1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

54 dân Tộc Anh Em

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi dungsamtien, 01/01/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Người Thái - Khám phá truyền tích đất xoè mường So
    --------------------------------------------------------------------------------
    Khám phá truyền tích đất xoè mường So
    Theo VNN.VN
    (VietNamNet) - "Người đẹp đi xuống suối, cá lội về xem chân/ Người đẹp đi lên rừng, chim tìm về xem mặt", một nhạc sỹ từng lặn lội về đến Mường So, ngẩn người trước vẻ đẹp của những bóng áo coóng rực rỡ hơn sắc hoa ban núi rừng vào xuân mà viết lên bài hát "Người đẹp Mường Then" ngợi ca những cô gái Thái ở miền đất này.
    Với người Thái ở Mường So, thì ngày Tết vui chơi "cũng là một trách nhiệm" của người trong bản, để cả bản có không khí vui ngày Tết. Những đội xoè từ xứ Mường So từng nức tiếng khắp một dải núi rừng Tây Bắc.
    Câu chuyện Thắm Cung
    Tháng 9/ 1979, có một người phụ nữ họ Đèo lặn lội vượt đường từ Mường So về tận Thái Bình đón 36 hộ dân lên vùng đất này lập nghiệp, xây dựng kinh tế mới. Người phụ nữ đó đến bây giờ đã gần 20 năm làm Bí thư Đảng uỷ xã, khắp Lai Châu ai cũng biết danh.
    Một tay bà đứng ra tổ chức lại phong trào ca hát, múa xoè khắp các bản làng với mong muốn bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của người Thái ở Mường So bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trước. Những đêm hội lễ được tổ chức nhiều hơn. Nhiều nghệ nhân cũ chống gậy đến dạy cho lớp cháu con trẻ những điệu múa cũ ít người còn biết đến. Nhiều bài hát, điệu múa sáng tác dựa trên nền tảng dân ca Thái xuất hiện thêm...
    Nếu ngày trước, 14 bản ở Mường So chỉ có 2 đội xoè, thì những năm sau gần đây đã lên đến con số 17. Mùng 3, mùng 4 Tết Nguyên đán, hay lễ mừng cơm mới..., khắp bản mường vang tiếng hát ca. Không chỉ vậy, những dịp kỷ niệm hằng năm, trai gái các bản tha hồ khoe tài, không còn "hiếm hoi" những đêm hội như thuở trước. Công lao đó gắn nhiều với cái tên Đèo Thị Ly.
    Người phụ nữ có gốc tích dòng tộc người Thái nổi tiếng vùng cao này hiểu Mường So như bàn tay mình. Vậy nên bà "giật mình" khi chúng tôi nói đến Thắm Cung (còn gọi là Thẳm Cung, hay Thẳm Tạo - NV), khi đang nhờ bà chỉ dẫn về xoè Thái. Trước ngày vào Mường So, trong một buổi thân tình, Phó Chủ tịch huyện Phong Thổ Vương Chí Công "rỉ tai": "Vào Mường So tìm gặp cô Ly, nhớ nhờ dẫn lên Thẳm Tạo".
    Người già ở Mường So nói rằng: Thắm Cung là vùng đất còn nhiều bí ẩn. Ít người biết đến địa danh từng một thời gắn với quá khứ của vùng đất này. Thời còn hoàng kim, vào mỗi dịp Tết đến, Đèo Văn Ân đều dắt bầu đoàn thê tử, quan quân lên chốn này vui chơi, cầu lộc trọn một ngày. Tất nhiên, không thể thiếu những đội xoè của Ân.
    Đó là một hàng đá sâu nằm trong núi Khum Bon (ngọn núi có mạch nước ngầm - NV), được người Thái ở Mường So truyền tụng là Thẳm Tạo (hang Vua - NV), hay gọi khác là Thắm Cung. Nơi đây một thời là "vùng đất cấm" đối với người dân Mường So.
