1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

27 bức thư của Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TulipMan, 24/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    27 bức thư của Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu

    Tình cờ lang thang trên mạng tìm thấy 1 bài phóng sự về những bức thư mà Tổng thống Mỹ Nixon đã gửi cho TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Ko rõ Box LS-VH đã có bài phóng sự này chưa (nếu có rồi mong các cao thủ LS gần xa lượng thứ), phần lớn thời gian vào LS-VH tôi chỉ đọc bài và thu thập kiến thức, chưa đóng góp gì nhiều cho box, nay TLM thiết nghĩ đây cũng là 1 tài liệu LS bổ ích và quý báu nên post lên để chia sẻ cho chư vị gần xa.

    27 bức thư của Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu (Kỳ I)
    [​IMG]
    Ngày 30/4/1975, khi chiếm dinh Độc Lập, ta đã thu được toàn bộ hồ sơ mật của Nguyễn Văn Thiệu, trong đó có 27 bức thư của Tổng thống Nixon gửi cho Nguyễn Văn Thiệu. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam, chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt 27 bức thư đó để làm sáng tỏ sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam, đồng thời cho thấy sự ngoan cố của Nguyễn Văn Thiệu.


    Qua 27 bức thư này, người ta thấy quan hệ của Nguyễn Văn Thiệu với Tổng thống Nixon khăng khít, sâu sắc hơn quan hệ của bất kỳ tổng thống nào của miền Nam với các tổng thống Mỹ. Đương nhiên, quan hệ giữa Mỹ, người đã dựng lên, nuôi dưỡng và bảo vệ Việt Nam Cộng hòa bằng tiền của và xương máu người Mỹ, với các thủ lĩnh của Việt Nam Cộng hòa về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao là chặt chẽ và thường xuyên. Dùng một danh từ của nhà sử học Pháp, Philippe Devillers, đó là quan hệ của một "vệ tinh" với chính quốc trong thời đại thực dân mới. Nhưng cần phải nói Nguyễn Văn Thiệu đã biết dọn đường để đi tới sự khăng khít đó.

    Nguyễn Văn Thiệu lên làm "Quốc trưởng" miền Nam từ ngày 24/6/1965, trước khi Nixon vào Nhà Trắng. Khi đó Thiệu đang phục vụ Tổng thống Johnson. Sau khi bị cú Tết Mậu Thân năm 1968, Johnson phải từ bỏ mộng làm tổng thống thêm một nhiệm kỳ và Phó Tổng thống Humphrey ra tranh cử Tổng thống với Nixon nhiệm kỳ 1968 - 1972.

    Năm 1968 là năm có nhiều biến cố liên quan đến Johnson. Tết Mậu Thân đã giáng một đòn chí tử vào sự nghiệp của Johnson: Kế hoạch ra ứng cử một nhiệm kỳ nữa với danh nghĩa "ứng cử viên hòa bình" bị phá sản hoàn toàn, khiến ông phải tuyên bố không ra ứng cử nữa. Kế hoạch tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam, cuộc chiến tranh bằng không quân nhằm tàn phá miền Bắc Việt Nam cũng thất bại, buộc ông phải chấm dứt ném bom miền Bắc, chấp nhận ngồi đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

    Trong tình hình đó, thế ứng cử của Humphrey là mạnh do việc chấm dứt ném bom miền Bắc. Johnson muốn cùng Nguyễn Văn Thiệu ra một tuyên bố chung về chấm dứt ném bom miền Bắc để tỏ sự nhất trí giữa Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Thông qua bà Anna Chennault, người Mỹ gốc Hoa, vợ của Tướng Chennault, nguyên Tư lệnh Không quân Mỹ ở Trung Quốc trong thời gian Nhật Bản đánh Trung Quốc, Nixon bí mật lôi kéo Nguyễn Văn Thiệu làm chậm việc tuyên bố chấm dứt ném bom, nếu được, nhất định sẽ gạt được Humphrey.

    Chấp nhận đề nghị của Nixon, Nguyễn Văn Thiệu nêu hết lý do này đến lý do khác, trì hoãn việc tiếp Đại sứ Bunker, Johnson biết có sự liên lạc giữa Nixon và Thiệu như sau này ông viết trong hồi ký, nhưng còn hy vọng thuyết phục được Thiệu. Cuối cùng ông quyết định "đi một mình" và ngày 31/10 ông tuyên bố sẽ chấm dứt ném bom miền Bắc ngày 1/11/1968. Đến 19h ngày hôm đó, Thiệu còn đề nghị "xem lại" bản dự thảo tuyên bố chung.

    Ông Xuân Thủy và ông Harriman đã thỏa thuận Mỹ sẽ chấm dứt ném bom từ phiên họp ngày 26/10/1968, nhưng do sự phá bĩnh của Thiệu, mãi ngày 1/11/1968, Johnson mới chấm dứt ném bom. Còn quá ít ngày, Humphrey không lợi dụng được việc chấm dứt ném bom. Ngày 6/11, Nixon, ứng cử viên đảng Cộng hòa trúng cử Tổng thống với 43,3% số phiếu, còn Humphrey, ứng cử viên đảng Dân chủ, thua sát nút với 42,7% số phiếu. Johnson được một bài học về "đồng minh" của mình.

    Nixon được vào Nhà Trắng.

    Nguyễn Văn Thiệu đã dọn được con đường "hợp tác" với quan thầy mới. Quan hệ Nixon - Thiệu phải tính từ lúc này, không phải chỉ trong công việc mà còn trong thân tình. Trong thư có lần Nixon hỏi thăm "phu nhân Tổng thống", có lần mời "Tổng thống và phu nhân" đến thăm tư thất tại San Clemente (California).

