1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi dongadoan, 14/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Trong tầm pháo của Sài Gòn, bộ đội công binh cs đặt một chiếc cầu trong vòng không đầy một ngày. Với nó, hàng tá xe tăng, đại bác hạng nặng và mấy chục xe vận tải vượt sông Đồng Nai để tấn công Sài Gòn từ hướng Tây. Khoảng chừng hơn10 sư đoàn đã bao quanh Sài Gòn và nằm im chờ lệnh tấn công. Nửa tá các sư đoàn khác đang đứng sau lưng họ, sẵn sàng bổ xung cho tuyến xung phong. Về phía Bắc và Đông Bắc, cs ở trong vòng 20 dặm đối với thủ đô. Về phía Đông, họ cách chừng 30 dặm. về phía Tây và Tây Nam, sau khi Thiệu từ chức, cs đang thay đổi đội hình nhưng cũng chỉ cách Sài Gòn vào khoảng 30-35 dặm.
    Đến ngày 26-4, Sài Gòn là mục tiêu nằm trong tình thế đợi phía bên kia bấm nút. ?oNgười Mỹ các ông? lừng khừng không di tản sao được nữa.
  2. meomunchamchap

    meomunchamchap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG 12: TRƯỚC LÚC ĐÀU HÀNG
    Loại A.37 được mang đến VN là do không quân Mỹ trao cho phi công SG. Nó là loại oanh tạc tấn công nhỏ nhưng tốt nhât trong không quân SG. Khoảng 20 chiếc đã bị bỏ lại ở Đà nẵng và hầu như có thể bay đwợc sau khi tu bổ chút ít. Một điểm thuận lợi chính lầ kích thước của nó, chỉ cao ngang tầm vai và có thể bảo quản dễ dàng bởi cỡ người thấp nhất của dân phương Đông vốn nhỏ bé. Nó bay dưới mức siêu âm, nguyên thuỷ là một máy bay huấn luyện và vẫn còn giữ hai chỗ ngồi kề nhau như khi ông thầy và học sinh ngồi bay. Phi công Hoa kỳ nhận thấy nó là loại máy bay lý tưởng cho cuộc chiến VN, đặc biệt vì nó bay chậm, do đó làm cho phi công có thể thực sự nhìn thấy mục tiêu đang tìm cách đánh trúng.
    Nó chẳng phải loại máy bay "con ma" thậm chí nó không thể bay từ SG đi Hà nội để oanh tạc được, tầm hoạt động của nó giới hạn nên đó là lý do khiến ngwời Mỹ có thể giao nó cho quân đội SG. Nó giản đơn so với chiếc phản lực nhưng như thế không có nghĩa là giống như xe hơi kiể T cổ lỗ của Hoa kỳ. Nó bay thuờng xuyên và tốt, chính xác, tuy chỉ sử dụng được vào ban ngày, không bay được trong mưa giông lớn. Nó không có vũ khí tự vệ để chống lại phi cơ khác, không có tên lửa không đối không. Đáng buồn là chính những máy bay ấy lại quật bom vào Tân Sơn Nhât, bịt nốt cái phi cảng cuối cung mà người Mỹ có thể hy vọng di tản qua con đường đó.
    Còn một loại bom được để ở Thái lan và chỉ có một ít nằm ở đấy vì sợ tai tiếng chính trị. Số ít người Mỹ biết được sự có mặt của chúng ở Thái lan đã gọi chúng là vũ khí tối hậu mà các sĩ quan không quân Hoa kỳ mê mệt. Chúng chỉ là một trong số hàng trăm vũ khí không nguyên tử và có tính chất huỷ diệt vốn xuất phát từ quỹ nhiều tỷ đô la tài trợ cho quân đội Hoa kỳ giữa thập kỷ 60 để tiến hành chiến tranh VN. Mục đích các chương trình này là khám phá ra cách giết nhiều địch trong khi lực lượng Mỹ tổn thất ít hơn. máy bay không người lái, lựu đạn cải tiến, bom CBU.55 chỉ là số ít trong những kết quả đạt được.
