) "On the improbability of Austronesian origins in South China," của Giáo sư William Meacham, đăng trong Tạp san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5; (ii) "The nusantao and North-South dispersals," của Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, in trong "Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin," quyển 2, năm 1996; (iii) "Southeast Asia and Korea: from the beginings of food production to the first states," cũng của Giáo sư Solheim II, in trong "The History of Humanity: scientific and cultural development," quyển I: "Prehistory and the Beginning of Civilization," do UNESCO/Routledge (London) xuất bản năm 1994. Ngoài ra, độc giả có thể tham khảo thêm các bài báo tiếng Việt liên quan đến đề tài này của Tác giả Cung Đình Thanh trên Tạp san Tư Tưởng số 3, 4, và 7.
    8. Sách "Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia," của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998. Sách khổ 13 x 20 cm, dày 560 trang, kể cả 47 trang tài liệu tham khảo và 28 trang bảng danh mục, chữ loại nhỏ (Times cỡ 8). Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9 sterling Anh.
    9. Theo sách Genesis, và theo truyền thuyết của nhiều nền văn minh cổ, ngày xưa có xảy ra một số trận lụt vĩ đại (hay đại hồng thủy) phủ ngập cả trái đất. Huyền thoại về lụt nổi tiếng nhất là câu chuyện về Noah, một giáo trưởng, được tin của Thượng đế, xây dựng một chiếc thuyền lớn tên là Ark để gia đình ông ta và mọi sinh vật có thể sống sót qua cơn lụt.
    10. "Mực nước biển" là một thuật ngữ dùng để diễn tả chiều cao trung bình của biển. Mực nước biển thường biến đổi qua nhiều giai đoạn trong lịch sử trái đất. Trong thời gian vài nghìn năm trước đây, mực nước biển có khi cao hơn, nhưng cũng có khi thấp hơn, mực nước hiện nay. Khi mực nước biển trung bình dâng lên cao, một số vùng đất hiện hữu ngày nay trong quá khứ hoàn toàn bị ngập lụt, tạo nên những vùng biển rộng và cạn. Ngày nay, hơn phân nửa nhân loại sống trong những vùng đất mà độ cao so với mực nước biển chỉ dưới 100 thước. Trong phạm vi tranh luận về hiện tượng nóng toàn cầu (global warming) ngày nay, người ta cho rằng nếu mực nước biển chỉ tăng khoảng một thước thì một thảm họa vĩ đại sẽ xảy ra cho các nước như Bangladesh, hay Hà Lan. Người Maldives sẽ hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ nếu mực nước biển tăng vài ba thước. Nhưng quan trọng hơn nữa, đối với đa số các thành phố lớn và đông dân như Tokyo, Thượng Hải, Kolkata, Mumbai, London, New York, Los Angeles ? (những thành phố chỉ nằm trên mực nước biển), nếu nước biển dâng lên 100 thước, các nơi này sẽ thành một lục địa dưới lòng biển, một Atlantis thật sự. Bởi thế, không có gì là gượng gạo khi chúng ta giả định rằng có nhiều trung tâm dân số và văn hóa khoảng 10.000 hay 15.000 năm về trước, nay đã trở thành những vùng dưới biển trên thềm lục địa phía ngoài vùng duyên hải của chúng ta.
    11. Về các phân tích di truyền học, có thể tham khảo các bài báo khoa học sau đây: (i) "Genetic relationship of populations in China", của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp thuộc Trường ĐH Texas, đăng trên Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA) 1998; số 95, trang 11763-11768; (ii) "Khám phá mới di truyền học về nguồn gốc con người ở Đông Nam Á," của Nguyễn Đức Hiệp, đăng trên Tạp san Tư Tưởng, số 7, năm 2000, trang 9-13; (iii) ?oY-chromosome evidence for a northward migration of modern humans into Eastern Asia during the last Ice age? của B. Su và đồng nghiệp, đăng trên Tạp san American Journal of Human Genetics, năm 1999, số 65, trang 1718-1724.
  6. V_Kid

