1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

1 tí hài hước về Lịch sử_Văn hoá

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 20/01/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ruavang

    ruavang Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2002
    Bài viết:
    361
    Đã được thích:
    0
    Dạo này thấy trong box có nhiều thành viên thích bàn luận về thế chiến II, xem các topic về thời gian này, chợt nhớ bài thơ : Nhật Hoàng Khóc Hít-Le của nhà thơ trào phúng Đồ Phồn viết trước CMT8 ít lâu, bài thơ này thuộc về Nguyễn Khuyến khóc Dương Khê style.
    Để các phe tranh luận bớt căng thẳng, xin chép lại bài thơ này để mọi người giải trí sau khi bàn luận từ các lãnh tụ đến các phe trục, đồng minh trong thế chiến. Chép lại theo trí nhớ nên thiếu 1 vài đoạn, bác nào, bạn nào nhớ bổ sung giúp.
    Nhật Hoàng Khóc Hít-Le
    ( Đồ Phồn)
    Hít-le thôi bác toi rồi
    Đương thân lửa đạn rối bời lòng ta
    Nhớ từ thưở xông pha ngày trước
    Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau
    Tưởng đâu đè bẹp năm châu
    Nào hay lụn bại biết đâu cơ trời
    Bác chẳng biết bỏ đời là phải
    Vội vàng chi bác phải ra ma
    chợt nghe tôi những xót xa
    đương khi thắng lớn hoá ra thua dồn
    ....................................................
    Cờ chữ vạn không còn phất phới
    Ai người đem thế giới nhuộm đen
    Máu tanh không có bạn hiền
    Say sưa không phải không phiền không lo
    Thơ phát xít đắn đo không viết
    viết đưa ai, ai biết mà đưa
    trời Âu đã tạnh gió mưa
    sóng dồn bể Thái khổ chưa hỡi trời
    ...........................................................
    Hãy sống và ước vọng.
    Để thấy đời bao dung
  2. cup79

    cup79 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    1
    Quan Bảng... học chữ






    Sinh thời Lê Quý Đôn (1726 - 1784) nổi tiếng là người thông thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi nguyên. Lẽ thường, tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, đỗ đạt sớm thường hay mắc tính kiêu ngạo. Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy. Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ:
    "Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn"
    (Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi).
    Lần thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ.
    Lê Quý Đôn lấy giấy bút. Cụ bèn đọc: "chi". Ông Đôn không biết nên viết chữ "chi" nào bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao. Cụ lại đọc "chi". Lê Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi:
    - Bẩm, "chi" nào ạ?
    Cụ thở than rằng:
    - Đến chữ "chi" cũng không biết viết, thế mà treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?
    Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:
    "Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại
    Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ"
    (Nghĩa là: Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó.
    Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâủ).
    Thấy câu đối hay, lạ, Lê Quý Đôn và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc. Còn ông già thì phủ phục trước linh cữu mà khóc rằng:
    "Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu để con anh đỗ đến Bảng Nhãn mà chưa biết chữ "chi" anh ơi".
    Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Lê Quý Đôn mời mãi nhưng cụ không chịu nán lại. Bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì.
    Giai thoại còn kể rằng, một lần Lê Quý Đôn đến cầu siêu ở ngôi chùa làng. Nhà sư thấy ông thì mừng rỡ mà rằng:
    - Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ giáo. Chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai vấn". Câu đố thế này, xin quan chỉ cho:
    "Hạ bất khả hạ. Thượng bất khả thượng.
    Chỉ nghi tại hạ. Bất khả tại thượng".
    (Nghĩa là: Dưới không thể dưới. Trên không thể trên. Đúng nên ở dưới. Không thể ở trên).
    Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra. Đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay đó là chữ "nhất" (một). Đúng là trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên chứ không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất" nằm dưới và chữ "bất", chữ "khả" thì chữ "nhất" lại ngồi trên.
    Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ "Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ để nhạo. Ông tự nhủ thì ra thiên hạ còn nhiều người giỏi hơn mình liền về nhà sai người cất tấm bảng. Từ đó ông bỏ tính kiêu ngạo, chăm chú nghiên cứu, học hành, giúp đời, trở thành một ông quan đa năng, một thiên tài khoa học lớn nhất Việt Nam thời phong kiến.
    [red]Phen này ông quyết đi buôn cối
    Trên ... mạng bao nhiêu đứa giã trầu. (Xin lỗi cụ Tú)[/red]
  3. cup79

    cup79 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    1
    Ba Que Xỏ Lá