    Ông Lý Thanh Duyên nói rằng, Thẳm Tạo vốn là nơi hằng năm Đèo Văn Ân đưa quan quân, người nhà lên vui chơi, đãi khách. Hiển nhiên, đó là một ngày vui chơi của vua chúa, xoè suốt ngày đêm, trong cung mịt mù khói thuốc phiện và ngập ngụa rượu chè. Dân thường chỉ có thể tưởng tượng, vì không được phép lai vãng đến gần.
    Hang đá ăn sâu vào lòng núi, với nhiều thạch nhũ hàng ngàn năm rũ xuống đầy huyền bí. Địa thế tự nhiên chia Thắm Cung thành nhiều cung cách biệt. Nơi trong cùng, là chốn giành riêng cho vua Thái cùng khách quý bàn chuyện đại sự, làm lễ thiêng cầu lộc quý đầu năm.
    Nhưng người con gái cuối cùng trong đội xoè năm xưa của Đèo Văn Ân mà chúng tôi may mắn gặp được, thì kể rằng con gái trong đội xoè không được phép bước chân vào hang núi. Tất cả hoạt động vui chơi, múa hát trong ngày đầu năm này chỉ diễn ra ngoài cửa hang. Trong hang diễn ra những việc gì, chỉ có Đèo Văn Ân cùng những người thân tín mới biết.
    Những câu chuyện về Thắm Cung vì vậy càng trở nên huyền bí.
    Nay, Thắm Cung huy hoàng xưa chỉ còn dấu vết cũ trên những vách đá ám khói đuốc một thời. Đường vào cung cũ phải đốt đuốc soi rõ mặt người mới có thể men theo những vách đá trơn trượt. Sự hoang phế đến thê lương. Chỉ còn phảng phất dấu vết một thời cấm địa.
    Truyền tích đất xoè
    Cuộc sống của người Thái vùng cao vốn khoáng đạt, yêu ca hát. Đèo Văn Ân vốn thích văn nghệ. Vậy nên dưới tay Ân, Mường So nổi tiếng với những đội xoè. Quan khách thuở trước lên Mường So đã có điện máy nổ phục vụ, được Ân đãi những đêm thuốc phiện say nồng nằm ngất ngưởng thưởng thức những đội xoè do Ân tổ chức, chỉ toàn con gái đẹp từ các bản tuyển về, múa, hát, xoè. Những đội xoè từ xứ Mường So từng một thời nức tiếng khắp một dải núi rừng Tây Bắc.
    Nghệ nhân Lò Pẩu ở xã Khổng Lào (huyện Phong Thổ, Lai Châu) cho biết: Đất Mường So vốn là "nôi"của các điệu múa xoè, các làn điệu dân ca cổ truyền của người Thái trắng, được xưng tụng rằng: Mường So - đất múa.
    Nguyên bản, xoè không có nhiều làn điệu, không bài bản như sau này. Xoè vốn chỉ là điệu múa sinh hoạt dân dã xuất phát từ đời sống văn hoá của người miền núi cao Tây Bắc từ đời xưa truyền lại: đối đáp làm quen, cầm tay múa hát, cùng đi làm nương... rồi gả cưới.
    Dưới thời Đèo Văn Ân, những điệu múa, khúc hát quen thuộc được phổ vào xoè, vậy nên xoè có tới hơn 30 làn điệu. Những làn điệu dân gian quen thuộc: hát Ói Ói, hát Nôm, hát Then... bởi vậy mà phổ biến hơn bao giờ hết.
    Với người Thái ở Mường So, thì ngày Tết vui chơi "cũng là một trách nhiệm" của người trong bản, để cả bản có không khí vui ngày Tết. Mỗi bản có một nhà họp, sân rộng để bà con quây quần tụ hội. Cuối chiều, sau hai hồi ba tiếng trống báo hiệu, nam thanh nữ tú, già trẻ gái trai cùng có mặt. Đêm tối thì thắp đèn dầu, hoặc đốt lửa củi. Trăng sáng thì tiệc xoè tổ chức ngoài sân. Từ ngày mùng Một tới 15 tháng Giêng, đêm nào cũng có tiệc múa xoè. Đúng ngày 15 tháng Giêng, xào xẹ suốt ngày đêm. Mường So được gọi là đất xoè có thể cũng vì lẽ đó.
