1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

54 dân Tộc Anh Em

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi dungsamtien, 01/01/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. mabun

    mabun Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    1
    xem chừng chỉ có codep hiểu tôi,hy vọng bạn codep là người cô đẹp.Hì......
    -----------------------------------------------------
    K phải là cô đẹp mà là cố đẹp.....lão nhưng hình như bác có con gái hay cháu gái gì xinh lắm. Bạn lựa cách xưng hô để lỡ.....
  2. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0

    Chào Alao và CoDep:
    Cách nhìn của hai bạn chỉ đúng một phần, mà không đúng hoàn toàn. Lại dễ bị sử dụng một cách nhập nhằng như chúng ta thấy Trung Cộng đang có nỗ lực tìm cách đồng hóa các dân tộc từng bị Tàu đô hộ để nhận là con cháu Tàu và giúp họ trong tham vọng bành trướng ảnh hưởng Tàu trên thế giới.
    Bạn CôDep nói:
    1. "Ví dụ nước Mỹ có mẫu quốc văn hoá là nước Anh,"
    Hiện nay, văn hóa Mỹ khác hẳn văn hóa Anh.
    Đó là vì người Mỹ sinh ra tại Mỹ, lớn lên với phong thổ tập tục Mỹ, giao tiếp với rất nhiều giống dân khác, cách sinh hoạt của họ đã khác với người Anh rất xa.
    Đa số người Mỹ không còn xem Anh là mẫu quốc nữa.
    2." Trong thế chiến thứ 2, Mỹ nhốt người Nhật lại, vì mẫu quốc
    văn hoá của họ đang đánh Mỹ rất mạnh."
    "Trong chiến tranh Nam Bắc, những người bắc có bà con di
    cư cũng bị nhốt, vì có thể mẫu quốc văn hoá của họ cũng di
    cư vào nam."
    Đây chính là sự nhập nhằng mà tôi muốn nói tới.
    Người Mỹ gốc Nhật nếu sinh trưởng tại Mỹ thì dần dà sẽ phát triển văn hóa riêng của người Mỹ gốc Nhật. Họ sẽ bảo vệ cho mảnh đất tại Mỹ mà họ đang sinh sống.
    Người Việt gốc Hoa nếu thực sự hội nhập và sinh trưởng tại Việt, thì cũng sẽ có một văn hóa và tâm tình Việt Hoa, khác với văn hóa Tàu chính gốc. Những người này sẽ bảo vệ cho đất Việt khi Trung Quốc muốn xâm lăng Việt.
    Nếu chúng ta phân biệt rạch ròi được như thế, thì những người dân bất kỳ từ đâu đến, cũng sẽ không bị phân biệt đối xử và cùng có thể đóng góp vào mảnh đất họ chọn làm quê hương.
    Điều này giúp mảnh đất ấy phát triển và xóa được các mâu thuẫn nội tại về khác biệt chủng tộc, giòng giống.
    Mỹ đang áp dụng triệt để tư tưởng và hướng nhìn này. Nhờ đó, họ thu được tinh hoa của toàn thế giới.
    Ngày nay, trong khi Mỹ phát động chiến tranh với Trung Đông, các dân Mỹ gốc Trung Đông tại Mỹ vẫn được yên ổn làm ăn.
    Còn những người Việt mà muốn tiếp tay với Tàu để xâm lăng Việt, dù trên mặt văn hóa hay chính trị gì đi nữa, thì cũng là người đã phản bội đất Việt của họ, và mang tội lớn với đất nước con người đã nuôi dưỡng họ.
    Quan niệm này đã được người Tàu sử dụng một cách triệt để. Trước và sau khi xâm lăng xong một mảnh đất nào, họ cũng mang người Tàu đến để lai giống với dân địa phương, sau đó tìm cách lợi dụng những người lai Tàu để xâm lăng văn hóa vùng ấy, và không ngừng hô hào những người này quay về tiếp tay cho "mãu quốc văn hóa" trong những đợt xâm lăng kế tiếp.
    Đây là điều thực tế, đã được áp dụng không ngừng bởi Trung quốc.
    Chúng ta cần đặc biệt lưu tâm đến vấn đề này trong giai đoạn hiện tại.

