1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

101 Câu Chuyện Thiền (101 Zen Stories)

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi linhlong_vn, 14/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. arow

    arow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2006
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    SÁT SINH
    Gasan một hôm dạy dỗ những đệ tử của ông: "Những ai lên tiếng chống lại sự sát sinh và những ai muốn bảo tồn cuộc sống cho mọi sinh vật có tri giác đều đúng. Thật là tốt khi bảo vệ ngay cả các súc vật và các côn trùng. Thế nhưng còn những người giết thời giờ thì sao, những người đang tàn phá tài sản thì sao, và những người hủy hoại nền kinh tế chính trị? Chúng ta không nên bỏ qua cho những người này được. Hơn nữa, còn như người giảng pháp mà lại không hề giác ngộ thì sao? Người đó đang giết chết Phật giáo vậy."
  2. arow

    arow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2006
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    Ðời Ðường niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai (713 T.L.), Sư (Nam Nhạc Hoài Nhượng) đến Hoành Nhạc (dãy núi liên tục) ở chùa Bát-nhã.
    Có vị Sa-môn ở viện Truyền Pháp hiệu Ðạo Nhất hằng ngày ngồi thiền. Sư biết đó là pháp khí (người hữu ích trong Phật pháp) bèn đi đến hỏi:
    - Ðại đức ngồi thiền để làm gì?
    Ðạo Nhất thưa:- Ðể làm Phật.
    Sau đó, Sư lấy một cục gạch để trên hòn đá ở trước am Ðạo Nhất ngồi mài. Ðạo Nhất thấy lạ hỏi:
    - Thầy mài gạch để làm gì?
    Sư đáp:
    - Mài để làm gương.
    - Mài gạch đâu có thể thành gương được?
    - Ngồi thiền đâu có thể thành Phật được?
    - Vậy làm thế nào mới phải?

    - Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải? đánh trâu là phải?
    Ðạo Nhất lặng thinh, Sư nói tiếp:
    - Ngươi học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền không phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không có tướng nhất định, đối pháp không trụ, chẳng nên thủ xả. Ngươi nếu ngồi Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi chẳng đạt ý kia.
    Ðạo Nhất nghe Sư chỉ dạy như uống đề-hồ, lễ bái hỏi:
    - Dụng tâm thế nào mới hợp với vô tướng tam-muội?
    Sư bảo:
    - Ngươi học pháp môn tâm địa như gieo giống, ta nói pháp yếu như mưa móc, nếu duyên ngươi hợp sẽ thấy đạo này.
    - Ðạo không phải sắc tướng làm sao thấy được?
    - Con mắt pháp tâm địa hay thấy được đạo, Vô tướng tam-muội cũng lại như vậy.
    - Có thành hoại chăng?
    - Nếu lấy cái thành hoại tụ tán mà thấy đạo là không thể thấy đạo. Nghe ta nói kệ:
    Tâm địa hàm chư chủng
    Ngộ trạch tức giai manh
    Tam-muội hoa vô tướng
    Hà hoại phục hà thành?
    Dịch:
    Ðất tâm chứa các giống
    Gặp ướt liền nảy mầm
    Hoa tam-muội không tướng
    Nào hoại lại nào thành?
    Ðạo Nhất nhờ khai ngộ tâm ý siêu nhiên, theo hầu Sư suốt mười năm, mỗi ngày càng nhận sâu lý đạo.
    Được arow sửa chữa / chuyển vào 01:04 ngày 29/11/2006
  3. arow