    Bom CBU (viết tắt của các chữ Cluster Bomb Unit) với số hiệu 55 là một trong những vũ khí đáng sợ, có ba khoang chứa đầy nhiên liệu protan, một hỗn hợp bí mật các loại chất khí khác và chất nổ. CBU.55 chưa hề được sử dụng trong chiến tranh. Một số lượng nhỏ loại bom này được để ở Thái lan phòng hờ bất trắc. Tuy nhiên cho đến 4-1975, ít người Mỹ nào lại dám đề nghị sử dụng nó.
    Đầu tháng 4, một quả bom CBU.55 được trở bằng máy bay từ căn cứ không quân Utapao đến SG rồi chuyển bằng xe tới căn cứ không quân Biên Hoà. Thứ vũ khí này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát kỹ thuật của Mỹ mặc dù nằm trong tay không quân SG. Thiệu từ chức vẫn không có cách gì cứu vãn đà sụp đổ của quân đội SG, tướng Homer Smith, sĩ quan cao cấp nhất của Mỹ ở Nam VN đã cho phép SG sử dụng loại vũ khí ấy. Các sĩ quan SG đã chọn Xuân Lộc làm mục tiêu khi lực lượng SG đãng rut lui và CS đang tiến về SG. Một máy bay vận tải C.130 được lệnh chuẩn bị sẵn sàng vào sáng 21-4. Quả bom CBU.55 được chất lên. Con ngựa bốn động cơ của hãng Lockhead cất mình nhẹ nhàng khỏi cái phi đạo Biên Hoà và bay thẳng đến Xuân Lộc.
    Ở độ cao 6.000m, cánh cửa vỏ sò ở đuôi máy bay mở ra. Cái dù thăng bằng đeo quả bom rơi vào không trung... Với một tiếng rền nghe có vẻ dồn nén kỳ lạ, và một quả cầu lửa khổng lồ bùng lên. Phi hành đoàn kinh sợ nhìn xuống...
  3. meomunchamchap

    meomunchamchap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Trong vòng hai ngày, đài Hà Nội đã công kich việc sử dụng loại vũ khí mới ấy. Họ miêu tả đúng nó, có lẽ do báo cáo của csc điệp viên ở Tân Sơn Nhất và Biên Hoà. CS coi đó lanỗ lực sau cùng trong lúc tuyệt vọng của quân đội SG mà cũng đúng thế thật. Bom CBU.55 không đưọc chở đến nữa. Loại có sẵn ở đó sau này được đem ra phòng trưng bày "tội ác chiến tranh" ở thành phố Hò Chí Minh.
    Cũng còn những vũ khí khác được sử dụng trong nhwngx ngày chiến đấu luýnh quýnh sau cùng. C.130 ném dăm ba quả bom loại 15.000 cân Anh (khoảng 7 tấn rưỡi) xuống các vị trí Bắc VN. Các trực thăng lớn ném "thùng phuy xăng" một thứ bom napan chế tạo nội địa gồm có xăng và mảnh vụn xà phòng hiệu Tuyết Ngà (Ivory Snow). Cũng vì B52 không có thể giúp sức SG được nữa nên đã có nỗ lực tìm cách biến loại C.130 thành máy bay ném bom. Những chuỗi bom 500 cân Anh còn nguyên trong thùng được đẩy ra sau đuôi máy bay vận tải cho rơi xuống. Chúng có chung tác động với cuộc chiến: chẳng làm nổi trò trống gì. Cũng như B52, hầu hết loại bom chùm này cũng chỉ gây tổn thất cho môi trường và đám khỉ.