    Chúng ta nhận cái hay đẹp của văn hóa bạn, đón người dân từ mọi nơi đến chọn Việt Nam làm quê hương và góp phần vào việc phát triển Việt Nam, nhưng sẽ không để họ lợi dụng tình Việt dân Việt mà phản lại chính người Việt.
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    1- Người Mỹ không coi Anh là nước mẹ từ khi họ nổi lên
    giành độc lập, tuyên bố họ là người Mỹ.
    Một số người tin thuyết Bách Việt, coi Bách Việt (Trung Hoa)
    là đất tổ của người Kinh ViệtNam, nhưng Hai Bà Trưng đã
    nổi dậy tuyên bố tổ tiên chúng ta không phải Trung Hoa. Trong
    chúng ta ngày nay, vẫn còn người tin thuyết Bách Việt.
    2- Chuyện nhập nhằng không phải tôi làm ra. Tôi chỉ nêu sự
    việc lên để các bạn nhớ đó là ví dụ thôi. Chắc các bạn cũng
    thấy giọng của tôi vô tư, nhưng chắc không tán thành thì phái.
    Chuyện nước mẹ và lòng yêu quê hương, lòng gắn bó trung
    thành với đất mới, tuỳ theo từng người đã trải qua cay đắng
    ngọt bùi thế nào.
    Khi Vô Tích, khi Lâm Tri
    Nơi thì đày ải, nơi thì xót thương.
    Kiều không trả thù tất cả những người đã đầy ải cô ta đâu,
    nhưng cô biết ơn và trả ơn tất cả những người đã tốt với cô.
  4. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Vâng, hoàn toàn đồng ý với CoDep.
  5. alao

    alao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/08/2005
    Bài viết:
    54
    Đã được thích:
    0
    Tôi ko đồng ý cách nói "đông hoá" của bạn nguyenlytk21. văn hoá vốn mang tính xuyên quuốc gia mà ko phải là giết ngưồi cướp của ,đâu gọi là "xâm lăng văn hoá"? văn hoá hiện nay cũng khác nhiều so với thời Hùng Vương, An Dương Vương mà. xưa nay VN cũng ko từ chối văn hoá tiên tiến, chả lẽ những câu đối của danh lam thắng cảnh, thư pháp,tập tục ăn tết nguyên đán, tết trung thu....v v, là kết quả của "xâm lăng văn hoá" từ Tàu hay sao? thử hỏi : giọt mực rơi vào bát nước, là mực bị nhạt đi,hay nước bị nhiễm đen?
    tổ tiên người ta cụ thể bắt nguồn từ đâu, điều đó còn phải nhờ vào các nhà khảo cổ và nhà khoa học đi xác nhận. chính ở tỉnh Lưỡng Quảng Trung Quốc cũng có không ít người thờ Hai Bà Trưng đấy, nhưng họ cũng ko ai phủ nhận tự mình là người Tàu. đó là vì nguyên nhân họ mang quốc tịch nước đó thôi. theo tôi,"dân tộc" và "quốc gia" là hai khái niệm ko hoàn toàn giống nhau, theo lý luận của ông Lênin, quốc gia là một khái niệm chính trị, "dân tộc" hoàn toàn là khái niệm dân gian. dân tộc nào đó hiện nay cũng là tạm thời trong lịch sử và tương lai ít nhiều cũng sẽ có thay đổi .giống người Việt hiên nay cũng có trộn lẫn với người Khơmê,người Lào,người Thái,ngườ Lưỡng Quảng của Tàu mà.
    có một vĩ nhân (tên đã quên) từng có nói: chủ nghĩa dân tộc là cơn bệnh ngây thơ.
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đúng bác sỹ Trần Đại Sỹ đã nói vậy.
  7. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Alao chưa đọc rõ ý tôi mà gán ghép nhiều quá.
    Tất cả các điều bạn viết ở trên là ý của bạn chứ không phải ý của tôi.
    Bạn hãy nghiệm kỹ xem trong tâm bạn nghĩ gì nhé.
    Tôi đang bận đọc tư tưởng của Giáo Sư Trần Quốc Vượng.
    Chúc bạn bình tâm.