    arow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2006
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    Sư (Bổn Tịch) họ Trương, quê ở Ráng Châu, xuất gia từ thuở bé. Sau Sư đến tham học với Lục tổ Huệ Năng được Tổ truyền tâm. Sư từ giã Tổ, tìm đến núi Tư Không ở chùa Vô Tướng, chuyên ở nơi đây tu hành.
    Ðời Ðường niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba (744 T.L.) vua Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Ðình vào núi cắt dây thường xuân. Dương Quang Ðình tình cờ gặp được thất của Sư. Ðình lễ bái thưa:
    - Ðệ tử mộ đạo đã lâu, cúi xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy.
    Sư bảo:
    - Người nghiên học Thiền tông trong thiên hạ đều hội về Kinh sư (kinh đô vua), thiên sứ nên trở về triều thưa hỏi là đầy đủ. Bần đạo ở gọp núi cạnh khe không có chỗ dụng tâm.
    Quang Ðình thiết tha khóc lóc lễ lạy.
    Sư bảo:
    - Thôi! Chớ lễ bần đạo. Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo?
    Ðình thưa:
    - Ðệ tử trí thức tối tăm chưa biết Phật với Ðạo nghĩa ấy thế nào?
    Sư bảo:
    - Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội Ðạo, không tâm là Ðạo.
    - Thế nào tức tâm là Phật?
    - Phật nhân tâm mà ngộ, tâm do Phật được bày. Nếu ngộ không tâm thì Phật cũng chẳng có.
    - Thế nào không tâm là Ðạo?
    - Ðạo vốn không tâm, không tâm gọi là Ðạo. Nếu rõ không tâm thì không tâm tức là Ðạo vậy.
    Quang Ðình đảnh lễ tin nhận.
    Trở về triều, Quang Ðình tâu hết việc trong núi cho vua nghe. Vua ban sắc lệnh sai Quang Ðình đi thỉnh Sư. Ngày mười ba tháng chạp, Sư theo sứ về đến đế đô, Vua thỉnh ở chùa Bạch Liên.
    Ðến ngày rằm tháng hai năm sau, Vua mời hết những danh Tăng và các người học Phật uyên bác đến nội đạo tràng (đạo tràng trong cung) cùng Sư xiển dương Phật lý.
    Khi ấy, có Thiền sư Viễn lên tiếng hỏi Sư:
    - Nay đối Thánh thượng để xét lường tôn chỉ, cần phải hỏi thẳng, đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của Thiền sư lấy gì làm đạo?
    Sư đáp:- Không tâm là đạo.
    Viễn hỏi:- Ðạo nhân tâm mà có, đâu được nói không tâm là đạo?
    Sư đáp:
    - Ðạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.
    Viễn hỏi:- Thiền sư thấy thân tâm là đạo rồi chăng?
    Sư đáp:- Sơn tăng thân tâm xưa nay là đạo.
    Viễn hỏi:
    - Vừa nói không tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
    Sư đáp:
    - Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng không tột nguồn chẳng có.
    Viễn hỏi:- Xem hình thể Thiền sư rất nhỏ đâu thể hội được lý này?
    Sư đáp:
    - Ðại đức chỉ thấy tướng Sơn tăng, chẳng thấy được không tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Ðại đức, kinh nói "phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia". Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
    Viễn bảo:- Nay thỉnh Thiền sư ở trên tướng nói không tướng.
    Sư đáp:
    - Kinh Tịnh Danh nói: "Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng." Ðại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.
    Viễn nghe nói thất sắc lặng lẽ rút lui.
    Sư có bài kệ:
    Tứ đại vô chủ phục như thủy
    Ngộ khúc phùng trực vô bỉ thử
    Tịnh uế lưỡng xứ bất sanh tâm
    Ủng quyết hà tằng hữu nhị ý
    Xúc cảnh đản tợ thủy vô tâm
    Tại thế tung hoành hữu hà sự.
    Dịch:
    Bốn đại không chủ cũng như nước
    Dù gặp cong ngay chẳng kia đây
    Hai nơi nhơ sạch tâm không sanh
    Thông bít chưa từng có hai ý
    Xúc cảnh chỉ như nước không tâm
    Ở thế tung hoành nào có việc?
    Một đại như thế, bốn đại cũng vậy. Nếu rõ bốn đại không chủ tức ngộ không tâm. Nếu rõ không tâm tự nhiên hợp đạo.
  4. cuonphong