    Bức thư trước khi Nixon thăm Bắc Kinh

    Bức thư thứ nhất đề ngày 31/12/1971, bức thư cuối cùng đề ngày 13/6/1973. Toàn bộ các thư đều nói tới chủ trương của Nixon về những vấn đề lớn liên quan tới quan hệ Mỹ - Việt, hoặc là trao đổi với Thiệu về các cuộc đàm phán ở Paris. Những thư đáng kể là những thư sau đây:

    Bức thư ngày 31/12/1971, thông báo cho Thiệu biết Mỹ cải thiện quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Nixon đang chuẩn bị đi thăm Trung Quốc. Đối với thế giới, bản thân nước Mỹ và cuộc chiến tranh Việt Nam và tất nhiên là đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, chuyến đi thăm lịch sử của Nixon có một ý nghĩa rất lớn, thậm chí có một tầm vóc hành tinh. Nguyễn Văn Thiệu tin rằng, Nixon sẽ bàn về vấn đề Việt Nam với Trung Quốc. Khả năng tốt nhất là Nixon tranh thủ được sự đồng tình của Trung Quốc chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngay trong trường hợp này cái giá Nixon phải trả là cái gì, là vấn đề Đài Loan hay là vấn đề miền Nam Việt Nam. Trường hợp xấu nhất là Nixon bỏ mặc Việt Nam Cộng hòa, chỉ biết vấn đề lợi ích của Mỹ.

    Nixon hiểu nỗi lòng của Thiệu. Sau khi khẳng định mục đích chuyến đi là "để làm sáng tỏ lập trường của Chính phủ chúng tôi và Chính phủ Trung Quốc về các vấn đề còn ngăn cách chúng tôi và đặt ra cách tiếp tục liên lạc với nhau và hy vọng "các cuộc nói chuyện ở Bắc Kinh sẽ là một bước tiến lớn đầu tiên đi tới làm dịu tình hình căng thẳng tồn tại từ lâu giữa hai nước", Nixon nhấn mạnh: "Ông có thể tin chắc rằng, ở Bắc Kinh tôi sẽ không đi đến một thỏa thuận nào có hại đến các nước khác, hoặc thỏa thuận nào về các vấn đề liên quan đến nước khác".

    Về vấn đề Việt Nam, Nixon "sẽ trình bày một cách rõ ràng và mạnh mẽ lập trường của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa là cuộc chiến tranh ở Việt Nam phải được chấm dứt bằng thương lượng trực tiếp với Hà Nội, hoặc nếu điều đó không thực hiện được thì bằng khả năng ngày càng tăng của Việt Nam Cộng hòa trong việc tự bảo vệ mình chống lại cuộc xâm lược của Hà Nội".

    Trên thực tế khi ở Bắc Kinh, Nixon có đề nghị Bắc Kinh giúp đỡ ông thương lượng với Hà Nội theo những điều kiện thuận lợi. Nixon nói Mỹ sẽ rút quân và căn cứ của Mỹ ở Đài Loan. Chu Ân Lai đồng ý với Nixon là Mỹ sẽ rút dần dần lực lượng và căn cứ của Mỹ ở Đài Loan theo nhịp giảm bớt căng thẳng trong khu vực này. Câu mập mờ này bao hàm ý nghĩa Trung Quốc càng đẩy nhanh việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, thì càng đẩy nhanh việc Mỹ rút lực lượng quân sự và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đài Loan. (xem tiếp kỳ sau)
    Lưu Văn Lợi