  8. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Tôi có được đọc bài viết này của Giáo Sư Trần Đại Sỹ, do Lý Ngọc Ly mang vào diễn đàn TTVNOL, vài tháng trước.
    Tôi chưa được tham kiến tận mắt chuyện dân Lưỡng Quảng thờ Hai Bà Trưng.
    Tôi đã được thăm Phong Châu, nơi Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống Tô Định.
    Mùa Hè vừa qua, tôi tình cờ đi lạc vào Chùa Dâu, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, xưa thuộc Tổng Khương, huyện Luy Lâu, quận Giao Chỉ.
    Theo sử thì năm 207 TCN, Triệu Đà mang quân sang xâm lược Việt Nam, lấy quận Giao Châu làm thị sở, Luy Lâu thành trung tâm đô thị.
    Khoảng đầu công nguyên, một số nhà sư Ấn Độ đi theo đường biển vào Luy Lâu để truyền đạo. Chùa Dâu thành một trung tâm truyền đạo đầu tiên.
    Tôi đi giữa không gian lịch sử ấy, bỗng thấy bồi hồi, và có cảm tưởng tiền nhân đem mình thả vào lại khung cảnh cũ, chứ không thể nào tự nhiên đi lạc vào nơi ấy được.
    Có nhiều điều không thể giải thích,
    Tôi rất tin vào sức sống của dân Việt, vào hồn thiêng sông núi Việt, vì quá nhiều máu xương đã đổ thắm mảnh đất này.
  9. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Cô dâu dân tộc Sán Dìu
    --------------------------------------------------------------------------------
    Khóc than càng nhiều thì cô dâu càng hạnh phúc
    Chuyện cô dâu khóc khi từ biệt mẹ cha về nhà chồng thì chẳng có gì lạ, nhưng khóc lóc thảm thiết đến ai oán nỉ non thì chỉ có ở phong tục người Sán Dìu. Ây là khi cô dâu ra lễ tổ tiên, rồi đi lạy ông bà, cha mẹ, chú bác để về nhà chồng... Cô dâu khóc và hết thảy người thân của cô đều khóc. Việc than khóc đối với cô dâu không đơn giản chỉ rơi lệ hoặc đỏ hoe con mắt hay khóc thế nào cũng được, mà phải khóc sao cho thật mùi mẫn. Vì thế cô dâu phải tập luyện trước cả tháng trời, vào lúc chập tối và gà gáy. Người Sán Dìu quan niệm: Tiếng khóc càng nỉ non ai oán bao nhiêu thì chứng tỏ cô gái đó càng có hiếu với cha mẹ bấy nhiêu và cuộc sống của vợ chồng cô sau này càng gặp nhiều may mắn. Cô nào quá vụng về không biết khóc than thì cô, dì, các bác phải dạy cho cẩn thận. Một điều đặc biệt là khi nhà trai đến đón dâu, cô dâu chỉ bước ra khỏi ngưỡng cửa, sau đó anh trai hay người anh họ sẽ cõng cô đi ba bước, ra khỏi giọt gianh nhà gái thì đặt xuống. Trên đầu cô dâu phủ hai tấm khăn dài màu đỏ. Cô dâu không được đi nhanh, không tỏ vẻ hớn hở, nói cười mà đi từng bước chậm chạp, nặng nề tỏ lòng quyến luyến cha mẹ, nhớ thương anh chị em trong nhà. Đến gần nhà chồng mà trời chưa tối, cả đoàn đưa dâu phải dừng lại ở cổng làng, chờ xẩm tối, nhà trai mang trầu nước ra mời mới được vào nhà. Cô dâu cứ việc đi thẳng vào buồng tân hôn. Khi bước tới cửa buồng, anh chồng không được quên một việc quan trọng là nhanh chóng cướp lấy một cái khăn ở trên đầu cô dâu, trước khi cô bước vào buồng. Nếu không cướp được thì bạn bè của chú rể phải hát đối đáp với bạn bè của cô dâu, nếu đối chuẩn thì chú rể mới được nhận khăn. Sau đó, cô dâu được một bà cô (bà cô này gia đình đề huề, vợ chồng song toàn có nhiều con) trải chiếu mời ngồi.