    Trong thời Pháp thuộc, có một bọn người chuyên tổ chức những "trò chơi có thưởng". Trò chơi của bọn họ gồm một cái que và ba chiếc lá. Mỗi lá có đính một chiếc vòng nhỏ ở cuống. Người chơi cầm cái que nhỏ xỏ vào ba vòng nàỵ Mỗi người chỉ được xỏ một lần. Người nào xỏ vào được một lúc cả ba lá và nhấc được chúng lên thì được lĩnh thưởng. Ai xỏ trật, tức xỏ không vào lá nào hoặc chỉ vào một trong ba lá, sẽ mất toi số tiền đặt cược[1].
    Cũng liên quan tới trò chơi này, có người kể lại cách thức chơi của bọn chủ trò có khác chút ít. Chúng thường dùng ba que nhỏ, trong đó chỉ có một que xỏ vào chiếc lá rồi chìa cho mọi người xem. Chúng tuyên bố rằng nếu ai rút trúng que có chiếc lá khi chúng nắm tay lại thì người đó trúng thưởng. Ngược lại, người chơi sẽ mất số tiền đặt cược [1] trước. Dù chơi theo cách thức nào đi nữa, thì bọn chủ trò vẫn có nhiều mưu mẹo, khiến cho người chơi bao giờ cũng thua cuộc. Vì thế, người ta mới gọi bọn chủ trò là bọn "ba que xỏ lá" với hàm ý là bọn bịp bợm, lừa đảo, dối trá. Từ cách thức chơi thứ nhất, nhiều người cho rằng hình thức ban đầu của "ba que xỏ lá" là "xỏ lá ba que"[2].
    Sở dĩ có sự thay đổi này là do việc đọc chệch cho thuận miệng, dễ đọc, dễ nhớ.
    Thành ngữ "ba que xỏ lá" dần dần được mở rộng phạm vi xử dụng. Nó được dùng để chỉ tất cả những hạng người lừa lọc, bịp bợm, đểu cáng.
    [red]Phen này ông quyết đi buôn cối
    Trên ... mạng bao nhiêu đứa giã trầu. (Xin lỗi cụ Tú)[/red]
  4. cup79

    cup79 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    1
    Bắn rụng mặt trời

    Đoàn sứ giả nước Nam do hoàng giáp Ngô Kính Thần dẫn đầu, sang sứ nhà Minh, quan nhà Minh ra câu đối:
    Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ.
    (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng).
    Câu này có ý là có một thế lực hùng hậu đã dẹp tan đi thế lực yếu kém hơn. Mặt trời hiện ra thì mặt trăng mất đi. ý bóng gió là thiên triều bắt nước nhỏ phải quy phục.
    Ngô Kính Thần ung dung đối lại:
    Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô.
    (Trăng làm cung, sao làm đạn, chiều tối bắn rụng mặt trời).
    Câu đối lại tuyệt hay, hình tượng sắc sảo hơn, chất quật cường cũng rõ. Nghe nói, nhà Minh rất bất bình vì câu đối này, đã bắt giam sứ giả.
    Câu đối này từ trước vẫn được xem là của Mạc Đĩnh Chi. Nhưng hiện nay đã tra cứu lai lịch. Lời văn được khắc trên bia đá, khắc năm 1656, tác giả văn bia là tiến sĩ Vũ Đăng Long. Theo lời bia, thì câu đối trên đây là của Ngô Kính Thần, người xã Xuân Hy, huyện Kim Hoa (nay thuộc Hà Nội). Ông Ngô Đỗ Hoàng Giáp năm 1493.
    [red]Phen này ông quyết đi buôn cối
    Trên ... mạng bao nhiêu đứa giã trầu. (Xin lỗi cụ Tú)[/red]
  5. cup79

    cup79 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    1
    Bị thầy đồ dốt kiện

