1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

1000 năm Thăng Long - Hà Nội

Chủ đề trong 'Public Hà Nội' bởi smartdragon, 27/07/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. linhsiu

    linhsiu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/07/2006
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    Moi nguoi thu doan xem Thang Long - Ha Noi co bao nhieu ten goi?
    Nhung ten goi cua Thang Long - Ha Noi

    Thăng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tuỳ (581 - 618), Đường (618 - 907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy, theo thứ tự thời gian như sau:
    1. TÊN CHÍNH QUY:
    Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:
    Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng, lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Nguỵ dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Điều đó cho thấy, Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.
    Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tuỳ (581-618), Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.
    Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh Đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh Đô thường có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Năm 866 Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).
    Thăng Long (Rồng bay lên). Đây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long" (Toàn thư, Tập I, H, tr 241).
    Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toàn thư Sđd - tr 192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).
    Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản Định đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr224).
    Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).
    Bắc Thành: Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM). Vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành"(Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H. 1979, tr 12).
    Thăng Long (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế - TM), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).
    Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.
    Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hoà, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội. H. 1960, tr 82).
    2. TÊN KHÔNG CHÍNH QUY:
    Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành Thăng Long - Hà Nội:
    Trường An (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.
    Thí dụ:
    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
    Rõ ràng chữ Trường An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.
    Phượng Thành (Phụng Thành):
    Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng:
    Phượng Thành xuân sắc phú (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
    Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.
    Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ III, IV, V và VI) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877); ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:
    Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
    Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!
    Dịch nghĩa:
    Nhớ người vừa tự thành Long Biên về tới Phượng Thành.
    Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi và triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.
    Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu ông về kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
    Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).
    Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...
    Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
    Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ), Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).
    Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ăn Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.
    Loại tên "không chính quy" của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây không hết được.
    (st)

  2. hero_abc

    hero_abc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2006
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    Tóm lại mọi người đếm hộ xem Hà Nội có bao nhiêu tên. Thật là nhiều tên quá.
    Nhung ten goi cua Thang Long - Ha Noi
  3. smartdragon

    smartdragon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2006
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội có tới 110 hồ, tuy nhiên, ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa xã hội chưa phải người nào có thể biết thấu đáo. Ban thân tôi nói riêng cũng rất muốn tìm hiểu về điều này. Mong các bạn có thể cho tôi và mọi người được biết về ý nghĩa của những Hồ Hà Nội mà các bạn biết được không?
    Giảng Võ, Thành Công, Thiền Quang, Ngọc Khánh, Thương Mại, Hoàn Kiếm,Trung Tự, Hai Bà Trưng, Ðền Lừ, Giáp Bát, Nghĩa Tân, hồ điều hoà Nam Yên Sở, Yên Hoà, Khương Trung 1 (Ðầm Hồng), Khương Trung 2 (Ðầm Sòi), Ðịnh Công, Linh Ðàm, Hào Nam, Phương Liệt. Bên Linh Quang, Văn Chương và Kim Liên v v...
  4. chuckle_over

    chuckle_over Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    1.635
    Đã được thích:
    0
    Hồ nào ở HN mà chả là hồ điều hòa
  5. smartdragon

    smartdragon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2006
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Liệu Chuckle_over co the viet gi hon khong, nhu cung cap thong tin ve Ho nao ma ban biet duoc ve y nghia lich su va xa hoi cua no
    Many Thanks
    SD
  6. hero_abc

    hero_abc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2006
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    Đề nghị Smart Dragon trích dẫn nguồn tài liệu nói về Hà Nội có 110 cái hồ. Sao mà nhiều thế nhỉ????
  7. smartdragon

    smartdragon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/07/2006
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Hero_abc vào trang này nhé
    http://www.hanoi.gov.vn/hanoi/tag.idempotent.render.userLayout
    RootNode.target.n65.uP?uP_root=me&cmd=item&ID=17065
  8. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Trong cuốn Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt nam có bài này, chép lên để mọi người coi Hà nội cổ có bao nhiêu phường - hàng
    Rủ nhau chơi khắp Long Thành
    Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
    Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
    Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay
    Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
    Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đào
    Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Than
    Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Gang, Hàng Đồng
    Hàng Muối, Hàng Nón, Cầu Đông
    Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè
    Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre
    Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà
    Quanh đi đến phố Hàng Da
    Trải xem phường phố, thật là cũng xinh
    Phồn hoa thứ nhất Long Thành
    Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
    Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
    Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền.
  9. hero_abc

