1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

140 vấn đề liên quan đến kinh nguyệt phụ nữ

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi binhnguyengiatrang, 07/02/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    52. Vô kinh tuyến yên vùng dưới đồi được phân loại như thế nào?
    Những người bệnh nêu thử nghiệm progestagen có kết quả dương tính thì được coi là "vô kinh độ một", thử nghiệm progestagen có kết quả âm tính và thử nghiệm oestrogen có kết quả dương tính thì được coi là "vô kinh độ hai". Mức độ oestrogen trong cơ thể của người bị vô kinh độ một không thấp, tức là noãn bào có một mức độ phát triển nhất định, nội mạc tử cung đã chịu ảnh hưởng của oestrogen một cách đầy đủ. Ở người bị vô kinh độ hai, mức độ phát dục của noãn bào kém, hàm lượng oestrogen thấp, nội mạc tử cung thiếu sự tác động của oestrogen.
    Nguyên nhân gây vô kinh ở các trường hợp trên đều có thể do tuyến yên vùng dưới đồi (tức là LH, FSH do tuyến yên tiết ra và GnRH vùng dưới đồi tiết ra) có sự bất bình thường. Những trường hợp này còn được phân thành hai loại, gồm những người có mức độ PRL (Prolactin) quá cao và người có mức độ PRL bình thường. Thông thường, đối tượng bị vô kinh tuyến yên vùng dưới đồi là những người ở trường hợp thứ hai.
  2. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    53. Vô kinh tuyến yên vùng dưới đồi được phân loại như thế nào?
    PRL là một loại hoóc môn do tuyến yên tiết ra, chức năng chủ yếu là tham gia vào quá trình phát dục của bầu vú và sự tạo thành sữa. Trong điều kiện bình thường, vùng dưới đồi sẽ sinh ra một loại vật chất có thể ức chế được sự tiết ra của PRL, làm cho nồng độ PRL trong máu không lên cao quá. Khi có một nguyên nhân nào đó khiến cho ảnh hưởng của loại vật chất này đối với PRL bị giảm sút (ví dụ như u tuyến yên) thì tuyến yên sẽ tiết ra quá nhiều PRL, có thể dẫn đến chứng bệnh PRL trong máu quá cao. Khi PRL trong máu quá cao thì sự phát dục của noãn bào sẽ bị ức chế dẫn đến vô kinh và cũng có lúc biểu hiện thành rối loạn kinh nguyệt.
    Ngoài những biểu hiện trên, người bệnh có khi còn tiết ra sữa ở đầu vú. Có những phụ nữ cho con bú, sau khi cai sữa cho con được nửa năm mà vẫn có sữa. Nếu hiện tượng này là do u tuyến yên gây ra và thể tích khối u lại tương đối lớn thì ở bệnh nhân còn có thể xuất hiện các hiện tượng thị lực giảm, đau đầu.
    Nghe nói đến u, ta lập tức có cảm giác sợ hãi, nhưng thực ra u tuyến yên là một loại u lành tính, đa số các khối u đều nhỏ, tốc độ phát triển của nó rất chậm hoặc không hề phát triển. Vào những năm 70, các bác sĩ đều mổ qua hốc mũi để cắt bỏ khối u; sau khi phẫu thuật có thể xạ trị để trị tận gốc. Nhưng sau này, người ta mới phát hiện ra rằng đa số các bệnh nhân sau khi được phẫu thuật vẫn mắc chứng PRL trong máu cao và bế kinh, tiết sữa. Không chỉ như vậy, phẫu thuật và chiếu xạ còn có thể làm tổn thương đến các tổ chức tuyến yên bình thường, dẫn đến những triệu chứng khác. Xu hướng điều trị hiện nay là dùng thuốc Bromocriptin (Parlodel) không phẫu thuật.
  3. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    54. Bromocriptin có tác dụng điều trị như thế nào? Hiệu quả và tác dụng phụ của nó ra sao?