    Vùng Vàng Bâu (Vàng gọi theo âm địa phương là Vằng, tiếng Thái nghĩa là vũng nước - NV) vang danh đất Mường bởi là cái vùng đất sinh nhiều con gái đẹp, hát hay múa giỏi nổi tiếng khắp mường. Được biết đến nhiều nhất là 2 chị em Nang (nàng - một chức phong cho con gái họ quý tộc - NV) Đèo Thị Bảư, Đèo Thị Neng. Nghe đâu, hai nàng từng về tận Hà Nội biểu diễn những năm sau ngày Phong Thổ mới giải phóng.
    Mà con gái Thái ở Mường So thì đẹp nức tiếng Tây Bắc từ xa xưa. Nhạc sỹ Vương Khon từng từ Điện Biên tìm về vùng đất này, ngất ngây với vẻ đẹp hoa ban núi rừng Mường So mà viết nên "Người đẹp Mường Then" ca ngợi: "Người đẹp đi xuống suối, cá lội về xem chân/ Người đẹp đi lên rừng, chim tìm về xem mặt"
    Người Thái Mường So có một "vùng đất thiêng" gọi tên Phai Mo. Nơi đây, ngày 30 Tết, trai mường gái bản đều tìm vào. Con gái mang theo nắm quả bồ kết khô, con trai tay cầm thanh kiếm quen dùng. Phai Mo là lạch nước từ trong núi chảy ra. Đống lửa đốt lên, con gái nướng quả bồ kết lên hương thơm lừng, dùng thanh kiếm đập dập, ngâm nước gội đầu xua đi những rủi ro, cầu mong năm mới tốt lành.
    Dòng nước từ Phai Mo chảy xuôi những ngày này ngát hương thơm. Đèo Văn Ân ngày trước cũng phải theo tục lệ cuối năm như vậy. Thậm chí, Ân phải lập ở nậm (nặm) Lùm (suối Lùm) một căn nhà nhỏ, để cuối mỗi năm tìm vào.
    Vậy nên người già ở Mường So còn nhớ tích cũ: Hằng năm, tại nặm Lùm, Đèo Văn Ân đều bắn súng thử ngọc. Nhiều viên ngọc được đặt cạnh bờ suối, Ân rút súng bắn không tiếc đạn. Sự hoang phí chỉ chấm dứt khi nào một viên ngọc không vỡ khi bị bắn trúng. Viên ngọc đó sẽ được vua Đèo Văn Ân mang theo bên mình suốt năm, như một lá bùa hộ mệnh để tránh mũi tên, hòn đạn trong những lần ra trận. Năm sau, lại thêm một lễ "thử súng bắn ngọc" diễn ra ở nặm Lùm.
    Người già nói: "Vua Đèo Văn Ân thuở ấy không quá ác", không có nghĩa Ân đã có thể "đỡ đần" cuộc sống người Mường So lúc bấy giờ. "Vùng đất ăn xin" vẫn quằn quại dưới chân Đồn Cao, cũng như cuối mỗi tuần, lính Ma-đốc vẫn ào từ trên đỉnh Phu Nhọ Khọ xuống bản Vàng Pheo lùng bắt gái đẹp.
    Cụ Duyên kể rằng: "Mường So thuở ấy ai cũng làm nô hết. Con gái còn trẻ bị bằt vào đội xoè phục vụ các quan, già mới được rời đội. Nói là đi xoè cho quan nhưng thực chất là bị ép làm gái". Nhưng xào mỗ (tiếng Thái chỉ những người con gái múa xoè- NV) cuối cùng trong đội xoè năm xưa lại nói rằng không phải như vậy!