    http://www.cand.com.vn/vi-vn/thoisuxahoi/phongsughichep/2004/12/54506.cand
  2. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    27 bức thư của Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu (Kỳ II)
    [​IMG]
    Máy bay Mỹ rơi ở phố Lê Trực, ngay trong lòng thành phố Hà Nội (năm 1967)
    Những bức thư khi ta mở cuộc tiến công xuân 1972
    Các thư ngày 5/4, 9/4, 5/5 và 9/5/1972 là vào thời điểm ta mở cuộc tấn công chiến lược mùa xuân 1972, thời điểm mà Nixon coi là "giờ phút thử thách lớn lao" của miền Nam Việt Nam, Thiệu đã cấp báo tình hình cho Nixon, đặc biệt là trong thông điệp ngày 6/4/1972.
    Nixon vào Nhà Trắng năm 1969, bác bỏ kế hoạch hòa bình của Mặt trận giải phóng, quyết định thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", bắt đầu đơn phương rút quân Mỹ, đồng thời tiếp tục thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mặt khác, Nixon mở rộng chiến tranh sang Campuchia, đẩy mạnh can thiệp vào Lào, thậm chí bí mật ném bom Campuchia bằng B52. Ý đồ của Nixon là duy trì và giúp chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục chiến tranh khi Mỹ rút quân. Nhưng Nixon đã thất bại ở Campuchia, Lào, trong chiến dịch Lam Sơn 719 ở Đường 9 - Nam Lào.
    Dù Nixon bắt đầu đơn phương rút quân Mỹ, nhưng phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ vẫn phát triển mạnh, mà điển hình là cuộc tiến công Mùa thu 1969 tại 1.200 thành phố, thị xã, thị trấn trên khắp nước Mỹ khiến Nixon phải rút lui vào trại David, bỏ ra một tuần lễ tự tay viết đi viết lại 12 lần bài diễn văn nhằm tranh thủ "đa số thầm lặng" của người Mỹ. Ở miền Nam Việt Nam, quân Sài Gòn rút đi đánh Campuchia bỏ trống địa bàn, do đó quân giải phóng miền Nam lấy lại được nhiều vùng đã bị mất sau Tết Mậu Thân, kế hoạch dồn dân vào các ấp chiến lược bị phá sản.
    Trước tình hình trên, Nguyễn Văn Thiệu phải liên tiếp kêu gọi Nixon. Nixon tuyên bố đối sách tối 9/5/1972 và khẳng định với Thiệu: "Hai chính phủ của chúng ta đã quyết định phải chống Bắc Việt Nam bằng cách ngăn chặn mọi sự tiếp tế của Bắc Việt... Tôi đã chỉ thị đặt mìn tất cả các ngả vào hải cảng của Bắc Việt và tôi đã ra lệnh cho các lực lượng Hoa Kỳ ngăn chặn mọi sự tiếp tế cho Bắc Việt bằng đường thủy trong hải phận mà họ cho là của họ. Mọi sự tiếp tế bằng đường bộ và bằng cách khác cũng sẽ được ngăn chặn" (thư ngày 9/5/1972).
    Thực tế Nixon cho lệnh thả mìn cảng Hải Phòng và 6 cảng khác của miền Bắc, cho máy bay B52 ném bom vùng lân cận Hà Nội và Hải Phòng (thư ngày 9/5). Nhưng trên tất cả các chiến trường, quân Giải phóng vẫn đánh mạnh vào khu phi quân sự, giải phóng nhiều vùng trong đó có tỉnh Quảng Trị, chiếm thành cổ Quảng Trị. Tại Paris, các đoàn đại biểu của ta tuyên bố bỏ họp để phản đối Mỹ ném bom lại miền Bắc. Nixon tập trung cao độ hỏa lực của không quân và hải quân để Thiệu lấy lại thành cổ Quảng Trị. Cuộc tiến công chiến lược mùa xuân 1972 đã giải phóng nhiều vùng đất đai, mở con đường nối liền Trị Thiên với Tây Nguyên, Nam Bộ, giành lại nhiều vùng đã bị quân ngụy chiếm sau Tết Mậu Thân, làm thay đổi cục diện chiến tranh.
    Khi Nixon nhận bàn giải pháp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
    Các thư ngày 31/8/1972 đến hết tháng 11/1972 là cuộc trao đổi ý kiến với Thiệu về việc Mỹ chấp nhận thảo luận thực chất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Vào thời điểm này, trong điều kiện thắng lợi của cuộc tiến công mùa xuân 1972 và có cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ, Bộ Chính trị TW Đảng ta chủ trương chuyển từ chiến lược chiến tranh sang chiến lược hòa bình, buộc Mỹ rút hết quân Mỹ và quân đồng minh, chấm dứt dính líu vào Việt Nam để đấu tranh bằng phương thức khác.
    Để bảo đảm thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống 1972 với ứng cử viên Dân chủ Mac Govern và trong thế phải rút hết quân Mỹ về nước, trước đòi hỏi của nhân dân Mỹ và sự phản đối của Quốc hội Mỹ, Nixon chủ trương "chuyển cuộc xung đột hiện nay sang một hình thái khác, một hình thái đấu tranh chính trị ngược lại với sự đối kháng công khai về quân sự".
    Ông ta trấn an Thiệu: "Chính phủ ông, các lực lượng vũ trang và các thể chế chính trị của nó sẽ được duy trì nguyên vẹn sau khi chấm dứt chiến sự. Ông có thể hoàn toàn tin chắc rằng chúng tôi sẽ tiếp tục ủng hộ chính phủ ông một cách đầy đủ nhất, trong đó có việc tiếp tục viện trợ kinh tế và bất cứ sự giúp đỡ quân sự nào phù hợp với các điều khoản ngừng bắn" (thư ngày 10/10/1972).
    Ngày 20/10/1972, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ đã hoàn chỉnh bản Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam và hai bên sẽ ký Hiệp định ngày 31/10/1972 tại Paris. Nhưng sau đó Nixon đề nghị xem lại một số điểm, đề nghị có thêm cuộc gặp riêng nữa. Kissinger tuyên bố "hòa bình trong tầm tay".