    Các vũ khí bí mật như vậy đã chẳng giúp SG thắng nổi cuộc chiến thì chính trị cũng chẳng làm được gì hơn. Chẳng có sự ủng hộ nào dành cho Hương, dù vài người cũng tin rằng lão già ấy có thể quy tụ được sự ủng hộ nào đó. Martin, đại sứ Mỹ, J. M. Herillon đại sứ Pháp, Trần Văn Lắm, Dương Văn Minh đều có những ý kiến riêng biệt được hoặc quyện vào nhau về cách thức chấm dứt cuộc chiến. Ai cũng muốn hành động tức khắc nhưng giống như diễn viên trong phim hài hước rẻ tiền, họ đụng nhau côm cốp. Không ai biết tất cả những chuyện mà ba người kia đang làm và không ai ủng hộ hoàn toàn việc làm của một trong ba người kia. Có thể so sánh họ với chuyện "Ba thằng hề cộng một".
    CS lúc đó chưa kêu gọi một cuộc đầu hàng. Đòi hỏi tuyệt đối không được thương lượng là "tất cả lực lượng quân đội Hoa kỳ phải rut ra khỏi Nam VN". Hà Nội ép SG đang thua phải nhượng bộ. CS đã đi theo con đường ấy suốt 43 năm lịch sử. Không bao giờ nhường một tấc trong khi vẫn thúc đẩy để mang về từng thắng lợi ngoại giao hoặc quân sự. Họ chưa hề rut lui trong các đòi hỏi công khai. Giống như một đấu thủ quần vợt đứng sát lưới, họ không để đấu thủ ngoại giao có khoảng trống. Trái bóng chỉ ở sân họ trong tích tắc và không để chạm đất đã nẩy lên. Trong năm 1975 này, B52 không còn lảng vảng gần Hà Nội nữa.
  4. meomunchamchap

    meomunchamchap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    ... Cuộc không vận của Mỹ di tản tăng lên hàng ngày. Ngày 24-4, có 24 chuyến bay, phần lớn là loại C.141 với 250 người một chuyến. Ngày 25-4 có 26 chuyến và 26-4 có 31 chuyến. Tầu bè chũng bị gom vào dịch vụ di tản. Martin cho phép trả tiênhối lộ cho cánh sát SG tại sân bay Tân Sơn Nhất để đem người VN đi qua trạm kiểm soát vào sân bay tham gia di tản. Cứ 20 đô la một xe qua. Trong 10 ngày cuối cùng, tốn khoảng 50.000 đô la. Có lính gác VN đòi giá rất cao và cũng đượ người Mỹ thoả mãn. Có lẽ 250.000 đô la, thậm chí 500.000 đô la là món tiền hối lộ đã lọt vào túi họ. Suy cho kỹ thì đây là cách nhục mạ cuối cùng mà người Nam VN đối với người Mỹ. Đến VN với một mong muốn giúp đỡ - tuy có thể còn phải bàn cãi điều này là phạm sai lầm - người Mỹ giờ đây phải bỏ tiền ra mua lấy sự thoát thân của họ.
    Cuộc chiến chưa ngừng lại dù rằng nó giảm xuống mức gần như đứng yên. Nơi thấy rõ điều này là Biên Hoà, căn cứ lớn nhất còn trong tay quân đội SG. Chiến trận ở đây là tiếng còi và tiếng rít xé gió, thứ âm thanh đáng sợ nhất thế giới. Đạn pháo nổ và hoả tiễn ập xuống Biên Hoà với con số ngày càng tăng.
    Vào buổi sang Xuân Lộc sụp đổ cũng là ngày Thiệu từ chức thì đạn pháo của CS đã làm phi đạo bị tê liệt mất nửa ngày. Nửa lực lượng không quân SG nằm bẹp. Hai ngày sau, đạn pháo và hoả tiễn vẫn còn rơi xuống làm cho không ai ngủ ngon giấc qua đêm. Chúng rơi trúng kho bom rồi trúng cả máy bay. Trực thăng giờ đây trở thành vô dụng và phi công Nam VN không bay nữa. Ở Biên Hoà hãy còn một ít cố vấn Mỹ đang sửa chữa những chiếc trực thăng để chúng có thể tham chiến. Nhưng khi sửa xong máy bay thì phi công SG lại không chịu bay. Lưới lửa phòng không Bắc VN đã áp sát Biên Hoà khiến các phi công SG xem trực thăng chỉ là phương tiện để dự trữ chứ không phải là cái gì khác.