    ... Những viên ngọc may mắn của Đèo Văn Ân cũng không giữ được cho vua Thái một thời ở đất Mường So sự trường tồn. Cũng giống như cách cụ Duyên giải thích: nậm Lum là nơi dễ mưa dễ lũ, có mưa nước tràn. Âu cũng giống tính cách người lập trường không vững. Đèo Văn Ân chọn nơi này cầu lộc cũng là thiên định. Bằng chứng là Mường So bây giờ đã khác xưa nhiều lắm.
    Câu trả lời trả lời đúng về cuộc sống thực của những xào mỗ lúc bấy giờ, thì không phải nhiều người đã biết. May mắn, chúng tôi tìm được xào mỗ cuối cùng từng có 13 năm phục vụ trong đội xoè của vua Đèo Văn Ân năm xưa còn sót lại ở Mường So, để nghe bà kể về cuộc sống thực của xào mỗ những ngày chưa xa ấy (sưu tầm và post...)
    [​IMG] [​IMG][​IMG]
  2. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Lễ mừng sinh nhật của người Dao ở Lạng Sơn
    --------------------------------------------------------------------------------
    Lễ mừng sinh nhật của người Dao ở Lạng Sơn
    Theo www. vietnamtourism.com
    Mỗi dân tộc, mỗi tộc người đều có những phong tục tập quán riêng của mình. Đối với dân tộc Dao ở Lạng Sơn thì có có một phong tục rất hay là Lễ mừng sinh cho người cao tuổi.
    Người Dao ở Lạng Sơn không có tục giỗ người đã chết mà chỉ có lễ mừng sinh nhật. Việc tổ chức sinh nhật không phải là bắt buộc với tất cả mọi người. Nó phụ thuộc vào sự hiếu nghĩa của con cháu, vào hoàn cảnh kinh tế của từng gia đình. Người già nào được con cháu mừng sinh nhật thì vô cùng tự hào và cảm thấy phấn khởi vô cùng. Thật chẳng có nguồn động viên nào sánh được.
    Thông thường khi trong nhà có người già (thường từ 60 tuổi trở lên) con cháu sẽ chọn một năm mà kinh tế khấm khá nhất, mùa màng bội thu để tổ chức sinh nhật và đó là sinh nhật năm đầu. Khách được mời đến dự là anh em, bạn bè, hàng xóm và đông đủ con cháu trong nhà. Cỗ bàn sẽ được bày biện như một tiệc cưới. Về phần nghi lễ thì rất đơn giản. Họ mời một thầy cúng đến khấn vái để báo và mời tổ tiên ở nơi chín suối về chứng giám và dự ăn mừng (người Dao chỉ có thờ cúng tổ tiên).
    Khách đến nhà, thủ tục đầu tiên là đến chào và chúc sức khoẻ chủ nhân buổi lễ, đồng thời là tặng quà. Quà mừng thì cũng không cầu kỳ, câu nệ lắm. Có thể là quần áo, tiền hoặc một vật phẩm nào đó. Những năm tiếp theo thì sẽ tuỳ theo hoàn cảnh, điều kiện kinh tế gia đình mà mời khách ít hoặc nhiều. Cũng có thể chỉ trong phạm vi gia đình.
    Phong tục mừng sinh nhật cho người cao tuổi của người Dao ở Lạng Sơn cho chúng ta một cái nhìn khách quan về việc tổ chức sinh nhật mà bấy lâu nay có người vẫn nghĩ đó là một "trò" bày vẽ tốn kém. Mặc dù người Dao có đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn song họ vẫn duy trì được việc tổ chức lễ mừng sinh nhật thì quả là đáng quý. Đó là cái nghĩa, là một truyền thống tốt đẹp con cháu của nhiều thế hệ người Dao ở Lạng Sơn vẫn giữ được. Họ đã để cho tuổi già hưởng một niềm vui và hạnh phúc./ (sưu tầm và post)
    [​IMG]
  3. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Lễ cúng rừng của người Dao
    ..............................................................................................................
    Cứ vào đầu xuân hàng năm người Dao (Thanh Phán) bản Mậu xã Thanh Sơn - Sơn Động - Bắc Giang lại tổ chức lễ "Cúng rừng" với lễ nghi trang trọng được diễn ra trong 10 tiếng đồng hồ vào ban đêm tại nhà già bản.