    cuonphong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2006
    Bài viết:
    571
    Đã được thích:
    0
    Trước khi dưỡng bệnh phải đục cái này một phát.
    những câu tại sao thì nên hỏi chính mình, vi` đem ra hỏi người khác thì sẽ thấy sao đó.
    trong những khoản khắc đang sống này, mọi cái đều có quyền tồn tại và bình đẳng, cho dù sát sinh đi nữa vẫn hiện diện trong thời điểm này.
    chân lý đã có mà chúng ta không đi theo, vì con đường chúng ta đang đi củng là chân lý, chân lý của bản ngã và trên trái đất này củng như thượng đế củng phải đi trên con đường chân lý bản ngã này.
    Một điều tưởng là đơn giản ai củng biết , nhưng chính vì vậy chúng ta hay lơ là, đó là tình yêu thương của Mẹ, đó là người Mẹ sinh ra ta, đó là Đức Quán Thế Âm, đó là Đức Mẹ Maria, đó là Mẹ đất này, cho chúng ta tình yêu, cho chúng ta sự cảm thông, cho chúng ta sự sống.
    Cho dù bạn bước đến đỉnh cao của danh vọng , của bản ngã, thì bạn vẫn là con của Mẹ.
  5. tinhnguyen00

    tinhnguyen00 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/03/2006
    Bài viết:
    141
    Đã được thích:
    0
    Ðời Ðường niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai (713 T.L.), Sư (Nam Nhạc Hoài Nhượng) đến Hoành Nhạc (dãy núi liên tục) ở chùa Bát-nhã.
    Có vị Sa-môn ở viện Truyền Pháp hiệu Ðạo Nhất hằng ngày ngồi thiền. Sư biết đó là pháp khí (người hữu ích trong Phật pháp) bèn đi đến hỏi:
    - Ðại đức ngồi thiền để làm gì?
    Ðạo Nhất thưa:- Ðể giác ngộ.
    Sau đó, Sư lấy một cục gạch để trên hòn đá ở trước am Ðạo Nhất ngồi mài. Ðạo Nhất thấy lạ hỏi:
    - Thầy mài gạch để làm gì?
    Sư đáp:
    - Mài để làm gương.
    - Mài gạch đâu có thể thành gương được?
    - Vậy ngồi suông cũng đâu có thể giác ngộ được?
    - Vậy làm thế nào mới phải?
    - Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, ngài đánh cái xe hay đánh con trâu ?
    Ðạo Nhất lặng thinh, Sư nói tiếp:
    - Ngài đã thực sự thiền như Phật dạy hay mới chỉ bắt chước Phật ngồi?
  6. arow

    arow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2006
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    ĐỐI THOẠI THIỀN
    Các thiền sư huấn luyện cho các môn sinh trẻ tuổi của họ tự mình phát biểu ý tưởng. Hai thiền viện mỗi nơi có một chú bé được bảo trợ. Một chú, đi lấy rau mỗi sáng, thường gặp chú nọ trên đường.
    "Anh đi đâu đấy?" chú nọ hỏi.
    "Tôi đi đến bất cứ nơi nào mà bàn chân tôi đi tới," chú kia trả lời.
    Câu trả lời này làm chú thứ nhất lúng túng, chú bèn đến thầy mình nhờ giúp đỡ. "Sáng mai," ông thầy bảo chú, "khi con gặp anh bạn nhỏ đó, hãy hỏi anh ta câu tương tự. Anh ta sẽ trả lời cho con theo cách như cũ, và rồi con hỏi anh ta: "Giả dụ như anh không có chân, vậy thì anh sẽ đi tới đâu? Như thế sẽ làm anh ta kẹt ngay."
    Hai chú nhỏ lại gặp nhau vào buổi sáng hôm sau.
    "Anh đi đâu đấy?" chú thứ nhất hỏi.
    "Tôi đi đến bất cứ nơi nào mà gió thổi," chú kia trả lời.
    Câu trả lời này lại làm cho chú trước bối rối, chú ôm mối thất bại về tìm gặp thầy chú.
    "Hãy hỏi anh ta rằng anh sẽ đi tới đâu nếu không có gió," ông thầy gợi ý.
    Ngày hôm sau hai chú nhỏ gặp gỡ nhau một lần thứ ba.
    "Anh đi đâu đấy?" chú thứ nhất hỏi.
    Tôi đi ra chợ mua rau
  7. arow