    Đám cưới của người Sán Dìu xưa có nhiều nghi lễ và có một nghi lễ rất quan trọng, đó là lễ "Khai hoa tửu" lúc đến đón dâu. Lễ vật là hai quả trứng luộc, hai sợi chỉ đỏ xuyên qua quả trứng và buộc vào mỗi bên quả trứng hai đồng xu. Sau khi đã cúng tổ tiên, đại diện nhà gái đứng lên nói với mọi người bằng những lời lẽ rất văn hoa và ra câu đối để quan lang chính (bà mối hoặc ông mối) đối lại. Sau đó, hai quả trứng được bóc vỏ, lấy lòng đỏ hoà vào rượu mời những người dự cùng uống, theo thứ tự, người nhiều tuổi uống trước, ít tuổi uống sau. Ai nấy đều hân hoan chúc mừng cô dâu chú rể hạnh phúc.
    Ngày nay, các nghi lễ truyền thống trong đám cưới của người Sán Dìu đã mai một đi nhiều, thế nhưng người Sán Dìu ở Sơn Dương-Tuyên Quang vẫn còn giữ tục lệ, khi cô dâu về đến nhà chồng, thì cô em gái chú rể bê vào chậu nước để chị dâu rửa chân. Rửa xong, chị dâu thả xuống chậu nước mấy đồng bạc lẻ hàm ý cám ơn cô em. Phải chăng đây là khởi đầu cho một mối quan hệ tốt đẹp giữa chị dâu và em chồng?(sưu tầm và post...)
  10. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Lần theo huyền thoại đất múa mường So
    (VietNamNet) - Thung lũng rộng nằm ngay dưới chân dãy Phu Nhọ Khọ, nơi có dòng Nậm So uốn mình bồi đắp, tít tận miệt Phong Thổ (Lai Châu) có tên Mường So. Một miền đất lành để nhiều tộc người tụ hội từ thuở xa xưa. Đất màu mỡ, người khoáng đạt. Người Tây Bắc xem Mường So như là cái nôi xuất phát của những điệu xoè Thái ngất ngây...

    Trong đêm xoè, cũng là dịp trai gái gặp gỡ, bén duyên. Ảnh: Hà Trường.
    Người Thái ở vùng núi cao hát rằng: "Khi nước suối cạn sẽ có những bãi đá gồ ghề/ Khi nước cạn hẳn mới thấy những hạt cát vàng/ Khi đó anh em mình mới có dịp gặp nhau", để bắt đầu một đêm xoè hoa rực rỡ. Những ngày này, là cơ hội để trai gái vùng Mường giao lưu hò hẹn, ước nguyện kết tóc xe duyên. Những ngày Tết đến, xuân về, khi lúa chín vàng trên nương đã gặt xong, người Thái vùng này mở hội xoè suốt từ mùng Một cho tới 15 tháng Giêng, rạo rực chào năm mới.
    Đêm tràn tính tẩu
    Mường So (Phong Thổ, Lai Châu), địa danh nhắc đến người nhiều yêu vùng cao khó có thể quên. Xã nằm lọt trong thung lũng xa xôi, trập trùng rừng núi nơi cuối trời Lai Châu. Ngửa mặt thấy mây trắng, cúi xuống thấy dòng Nậm So cuộn mình quanh những bản làng.
    Đêm giữa tháng. Trời Tây Bắc vương đầy sao, ngập ánh trăng thu. Trước, người Pháp lên vùng đất này chọn Mường So làm trung tâm khống chế vùng Phong Thổ, trải tới Tam Đường. Dinh thự cũ của quan Pháp thuở trước nằm giữa Mường So nay thành phế tích .Sau 1954, Mường So vẫn là ''''trái tim'''' của vùng đất rộng lớn này. Đến năm 1979, trung tâm huyện Phong Thổ mới chuyển về Tam Đường.