    V_Kid Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/12/2006
    Bài viết:
    554
    Đã được thích:
    0
    Tôi có quyê?n nghi ngơ? cái lý thuyết na?y ...
    Em vư?a đi Ti?nh nguyện ơ? trên đó vê? va? thấy ră?ng, nhưfng nét văn minh sơ khai nhất cu?a con ngươ?i, dêf thấy nhất cu?a con ngươ?i cufng không hê? có ơ? đây, va? hă?n la? ngươ?i Ho?a Bi?nh có thiên ta?i đến đâu cufng không đến mức như thế ạ !
  7. mastem

    mastem Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/04/2006
    Bài viết:
    118
    Đã được thích:
    0
    1/ Người châu Phi sẽ rất tự hào được là tổ tiên của toàn thế giới
    2/ Người châu Âu sẽ rất tự hào được là tổ tiên của người da trắng Châu Mỹ hiện nay.
    3/ Người Trung Hoa rất tự hào là tổ tiên của người Việt Nam hiện nay.
    4/ Dân miền Bắc rất tự hào là tổ tiên của dân miền Nam
  8. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    1- Phải đổi "là tổ tiên" ra "ở nơi đất tổ."
    2- Việc ấy chẳng có gì đáng tự hào cả.
    3- Câu thứ 3 của bạn chẳng lấy ở đâu ra cả.
    Chỉ là câu nói bậy bạ bạn nghĩ ra trong lúc đầu bị hâm nóng thôi.
    Đọc mấy bài dài quá nên đầu bốc nóng lên, không chịu chườm đá lạnh mà.
  9. rongdenvn

    rongdenvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/08/2007
    Bài viết:
    488
    Đã được thích:
    0
    Những điểm có thể gây ngộ nhận trong bài N. V. Tuấn.
    Tôi muốn bàn đến một số điểm trong bài của N..V. Tuấn dễ gây ngộ nhận, có thể đưa đến nhận định không chính xác về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.

    1- Thuyết "Bắc tiến" (của người cổ Việt Nam), theo kết quả mới về nghiên cứu di truyền?
    Quả có "Bắc tiến" cách đây trên 50 000 năm, từ vùng Đông Nam Á lên Trung Hoa. Tuy nhiên, ở đây phải hiểu theo hiện tượng thiên di người cổ nói chung. Mới đây, nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới hợp tác nhau để so sánh genes người ở vùng Đông Á châu và đã đưa ra một kết luận quan trọng đăng trên hai bài báo (xem tác giả Chu, Su, phần sách tham khảo) : người cổ thuộc giống người hiện- đại (sapiens) đến từ Phi châu, ghé vùng Đông Dương trước, rồi từ đó thiên di lên phía bắc đến nam Trung Hoa, và sau đó hợp chủng với người Altaic (từ Trung Á đến sau qua đường thiên di bắc Á châu) thành dân "mới hơn" sống ở đông Siberia -Tây Bá Lợi Á.

    Dĩ nhiên trên đường thiên di đầu tiên từ Phi châu xuống phía nam, tổ tiên dân Á Đông đã ghé bán đảo Ần Độ trước khi đến Đông Nam Á, nên người Ần Độ không thể "có gốc gác Đông Nam Á" được như Nguyễn Văn Tuấn đề nghị. Ần Độ sau đó đã đón nhận rất nhiều luồng thiên di khác, trong đó có cả chủng da trắng aryen đến từ phía tây bắc. Oppenheimer có đưa ra ý kiến là một trong những chủng sống ở đông bắc Ần Độ, chủng Munda nói tiếng thuộc họ Nam Á như người Việt và dân Đông Nam Á lục địa, là di dân Nam Á đến từ phía đông (là Thái Lan, nơi có vết tích lúa xưa) vào thời tiền sử, mang theo kĩ thuật trồng lúa.

    Oppenheimer có thể có lí về điểm này, nhưng ông không hề nói dân Ần nói chung có gốc gác ở Đông Nam Á. Nhóm dân rất cổ tại Ần Độ là Dravidians (hiện còn người kế thừa ở nam Ần) gần với tổ tiên Phi châu, nhưng cũng đã lai với các chủng đến sau. Chỉ có thổ dân các hòn đảo đông Ần Độ (Nicobar...) còn nhiều nét của tổ tiên đến từ Phi châu là cổ hơn cả, vì họ ít gặp di dân khác để lai giống.

    Chúng ta biết rằng càng gần gốc Phi châu, các di tố càng đa dạng. Genes của dân Đông Nam Á đa dạng hơn genes những dân phía đông bắc Á châu, nghĩa là dân Đông Nam Á gần tổ tiên Phi châu hơn Đông Bắc Á. Cần nói thêm là kết luận của bài Chu & Su (xem sách tham khảo) được rút ra từ kết quả mới về phân tích genes các giống dân thiểu số tại nam Trung Hoa (kết hợp với kết quả phân tích genes khác như thổ dân Đài Loan v..v..); genes "Đông Nam Á" là genes (một) người Kampuchia, còn genes người Việt Nam không có trong những genes nghiên cứu !. Trung Hoa đã đóng góp nhiều vào kết quả này qua chương trình "Chinese Human Genome Diversity Project".