    Mọi việc chuẩn bị được xem đã chu tất, không khí trong bản vui vẻ nhộn nhịp hẳn lên, mọi người sửa soạn bàn thờ tổ tiên, nhà cửa sạch sẽ, những chàng trai, cô gái vui vẻ trong những bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình, những bài hát, điệu múa được các nam nữ người Dao đã luyện tập công phu để phục vụ lễ cúng rừng, những tiếng nói, tiếng cười, tiếng kèn gọi bạn của các bạn nam thanh niên người Dao làm vang động cả vùng thung lũng bản Mậu dưới chân núi Yên Tử hùng vĩ. Lễ cúng rừng được mời 2 thầy cúng về làm lễ, dân bản tập trung tại nhà già bản, khi lễ nghi chuẩn bị xong 2 thầy bắt đầu vào cúng, một thầy mặc áo dài đỏ ngồi trên một chiếc bàn để giữa nhà cùng hương vàng, một thầy mặc áo dài đen ngồi dưới đất cúng, theo quan niệm của người Dao bản Mậu cho rằng thầy mặc áo dài đỏ ngồi trên bàn cúng là tượng trưng cho trời, thầy mặc áo dài đen ngồi dưới đất là tượng trưng cho đất, trước sân là những cành lá tươi được cắm xuống nền đất tượng trưng là rừng nguyên sinh.
    Khi vào cúng thầy ngồi trên bàn khởi đầu bằng ba hồi tù và qua 4 phía Đông, Tây, Nam, Bắc, sau đó thể hiện bài cúng của mình, sau tạm dừng và tiếp đến bài cúng của thầy mặc áo dài đen cúng đối đáp với thầy mặc áo dài đỏ, sau đó một tốp người cầm dao, múa xung quanh rừng cây bị chặt phá tượng trưng rừng đã bị tàn phá, khi chặt xong, thầy ngồi trên bàn lại thổi một hồi tù và thay lời kêu gọi mọi người trả lại màu xanh cho rừng, sau thầy thể hiện bài cúng thứ hai, kết thúc bài thứ 2 nam nữ người Dao cầm cuốc, dao múa hát cầm những cành cây trồng xuống đất tượng trưng trồng lại rừng, khi trồng xong thầy mặt áo dài đen, đặt một mâm với 3 con gà hầm sẵn cùng bánh trôi nước dưới đất và cúng bài thứ 2, đây là bài cúng thổ địa chứng giám con người hứa trước thần linh từ nay dần bản không phá rừng nữa. Chấm dứt bài cúng của thầy mặc áo dài đen, thầy mặc áo dài đỏ ngửa mặt lên trời thổi một hồi tù và cầu trời xin nguồn nước về cho dân bản. Chấm dứt hồi tù và nam nữ thanh niên múa hát xung quanh rừng cây mừng đã trồng được rừng mới. Khi công việc đã chu tất thì trời đã sáng, dân bản sắp thịt rượu ra mời mọi người cùng cạn chén chúc nhau khoẻ mạnh, mừng rừng cây xanh tốt.
    ................................................................................................
    Hôn lễ người Dao
    Theo vn.net
    ..................................................................................................
    Khi người con trai, con gái dân tộc Dao đến tuổi 12-13, cha mẹ của họ đã tính đến chuyện tìm vợ gả chồng cho con. Một cô gái nếu lọt vào mắt bố mẹ chàng trai nào đó, ngay lập tức gia đình chàng trai chuẩn bị lễ vật sang nhà cô gái xin về làm dâu. Đến ngày đã định, đại diện nhà trai (gồm hai thầy cúng) là thầy Na Man làm lễ khấn vái trước bàn thờ gia đình nhà trai nhằm báo với tổ tiên về việc đi đón thêm người về nhà. Đoàn đón dâu gồm 9 người (6 nam 3 nữ) cùng chú rễ và các lễ vật (gói muối được gói trong giấy đỏ, trầu cau, lọ rượụ..) bắt đầu đi từ trong nhà sang nhà trọ (nơi được chuẩn bị trước) và dựng lại ở đó. Lúc này ba cô gái trong đoàn nhà trai thay đổi lễ phục, đội nón bạc, đeo các đồ trang sức. Đến giờ định trước, đoàn nhà trai rời nhà trọ để sang nhà gái đón dâu. Đi một đoạn, đoàn đón dâu bị chặn lại bởi một ''ải nhỏ'' (đây là ải 1) do nhà gái dựng lên để thử thách nhà trai bằng những câu hát đối đáp. Hai bên hát đối đáp cho tới khi những người bên nhà gái đồng ý cho qua, đoàn đón dâu mới được đi tiếp.