    Đỉnh Phu Nhọ Khọ mờ hơi sương núi đá vào đêm. Đồn quan Pháp xưa đóng ngay trên đồi cao giữa xã, nay là trường trung học nội trú của huyện Phong Thổ. Một đống lửa to soi rạng người gương mặt của những chàng trai, cô gái vùng cao. Ánh điện tràn cả một khu đất rộng. Tiếng tính tẩu quyến chân, nhịp công, cống (Cống là loại trống dài khoảng 1m, đường kính khoảng 45cm làm bằng thân cây gỗ đục rỗng, Công là loại trống dài từ 1,5 - 3m đường kính từ 5 - 7cm. Hai đầu trống bọc da trâu hoặc da bò - NV) khoan nhặt. Hàng trăm người đủ màu trang phục nắm tay nhau xoè vòng.
    Xoè vòng, sinh hoạt văn hoá đặc sắc của vùng đất này, tiếng thơm truyền một dải đất Tây Bắc. Vòng xòe, tiếng Thái là ?oxóe voóng?. Khi múa xòe, người ta cầm tay nhau múa du dương nên xòe vòng còn có tên là xóe khăm khen.
    Đêm nay, trai bản xa từ Tông Qua Lìn, Sì Lở Lầu tìm về, gái bản gần từ Hoang Thèn, Khổng Lào đi tới, cùng ngất ngây trong men rượu ngô nồng ấm, nắm tay xoè mừng 50 năm giải phóng Mường So.
    Nhịp chân bước đều, váy lĩnh Thái đen tuyền uyển chuyển theo tiếng nhạc. Những bàn tay người Thái, người Mông, người Dao nắm chặt. Chúng tôi may mắn được thưởng thức một đêm xoè Thái ngất ngây cùng tiếng tính tẩu véo von, tiếng trống gõ nhịp nhàng trong đêm đầy trăng treo đỉnh núi.
    Mỗi năm, người Thái vùng cao có những lễ hội đặc biệt quan trọng: tết Soong Sịp (tết cơm mới) sau khi lúa ở ngoài đồng đã chín vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đổ xôi nếp để cúng lễ. Sau tết Soong Sịp là tết Kim Lao Mao (tết uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là tết Nen Bươn Tiền (tết Nguyên Ðán).
    Xưa, những dịp ấy trai mường trên, gái bản dưới mới được tụ hội về xoè vòng, xoè hoa cùng nhau. Hội kéo mấy ngày, thì có bấy nhiêu đêm lửa sáng. Trai gái có dịp làm quen, bắt chuyện, rồi con trai tìm tới nhà xin ở rể, lên nương cùng nhau tới khi nhà gái cho phép mới thành vợ chồng.

    Những điệu khèn về từ bản xa luôn quyến chân khách mường gần. Ảnh: Hà Trường.
    Nay, không cố định, những đêm xoè có thể được tổ chức bất cứ lúc nào. Cũng như đêm chúng tôi có mặt ở đây, đêm xoè vòng diễn ra sau buổi hội diễn chào mừng 50 năm giải phóng huyện nhà.
    Trước, là những tiếng ca, điệu khèn về từ bản gần, xa đua nhau khoe tài. Tiếp, là tiếng gõ sạp nhịp nhàng cho gái trai sánh vai bắt chuyện. Cuối đêm vui, khi sương đã sà xuống sát ngọn sa mu, trời trở lạnh, thì dạ tiệc xoè mới được bắt đầu.
    Những chàng trai người H''mông về từ Tông Qua Lìn đêm nay quay tròn cùng tiếng khèn réo rắt. Những cô gái Dao đến từ Tông Chung Vang rực rỡ hơn trong ánh lửa bập bùng với trang phục rực màu đỏ quen thuộc. Tiếng hát, tiếng cười, tiếng khèn ghẹo bạn... hoà lẫn trong nhịp bước chân xoay tròn.
    Kiều Thị Hơn, năm nay 21 tuổi, ngượng ngùng nói rằng, em ít khi bỏ lỡ một đêm xoè nào diễn ra ở đây. Người vùng cao vốn kín đáo nhưng cũng dễ mở lòng khi gặp bạn. Những đêm xoè ngất ngây như đêm này, chính là dịp hiếm hoi để người mường xa bản gần làm quen.
    Đêm dần về khuya, sương càng xuống thấp. Nhưng khí lạnh vùng núi cao dường như không mảy may tác dụng gì tới những bước chân uyển chuyển. Những gương mặt nóng bừng, ngời sáng. Giọt mồ hôi lăn đều trên đôi má ửng hồng của con gái vùng cao, ướt đuôi tóc chàng trai bản núi.