    Trong khi đó, báo chí Mỹ đưa tin Hiệp định sắp được ký. Xu thế ủng hộ Nixon tăng nhanh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấy rõ ý đồ của Nixon không muốn ký bản Hiệp định 20/10/1972 nhưng lại tung tin rầm rộ để tranh thủ thêm phiếu trong cuộc bầu cử ngày 7/11/1972. Nixon tái trúng cử Tổng thống với tỷ lệ phiếu 60,7% so với 37,3% cho Mac Govern.
    Ngày 26/10/1972, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố vạch trần âm mưu của Nixon và công bố toàn văn kiện về đợt thương lượng vừa qua, trong đó có bản hiệp định đã thỏa thuận ngày 20/10/1972 và thư chấp nhận của Nixon gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đây là chiến dịch tấn công ngoại giao lớn nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm cô lập chính quyền Mỹ.
    Nixon cố thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu, nhưng Nguyễn Văn Thiệu vẫn nêu hàng loạt vấn đề về nội dung, về câu chữ, về thủ tục.
    http://www.cand.com.vn/vi-vn/thoisuxahoi/phongsughichep/2004/12/54507.cand
  3. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    27 bức thư của Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu (Kỳ III)
    [​IMG]
    Phi công Mỹ bị bắt ở Hà Bắc.
    Ngày 1/11/1972, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố công khai tại Sài Gòn rằng, Hiệp định Hoa Kỳ định ký với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là "một hiệp định đầu hàng". Mở đầu bức thư gửi Nguyễn Văn Thiệu ngày 8/11/1972, Nixon viết: "Hôm nay, sau khi đã được tái cử, tôi muốn tiếp tục cuộc đàm thoại của chúng ta về bản dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh".
    Đúng là cuộc đàm thoại giữa Nixon và Thiệu sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố phản đối Nixon trì hoãn việc ký Hiệp định ngày 20/10/1972. Từ lúc này cho đến khi bản Hiệp định Paris được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nixon nhất trí hoàn thiện, cuộc thương lượng lại giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ trải qua ba đợt: tháng 11, tháng 12/1972, tháng Giêng năm 1973. 8 bức thư Nixon gửi Thiệu trong giai đoạn này của cuộc đàm phán ở Paris - ngày 8, 14, 18, 23/11/1972, ngày 17, 20, 22/1/1973 đi sát cuộc thương lượng giữa Kissinger và đồng chí Lê Đức Thọ.
    Nói là có cuộc đàm thoại nhằm thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu nhưng Nixon không phải không có những lời nói nặng nề. Nếu trong thư trước Nixon đã cho rằng Thiệu chỉ trích dự thảo Hiệp định là "theo đuổi một con đường nguy hiểm" (thư ngày 29/10/1972) thì trong thư ngày 8/11/1972, Nixon nói thẳng rằng: "Việc các ông liên tiếp xuyên tạc và đả kích bản Hiệp định (đến chỗ này Thiệu đánh 4 dấu hỏi liền - LVL) là không đúng đắn và chỉ tự hại mình". Nixon coi bản dự thảo Hiệp định là "tuyệt diệu rồi".
    Nguyễn Văn Thiệu thắc mắc bản dự thảo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói rằng Hội đồng quốc gia là một "cơ cấu chính quyền", vì điều đó hiển nhiên có ý nghĩa gạt bỏ chính quyền của Thiệu. Nixon cũng đồng ý Hội đồng quốc gia "không có thẩm quyền chính phủ" và hứa sẽ đổi chữ "chính quyền" bằng chữ "hành chính".
    Trong thực tế đàm phán, Kissinger kiên quyết đòi bỏ từ "thành lập một cơ cấu chính quyền lấy tên là Hội đồng hòa giải và hòa hợp dân tộc" và thay bằng từ "thành lập Hội đồng hòa giải và hòa hợp dân tộc". Liên quan đến vấn đề này là chức năng của Hội đồng, đồng chí Lê Đức Thọ đề nghị ghi "đôn đốc hai bên miền Nam thi hành Hiệp định", Kissinger đề nghị ghi "thúc đẩy" (to promote), không bên nào chịu bên nào, cuối cùng thỏa thuận bản tiếng Việt cứ ghi "đôn đốc", bản tiếng Anh ghi "promote" (shall have the task of promoting the two South Vietnamese parties). Cuộc tranh cãi găng và kéo dài đến mức những người Mỹ không biết tiếng Việt cuối cùng cũng biết từ "đôn đốc".
    Nguyễn Văn Thiệu phản đối việc để quân miền Bắc ở lại miền Nam. Người ta hiểu Thiệu thắc mắc vấn đề này là tất nhiên vì khi quân Mỹ rút rồi thì quân của Thiệu sao đủ sức chống lại quân Bắc Việt và Mỹ đồng tình với sự lo sợ của Thiệu cũng là tất nhiên. Nixon đề ra hai biện pháp: "Chúng tôi sẽ đòi rút đơn phương trên thực tế một vài sư đoàn của Việt Nam ở vùng phía Bắc nước ông (tức khu phi quân sự - LVL). Thứ hai, chúng tôi sẽ đưa thêm câu chữ vào cuối Điều 9 (b) (tức là khoản nói về vấn đề lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam - LVL) quy định là quân đội phải được giải ngũ trên cơ sở một đối một và họ phải được đưa về nguyên quán".
    Trên thực tế, ta chấp nhận bằng công thức mập mờ trong Điều 10 của Hiệp định chính thức "Vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau". Trong Hiệp định chính thức không có điều khoản nào nói về việc rút quân Bắc Việt Nam cho nên Mỹ chấp nhận trên thực tế sự có mặt của quân Bắc Việt Nam ở miền Nam.