    Phùng Khắc Khoan thời hàn vi, mở một lớp học để sinh nhai. Nhưng bên cạnh nhà ông có một thầy đồ dã dạy học rồi, vì vậy học trò đến học với ông chỉ lèo tèo một hai đứa. Nhiều bận, ông lắng nghe người láng giềng giảng sách thì thấy ông ta giảng nghĩa lung tung, sai sót rất nhiều. Thế mà người ta cứ cho con đến học mới là lạ. Vừa buồn, vừa tức, ông viết mấy câu châm biếm ở trước cửa nhà mình:
    Đô đô bình trượng ngã
    Đệ tử mãn đường hạ
    Úc úc hồ văn tai
    Đệ tử bất kiến lai
    Mấy câu thơ chế giễu rất ác! Chữ Hán có một số chữ mặt chữ nhìn qua tương tự giống nhau, người học không đến nơi đến chốn thường đọc lầm. Thành ngữ có câu chữ tác ra chữ tộ, chữ ngộ ra chữ quá. Sách Luận ngữ có câu: úc úc hồ văn tai, nghĩa là văn chương rực rỡ thay. Nhưng cả năm chữ ngày hơi giống mấy chữ: Đô đô bình trượng ngã không có nghĩa gì cả. Phùng Khắc Khoan có dụng ý chế giễu rằng: Thầy dốt đọc sách sai mặt chữ thì học trò đến học rất nhiều. Còn thầy giáo đọc đúng thì chẳng thấy có đứa học trò nào đến.
    Thầy đồ kia tức giận, làm đơn kiện lên quan. Quan cho đòi cả hai người đến, bắt làm thơ để thử tài. Đầu đề bài thơ là: Con trai (chữ Hán là bạng). Phùng Khắc Khoan viết ngay một bài thơ thất ngôn bát cú chữ Hán. Ông đồ chỉ làm có bốn câu thơ chữ Nôm:
    Hùm hụp nền bằng bàn tay doạng
    Hỏi nó cái chi? Ấy cái bạng
    Vỏ làm nghiên chấp sử chấp kinh
    Ruột nấu cháo bổ tâm bổ tạng
    Ông Phùng chắc mẩm thắng cuộc. Nào ngờ quan huyện xem xong hai bài thơ, lại phán:
    - Sao anh lại dám sánh với bậc già cả được?
    Rồi quan ra lệnh cho cụ đồ cứ được phép mở trường, học sinh của ông Phùng cũng cho về học với cụ đồ.
    Kiện tụng xong xuôi, Phùng Khắc Khoan bực chí ra về. Bỗng thấy người nhà quan huyện chạy lên gọi. Quan huyện gọi ông vào phòng riêng bảo ông:
    - Tiên sinh có biết loài sư tử không? Nó vồ được cả con hùm con beo, nhưng khi vồ con thỏ mà cũng dốc sức thì nó dại. Tiên sinh nên nghĩ đến việc lớn hơn, há cần giành giật bọn trẻ con với người già như vậy.
    Quan huyện còn lấy tiền ra biếu Phùng Khắc Khoan, giúp ông qua cơn túng quẫn, Phùng Khắc Khoan cảm động và tỉnh ngộ. Ông sắp xếp hành trang, tìm đường vào Thanh Hóa giúp nhà Lê.

    [red]Phen này ông quyết đi buôn cối
    Trên ... mạng bao nhiêu đứa giã trầu. (Xin lỗi cụ Tú)[/red]
  6. cup79

    cup79 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    1
    Bịa thơ tài hơn vua

    Tự Đức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ nào thường vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm.
    Một hôm sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:
    - Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe!
    Rồi đọc luôn:
    Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ
    Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai
    Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa hán vừa nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ "khề khà", "lấm tấm" nghe thật thú vị. Còn Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng:
    - Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
    Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở hán dở nôm độc đáo của mình, không dè lại bị Quát dội một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông ta đã nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân ấy cho hả giận.
    Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng, nặng nề khác thường...
    Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:
    Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
    Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
    Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
    Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
    Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
    Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
    Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
    Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.
    Nghĩa là:
    Ngựa báu từ phía tây huếch hoác lại,
    Người huênh hoang nhờ cậy dìu về.
    Trong vườn oanh hót giọng khề khà.
    Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
    Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp.
    Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài.
    Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết,
    Khệnh khạng còn mang đến hỏi tú tài.
    Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.