    Dạ tiệc chỉ ngừng khi gà gáy chuyển canh. Tiếng bước chân xa dần theo những lối mòn về bản, sau rất nhiều bịn rịn. Trước khi để khách phương xa rời đêm hội, những bóng áo cóng chủ nhà vẫn nằng nặc mời khách phương xa uống thêm vài chén rượu giao tình.
    Cụ Lý Thanh Duyên đang kể lại những câu chuyện Mường So thuở còn là "mảnh đất ăn xin". Ảnh: Hà Trường.
    Trong ký ức của cụ ông Lý Thanh Duyên, thì Mường So thuở trước là "vùng đất ăn xin". Ông giải thích: "gọi Mường thì ai cũng hiểu. Còn So thì có nghĩa là ăn xin". Cái lý của người đàn ông Thái năm nay đã hơn 70 tuổi nghe ra cũng nhiều ẩn ý. Đất này trước kia vốn rất nghèo. Mặc dù, khi người Pháp có mặt tại đây, thì một sân bay cũng đồng thời được mở ngay tại khu Lạt Hán (chợ của người Hán - NV), đón máy bay chở hàng từ xuôi lên đáp xuống.
    Cụ Duyên không phải là người xa lạ với người Thái ở Mường So. Ngày trước, đồi đất ngay trung tâm xã, nơi là trụ sở UBND xã bây giờ, vốn là đồn quan Pháp đóng. Trước cổng lên đồn, có một lô cốt đá nhỏ, "trông như cái cũi lợn", dùng giam giữ những cán bộ vùng cao hoạt động cách mạng, đe doạ người dân địa phương. Lúc bấy giờ, chàng trai Lý Thanh Duyên mới 26 tuổi, đã từng 2 năm (1945-1947) bị nhốt trong cái cũi này, vì tội "đi theo *********".
    Gần 2 năm bị giam cầm, ông mới trốn thoát, vượt rừng sang Trung Quốc, rồi vòng về xuôi bắt lại liên lạc với tổ chức. Sau đó, ông được đưa trở lại Mường So hoạt động, cho đến khi vùng đất này hoàn toàn giải phóng năm 1954.
    Thời gian lầm lũi trôi, cũi đá xưa chỉ còn dấu vết nền đá trơ trọi. Nhưng cụ Duyên vẫn nhớ rất rõ những ngày tháng bị giam cầm, tra tấn trong cũi đá. Một con mắt trái của ông đã bị hỏng hoàn toàn trong những ngày bị bắt giam ở đây.
    Dẫu mới chỉ mấy chục năm trôi qua, cũng đã đủ xoá mờ dấu tích cũ. Dinh thự lộng lẫy của Đèo Văn Ân bây giờ là trụ sở của trạm y tế Mường So. Lúc bấy giờ, Nậm Xe, Khổng Lào, Bản Lang, Hoang Thèn, Mường So là một vùng, trong đó khu vực Mường So đóng vai trò trung tâm huyện lỵ.
    Những năm gần đây, khi Phong Thổ tách riêng Tam Đường, thành huyện độc lập, chuyển ra khu vực Pa So cách Mường So 8km, thì những trụ sở cơ quan của huyện vẫn nằm quanh Mường So. Trung tâm huyện mới đang định hình, nên người dân ở đây vẫn quen coi Mường So là trung tâm sinh hoạt, mua bán.

    Bây giờ, Mường So đã khác nhiều trong những đêm xoè hoa được tổ chức thường xuyên hơn ngày trước. Ảnh: Hà Trường.
    Nói vậy để hiểu, Mường So có "truyền thống" là trung tâm huyện lỵ từ lâu đời. Thung lũng nằm dưới dãy Phu Nhọ Khọ này địa hình bằng phẳng, diện tích rộng lớn, đồng thời có dòng Nậm So uốn quanh bồi đắp cho đất đai màu mỡ. Từ thuở sơ khai, Mường So là đất lành cho các tộc người: Thái, Kinh, Dáy, H''mông, Hoa, Tày, Nùng, Cao Lan, Dao tụ hội.