    Kết luận tương tự thật ra đã được Ballinger rút ra ở di truyền học từ 1992 (xem phần sách tham khảo). Ba mươi năm trước, Bình Nguyên Lộc cũng đề nghị là người cổ Việt Nam (ông gọi là "Mã Lai đợt I, hay Lạc bộ Trãi") đã từ phía nam tiến lên làm chủ phía bắc Trung Hoa, nhưng sau đó bị giống dân phía bắc (lai dân Nhục Chi) đẩy lùi trở xuống. Kết quả phân tích genes của các nhóm Chu/ Su cho biết nói chung dân Đông Nam Á gần "tổ" Phi châu, nhưng không đủ chi tiết để cho biết những sự lai giống trước sau nào đã đưa đến các giống dân khác nhau hiện nay. Tất cả các dân tộc trên thế giới ngày nay đều đã lai "giống" (ít) nhiều dù tất cả đều cùng gốc tổ Phi Châu, vì người hiện- đại đã không ngừng thiên di từ lúc sinh ra hơn trăm ngàn năm trước tại Phi Châu.

    2- Có phải Người Hoà Bình tràn lan về phía nam (Indonesia ?) , lên hướng bắc (Trung Hoa ?) và sang hướng tây (Thái Lan ?).
    Văn hoá Hòa Bình (với giai đoạn muộn từ 7000 đến 12000 năm trước đây) được bà Colani, nhà khảo cổ Pháp, khai quật, nghiên cứu và đề xuất ra vào cuối những năm 1920. Văn hoá này có những đặc trưng về dụng cụ đá cuội (pebble) ghè trên một hay hai mặt thành chopping tools và về nơi cư dân sống : hang động đá vôi. Cho đến nay người ta chưa có bằng chứng trực tiếp về sự nảy sinh nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, mặc dù có những bằng chứng gián tiếp, như môi trường, sự khủng hoảng về cách tìm thức ăn, sự xuất hiện của rìu đá mài. Danh từ "Hoà Bình" ngày nay được các nhà khảo cổ thế giới dùng trong khái niệm techno-complex (phức hợp kĩ thuật) để chỉ những di tích khảo cổ loại này. Nhiều hang động có di tích người tìm thấy ở Thái Lan qua những thập niên gần đây được xếp vào techno-complex loại Hoà Bình. Khi nghiên cứu phấn hoa trong tàng đất khảo cổ ở nhiều hang, đặc biệt trong Spirit **** tại Thái Lan, người ta nghĩ là chủ nhân chúng đã bắt đầu trồng một số cây như trầu cau, bầu bí.vào giai đoạn cuối của thời săn bắt-hái lượm. Theo thói quen trong ngành, người ta dùng tên của nơi mà đặc trưng về di tích khảo cổ được tìm thấy lần đầu -Hoà Bình- để chỉ di tích có đặc trưng đó tìm được sau này, ngay cả khi chúng được tìm ra trong vùng khác. "Người Hoà Bình" là những người thuộc văn hoá đặc trưng tiền đá mới (pre-neolithic) này. Tôi nghĩ không phải dụng cụ đá tìm được ở Úc Châu là từ Hoà Bình mà ra, vì tuổi di tích Úc già hơn, bởi niên đại sớm nhất của văn hoá Hoà Bình, theo khảo cổ học Việt Nam, là 18 ngàn năm trước (với rất ít di tích trong khoảng thời gian từ đó đến 12 ngàn năm trước). Người sống ở Hoà Bình khó lòng vượt mấy ngàn cây số để đến Úc từ 14 000 đến 20 000 năm trước. Theo tôi, chữ "người Hoà Bình" dùng cho các di tích ở nơi khác không có nghiã là người ở Hoà Bình -Bắc Việt- vào thời điểm đó (7 000 đến 12 000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa.

    Về văn hoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ Việt Nam đã đóng góp rất nhiều qua các công trình nghiên cứu quan trọng được công bố, thiết tưởng không cần nói thêm. Độc giả nào muốn biết thêm về việc có một hay nhiều văn hoá Hoà Bình, văn hoá hay phức hợp kĩ thuật, có thể xem "Theo dấu các nền văn hoá cổ" của giáo sư Hà văn Tấn.