    Cố vấn Mỹ nổi cáu nhưng người VN khư khư giữ quyết định của họ. Hầu hết người Mỹ đi SG để về Hoa kỳ. Ngày 23-4, tình hình pháo kích vào Biên Hoà tăng thêm và quân CS bao vây căn cứ thì không quân SG bèn rut đi. Máy bay F.5 chuyển về SG, loại A.37 thì về Cần Thơ. Các phi công được cho đi phép một tuần rồi được bảo là sẽ về trình diện ở SG hoặc Cần Thơ. Xe vận tải được gom lại để chuyển bom từ Biên Hoà về các căn cứ mới. Thế là hơn một nửa lực lượng không quân SG đã bị xếp cánh. Cùng ngày ấy, "lãnh sự quán Hoa kỳ" ở Biên Hoà vẫn mở cửa. "Vâng, mở cửa vô hạn định". Ngày hôm sau, cánh cửa đã khoá tịt lại. Người Mỹ đã trốn trong đêm về SG bằng một chiếc trực thăng. Người ta hy vọng lá cờ nhiều sao mà họ bỏ lại tiếp tục bay trên lãnh sự quán sẽ giúp ngăn ngừa sự hoảng loạn ở Biên Hoà.
    Lãnh sự quán ở Cần Thơ cũng thế. Họ cũng chuồn về SG ban đêm bằng trực thăng. Người Mỹ từ lâu vẫn nói rằng châu thổ sông Cửu Long là thìa khoá của Nam VN vì rât đông dân giờ đây lại bỏ ra đi trước khi cuộc chiến bắt đầu.
  5. meomunchamchap

    meomunchamchap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Ngày 25-4, Bộ Tư lệnh Bắc VN hỏi các phái đoàn Bắc VN và VC tại sân bay Tân Sơn NHất rằng họ cần bao nhiêu thời gian để chuẩn bị sẵn sàng đối phó với "cuộc giải phóng" bằng bạo lực. Vài phút sau, nột điện mật trả lời rằng cấp trên không phải lo lắng cho những người ở đây. Mọi người owr trại David sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho thắng lợi sau cùng.
    Cách SG 6 dặm về phía Bắc, lùi vào quốc lộ đi Biên Hoà 3 dặm, bộ đội Bắc VN đã chuyển pháo 105 ly đến cánh đồng trống ngay sau các rặng cây và nhà cửa. Họ ít tiếp xúc với dân chúng. Những ai bước ra khỏi nhà để nói chuyện với "quân giải phóng" đều được bảo là nên tránh xa khu vực ấy. Sắp có một trận đánh lớn vào SG và những khẩu đại bác này sẽ phá thành phố thành tro bụi nếu cần. Nhưng họ không biết khi nào thì trận đánh sẽ xẩy ra.
    Các sĩ quan cấp thấp thuộc 4 sư đoàn Bắc VN đã chuyển đến những vùng sát phía Bắc SG. Giữa ban ngày, họ đã tiếp xúc với VC nằm vùng. Hầu hết những người này thuộc trung đoàn Đồng Nai cũn. Bộ đội Bắc VN nói rằng cuộc tấn công SG sắp xẩy ra. VC sẽ là người dẫn đường. Nhiều bản đồ đưa ra và những người CS trong vùng chỉ cho các sĩ quan biết những con đường, nơi bố trí phòng thủ và các mục tiêu chủ chốt. Các lực lượng CS vẫn chuẩn bị một cuộc tấn công toàn lực vào SG, nhưng họ vẫn hy vọng sẽ không cần thiết phải làm như vậy. Xét cho cùng một cuộc đầu hàng cẫn tốt hơn nhiều so với cuộc tấn công tàn phá thành phố. Các nhà chính sách của họ bèn chọn ngày 28-4 là kỳ hạn cuối cùng.