    Miền đất biên viễn với những yếu tố tự nhiên thuận lợi đã nhanh chóng trở thành đất hứa đón các tộc người về quây quần cùng nhau khai phá, dựng xây, để đất Mường So nhanh chóng trở thành sầm uất.
    Nhưng trong ký ức những người già như cụ Duyên, thì dấu tích của một thời quá khứ chưa xa vẫn còn hiển hiện, rất rõ. Rõ như ngày gia đình ông chuyển từ khu vực gần sân bay Mường So ra gần chân cầu Phiêng Đanh bây giờ. Phiêng Đanh tiếng Thái có nghĩa là "bãi đất bỏ hoang", nên nhà cụ Uyên đang ở ngày nay chính là nóc nhà đầu tiên được dựng lên giữa bãi đất trống cạnh dòng Nậm So này. Rõ như những ngày cụ hỏng một con mắt khi nằm trong cũi đá của người Pháp xây lên trước đồn của họ.
    Trước năm 1954, tại khu vực Mường So có 2 đồn quân Pháp đóng. Bên cạnh đồn chính nằm trung tâm xã, đồn thứ hai gọi tên đồn Cao nằm ngay trên đỉnh Phu Nhọ Khọ, điểm cao 450, khống chế toàn bộ thung lũng rộng lớn này. Đường lên, chỉ là những bậc đá đẽo men theo bờ núi dốc đứng.
    Núi Phu Nhọ Khọ theo cách gọi của người Thái ở Mường So là "con rồng cái nhỏ". Không biết vô tình hay hữu ý, con rồng nhỏ uốn mình tới Mường So ngẩng đầu chuẩn bị bay lên lại bị đồn Cao đè ngay trên đỉnh đầu. Mường So quằn mình dưới sự cai trị của người Pháp và tay sai đến năm 1954 thì đồn Cao trở thành hoang phế!
    Nơi đây, vốn là đất gốc cũ của dòng họ Đèo, gắn với tên vua ''''đất Phong Thổ'''' Đèo Văn Ân. Nếu thị xã Lai Châu (cũ), nơi sẽ chìm dưới làn nước sâu 9m khi thuỷ điện Sơn La hoàn thành, là vùng đất xưa của vua Đèo Văn Long, thì Mường So được chia dưới quyền cai quản của Ân, theo chính sách người Pháp: chia để trị.
    Đèo Văn Ân vốn người Bố Chánh (Lai Châu). Khi cha Ân bị giết, Ân chỉ mới 14-15 tuổi, ngơ ngác như con hoẵng lạc bầy. Họ Lý ở Mường So đem về nuôi, đặt tên là Ân (hoặc gọi là Ơn - NV), ý nhắc nhở sau này lớn lên phải sống có ân nghĩa, ân tình. Họ Lý vốn gốc Hoa, sang Mường So buôn bán từ thuở xa xưa, đất lành chim đậu, nên ở luôn lập nghiệp, trở thành một trong những dòng họ lớn của vùng đất này.
    Cụ Duyên nhớ lại: Ân lớn lên theo Pháp, xưng vua người Thái Mường So, nhưng không quên được mình là đứa con lưu lạc sống nhờ người Mường So nuôi lớn, nên cũng không dám ác với người dân bản địa. Ân được người Pháp dùng, cũng có lý do của họ. Cha Ân chết tức tưởi trong cuộc tranh giành địa vị với vua Thái Đèo Văn Long, nên về sau Đèo Văn Ân và Đèo Văn Long trở thành 2 thế lực tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau ở Lai Châu, trước năm 1954.
    Vua Đèo Văn Ân có tới 12 vợ, trong đó 11 người cưới hỏi đàng hoàng. Cụ Duyên kể rằng, vợ Ân người nào cũng là con gái xinh nổi tiếng vùng Mường. Có người tận miệt Lào Cai, Lai Châu về nữa. Ai cũng hát hay, múa giỏi, "trong đó bà thứ 11 xinh nhất, xào xẹ (múa xoè - NV) ác nhất", nụ cười của người già phảng phất hồi tưởng lại quá khứ(sưu tầm và post)

    [​IMG]

Chia sẻ trang này