    Nixon còn nhắc lại ý định xử lý vấn đề quân Bắc Việt Nam trong thư ngày 14/11/1972. Nixon cũng tìm cách trấn an Thiệu: "Tôi xin nhắc lại cho Tổng thống những bảo đảm cá nhân của tôi là Hoa Kỳ sẽ phản ứng rất mạnh và nhanh chóng đối với sự vi phạm nào của Hiệp định" (thư ngày 14/11/1972 - đến chỗ này Thiệu đánh dấu hoa thị, ý cho là điểm quan trọng - LVL).
    Sau khi Kissinger đã giải quyết được nhiều vấn đề, trong thư ngày 17/1/1973, Nixon đã tổng hợp lại các điều mà Kissinger cho là đã giải quyết được theo yêu cầu của Thiệu để Thiệu yên lòng. Nhưng Nixon vẫn thấy cần chặn xu hướng của Thiệu muốn sửa thêm Hiệp định: "Về những điều mà ông vẫn còn đang tìm cách đưa thêm vào Hiệp định, tôi phải nói rõ một lần nữa là văn bản Hiệp định, cách ký kết và các nghị định thư đã ở mức tốt nhất có thể đạt được. Không thể thay đổi những cái đó được".
    Về cách ký cũng nên hiểu hai điều lo của Thiệu: Lo có ghi tên Chính phủ Cách mạng lâm thời và lo Việt Nam Cộng hòa không được nhắc tới, mà không ghi Việt Nam Cộng hòa thì coi như xóa sổ Việt Nam Cộng hòa. Ta cũng hiểu những điều lo của Thiệu. Đồng chí Lê Đức Thọ đề nghị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ cùng ký Hiệp định có ghi đầy đủ tên các bên (như ghi: với sự đồng ý của Chính phủ Cách mạng lâm thời, của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa), còn bốn bên ký một bản. Kissinger đề nghị, lời mở đầu của Hiệp định bốn bên không ghi tên bốn chính phủ, tên người ký cũng không ghi chức vụ. Đồng chí Lê Đức Thọ đồng ý nhưng đòi phải ghi chức vụ. Nixon còn nói với Thiệu rằng, tên của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa được ghi ở một số chỗ và coi đó là một "thắng lợi".
    Nixon nhấn mạnh sự hợp tác của Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ sau chiến tranh. Nixon nói sẽ cử Phó Tổng thống Agnew đi Sài Gòn ngay ngày 28/1/1973 để chuyển cho Nguyễn Văn Thiệu một bức thư nêu ba điểm sau đây:
    "Một: Chúng tôi công nhận chính phủ ông là chính phủ hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam.
    Hai: Chúng tôi không công nhận quyền của nước ngoài (ý muốn nói quân Bắc Việt Nam - LVL) ở lại trên đất Nam Việt Nam.
    Ba: Hoa Kỳ sẽ phản ứng mạnh mẽ đối với những sự vi phạm Hiệp định". (Thư ngày 17-1-1973).
    Nixon còn nói sẵn sàng đích thân gặp Thiệu tại San Clemente (California) để khẳng định lại các điều trên. Nixon nhấn mạnh: "Một lần nữa tôi bảo đảm với ông rằng, bản Hiệp định này sẽ là bước mở đầu cho một thời kỳ mới của sự cộng tác chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau mạnh mẽ giữa Cộng hòa Việt Nam và Mỹ".
    Đến lúc này, Nguyễn Văn Thiệu còn nêu một vài đề nghị mới. Nixon nói: "Tất cả những chuyện đó bây giờ không còn ý nghĩa gì nữa". "Hiệp định này không phải là một Hiệp định lý tưởng, nhưng đó là một bản Hiệp định tốt nhất có thể đạt được trong hoàn cảnh hiện nay". Cuối cùng, Nguyễn Văn Thiệu phải trả lời đồng ý với Hiệp định theo yêu cầu ngặt nghèo, có thể nói lệnh của Nixon để Nixon báo cáo với nhân dân Mỹ.
    Ngày 23/1/1973, Kissinger cùng đồng chí Lê Đức Thọ ký tắt Hiệp định và các văn bản khác. Ngày 27/1/1973, Ngoại trưởng Mỹ William P.Rogers ký bản Hiệp định Việt - Mỹ và bản Hiệp định bốn bên; ngày 2/3/1973, Rogers ký Định ước Paris về Việt Nam. Nguyễn Văn Thiệu sợ phải ký chung với Chính phủ Cách mạng lâm thời nhưng đến lúc này, Ngoại trưởng Trần Văn Lãm của Thiệu phải ký Định ước Paris cùng Ngoại trưởng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Nguyễn Thị Bình. Rõ là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.
  4. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    27 bức thư của Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu (kỳ IV)
    [​IMG]
    Alfred Arnew - tù binh Mỹ cuối cùng bước lên máy bay rời khỏi miền Bắc Việt Nam tại sân bay Gia Lâm ngày 29/3/1973.
    Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời thi hành nghiêm chỉnh lệnh ngừng bắn. Trong khi đó Việt Nam cộng hoà trắng trợn vi phạm hiệp định. Những bức thư của Nixon gửi Thiệu thời điểm này thể hiện những mâu thuẫn sâu sắc giữa Mỹ và chính quyền của Thiệu.
    Khi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vi phạm Hiệp định
    Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời thi hành nghiêm chỉnh lệnh ngừng bắn, trao trả hết tù binh Mỹ, ngụy. Mỹ rút hết quân Mỹ và quân đồng minh, giải tán Bộ Tư lệnh MACV Sài Gòn (nhưng thực tế vẫn có "cố vấn" giúp quân ngụy), chuyển một phần lực lượng sang Thái Lan. Việt Nam Cộng hòa thi hành chính sách "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm các vùng giải phóng của ta, không trao trả hết tù binh của ta. Trong những tháng đầu năm 1973, quân Việt Nam Cộng hòa đã lấn chiếm hầu hết vùng giải phóng mới và một số vùng giải phóng cũ bao gồm khoảng 1.000 ấp, đóng thêm 1.774 đồn bốt, kiểm soát hơn 1 triệu dân. Hội nghị Ủy ban Kinh tế hỗn hợp Việt - Mỹ bàn vấn đề Mỹ hàn gắn vết thương chiến tranh cho Việt Nam không giải quyết được gì. Hội nghị hiệp thương giữa Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời để bàn các vấn đề của miền Nam Việt Nam bế tắc.