    arow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2006
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    Có hai vị Tăng thấy cây phướn bay trước gió liền tranh luận.
    Một kẻ nói: - Phướn động.
    Kẻ kia nói: - Gió động.
    Huệ Năng nghe thấy nói:
    - Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà là tâm các ông động.
    Được arow sửa chữa / chuyển vào 23:26 ngày 30/11/2006
  8. arow

    arow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2006
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    PHÉP LẠ THỰC SỰ
    Khi Bankei đang thuyết pháp ở chùa Ryumon, một tu sĩ Shinshu, vốn tin vào sự cứu độ qua việc chú niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà, ganh tị với đám thính giả đông đảo của ông và muốn tranh luận với ông.
    Bankei đang nói chuyện nửa chừng thì tu sĩ kia xuất hiện, nhưng ông ấy gây náo động đến nỗi Bankei phải ngưng bài thuyết pháp để hỏi về chuyện ồn ào.
    "Tổ sáng lập của phái chúng tôi," tu sĩ khoe khoang, "có những năng lực kỳ diệu như là ngài cầm một cây bút lông trong tay ngài ở một bên bờ sông, người hầu cận của ngài giơ lên một tấm giấy ở phía bờ sông bên kia, và ông thầy đã viết thánh danh A Di Đà qua không khí. Ông có thể làm được một việc thần diệu như thế không?"
    Bankei trả lời nhẹ nhàng: "Có lẽ con cáo của ông có thể biểu diễn được cái trò tiểu xảo đó, nhưng đấy không phải là cung cách của Thiền. Phép lạ của ta là khi nào ta cảm thấy đói thì ta ăn, và khi nào ta cảm thấy khát ta uống."
  9. arow