    Bromocriptin có thể ức chế việc tiết ra PRL của tuyến yên và ức chế sự phát triển của các tế bào u PRL tuyến yên, làm cho nó thoái hóa. Sau khi dùng thuốc, nồng độ PRL có thể giảm xuống đến mức bình thường; bằng kiểm tra đo cộng hưởng từ hoặc chụp cắt lớp, có thể thấy thể tích khối u đã thu nhỏ. Người bệnh cảm thấy huyết trắng tăng nhiều, có kinh, cần đo thân nhiệt cơ sở biểu thị hai pha. Những biểu hiện hiệu quả trên có thể sẽ xuất hiện sau khi dùng thuốc một tháng và cũng có thể chậm hơn.
    Cho tới nay, Bromocriptin vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài, giá thành tương đối đắt nhưng do có hiệu quả đặc biệt đối với chứng bệnh này nên nó vẫn được dùng. Liều dùng thông thường là ngày 2-3 lần, mỗi lần một viên. Thuốc này có thể kích thích dạ dày và đường ruột khiến một số ít người có cảm giác buồn nôn, chóng mặt, táo bón, tim đập loạn nhịp và huyết áp giảm trong thời kỳ đầu uống thuốc, nhưng sau đó bệnh nhân sẽ thích ứng dần. Thông thường chỉ có khoảng 3% số người bệnh là không chịu được các phản ứng phụ này và phải ngưng dùng thuốc. Đây là thuốc có hiệu quả cao nhất trong số các loại thuốc điều trị chứng vô sinh do vô kinh không rụng trứng. Một khi đã khẳng định là có thai thì phải ngừng dùng thuốc ngay và kiểm tra định kỳ theo yêu cầu của bác sĩ.
    Sau khi dùng Bromocriptin mà có thai thì thai nhi có bị ảnh hưởng không? Câu trả lời là không. Không những tỷ lệ sẩy thaisẩy thai thai nhi dị dạng không hề cao hơn so với bình thường mà sau khi đứa trẻ ra đời thì trí tuệ và thể lực của chúng cũng không có gì là khác thường.
  4. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    55. Người bị vô kinh do chứng PRL cao trong máu sau khi mang thai và sinh đẻ có uống thuốc Bromocriptin được không? Nếu có thì uống đến lúc nào?
    Những người mắc chứng vô kinh do chứng PRL cao trong máu sau khi đẻ, trong vòng nửa năm sau khi đứa trẻ cai sữa thì phải đến bệnh viện để khám và kiểm tra. Nếu PRL trong máu vẫn cao và vẫn vô kinh thì lại phải tiếp tục dùng thuốc Bromocriptin để thấy kinh trở lại. Lúc này, bệnh nhân cần phải áp dụng các biện pháp tránh thai (nên tránh thai bằng công cụ vì thuốc tránh thai cũng làm tăng mức PRL trong máu, không nên dùng) để tránh tiếp tục mang thai.
    Các bác sĩ đã tiến hành theo dõi trên những người mắc bệnh này trong thời gian 5-6 năm và thấy rằng: Trong những người có u PRL thì 7%-11% là tự khỏi, 4%-11% có thể tích khối u tăng lên. Do vậy, cứ nửa năm hoặc một năm, bệnh nhân phải đi khám một lần, nếu thể tích khối u tăng lên thì phải kịp thời dùng thuốc điều trị. Nếu để vô kinh lâu ngày thì lượng xương trong cơ thể người phụ nữ sẽ bị mất đi một cách nhanh chóng và gây nên chứng loãng xương. Việc uống thuốc vẫn phải tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ, phải kiểm tra mức PRL trong máu thường xuyên; nếu nó trở lại bình thường và bệnh nhân đã có kinh trở lại thì có thể giảm bớt lượng thuốc Bromocriptin và duy trì ở mức thấp, thậm chí có thể tạm ngừng thuốc để theo dõi. Điều này giúp thu được hiệu quả điều trị và tiết kiệm được nhiều trong việc dùng thuốc. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, có một số người bệnh mỗi ngày chỉ dùng nửa viên thuốc là đủ để duy trì kinh nguyệt bình thường.
    Thực ra thì cần phải dùng thuốc trong bao lâu? Điều này được quyết định bởi tình trạng phát triển của bệnh tật ở mỗi người. Bromocriptin làm cho u PRL thoái hóa, nếu sau một thời gian khá dài mà không tái phát thì có thể ngừng sử dụng thuốc. Nhưng đa số người bệnh sau khi ngừng dùng thuốc lại bị vô kinh và chỉ có thể duy trì kinh nguyệt bình thường bằng một lượng nhỏ Bromocriptin.