  6. meomunchamchap

    meomunchamchap Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Điều buôn cười lúc này là sự giả vờ can đảm của Nguyễn Cao Kỳ. Kỳ đang tính chuyện bên lề với Bộ trưởng quốc phòng Mỹ nhằm đem các máy bay đi không để lọt vào tay CS và cũng đã gửi vợ đi theo các cuộc di tản khỏi Nam VN. Thế mà Kỳ vẫn được một số người Mỹ tin là can đảm.
    Việc Kỳ muốn nắm quyền hành ở Nam VN thì gần như chuyện công khai. Trong khi kêu gọi Thiệu từ chức, suốt mấy tuần qua Kỳ tự xem mình như là tổng thống, là kẻ cầm đầu cái chế độ ngắc ngoải này. Thế là khi đứng trước đám đông độ 6.000 người thiên chúa giáo khuynh hữu và xế trưa thứ sáu 25-4, cái ngổ ngoá của viên tướng không quân này còn nguyên vẹn. Kỳ nói chuyện phòng thủ SG, rằng những kẻ chạy trốn theo Mỹ là hèn nhát. Đàn bà và trẻ con đã được gửi đi đảo Phú Quốc. Dân SG sẽ đứng lên chống +, Kỳ ở tuyến đầu. Trong lúc bốc lên, viên tướng râu dê này nói nếu cần thành phố sẽ trở thành Stalingrad, nơi đã cầm cự 900 ngày trong vòng vây hãm. Ít ra nhân dân thế giới cũng nhớ đến sự anh dũng của những người bảo vệ Stalingrad chứ sẽ chẳn ai thèm nhớ đến SG nếu nó chịu đầu hàng ngay. Kỳ khuyên mọi người đừng di tản, hãy đứng lên mà chiến đấu. Việc phân phối vũ khí sẽ làm ngay, mọi người nên ở lại SG. Đám dân di cư đã từ Bắc VN vào đây từ 1954 bị kích động đã hoan hô Kỳ rầm rĩ...
    Nhưng sĩ khí chống + chỉ thế thôi đấy. Sau đó Kỳ bỏ vào sân bay Tân Sơn Nhất để sắp xếp cho các máy bay di tản sang Thái lan và đồng thời cũng bí mật ra lệnh cho một chiếc trực thăng đến đón mình. Chẳng dại gì mà liều ở lại với CS. Tấn tuồng chống cự của viên tướng can đảm nhất quân đội SG công diễn âm thầm độ nửa giờ là đóng màn. Dù sao các nhà báo nước ngoài lúc ấy cũng ghi vào sổ tay chi tiết đó.
    Còn Thiệu và mụ vợ thì đang bận gói ghém vàng, kim cương, ngọc thạch và đồ cổ. Công việc đó là 16 vali quần áo, tư trang và theo tin ở dinh thì còn 100.000 đô la nữa. Martin giúp bọn này ra đi và có ý định chỉ cho mang đồ vật cá nhân nhẹ. Thế là tay cựu tổng thống và mụ vợ phải tính đến cách khác. Mai Anh đã xoay xở lấy được 16 tấn vàng ra khỏi ngân hàng bắng cách ép, doạ bọn thuộc cấp. Vàng nằm trong dinh lúc Thiệu từ chức "vì lý do an ninh". Mụ ta cho chuyển phần lớn số vàn thỏi ấy lên một máy bay thuê của hãng hàng không Thuỵ Sĩ, nhưng các phi công đòi biết trong thùng hàng có gì, theo nguyên tắc phòng xa. Họ khám phá ra đó là vàng nên phải hỏi lãnh sự quán Thuỵ Sĩ và rồi họ từ chối không chở nữa. Lý Long Thân (tay người Hoa, chồng em nuôi vợ Thiệu) nhảy vào cứu nguy. Tay này có phương tiện riêng là tầu "Trương tinh", tuy không phải là tầu đi xa nhưng khẩn cấp quá rồi. Thân ra lệnh chở vàng đi Pháp, sau này Thiệu có thể nhận lại ở đó. Ngọc thạch và kim cương hầu hết đóng thùng kỹ lưỡng và vợ Thiệu giám sát từng bước gói ghém hàng.