    hero_abc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2006
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội 36 phố phường từ lâu đã đi vào văn thơ Việt Nam và phải công nhận rằng đó đều là những áng văn thơ hay- bất hủ. Hà Nội bây giờ đã mở rộng hơn nhiều và cũng không biết là đã có bao nhiêu tuyến phố mới được mở ra, không biết bao những ngôi nhà mái ngói, mái bằng mới mọc lên vì vậy có thể thấy Hà Nội cũng đã có nhiều thay đổi. Ngoài việc gọi tên các tuyến phố theo nghành "Hàng" mà các hộ dân sinh sống ở đó bán như, phố hàng Đào bán tơ lụa, hàng bạc bán vàng bạc,... theo tôi còn có thể phân chia các tuyến phố theo các thời điểm bán được nhiều hàng nhất hoặc nổi tiếng vì thời điểm bán các loại hàng hoá đó. Vì thế có thể chia ra thành: các tuyến phố hàng ngày và hàng đêm.
    + Phố hàng ngày bao gồm: hàng đào, hàng ngang bán quần áo; hàng bạc bán vàng bạc và du lịch lữ hành; hàng mã bán hàng ma chay cưới hỏi; hàng bông bán đồ lưu niệm; hàng buồm bán bánh, kẹo, đường, sữa; lương văn can bán đồ chơi trẻ em;...
    + Phố hàng đêm bao gồm: hàng bồ bán mực nướng; tống duy tân với ẩm thực đêm, đồng xuân với và phùng hưng là lẩu; gia lâm, tông đản và một số nơi khác là "cơ quan" của các em ****; cầu giấy, giảng võ, đầu khâm thiên là chợ đêm bán đủ thứ quần áo, giày dép cũ, sách in lậu...; long biên là các ngành hàng hoa quả (vì buổi đêm xe tải mới được vào Hà Nội); Quảng Bá là các loại hoa; đường Thanh Xuân- Cầu Mới là các loại rau củ;....
    Vẫn còn nhiều tuyến phố khác nữa mong các bạn bổ xung thêm vì sức người có hạn.
  10. hero_abc

    hero_abc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2006
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    Lại nói tiếp về các phố hàng đêm, tôi nhớ còn có phố Lê Thanh Nghị và làng Phùng Khoang là nơi được chứng kiến nhiều pha "anh hùng cứu mỹ nhân" mỗi khi có lời đề nghị "anh ơi cứu net". Cửa Nam trước đây và Quán Thánh bây giờ là "tẩm quất gia truyền". Nhân đây tôi cũng thấy thắc mắc là cùng với đối tượng khách hàng nam giới (là chủ yếu) và với nhân viên phục vụ là nam thì gọi là tẩm quất còn nếu nhân viên phục vụ là nữ thì lại gọi là Massage. Tiếp đến ngõ Tạm Thương là nem chua nướng. Bùi thị Xuân và Triệu Việt Vương là Karaoke và cafe- mặc dù ban ngày cũng có nhưng có lẽ ban đêm thì tấp nập hơn. Nguyễn Hữu Huân thì bán xôi. Đường Phạm Văn Đồng và Bửơi thì tấp nập bởi gội đầu thư giãn. Phở cuốn ở Nguyễn Khắc Hiếu. Đường Thanh Niên thì có "hương ngọc lan". Thứ 6, 7 và chủ nhật thì nhiều người chọn đi dạo ở chợ đêm Hà Nội từ đầu phố Hàng Đào lên Đồng Xuân để ngắm hàng, ngắm người và thưởng thức cái thú đi bộ nghênh ngang giữa đường mà không sợ ô tô, xe máy. Sân vận động Mỹ Đình là "trường đua" và nơi hẹn hò,...
    Có lẽ chuyện phố hàng đêm tôi phải dừng lại ở đây vì bắt đầu đã đi lạc mất chủ đề rồi thì phải.

Chia sẻ trang này