  5. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    56. Vô kinh tuyến yên còn do những nguyên nhân nào khác gây nên?
    Trong chứng vô kinh do tuyến yên còn có một loại mà mức độ PRL thực ra không cao. Nguyên nhân gây ra bệnh này thường là tuyến yên bị phóng xạ, phẫu thuật, ung thư, thiếu máu dẫn đến các tổ chức tuyến yên bị phá hoại và cơ năng của nó bị giảm; hoặc những khiếm khuyết di truyền dẫn đến thiếu LH, FSH ở tuyến yên.
    Một số phụ nữ khi sinh con bị mất nhiều máu và sau đó không có sữa và bị vô kinh. Nếu tuyến yên vẫn điều tiết được cơ năng của các tuyến khác như tuyến giáp trạng, màng tuyến thượng thận thì những người bệnh này vẫn còn các triệu chứng khác như phù, sợ lạnh, rụng lông tóc, mệt mỏi, huyết áp thấp, bí đại tiện, thèm ngủ. Triệu chứng này nặng hay nhẹ được quyết định bởi độ rộng thể tích vùng tổ chức tuyến yên bị phá hoại. Từ đó có thể thấy việc phòng chứng rong huyết ở phụ nữ khi sinh đẻ là một việc làm rất cần thiết.
    Ngoài khối u PRL ra, u tuyến yên còn gồm nhiều loại u khác nhau như u tế bào vô cơ năng, u hoóc môn sinh trưởng, u hoóc môn tuyến thượng thận. Những khối u này cũng có thể chèn lên và phá hoại tổ chức tuyến yên. Việc hoóc môn tiết ra quá nhiều cũng ảnh hưởng đến LH và FSH, từ đó gây vô kinh.
  6. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    57. Điều trị vô kinh tuyến yên như thế nào?
    Trong những năm 60, các nhà nghiên cứu đã chiết xuất được một loại thuốc tiêm có chứa LH và FSH từ nước tiểu của các phụ nữ đã mãn kinh và đang có mang. Đây chính là loại thuốc tiêm nhằm kích thích hoóc môn tuyến sinh dục (gọi tắt là hMG) và hoóc môn kích thích màng nhung mao (gọi tắt là hCG) cho những phụ nữ đã mãn kinh. Sau khi được tiêm vào bắp thịt cho người bệnh, hMG có tác dụng thay thế cho tuyến yên trong cơ thể, kích thích sự phát dục của noãn bào trong buồng trứng. Sau khi noãn bào phát dục chín, nó kích thích rụng trứng và hỗ trợ cho cơ năng của hoàng thể. Khoảng 24 giờ sau khi tiêm hCG, bạn nên tranh thủ sinh hoạt ******** 2-3 lần. Như vậy, hMG và hCG có thể giúp người bị vô kinh tuyến yên sinh con. Đây chính là phương pháp điều trị thay thế hoóc môn.
    Việc sử dụng hMG và hCG để điều trị kích thích sinh sản chỉ có hiệu quả đối với chính liệu trình đó. Khả năng có thai của mỗi một liệu trình chỉ khoảng 20%. Vì sao lại thấp như vậy? Đó là vì hiệu suất sinh sản của con người chỉ là 20%; nói một cách khác, đối với những cặp vợ chồng bình thường có sinh hoạt ******** bình thường, trong mỗi một chu kỳ kinh nguyệt, khả năng có thai chỉ là 20%. Do vậy, hiệu suất mang thai của phương pháp điều trị này không thể vượt qua được hiệu suất bình thường.
    Mặc dù như vậy, nếu điều trị nhiều liệu trình, tỷ lệ có thai tích lũy lại có thể đạt tới 50%. Thuốc này không có hại đối với thai nhi, tỷ lệ thai khuyết hình rất thấp nhưng tỷ lệ sẩy thai và đa thai thì lại vào khoảng 20%, hơi cao so với mức bình thường.
  7. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    58. Vô kinh vùng dưới đồi do những nguyên nhân nào gây nên? Điều trị như thế nào?