    Trước khi hai bên mời nhau uống rượu, đoàn nhà trai phải thưởng tiền cho những người hát đối đáp bên nhà gái. Cứ như vậy đoàn nhà trai phải vượt qua hai ải nữa, mỗi ải là một thử thách lớn đối với những người hát đối đáp. Họ phải ứng xử nhanh, hiểu biết phong tục mới có thể đưa đoàn nhà trai đi tiếp được. Qua đủ ba ải, đoàn nhà trai tiến thẳng vào nhà gái. Họ được mời vào mâm riêng. Các cô chuy mụ (phù dâu) phải ngồi riêng hát mừng. Lúc này nhà trai xin nhà gái trao giấy khai sinh để làm lễ Bản mệnh cho đôi trẻ.
    Kết thúc lễ Bản mệnh, đoàn nhà trai đi ra khỏi nhà gái. Khi bên trong nhà gái dựng xong ''cửa bố mẹ'' (hình thức giống như các cửa ải trước), họ mời nhà trai vào nhà. Hai bên tiếp tục hát đối đáp với nhau. Hát xong nhà trai xin nhà gái cho làm lễ Họp chánh (kết duyên đôi lứa). Lúc này ông Tá (chủ lễ nhà gái) đưa chú rể và cô dâu vào buồng tiến hành lễ. Kết thúc nghi lễ ông Tá niệm phép thu vía cô dâu. Chú rể vào ô (đã được chuẩn bị từ nhà). Xong đâu đấy, chú rể rời nhà gái về nhà trọ còn cô dâu vào buồng khác nghỉ. Nhà trai và nhà gái tiếp tục hát đối đáp với nhau tới gần sáng mới nghỉ để sáng hôm sau tiếp tục hành lễ.
    Ngày hôm sau, chú rể và cô dâu cùng hai họ làm lễ Pay Đòng (Bái Đường). Nhà trai công bố tên những người tới mừng đám cưới. Khi nhắc tới tên ai, chú rể tới vái đáp lễ người đó. Tới chiều hai họ làm lễ Póng Diền (kết thúc hôn lễ). Hai họ tổ chức hát đối đáp từng người với nhau. Đại diện nhà trai hát với đại diện nhà gái để xin cô dâu về nhà chồng, kết thúc hôn lễ tại nhà gái. Đoàn đón dâu về đến trước cửa nhà phải qua một ải nhỏ (do nhà trai lập).
    Nhà trai hát hỏi những người nhà gái lý do tới đây. Khi họ hát trả lời xong, mọi người cùng nhau vào nhà làm lễ Pay Đông (lạy tổ tiên). Khi hành lễ, cô dâu và chú rể được đưa voà buồng. Phía ngoài ông Tá và phía nhà gái lạy tạ tổ tiên đã phù hộ mọi người cùng tổ chức bữa cơ rượu làm lễ Phan Mệnh (trao bản mệnh). Ông Tá trao giấy khai sinh cho bố mẹ chú rể và làm lễ để nhận dâu. Đêm đó hai họ lại hát đối đáp với nhau vui vẻ đến sáng hôm sau mới kết thúc hôn lễ. Ngày nay, tục cưới của người Dao đã đơn giản. Trai gái không kết hôn quá sớm ở tuổi 12-13 như trước đây (sưu tầm và post)
  4. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Các món ăn lam của người Cơ Tu
    (Nguồn vtv)
    ....................................................................................................................