    3- Kĩ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông sơn có trình độ cao nhất nhì thế giới ?
    Trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn ( 700 năm trước công nguyên đến sau công nguyên) quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn trình độ thợ các nơi khác, trong các nền văn minh có lâu trước Đông Sơn. Điển hình là nền văn minh Sanxingdui nói trên, xưa hơn Đông Sơn đến mấy ngàn năm. Nền văn minh bắc Trung Hoa thời Thương (thiên kỷ thứ hai trước công nguyên) đã làm ra hàng loạt đỉnh đồng to như trống Đông Sơn với nhiều khắc chạm độc đáo. Còn đồ đồng tìm thấy ở Thái Lan tuy không to bằng nhưng xưa hơn Đông Sơn khá nhiều (một ngàn năm ) và cũng có sắc thái riêng. Đó là không kể đến những đồ đồng làm tại các đô thị văn minh cổ ở Irak, vùng Cận Đông, Ai cập sớm hơn đồ đồng Đông Sơn rất nhiều. Đồ đồng Đông Sơn có mặt trễ hơn đồ đồng của rất nhiều nơi khác, tôi tự hỏi biết đâu cư dân Đông Sơn cũng đã có dịp học hỏi thêm kĩ thuật đến từ những nơi gần Việt Nam. Kết quả khảo cổ cho thấy cư dân Phùng Nguyên chỉ mới bắt đầu luyện đồng mà chưa biết đúc vật dụng. Đến thời Đồng Đậu trên dưới 3000 năm trước đây, đột nhiên cư dân sống ở đấy đúc được nhiều đồ kĩ thuật cao như lưỡi giáo, mũi tên. Phải chăng có một (hay nhiều?) thời kì cư dân bản địa được dịp tiếp xúc, gặp gỡ các kĩ thuật khác qua những sứ giả, thương khách? Hay một lí do khác? (Tôi sẽ trở lại về thay đổi này ở phần sau) Nghĩa là thợ Đông Sơn vào khoảng 2500 năm trước đã chứng minh khả năng sáng tạo kĩ thuật và mĩ thuật, khi làm được một số lượng lớn trống to giá trị cao, dùng trong lãnh vực thương mại, ngoại giao khắp cõi Đông Nam Á, nhưng khả năng nội tại này không loại trừ việc kết hợp và ứng dụng các đặc tính nhân bản là hiếu học, óc tò mò, ý muốn cách tân.

    4- "Đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á đến tận Melanesia, trước khi có ảnh hưởng của Ần Độ" ?.
    Tôi e rằng có nhầm lẫn về điểu này: Việt Nam cổ xuất khẩu trống đồng chứ không xuất khẩu đồ gốm. Đồ gốm thời Phùng Nguyên, trước Đông Sơn, có hoa văn độc đáo, sau đó được dùng trang trí đồ đồng Đông Sơn.

    Gốm Đông Nam Á nổi tiếng thế giới là gốm Lapita xưa 3500 năm, tìm được ở nhiều đảo vùng nam Thái Bình Dương. Gốm Lapita nổi tiếng không phải chỉ vì đẹp, mà còn vì dính dáng đến nguồn gốc các thuyết thiên di của giống dân nói tiếng Nam Đảo. Đó là thuyết "chuyến tàu nhanh" (express train) chở dân Nam Đảo đi từ Đài Loan đến khắp vùng biển nam Thái Bình Dương của Bellwood, và thuyết "hai chuyến tàu, nhanh và chậm" của Oppenheimer. Cả hai đều không nhắc nhở đến gốm Phùng Nguyên.

    Theo thuyết "chuyến tàu nhanh" của Bellwood, người nói tiếng Nam Đảo từ Đài Loan dùng thuyền vượt biển đến chiếm lĩnh nhanh chóng chuỗi đảo hoang trong vùng nam Thái bình Dương, liên tiếp đảo này đến đảo kia trong vòng vài trăm năm ; họ mang theo đồ đạc, kĩ thuật (làm gốm Lapita), thú nuôi, cây trồng, vào 3500 năm trước đây. Còn Oppenheimer chủ trương rằng trước chuyến tàu nhanh này, đã có "chuyến tàu chậm" "chở người tị nạn hồng thuỷ" (ở thềm Sunda ), từ bắc Borneo đến vùng đảo Nam Thái Bình Dương nói trên vào 9000 hay 10000 năm trước. Ở mỗi nơi họ ngừng lại một thời gian, "lai giống" với người bản địa thuộc chủng Australoid, họ sinh sống và sinh sôi trước khi lên đường tiếp tục đi qua đảo khác.