    Việc thiếu GnRH hoặc nội tiết bất thường có thể gây nên vô kinh vùng dưới đồi. Phàm tất cả các chứng vô kinh do các bệnh tật ở trong não trên tuyến yên gây ra đều thuộc loại này. Nguyên nhân gây bệnh của chúng có thể được chia thành hai loại:
    1. Bệnh do khí chất của vùng dưới đồi: Ví dụ như vô kinh sau khi bị khối u, viêm não, kết hạch hoặc não bị ngoại thương, thiếu GnRH bẩm sinh. Chúng tương tự như các chứng bệnh do vô kinh nguyên phát gây ra.
    2. Mất thăng bằng cơ năng vùng dưới đồi: Thường gặp ở các trường hợp tinh thần không ổn định, chế độ dinh dưỡng không tốt khiến thể trọng quá thấp, vận động quá sức, chán ăn do thần kinh và các chứng bệnh nặng khác trên cơ thể. Vô kinh vùng dưới đồi do mất thăng bằng cơ năng là hiện tượng thường gặp nhất.
    Năm 1994, qua phân tích mẫu máu ở 169 người bị vô kinh do mức độ LH và FSH trong máu thấp hơn bình thường, Hiệp hội Y học Bắc Kinh nhận thấy, các trường hợp mắc bệnh do cơ năng chiếm 87%. Ví dụ: Một số phụ nữ sau khi có sự thay đổi về môi trường sống hoặc bị kích thích thần kinh (như thất tình, trượt thi, cha mẹ qua đời, công việc không thuận lợi), hoặc bị những kích thích thể chất (như mắc bệnh nặng, phẫu thuật, ngoại thương) đã bị mất kinh. Người bị nhẹ sẽ tự hồi phục được kinh nguyệt sau một thời gian, nếu nặng thì bệnh trình sẽ kéo dài.
    Những người mắc bệnh này khi đến bệnh viện khám cần phải nhớ rõ xem trước khi vô kinh, những yếu tố có khả năng dẫn đến bệnh tật có tồn tại hay không; hoặc thể trọng và mức ăn uống có gì thay đổi không. Bác sĩ cũng cần kiểm tra, xét nghiệm máu để xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh.
    Việc điều trị vô kinh vùng dưới đồi phải căn cứ vào nguyên nhân để có các phương pháp khác nhau. Nếu bệnh trình tương đối dài, không thể tự khôi phục được thì cần dùng progestage và oestrogen để kinh nguyệt trở lại bình thường. Nếu muốn sinh con thì người bệnh nặng có thể dùng hMG + hCG để kích thích rụng trứng. Ngoài ra, còn có thể dùng phương pháp điều trị liệu mạch xung GnRH.
  8. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    59. Thế nào là trị liệu mạch xung GnRH?
    Ở những phụ nữ bình thường, việc tiết ra GnRH vùng dưới đồi có dạng mạch xung. Trong thời kỳ đầu của noãn bào, cứ 90-120 phút lại có một lần tiết ra kiểm mạch xung. Chỉ bằng cách kích thích gián đoạn như vậy, tuyến yên mới tiết ra một lượng vừa đủ LH và FSH để kích thích noãn bào trong buồng trứng phát dục. Nếu duy trì lâu dài việc tiết ra GnRH, việc tiết ra LH và FSH của tuyến yên sẽ bị ức chế, dẫn đến vô kinh. Để điều trị, phải khôi phục lại mạch xung GnRH như bình thường, tức là trị liệu mạch xung GnRH.
    GnRH là một hợp chất gồm 10 loại axit amin, đã được các nhà khoa học tổng hợp thành công dưới dạng thuốc tiêm. Việc dùng GnRH để thúc đẩy noãn bào phát triển và rụng trứng cần phải phỏng theo nhịp điệu và quy luật sinh lý. Cứ 90-120 phút lại tiêm một lần, liên tục trong 24 giờ và phải kéo dài trong hai tuần thì noãn bào mới phát triển đến giai đoạn chín. Sau khi dùng thuốc một tuần thì phải kiểm tra dịch dính ở cổ tử cung, siêu âm khoang chậu và mức độ hoóc môn trong máu để xác định tình trạng phát triển của nang noãn. Sau khi siêu âm, nếu thấy trứng đã rụng thì có thể ngừng điều trị mạch xung và chuyển sang tiêm hCG, mỗi tuần 2 lần, tổng cộng 3-4 lần để duy trì cơ năng hoàng thể. Nếu rụng trứng được 18-20 ngày mà nhiệt độ cơ sở vẫn chưa giảm thì phải kiểm tra hCG trong máu để xem có thai hay không.