    Tình hình thi hành Hiệp định Paris như thế là cực kỳ nghiêm trọng. Ngày 25/4/1973, Chính phủ Cách mạng lâm thời đề nghị 6 điểm để giải quyết cuộc xung đột, thực hiện tự do dân chủ và hòa hợp dân tộc. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhân kỷ niệm một năm ký Hiệp định Paris ra tuyên bố đòi Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, chấm dứt vi phạm ngừng bắn, trao trả tù binh và đồng chí Lê Đức Thọ gặp lại Kissinger tại Paris để bàn tình hình miền Nam Việt Nam.
    Trong tình hình nghiêm trọng này, Nixon liên tiếp gửi thư cho Nguyễn Văn Thiệu từ ngày 22/5 đến 10/6/1973. Nixon mở đầu bức thư ngày 22/5/1973, viết trong lúc Kissinger đang bị đồng chí Lê Đức Thọ đấu về những vi phạm Hiệp định của phía Mỹ, bằng những lời trách gay gắt đối với việc cơ quan tuyên truyền của Thiệu phản đối vấn đề thủ tục, thậm chí cả việc Mỹ hủy bỏ các chuyến bay trinh sát trên miền Bắc Việt Nam. Nhưng điều quan trọng Nixon nhấn mạnh là các vấn đề mà Kissinger và đồng chí Lê Đức Thọ đang thảo luận ở Paris và sẽ được đưa vào một thông cáo chung của hai phía. Nixon lo Thiệu sẽ làm tan vỡ cuộc thương lượng, nếu như thế sẽ bị nhân dân Mỹ phản đối và Quốc hội Mỹ sẽ cắt viện trợ cho Lào, Campuchia và cả cho Thiệu.
    Bức thư ngày 22/5 báo Mỹ đã thỏa thuận nhiều biện pháp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để cải thiện việc thực hiện Hiệp định Paris, trong đó có lời kêu gọi "có một loạt mệnh lệnh ngừng bắn mới cho hai bên miền Nam Việt Nam" mà Nixon coi là vấn đề cấp thiết, Đại sứ Sullivan sẽ đến Sài Gòn trình bày vấn đề này.
    Trong bức thư ngày 30/5, Nixon nói một số đề nghị sửa đổi dự thảo thông cáo chung của Thiệu sẽ bị Bắc Việt Nam bác bỏ. Nixon nhấn mạnh: "Việc có được bản thông cáo đưa ra chữ ký của đại diện của ông cùng với chữ ký của Tiến sĩ Kissinger sẽ hết sức (enormously) cần thiết cho tôi". Cuối cùng, Nixon thúc Thiệu cử ngay đại diện đi Paris để gặp phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ký văn kiện.
    Từ ngày 5 đến ngày 10/6/1973, Nixon gửi mỗi ngày một thư. Thiệu đưa các đề nghị sửa đổi bản dự thảo thông cáo chung mà Kissinger đang bàn với đồng chí Lê Đức Thọ ở Paris, có đề nghị được Nixon chấp nhận, nhiều đề nghị Nixon không chấp nhận. Thiệu quan tâm chủ yếu các vấn đề quân miền Bắc, vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Nixon cố thuyết phục Thiệu và nhiều lần cố nén sự giận dữ của mình. Ngày 8/6, Nixon phải viết: "Thưa ông Tổng thống, tôi cảm thấy tôi phải nói với ông rằng, hiện nay chúng ta đã ở vào lúc mà văn bản phải ?~được coi như là cuối cùng rồi?T... Tôi trông mong vào sự hiểu biết rộng rãi của ông về lợi ích của chính ông và của chúng tôi".
    Có lúc Nixon nói thẳng, nếu Thiệu không chịu ký thông cáo chung thì Kissinger sẽ ký với Lê Đức Thọ và giải thích rằng, có sự cản trở của Thiệu. Ba lần Nixon hạ tối hậu thư cho Thiệu: Yêu cầu có câu trả lời tích cực không muộn hơn giữa trưa giờ Sài Gòn ngày 7/6; yêu cầu trả lời thư này (ngày 7/6) vào 8h sáng giờ Paris, ngày 8/6; tôi cần có sự trả lời của ông về bức thư này (ngày 8/6) kịp thời để tôi có thể chỉ thị cho những người đàm phán của tôi ở Paris xem cần tiến hành ra sao vào 7h, giờ Paris ngày 9/6, tôi phải có được sự trả lời của ông vào hồi 10h, giờ Paris ngày 11/6, mong ông cho tôi một câu trả lời tích cực, không mập mờ (về việc chấp nhận văn bản thông cáo chung) trước 10h giờ Hoa Thịnh Đốn để tôi có thể khẳng định chỉ thị của tôi (về việc ký thông cáo chung - LVL) cho Tiến sĩ Kissinger" (thư ngày 13/6).
    Nixon không chỉ bác bỏ những đề nghị quá đáng của Thiệu, mà còn nói đến vấn đề ảnh hưởng tới quan hệ giữa hai bên, thậm chí dọa sẽ cắt đứt quan hệ Việt - Mỹ: "Xin ông hiểu rằng tôi sẽ coi bất kỳ sự sửa đổi nào hoặc yêu cầu thay đổi nào nữa, hoặc yêu cầu hoãn hoặc những sự lảng tránh khác ngoài một sự thỏa thuận đồng ý đơn giản, như là một quyết định trực tiếp và cố tình chấm dứt mối quan hệ hiện có giữa Mỹ và Việt Nam". Tới chỗ này Thiệu phê bên rìa trang thư của Nixon như sau: "Quá đáng! Ông nói thế chứ tôi hoặc nhân dân Việt Nam Cộng hòa hay nhân dân Mỹ/USA nào có quan niệm như vậy". Sau đoạn này, Nixon viết tiếp ở dòng cuối cùng: "Tôi chờ đợi rằng đại diện của ông tại Paris sẽ nhận được chỉ thị thích đáng vào sáng 13/6 giờ Paris".
    Nguyễn Văn Thiệu không dám vùng vằng hơn nữa và đã cử Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Viên đại diện Việt Nam Cộng hòa ký bản thông cáo chung ngày 13/6/1973 với đồng chí Lê Đức Thọ, đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đồng chí Nguyễn Văn Hiếu, đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam.
    Sau bức thư này, Nixon không gửi bức thư nào nữa cho đến khi do nhiều yếu tố Nixon phải từ chức Tổng thống ngày 9/8/1974. (Xem tiếp kỳ sau).
    http://www.cand.com.vn/vi-vn/thoisuxahoi/phongsughichep/2004/12/54697.cand