    [red]Phen này ông quyết đi buôn cối
    Trên ... mạng bao nhiêu đứa giã trầu. (Xin lỗi cụ Tú)[/red]
  7. cup79

    cup79 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    1
    Bốn giai thoại trong một đôi câu đối
    Câu đối viết:
    Bỏ gậy sắt, bỏ ngai vàng, quyết giữ nòi vàng và khoán sắt.
    Vung hịch son, vung cờ đỏ, cho yên con đỏ với lòng son (1)
    Có thể nói đây là một câu đối nôm hay. Chỉ có 26 chữ trong đó lặp mất 12 chữ mà rất đầy đủ ý nghĩa, dồi dào mầu sắc, nhấn mạnh được son sắt vững bền. Câu đối này nói về Trần Hưng Đạo. Đặc biệt, nội dung câu đối chứa đựng đến bốn giai thoại về người anh hùng này.
    Bỏ gậy sắt:
    Trần Quốc Tuấn là con của An sinh vương Trần Liễu. Trần Liễu bị Trần Thủ Độ buộc phải nhường vợ cho Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông). Trần Liễu đã uất ức, đem quân chống lại nhưng không nổi, suýt bị gia hình, nhưng được Trần Cảnh tha chết. Việc thu xếp coi như yên ổn, song trong thâm tâm, Trần Liễu vẫn ôm mối hận thù. Cả hoàng tộc đều biết câu chuyện ấy, nên khi Trần Hưng Đạo được gần gũi vua Trần, nhiều người vẫn nhìn ông bằng cặp mắt nghi ngại. Biết đâu, khi thời cơ thuận lợi, Hưng Đạo lại không có một hành động phi nghĩa để trả thù cho bố?
    Biết sự hoài nghi kín đáo ấy, Trần Hưng Đạo luôn luôn giữ đúng lễ vua tôi, ông toàn tâm toàn ý phục vụ các vua Trần chu đáo. Một lần, cùng Trần Nhân Tông đi dạo chơi đây đó, ông liếc thấy có người nhìn vào cái gậy ông cầm ở tay. Đầu gậy này có bịt sắt nhọn. Gậy ấy mà giáng xuống đầu ai, thì kẻ ngộ nạn chỉ có việc lìa đời! Hưng Đạo lẳng lặng bẻ cái gậy ra làm đôi, vứt đầu có bịt sắt đi, chỉ cầm trong tay một đoạn tre ngắn ngủi.
    Cử chỉ ấy chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Ông không nói một lời. Những kẻ đứng chung quanh cũng đều im lặng, có người biết, có người không. Nhưng những ai chú ý đều tỏ ra kính phục và hoàn toàn tin tưởng Trần Quốc Tuấn. Ông đã giữ gìn ý tứ để xóa mọi hiềm nghi.
    Bỏ ngai vàng:
    Cũng từ sự bất bình sâu sắc trên đây, Trần Liễu luôn luôn ủ ấp trong lòng mình một mối thù muốn trả. Khi sống, tự ông không hành động được gì, thì trước khi mất, ông đã gọi Trần Quốc Tuấn lại dặn dò. Ông muốn Trần Quốc Tuấn phải cướp ngôi vua để trả thù, rửa nhục cho ông.
    Trần Quốc Tuấn nghe lời trối trăng của cha, không đồng tình nhưng không dám cãi. Về sau, ông có đem ý kiến này hỏi mấy viên tướng thân cận của mình như Yết Kiêu, Dã Tượng. Những người này đều nói là không nên. Chỉ có một người con trai của ông là Trần Quốc Tảng có ý muốn giành ngôi, làm cho ông rất tức giận. Ông quát mắng Quốc Tảng, cho là kẻ vong ân bội nghĩa và đuổi đi, không muốn Quốc Tảng được thấy mặt mình. Trần Quốc Tuấn đã chứng tỏ ông không ham ngai vàng. Mẩu chuyện này càng làm cho mọi người hết sức kính phục ông, tôn vinh phẩm chất của ông.
    Vung hịch son, vung cờ đỏ:
    Nhưng hình ảnh này muốn chỉ vào hai việc cụ thể:
    - Trần Quốc Tuấn là tác giả bài Hịch tướng sĩ văn nổi tiếng.
    - Ông là vị Tiết chế tổng chỉ huy, đã giương cao cờ lệnh chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông được hoàn toàn thắng lợi.
    Câu đối trên đây là của cụ Quả Ngôn ở làng Hội Thống, huyện Nghi Xuân (tỉnh Hà Tĩnh).
    [red]Phen này ông quyết đi buôn cối
    Trên ... mạng bao nhiêu đứa giã trầu. (Xin lỗi cụ Tú)[/red]
  8. luuthuy

    luuthuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    2.109
    Đã được thích:
    1
    Hình như giai thoại này một là giống giai thoại của Đào Duy Từ hoặc là của Đào Duy Từ chứ ko phải Phùng Khắc Khoang. Ai vào thẩm định thử cái.
    [red]Tức nước vỡ bờ[/red][/size=6]
  9. ruavang

    ruavang Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2002
    Bài viết:
    361
    Đã được thích:
    0
    Không biết ai lôi chủ đề hài hước này lên đây trong lúc mọi người con đang bận uýnh nhau với chuyện có bài tàu hay không trong LS_VH. Theo dự báo của đài sờ tượng(voi) thuỷ văng, sắp tới sẽ có chủ đề bài mỹ ( Hoa kỳ), bài tây ( 52 lá), bài .....
    Nhân đọc lại bài cũ trong chủ đề, rùa tôi tức cảnh sinh....... thơ con cóc. Mời các bác, các bạn nối vần hoăc hoạ mấy câu dưới đây:
    Hai cực, hai vua, thế đối đầu
    Xe, Bồ,Pháo, Mã, Hậu theo sau.
    Lạc nước vua đen thành tốt trắng.
    ní này, hắc Hậu hữu ....Thần Châu.

    .
    Hãy sống và ước vọng.
    Để thấy đời bao dung
    Được ruavang sửa chữa / chuyển vào 00:44 ngày 24/02/2004
    Được ruavang sửa chữa / chuyển vào 02:41 ngày 24/02/2004
  10. thaihonganh

    thaihonganh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/10/2002
    Bài viết:
    465
    Đã được thích:
    0
    ......tạm thời tôi cất nhé bác Thái .......
    THÁI HỒNG ANH
    Tái bút: Hì hì, (không?) cần phải nói thêm, SAI ĐƯỜNG ở đây là SAI ĐƯỜNG LỐI của...
    Được thaihonganh sửa chữa / chuyển vào 09:08 ngày 24/02/2004
    --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    Cám ơn bác Thái đã hoạ lại mấy vần quê kệch của tôi. Có điều này mong bác thông cảm; khi lập ra chủ đề tôi có viết mấy dòng đề nghị luật chơi (trong trang đầu của chủ đề): không bàn luận về những vấn đề liên quan đến thể chế chính trị và chính sách của nước Việt nam hiện đại(1945-nay). Vả lại bài thơ với vần ÂU dựa vào bàn cờ của Rob Hatern.
    Bài thơ của bác không SAI ĐƯỜNG nhưng nếu tôi hoặc ai đó hoạ tiếp, sẽ vi phạm luật chơi ban đầu. Chúng ta là những người trọng pháp nên tôi xin phép bác cho cất vào kho lưu trữ. Tôi sẽ tìm chủ đề hoặc diễn đàn thích hợp trong ttvn để post lại và hoạ theo.
    Mong bác không phiền lòng.
    Ván cờ có cực, có vần âu
    Theo luật ta chơi, tự thưở đầu
    Mấy dòng của bác, tôi xin cất
    Sẽ tìm nơi gửi, hoạ lại sau.
    Được ruavang sửa chữa / chuyển vào 13:29 ngày 24/02/2004

    ..............................................................................................................
    Lâu lâu tôi, bác gặp lại nhau
    Lên xe, xuống mã, chiếu pháo đầu
    Không ngờ hôm nay xui quá mất
    Sai luật, thôi thì hẹn bác sau!
    THÁI HỒNG ANH
    Tái bút: Ban đầu khi họa bài thơ trên kia của bác Rùa, tôi hơi vội nên chỉ đọc trang cuối cùng này của chủ đề thành ra đã không hiểu rõ luật chơi.
    Được thaihonganh sửa chữa / chuyển vào 14:15 ngày 24/02/2004

Chia sẻ trang này