    Đồ gốm Á Châu nổi tiếng thế giới, gốm Jomon của cổ dân sống ở bắc Nhật, là gốm sớm nhất thế giới (trên 10 000 năm trước), có nét đẹp riêng biệt, không thể đến từ Hoà Bình, vì Hoà Bình là văn hoá không có đồ gốm, hay có rất ít vào thời kì cuối ( Bắc Sơn ). Nhưng người Nhật ngày nay là con cháu của người thuộc văn hoá Yayoi, không có cùng genes với chủ nhân gốm Jomon nổi tiếng này, cũng như người Thái hiện tại có gốc ở vùng Vân Nam chứ không là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân các văn hoá cổ trên năm ngàn năm (Ban Chiang, Ban Kao.). Chủ nhân văn hoá Yayoi đến Nhật chỉ vài trăm năm trước công nguyên, mang theo nghề trồng lúa, và có khả năng là người U Việt di tản khi nước U Việt bị ngườI Hán thôn tính (xem R. Shiba).

    Tôi cũng không tin rằng hai nền văn hoá Yangshao và Longshan (bắc Trung Hoa) đến từ Hoà Bình như N. V. T đã viết. Vùng Bắc Trung Hoa hầu như không có dấu vết văn hoá Hoà Bình trong nghiã "phức hợp kĩ thuật". Thật vậy, nền văn hoá Yangshao (5000 năm trước) nổi tiếng với gốm vẽ hình màu đen trên nền gốm đỏ là văn hóa gốc của tộc Hán ở Thiểm Tây (bắc Trung Hoa) vốn là những người trồng kê, sống trong nhà thấp đào sâu dưới đất, và văn hoá Longshan (tỉnh Sơn Đông) nổi tiếng về đồ gốm rất mỏng, màu đen bóng (đưa đến nền văn hoá triều Thương), là những văn hoá đặc thù, hoàn toàn khác với văn hoá sống trong nhà sàn, trồng lúa nước, ở Bắc Việt.
  10. rongdenvn

    rongdenvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/08/2007
    Bài viết:
    488
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    5- "Quê hương của kĩ thuật trồng lúa là ở quanh vùng Đông Nam Á" ?
    Ngay ông Oppenheimer cũng không dám khẳng định như thế. Khi nói về vết tích hạt lúa theo ông cổ nhất thế giới ở Thái Lan, Oppenheimer hai lần nhấn mạnh "nếu phần định tuổi này được xác nhận là đúng". Thật vậy, nhà khảo cổ Thái Pookajorn, người khám phá ra dấu vết lúa cổ trong gốm thời đồ đá mới, đã định tuổi theo loại hình di vật tìm được trong các hang Sakai, Ban Kao...vào giai đoạn nối tiếp văn hoá loại Hoà Bình (tìm thấy trong lớp đất bên dưới), là khoảng 9260 - 7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thì thấy "trẻ" hơn nhiều so với tuổi định ban đầu.

    Ngoài ra, so với Thái Lan, số chỗ có di tích lúa tìm thấy dọc theo nam sông Dương tử không những nhiều hơn, mà còn rất xưa hơn. Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, -13 000 năm, được một nhóm khảo cổ Mỹ -Trung hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đã được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa ( phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên báo khoa học hàng đầu thế giới Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths- thạch thể lúa - này đã chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đã đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương tử. Di tích xưa thứ hai, chín ngàn năm trước (9000), là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương tử (Trường giang). Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đã được tìm thấy ở vùng nam Trường giang. Gần cửa biển nam Trường giang, di tích văn hoá Hemudu cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7000 năm trước (sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo xưa nhất của tộc Hán phương bắc).

    Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hemudu đã trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25- 50 cm (còn dính một số hạt lúa), có nơi dày đến cả thước, trên diện tích 400 thước vuông. Có thể đó là lớp "rác" để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật (củ ấu, củ năng, táo.) và di cốt động vật hoang (hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu...) cho thấy khí hậu vùng nam sông Dương tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước.

    Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm (7000) có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên- Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ/trễ hơn nhiều (sau hơn 3000 năm). Cư dân vùng nam Trường giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc chủng nam Mongolic, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc Trường giang khoảng 4000 năm trước (Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze.).

    6-Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kĩ thuật trồng lúa, hay tổ tiên chúng ta là thầy dạy người Hán trồng lúa nước?
    Theo tôi, điều này đúng. nếu ta chấp nhận rằng cư dân trồng lúa sống ở phía nam Trường giang(thuộc nhóm Bách Việt, theo sử Tàu ) là tổ tiên của dân Việt Đông Sơn hoặc là anh em ruột với tổ tiên người Việt Đông Sơn, mà vì lí do nào đó tổ tiên này đã rời vùng nam Trường Giang về trụ tại Đông Sơn. Vì người Hán đã học được nghề trồng lúa với dân nam Trường giang (Nam Trung Hoa) trước khi tiếp xúc thẳng với người Việt cổ ở Đông Sơn vào những năm trước công nguyên. Và các kết quả về di truyền lẫn hình dáng sọ cho thấy là các bộ tộc Nam Trường giang khác với chủng gốc bắc Trung Hoa. Trong các dân đã "dạy" người Hán trồng lúa, phải kể đến dân U Việt . Mà dân U Việt vùng Cối Kê lại là con cháu của cư dân trồng lúa lâu đời tại Hemudu.

    Ngoài ra, tuy người Việt Đông Sơn đã biết trồng lúa, nhưng di tích lúa tìm được ở Việt Nam không xưa như di tích lúa ở Thái Lan, và không thể nào xưa hơn di tích lúa vùng nam Trường giang. Di tích xưa nhất là những hạt gạo cháy thành than tìm thấy trong văn hoá Đồng Đậu ở châu thổ sông Hồng, nằm trong trấu trộn với đất làm đồ gốm, không quá 3500 năm trước. Do đó, tôi xem vùng nam Trường Giang mới thật là quê hương đầu tiên của lúa, không như Oppenheimer, ông xem Thái Lan là quê hương của lúa nhưng Oppenheimer (xin lập lại lần nữa ) cũng lưu ý là thời điểm có lúa cổ ở Thái Lan cần được xác quyết.

    7- "Trước khi tiếp xúc với người Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn minh rất cao, nếu không muốn nói là cao nhất Đông Nam Á "?
    Thế nào là văn hoá "cao nhất" Đông Nam Á, và Đông Nam Á nào, có kể luôn vùng đất rộng lớn Sundaland bị biển dâng làm chìm ngập không ?

    Ta có thể nói văn hoá Việt Nam vào thiên kỷ một trước công nguyên có bản sắc riêng, không "thua kém" ai, và được lưu truyền từ cư dân cổ hơn sống trong cùng vùng, chứ không phải ngoại nhập. Điều này đã được các nhà khảo cổ Việt Nam chứng minh rõ ràng qua tính liên tục của các nền văn hoá nối tiếp nhau trên vùng Bắc Việt.

    Nếu tính rằng Việt Nam có "bốn ngàn năm văn hiến" với truyền thuyết các vua Hùng ở Bắc Việt thì có thể xem giai đoạn Văn Lang tương ứng với nhiều nền văn hoá liên tục từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Văn hoá Đông Sơn cũng là nền văn hoá độc lập cuối cùng trước khi ngườI Hán chiếm Bắc Việt Nam và đô hộ một ngàn năm. Văn hoá Đông Sơn tuy nổi tiếng về trống đồng to đẹp, từng được mua bán trao đổi đến tận Mã Lai, Indonesia, nhưng lại là một văn hoá nằm trong thời kì đồ sắt, tức là thời nằm sau thời đồng thau trong quá trình tiến triển văn minh các nơi trên thế giới theo thứ tự trước sau là : đồ đá cũ, đồ đá mới (đá mài), đồ đồng thau, đồ sắt. Nghĩa là cư dân ấy vẫn còn quá "lưu luyến" đến đồ đồng thau (vì tuy đã biết nhưng không chú ý nhiều đến đồ sắt ?! ). Đồ sắt có những điểm trội hơn đồ đồng trên phương diện kinh tế và quân sự : sắt cứng chắc, kiếm sắt chặt gãy kiếm đồng, và tên sắt xuyên qua áo giáp đồng. Thời Đông Sơn quả có sản xuất nhiều đồ đồng thau chạm trổ tinh vi : vũ khí (dao găm, qua, giáp che ngực, lưỡi lao...) và cả lưỡi rìu, lưỡi cày (tuy lưỡi cày sắt đã xuất hiện). Người Hán chính nhờ phát triển mạnh kĩ thuật đồ sắt vào thời Chiến Quốc nên đã thắng các nhóm dân giáp ranh phía nam còn mãi bám vào đồ đồng thau, như nước U Việt ba trăm năm trước công nguyên. Các di tích quân Tần ( ở Xi''an) cho thấy họ mang khí giới và giáp sắt. Người Hán tiếp tục thanh toán các nước Mân Việt, Ấu Việt, rồi... diệt luôn Ấu Lạc thời Đông Sơn ! Hay nói cách khác, nếu văn hóa ta xưa kia "cao nhất", mà lại bị Hán đô hộ, ấy bởi ta "thua" họ về sức mạnh, kĩ thuật, kinh nghiệm chinh chiến; nghĩa là ta không xem kĩ thuật, quân sự như một thành tố của một nền văn hóa !