    arow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2006
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    Nghiệp cũ
    Ngày xưa tại Kashmir có một tu sỹ Phật giáo tên Mirathi. Nhờ tu tập thiền định lâu ngày, Mirathi có một số năng lực đặc biệt. Học trò của Mirathi kể là ông có thể đứng trên không và xuất hiện một lúc ở nhiều nơi khác nhau. Ông có tài đọc ý nghĩ của người khác, kể tiền kiếp của người ta ra hoặc đoán biết những gì sắp xảy ra.
    Mirathi kiên trì giữ qui định của tu sỹ Phật giáo là bất bạo động, ăn chay trường. Sau buổi trưa Mirathi không ăn bất cứ thứ gì nữa cho đến sang ngày hôm sau.
    Một ngày nọ Mirathi nhóm bếp trong túp lều của mình và đổ vào đó các loại đất đỏ, đất vàng để làm màu nhuộm áo. Vị tu sỹ già đang ngồi khuấy nồi nước thì có một đám nông dân đi qua, tìm hỏi một con bò chạy lạc.
    Một nông dân nhìn nồi nước và la lên: "bây có thấy mấy miếng thịt đỏ, thịt vàng này không. Tên già này đã bắt con bò làm thịt và đang nấu nồi xúp?.Các nông dân khác không cần hỏi dài dòng, chụp đầu Mirathi đang im lặng không nói lời nào và lôi cổ ông về làng.
    Vị liên trưởng trong làng kết tội Mirathi ngay đêm hôm đó, không cần biết đầu đuôi. Người tu sỹ bị xiềng hai chân, nhốt trong căn hầm tối tăm. Mặc dù học trò của Mirathi kêu oan nhưng người ta vẫn xem là có tội, vì ông không nói lời gì minh oan, rõ là một sự thú nhận.
    Vài ngày sau, một kẻ chăn trừu tìm được con bò bị thất lạc. Một đám đông ồn ào lập tức tới nhà niên trưởng đòi thả ngay Mirathi. Vị niên trưởng né tránh trách nhiệm, giao cho cấp dưới thi hành và cấp dưới cho rằng không phải trách nhiệm của mình rồi lại giao cho người thứ ba, thứ tư. Cứ thế mà không ai giải quyết cả.
    Mirathi cứ chịu cảnh tù ngục như thế, các đệ tử nộp đơn kiện đến nhà vua. Sáu tháng sau, một học trò mới gặp được nhà vua và trình bày sự tình, một người vô tội bị giam giữ vì không người nào thấy có trách nhiệm thả ra.
    Nhà vua hoảng sợ khi nghe câu chuyện, vì ông là người tin nơi luật Nhân-Quả mà người Ấn Độ gọi là ?oKarma?. Ông tưởng tượng một vị tu sỹ ngồi tù oan ức, thậm chí chết oan và các người có liên quan phải nhận lãnh hậu quả trăm lần. Vương quốc của ông chắc là phải chịu thiên tai bệnh tật. Ngay tức khắc vua ra lệnh thả vị tu sỹ và đưa về kinh đô.
    Mirathi gầy mòn chỉ còn bộ xương, được hai người học trò dìu tới trước mặt vua. Vua đã cho để sẵn ghế ngồi để tu sĩ không quì trước mặt mình. Vua hỏi: "Làm sao chúng ta có thể chuộc lại nỗi lầm này? Làm sao ta có thể xin Ngài tha thứ cho? Hay ta cho tất cả những người liên quan đều chịu lại hình phạt này?
    ?oKhông?, Mirathi đáp bằng giọng nói chắc chắn, ?oXin Ngài đừng trừng phạt ai cả. Tôi phải chịu trách nhiệm về cái Khổ của tôi và tôi vui lòng chịu đựng. Không ai trốn khỏi Nghiệp đuợc cả. Và như Ngài biết, Khổ chính là kết quả tất nhiên của những hành động sai trái?.
    Nhà vua ngạc nhiên hỏi:?Tại sao một tu sỹ cao thượng như Ngài mà còn chịu khổ??.
    Mirathi giải thích với quần thần rằng, trong một kiếp xa xưa, ông là một tên gây nhiều tội nghiệt. Đặc biệt có một lần ông ăn trộm một con bò. Bị dân làng đuổi theo, ông chạy vào sân của một ông già, để bò lại đó và trốn thoát. Ông già bị lên án và bị giam đói sáu ngày liền.
    ?oVô số đời sống đã trôi qua từ đó?, Mirathi nói, ?ovô số lần tái sinh đã để ta trả món nợ này. Nhưng chỉ đến đời này, ta mới lấy được vị trí của ông già nọ và để tự mình sống được cái cảm giác vô tội mà bị kết án thì như thế nào. Ác nghiệp của ta như thế đã xong và ta không có gì hơn là lòng biết ơn sâu xa đối với các người liên quan và không bao giờ có cảm giác hận thù ai?.
    Nói xong, Mirathi cúi đầu chào và trở lại khu rừng mà cách đó sáu tháng người ta đã bắt ông. Sau đó ông trở thành A-la-hán, là người đã vượt qua tác động của nghiệp và là người không phải thực hiện điều gì trên cõi đời này nữa.
  10. arow

    arow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/07/2006
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    LÀM SAO VIẾT MỘT BÀI THƠ CHỮ HÁN
    Người ta hỏi một thi sĩ Nhật Bản nổi danh là làm thế nào để sáng tác ra một bài thơ chữ Hán.
    "Một bài thơ chữ Hán thông thường có bốn câu," ông ta giảng giải. "Câu đầu tiên bao hàm phần khởi nhập; câu thứ nhì là sự chuyển tiếp của phần đó, câu thứ ba chuyển từ đề mục này và bắt đầu một ý mới và câu thứ tư kết hợp ba câu đầu lại với nhau. Một bài ca dân gian Nhật Bản đã minh họa điều này:
    Hai cô con gái của một thương gia bán lụa sống ở Kyoto.
    Cô chị hai mươi tuổi, Cô em, mười tám.
    Một chàng lính có thể giết người bằng lưỡi kiếm của chàng ta,
    Nhưng các cô gái này giết đàn ông bằng đôi mắt các nàng."

Chia sẻ trang này