    Người Cơ Tu hay dùng cách lam để nấu. Thức ăn cho vào ống nứa tươi, nướng chín. Không chỉ có cơm lam, thịt chim hay cá lam cũng có hương vị rất hấp dẫn.Món lam phổ biến của người Cơ Tu đầu tiên phải kể đến là món zră. Đây là món hổ lốn được nấu trong ống nứa. Nguyên liệu gồm rau, măng, dọc mùng, thịt rừng hoặc có suối, ít con mối và chú dế bầu hoặc vài con dế dũi... tất cả cho vào ống nấu tươi và cho lên bếp đun chín. Khi nấu vừu chín tới, người ta lấy gai mây (áp dương) cho vào ống, một tay thọt (zăr) nhẹ nhàng cho đến khi các món trong ống nhừ ra, quyện vào nhau thành một chất dẻo. Khi đó muối, ớt được bỏ vào, thọt cho đều và nhắc ra, có thể bỏ thêm một ít rau thơm và mì chính. Món này chấm sắn rất được ưa thích. Tuỳ theo con vật bắt được, món Zăr có tên riêng khác nhau. Ngoài việc đồ xôi, đồng bào Cơ Tu thường nấu nhiều cơm lam để ăn và đãi khách trong lễ Tết. Cơm lam (aví hor), cơm nếp lam (koo đép) là món ăn được ưa thích bởi gạo tẻ hoặc gạo nếp được nấu trong ống nứa. Trước khi nấu, thường ngâm cho gạo mềm và sau đó cho vào ống, lấy lá chuối nút lại và đặt trên bếp. Ngồi bên bếp lửa cầm ống nứa trở qua trở lại thì ống nứa bắt đầu sôi lên và bớt chín tới. Trước khi mang ra đãi khánh, các ống cơm lam đều được chẻ bỏ bớt phần cật nứa bên ngoài cho sạch, chỉ để lại phần lõi bên trong. Người ăn có thể cầm cả ống cơm lam tách phần nứa còn bám vào để lấy cơm ăn hoặc có khi chủ nhà cắt thành từng khúc để mời khách. Tuy nhiên, khi ăn cơm lam khách tự bóc sẽ thú vị hơn. Bóc làm sao để vẫn giữ được lớp vỏ lụa trắng mỏng manh của cây nứa thì mới cảm nhận hết chất thơm ngon, dẻo ngọt của xôi nếp. Cá nấu trong ống nứa (koo gdhoong) cũng là món phổ biến của người Cơ Tu trong lễ Tết. Cá được nướng trong ống cho cháy ống, cá khô như được phơi rồi để dành ăn dần. Thịt nấu trong ống cũng có hương vị hấp dẫn, nhất là bộ lòng trâu, bò, heo, dê làm sạch cho vào ống nấu, thịt cứng săn lại, khô, thơm ngào ngạt. Trong các dịp lễ Tết, nhất là lễ cưới, người Cơ Tu còn làm nhiều ống cơm rượu (cha chắc) để đãi khách. Cơm rượu được làm bằng nếp huyết hay nếp than. Khi nấu cơm nếp trộn men vào rồi cho vào ống tre để vài ngày cho lên men thành cơm rượu. Cơm rượu ống tre có vị thơm, ngọt, ăn nhiều có thể say nhẹ như người uống rượu. Trong những loại lương thực, thực phẩm được chế biến, món lam chiếm vị trí đáng kể nhất và là yếu tố quan trọng trong văn hóa ẩm thực của người Cơ Tu. Một lễ hội lớn, đồng bào có thể làm nhiều món lam khác nhau, nhất là dịp Tết và lễ cưới thì có đến hàng chục gùi món ăn lam. Cái ngon của các món ăn lam là giữ được hầu như nguyên vẹn hương vị tự nhiên của lương thực, thực phẩm mà còn mang đậm tập quán của dân tộc.
    sưu tầm và post [​IMG](CƠM LAM)

Chia sẻ trang này