    8- "Đô thị cổ xưa nhất trong vùng là do tiền nhân chúng ta xây dựng" ?
    Đô thị cổ xưa nhất trong vùng? Tuỳ theo vùng xem xét có bao gồm... cả nam Trung Hoa hay Ần Độ không. Thành Cổ Loa xưa nhất Việt Nam xây vào thời An Dương Vương, hơn hai trăm năm trước công nguyên. Về kiến trúc hiện nay không còn gì nhiều. Theo truyền thuyết, thành xây hình trôn ốc, gồm 9 vòng, có hào nước thông với sông Hoàng Giang nối với sông Cầu và sông Hồng. Hiện nay chỉ còn những đoạn lẻ của ba vòng thành đất, với vòng lớn nhất chu vi 9 km.

    Trong khi đó, phía bắc vùng đất Loa thành là Trung Hoa, nước lớn nhất thế giới vào thời đó. Vua Trung Hoa, Tần Thuỷ Hoàng Đế thu phục được nhiều thành trì bằng đá (còn dấu vết đến ngày nay) khi đánh bại những nước vùng bắc và trung nước Tàu. Tần Thuỷ Hoàng còn cho xây Vạn Lý Trường Thành ngăn dân phía bắc xâm lấn. Xưa hơn nữa, một ngàn năm trước đó, nhà Thương, nhà Ấn xây thành bảo vệ các thủ đô vùng bắc Trung Hoa, và ở nam sông Dương tử nền văn minh Sanxingdui cũng có thành trì rất xưa ở Tứ Xuyên, đến ngày nay vẫn còn. Đó là chưa kể đến Persepolis, thủ đô cổ 3600 năm ở Ba Tư (Iran), với thành quách bằng đá còn rất nhiều hình phù điêu cũng như tài liệu viết bằng ba thứ tiếng khắc trên đất nung. Cũng như các thành phố tối cổ có tường gạch dày với nhà hai tầng có cả phòng tắm và hệ thống cống thoát nước, ở vùng Ần hà (Mohenjo Daro và Harappa, Pakistan), tất cả đều trong Á châu.

    Cổ Loa là một công trình lớn đối với dân Đông Sơn, nhưng không so sánh được với Trung Hoa và Sanxingdui thời trước đó. Theo Oppenheimer có thể cũng đã có thành quách xây trên thềm Sunda hay thềm Nam Hải nhưng chưa ai nghiên cứu được vì ngày nay các thềm này nằm dưới biển. Ông có đưa ra hình chụp những tảng đá to hình bậc thang nằm dưới đáy biển phía đông Đài Loan, nhưng lại nói các nhà khoa học chưa đồng ý với nhau là đá đó do thiên nhiên bào mòn hay nhân tạo.