    Tỷ lệ có thai sau mỗi một liệu trình điều trị mạch xung hCG là khoảng 20%, nhưng sau khi điều trị nhiều liệu trình thì tỷ lệ có thai có thể lên tới 50%. Ưu điểm của phương pháp điều trị này là an toàn, thường không có phản ứng gì. Nhược điểm của nó là tương đối phức tạp, gây bất tiện trong sinh hoạt. Ngoài ra, đối với những người bệnh bị bế kinh vùng dưới đồi thì liệu trình có thể là rất dài, do vậy giá thành tương đối cao.
  9. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    60. Thế nào là thử nghiệm hưng phấn GnRH?
    Trước khi trị liệu mạch xung GnRH, để dự tính độ mẫn cảm của tuyến yên đối với GnRH ở người bệnh, bác sĩ thường phải tiến hành thử nghiệm hưng phấn GnRH. Cách làm cụ thể là: Buổi sáng ngày hẹn đến thử thuốc, bệnh nhân không ăn gì. Bác sĩ sẽ lấy máu ở tĩnh mạch cánh tay, rồi tiêm 100mg GnRH. Sau khi tiêm thuốc 15, 30, 45, 60, 120 phút, bác sĩ lại lấy máu một lần để xét nghiệm nồng độ LH và FSH.
    Sau khi tiêm GnRH, nếu nồng độ LH sẽ tăng gấp đôi, nồng độ FSH tăng gấp 1,5 lần so với trước khi tiêm thì đó là phản ứng bình thường. Nếu nồng độ LH và FSH không tăng, tức không có phản ứng, là bệnh tình đã tương đối nặng, nếu trị liệu bằng mạch xung GnRH thì liệu trình sẽ rất dài.
    140 vấn đề liên quan đến kinh nguyệt phụ nữ
    Được binhnguyengiatrang sửa chữa / chuyển vào 15:55 ngày 07/02/2007
  10. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0

    61.Phụ nữ sau khi uống thuốc tránh thai hay làm phẫu thuật triệt sản có bị vô kinh không?
    Câu trả lời là có thể, nhưng không phải là thường gặp. Người ta đã thống kê được rằng trong hai vạn phụ nữ uống thuốc tránh thai thì có khoảng 0,22% bị vô kinh hoặc kinh nguyệt không đều trước khi uống thuốc tránh thai. Ở những người này, khả năng bị vô kinh sau khi ngừng dùng thuốc tránh thai sẽ cao. Do vậy, vô kinh có thể có là hậu quả của một bất thường nào đó tiềm ẩn trước khi dùng thuốc tránh thai; cũng có thể những bất thường đó do bản thân thuốc tránh thai gây nên. Vô kinh dạng này cũng thuộc loại vô kinh do vùng dưới đồi. Đa số các trường hợp sẽ tự hồi phục.
    Một số ít phụ nữ sau khi ngừng dùng thuốc tránh thai không chỉ bị vô kinh ra mà còn xuất hiện hiện tượng tiết sữa. Hóa nghiệm thấy rõ mức độ PRL trong máu tăng nhẹ. Tình trạng này cũng tương tự như vô kinh đơn thuần, có thể liên quan đến những bất thường tiềm ẩn từ trước khi uống thuốc tránh thai, cũng có thể là những bất thường do bản thân thuốc tránh thai gây ra, Thông thường, bệnh nhân có thể tự hồi phục, nhưng cũng cần kiểm tra cẩn thận để loại trừ khả năng có u PRL trong tuyến yên.
    Sau phẫu thuật triệt sản thông thường, bệnh nhân không bị vô kinh bởi vì loại phẫu thuật này chỉ là thắt ống dẫn trứng, không ảnh hưởng gì đến việc cung cấp máu cho buồng trứng. Thỉnh thoảng cũng có phụ nữ bị vô kinh sau khi phẫu thuật triệt sản. Muốn biết việc này có liên quan gì đến phẫu thuật không thì phải kiểm tra nồng độ hoóc môn trong máu, xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh.

Chia sẻ trang này