    Được tulipman sửa chữa / chuyển vào 11:48 ngày 24/03/2005
  5. FNguyen1

    FNguyen1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2004
    Bài viết:
    421
    Đã được thích:
    0
    Chào mọi người,
    Bác Tulipman hoặc ai có thể truy tìm trong tài liệu lịch sử của cả hai bên xem thời đó Ngô Đình Diệm và Nguyễn văn Thiệu có gởi thơ hoặc ký một văn bản hoặc hiệp ước nào cắt đất, nhượng biển, nhượng đảo, bán vịnh (như vịnh Cam Ranh) cho Mỹ hay không ? Nếu được đăng lên đây thì tốt quá!
    Chúc vui,
    FN
  6. T55tank

    T55tank Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    158
    Đã được thích:
    0
    EM hiểu ý bác . Nhưng thưa bác , thế có cái bản hiệp định nào bảo ... quân Mỹ vào VN chơi đi , bác tìm hộ cho em với
    Còn chuyện bán đất , bán vịnh , nhượng biển ... bác muốn tìm thì cứ sang mấy site hải ngoại ấy .
    Với lại , em nghĩ cũng chẳng cần hiệp định , hiệp ước gì ráo ... Mỹ nó đã muốn thì thằng đệ của nó dám cãi à Cãi nó cắt viện trợ thì ... chết như năm 1973 ấy
    Được T55tank sửa chữa / chuyển vào 14:45 ngày 26/03/2005
  7. FNguyen1

    FNguyen1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2004
    Bài viết:
    421
    Đã được thích:
    0