    Như vậy, "cổ nhất vùng" hay không, Cổ Loa là di tích (duy nhất) cho thấy ở Bắc Việt đã có một tập hợp dân đủ mạnh và đủ tài nguyên, năng lực để xây một thành trì lớn. Số lượng lớn các mũi tên đồng nhiều kiểu tìm thấy trong thành Cổ Loa là bằng chứng thủ lãnh cư dân tại đấy đã tổ chức quân đội bảo vệ thành. Thế nhưng Triệu Đà đã chiếm Loa thành và lên làm vua nước Nam Việt. Mà Triệu Đà chỉ là viên tướng nhỏ nhiều tham vọng của Tần Thuỷ Hoàng trong đạo quân mở bờ cõi phía nam Trung Hoa. Nhân dịp Tần Thuỷ Hoàng chết và tướng Nhâm Ngao cầm đầu đạo quân này cũng không còn nữa, Đà xưng vương ở Phiên Ngung, tức thị trấn Quảng Đông (Canton) bây giờ. Truyền thuyết nói rằng Triệu Đà dùng mưu phá nỏ thần giữ Loa thành nên chiếm được Ấu Lạc. Tiếc rằng nay không còn bằng chứng gì về nỏ thần Loa thành, dù có nhiều cơ bẩm nỏ đã được tìm thấy. Các cơ bẩm này tương tự như cơ bẩm nỏ cá nhân quân Trung Hoa sử dụng dưới thời Tần Thủy Hoàng, không phải là thứ nỏ có thể diệt hàng loạt địch quân như truyền thuyết để lại. Vũ khí Trung Hoa có khả năng tiến bộ hơn Đông Sơn vì người Trung Hoa đánh lẫn nhau liên miên trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc (gần trọn thiên kỷ I BC) trên một bình diện rộng lớn. Trong lúc đó, sự tranh chấp quyền lực bằng vũ khí nếu có tại Bắc Việt chỉ có thể xảy ra ở qui mô nhỏ hơn (mức độ bộ lạc hơn là một quốc gia). Có lẽ vì vậy mà vũ khí thời Đông Sơn được chạm trỗ kĩ lưỡng, như đồ dùng trong nghi lễ hơn là khí giới giết người trong các trận chiến. Lại thêm một chi tiết về "sức mạnh kĩ thuật" (hơn Việt) của tộc Hán !

    Những điểm nêu trên không nhằm mục đích "hạ uy tín" của tổ tiên dân Việt, chủ nhân các văn hoá từ Hoà Bình đến Đông Sơn. Một vùng nhỏ, ít dân như Bắc Việt không thể so sánh được với các nhóm dân quá đông đúc sống trên một vùng rộng lớn như Trung Hoa. So với cư dân khác tại Đông Nam Á, ngoài trừ kĩ thuật làm trống đồng, văn minh Đông Sơn có lẽ cũng không cao hơn nhiều. Dĩ nhiên về mặt chính trị, Trung Hoa với số dân và chủng tộc quá đông đảo, phải tìm mọi cách để tránh những nổi dậy, yêu sách sắc tộc và/hoặc để cổ động, biện minh cho chủ trương bành trướng, cũng như Việt Nam, để giữ đoàn kết dân tộc, tự vệ trước người láng giềng quá lớn và nhiều tham vọng. Một trong những phương tiện là ra sức chứng minh, khẳng định sự lâu đời và liên tục đồng nhất hoặc hơn trội về cội nguồn văn hoá, chủng tộc của mình.

    Nhưng quả là liều mạng khi xem "Đông Nam Á là một trung tâm văn hoá lớn ngay từ thời cổ đại, trong đó Việt Nam là nơi hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hoá khu vực", như một học giả trong nước đã viết (theo Tạ Chí Đại Trường, xem phần sách tham khảo) mà không đưa ra lí luận cũng như bằng chứng thuyết phục.

    Nhìn lại nguồn gốc dân Việt
    Khi xét về nguồn gốc dân Việt, chúng ta cần tổng hợp các nguồn tài liệu khác nhau, trong đó có khối lượng đồ sộ về khảo cổ tích tụ từ thời Pháp thuộc. Các nhà khảo cổ Việt Nam hiện đại đã đóng góp phần rất quan trọng trong việc khai quật, sắp xếp, phân tích các di tích văn hoá cổ trên đất Việt Nam. Tuy nhiên di truyền học (có lẽ vì quá mới mẻ ? và nhiều tốn kém ?) gần như vắng mặt trong những nghiên cứu này. Di truyền học là một ngành không thể thiếu trong việc nghiên cứu gốc gác chủng tộc. Thật vậy, văn hoá có thể vay mượn, và ngôn ngữ phần lớn tuy có liên hệ với nguồn gốc, nhưng những dây liên hệ rất phức tạp; khi có sự hợp chủng, ngôn ngữ không những chịu ảnh hưởng của sự lai giống, mà còn tuỳ vào những yếu tố như sức mạnh tương đối các giống dân, số đông và khả năng chuyên chở rõ ý tưởng.

Chia sẻ trang này