    Chào bác T55tank và mọi người,
    Tui nghĩ là có đấy! Nếu thực sự muốn tìm thì cất công lục lọi chắc thế nào cũng có. Ngay trên TTVNOL trong box LS_VH này cũng đã từng nhắc tới cái văn bản cho phép quân đội Mỹ vào miền Nam của chính quyền SG cũ.
    Cái này thì đúng quá! Năm 2005 cũng vẫn còn như thế! Kinh nghiệm của Iraq và Afghanistan còn sờ sờ ra kia mà.
    Chúc vui,
    FN
  8. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    Chào 2 bác FNguyen1 và T55tank :
    Khi quyết định post bài tư liệu này, TLM chỉ suy nghĩ là chia sẻ chút ít tài liệu quý báu cho box LS-VH, chứ chả dám lộng ngôn, "múa rìu qua mắt thợ" - LS-VH toàn cao nhân
    Đây là tôpic về Nixon & Thiệu , nhưng 2 bác FNguyen1 & T55tank bàn luận một hồi, TLM thấy toàn bán đất, nhượng biển... Tình hình này theo kinh nghiệm của "TL quán" và LS-VH thể nào cũng có nhiều bác nhạy cảm nhảy vào tham chiến tôi e rằng rồi tôpic bị lock lại thì chết công TLM .
    Các bác có tài liệu thì share cho mọi người chứ cứ loanh quanh bán, mua đất, biển... là
    Cạch 1 phát các bác nhể
  9. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    27 bức thư của Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu (Kỳ V)
    [​IMG]
    Nhân dân Hà Nội vui mừng nghe tin hoà bình đã được lập lại ở Việt Nam.
    27 bức thư của Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu lộ rõ ý đồ chiến lược của Nixon trước cũng như sau khi ký Hiệp định Paris là thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", biến cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ thành cuộc nội chiến giữa người Việt Nam, tiếp tục bám lấy miền Nam Việt Nam. Nhưng 27 bức thư cũng bộc lộ công khai và dai dẳng mâu thuẫn sâu sắc giữa Nixon và Thiệu.
    Các bức thư của Tổng thống Nixon gửi cho Nguyễn Văn Thiệu trong thời điểm ký và thi hành Hiệp định Paris năm 1973 xứng đáng được nghiên cứu sâu để hiểu con người của Nixon và Nguyễn Văn Thiệu, lý do khiến Nixon phải ký Hiệp định Paris, ký thông cáo chung 4 bên ngày 13/6/1973 để cải thiện tình hình thi hành Hiệp định Paris khi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vi phạm Hiệp định đó, tìm hiểu mâu thuẫn Nixon - Thiệu.
    Tôi chỉ nêu ở đây một vài nhận xét của cá nhân tôi:
    Cuộc chiến tranh của Mỹ chống nhân dân Việt Nam đến đời Tổng thống Johnson có thể coi là thất bại. Khi Nixon lên làm Tổng thống, thế của Mỹ là phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và bám lấy miền Nam bằng biện pháp khác.
    Nixon vào Nhà Trắng sau Tết Mậu Thân 1968 với những hậu quả nặng nề cho chính quyền Johnson, Johnson phải đơn phương chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, chấp nhận đàm phán với Hà Nội, tuyên bố không ra ứng cử Tổng thống một khóa nữa. Nixon được chào đón bằng cuộc biểu tình phản chiến của 1.200 thành phố và đô thị trên khắp các bang, phong trào đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thật sự trở thành "cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ". Báo New York Times công bố các tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ. Ngày càng có nhiều nghị sĩ đòi rút quân Mỹ về nước.
    Trước xu thế nhất định thất bại của cuộc chiến tranh Việt Nam và những khó khăn chồng chất về đối nội và đối ngoại, Nixon quyết định đơn phương rút quân Mỹ về, nhưng duy trì Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu để tiếp tục cuộc chiến tranh chống nhân dân Việt Nam, tức là chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".
    Việc rút quân Mỹ, lấy được tù binh Mỹ về là vấn đề đối phó với phong trào chống chiến tranh và sự phản đối của Quốc hội Mỹ. Vì thế Nixon thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản về ngừng bắn, rút quân Mỹ và quân đồng minh, trao trả tù binh, nhưng tiếp tục duy trì và viện trợ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, làm cho nó đủ sức để tồn tại.
    Nixon hiểu rõ rằng, quân Mỹ rút đi thì khả năng chiến đấu của quân ngụy sẽ giảm sút một cách nguy hiểm. Chính vì thế Nixon trì hoãn việc ký bản Hiệp định ngày 20/10/1972, không phải chỉ để thắng cử trong cuộc bầu cử ngày 7/11/1972, mà còn để có thì giờ tăng cường viện trợ cho Nguyễn Văn Thiệu để quân ngụy sau khi quân Mỹ rút có sức chống lại quân đội nhân dân Việt Nam và quân giải phóng của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Kế hoạch tăng viện này là kế hoạch ENHANCE PLUS (tăng cường hơn nữa).
    Trong cuốn Lời phán quyết về Việt Nam (Vietnam''s Verdict), luật gia Joseph Amter viết rằng: Nixon thực hiện kế hoạch ENHANCE PLUS nhằm hai mục đích: Tăng cường viện trợ như thế cho Thiệu để dễ bảo Thiệu hơn khi ký Hiệp định Paris và khẳng định cho Thiệu thấy rằng Mỹ có ý định "đứng sau lưng Thiệu". Thực hiện kế hoạch này, Nixon cho cấp tốc gửi sang Sài Gòn chủ yếu là máy bay, trực thăng, xe tăng, đại bác trị giá hàng tỷ đô la. Bấy giờ Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ lớn tiếng khoe Việt Nam Cộng hòa nay có không quân lớn thứ tư trên thế giới. Amter nói khi đó không quân của Thiệu có hơn 2.000 máy bay các loại.
    Nixon còn lo giúp Thiệu phục hồi và phát triển kinh tế. Với kế hoạch kinh tế hậu chiến 8 năm (1973 - 1980), Mỹ và Nguyễn Văn Thiệu tính từng bước phát triển kinh tế miền Nam, đưa kinh tế miền Nam vượt lên kinh tế miền Bắc Việt Nam.
    Ngày 23/1/1973, Nixon thông báo cho nhân dân Mỹ biết là Chính phủ đã ký "một hiệp định hòa bình trong danh dự" với Việt Nam. Giáo sư Mỹ Larry Berman đã viết một cuốn sách đầy ắp bằng chứng để chứng minh rằng: "Chẳng có hòa bình chẳng có danh dự" (No peace No honour).
    Thông thường dư luận cho những người cầm đầu các nước phụ thuộc nước lớn là "tay sai", là "vệ tinh" của nước lớn và luôn luôn "dễ bảo". Thời Pháp thuộc có vua ở các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, nhưng người quyết định cuối cùng bao giờ cũng là Toàn quyền Đông Dương và các Thống sứ, Khâm sứ Pháp, nhân vật nào chống đối hay "khó bảo" là bị bắt ngay.
    Thời Mỹ thay thế Pháp thống trị miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm hàm ơn Mỹ đã gạt Hoàng thân Bửu Lộc để về nắm lấy miền Nam Việt Nam, cho nên Diệm triệt để thi hành đường lối chống cộng và mọi chủ trương của Mỹ, thậm chí tuyên bố biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17. Nhưng cũng có một lần mâu thuẫn giữa Diệm với Tổng thống Kennedy nổ ra khi chính sách độc tài của Diệm ghê gớm đến mức đàn áp lực lượng Phật giáo miền Nam. Bấy giờ Tổng thống Kennedy phải tính đến nước đưa người khác lên thay Diệm hoặc ít nhất cũng buộc Ngô Đình Nhu, cố vấn đầy quyền lực của Diệm, ra nước ngoài. Nhưng đây là một mâu thuẫn nảy sinh từ một chính sách đối nội của riêng miền Nam, không trực tiếp xâm phạm quyền lợi của nước Mỹ. Mâu thuẫn này chấm dứt khi anh em Ngô Đình Diệm bị lật đổ và giết hại.
    Tại sao Nguyễn Văn Thiệu dám có ý kiến chống lại Tổng thống Nixon trong giải pháp cho vấn đề Việt Nam? Mâu thuẫn gay gắt và kéo dài hàng nửa năm, đến mức Nixon phải đích thân liên tiếp viết thư cho Nguyễn Văn Thiệu để dỗ dành, thuyết phục, hăm dọa, kể cả hăm dọa cắt viện trợ, cắt quan hệ ngoại giao?
    Trên vấn đề tồn tại của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Nixon và Thiệu đều nhất trí vì đó là lợi ích chiến lược của Mỹ, là vấn đề sinh tử của ngụy quyền và của cá nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Trên vấn đề chống cộng, chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa họ cũng nhất trí. Về giải pháp cho vấn đề chiến tranh Việt Nam, họ cũng tán thành phải chấm dứt chiến tranh, nhưng Nixon và Nguyễn Văn Thiệu có quan niệm và yêu cầu khác nhau. Nói như người Trung Quốc, đây đúng là vấn đề "đồng sàng dị mộng".
    Nixon công nhận cho Chính phủ Cách mạng lâm thời tồn tại, quân miền Bắc Việt Nam còn ở lại miền Nam để giải quyết sau, nhưng Thiệu không chịu vì đó là vấn đề danh dự, vấn đề sinh mệnh của chế độ Việt Nam Cộng hòa, vấn đề cái ghế Tổng thống của Thiệu. Tuy chịu để tồn tại Chính phủ Cách mạng lâm thời "cho đến khi hai chính phủ thỏa thuận xong việc lập chính phủ thống nhất ở miền Nam", Nixon khẳng định vẫn giữ nguyên vẹn chính phủ của Thiệu vì mục tiêu của "Việt Nam hóa chiến tranh" là duy trì chính phủ đó để nó tiếp tục cuộc chiến tranh chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cách mạng miền Nam, nhưng Thiệu vẫn không tin khả năng đó. (Xem tiếp kỳ sau)
    http://www.cand.com.vn/vi-vn/thoisuxahoi/phongsughichep/2005/3/54781.cand

Chia sẻ trang này