    Đến lượt những thứ đò cổ. Giá trị của chúng không ai biết rõ là đồ của viện bảo tàng SG thì chác là phải đáng giá nhiều. Buồn thay, nhiều thứ lại vô giá trị. Các nhân viên bảo tàng cũng ăn hối lộ như điên nên đã thay thế phần lớn đồ cổ bằng những thứ giả giống hệt nó. Họ đem bán chúng (đồ thật) cho các chủ hiệu và người sưu tầm. Vợ Thiệu chẳng biết gì và cứ yêu cầu viên phụ tá của Thiệu là Đặng Văn Quang thu xếp gửi đi đau đấy. Quang chọn Canada là nơi lưu vong đã chuyển những đồ cổ thật lẫn giả lên một chiếc tầu đi Montreal thông qua Hoa kỳ. Vợ Thiệu vẫn đinh ninh như thế.
  7. Bundeswehr

    Bundeswehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2004
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Sự kết thúc chiến lược vô song
    15:14'' 4/4/2005


    Bài viết của Merle L. Pribbenow bày tỏ sự khâm phục chiến lược chiến dịch của Quân đội Nhân dân Việt Nam qua góc nhìn từ ?ophía bên kia? và của người trong cuộc.
    Merle L. Pribbenow là nhân viên CIA, nghỉ hưu năm 1995 sau 27 năm công tác trên các cương vị: Nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam, sĩ quan tác chiến, chuyên gia về Đông Dương. Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, Pribbenow làm việc tại Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong khoảng 5 năm và rời khỏi tòa đại sứ bằng máy bay trực thăng ngày 29/4/1975 khi Sài Gòn bị thất thủ.
    Gần một phần tư thế kỷ trước đây, một nước thuộc thế giới thứ ba giành chiến thắng trong trận chiến cuối cùng của một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ nhờ sử dụng một chiến lược hiện đại, chắc chắn, quyết đoán và bất ngờ.
    Ngày nay, bài học hiện thân trong chiến thắng này đáng để chúng ta suy ngẫm, đặc biệt trong một thời kỳ người ta có xu hướng dựa vào kỹ thuật nhiều hơn là dựa vào chiến lược, và có ý nghĩ cho rằng tài năng chiến lược của kẻ thù của chúng ta cũng lạc hậu như trình độ công nghệ, cơ cấu kinh tế và cấu trúc xã hội của quốc gia đó.
    Ngày 4/3/1975, Quân ủy Trung ương của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở chiến dịch cuối cùng trong cuộc chiến tranh 30 năm bắt đầu bằng trận tấn công vào những điểm đóng quân của Nam Việt Nam ở đèo Mang Yang vùng Tây Nguyên. Cuộc tấn công đã kết thúc với thắng lợi hoàn toàn sau chưa đầy 2 tháng, khác với bất kỳ cuộc tấn công nào khác trong lịch sử chiến tranh lâu dài. Sự khác biệt đó là gì?
    Đây là lần đầu tiên, chiến lược cho một chiến dịch của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ngay từ đầu, đã không dựa trên ý chí quyết tử của quân đội, sẵn sàng hy sinh một số quân đông hơn đối phương. Chiến dịch của Quân đội Nhân dân Việt Nam dựa theo những nguyên tắc: Đánh lừa đối phương, đánh lạc hướng, bất ngờ, không đánh chính diện, chủ động lựa chọn mục tiêu ?" tóm lại, đó là một chiến lược có tầm trí tuệ cao.
    Cuối cùng, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tổ chức được một chiến dịch xứng đáng với một quân đội chuyên nghiệp, hiện đại mà các nhà lãnh đạo ********************** từ lâu đã dày công xây dựng.
    Nhiều nhà sử học cho rằng, sau năm 1973, mọi cuộc tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam chắc chắn sẽ giành thắng lợi vì sự cắt giảm mạnh viện trợ của Mỹ cho Nam Việt Nam. Quân đội Việt Nam Cộng hòa phải đối đầu với Quân đội Nhân dân Việt Nam vào đầu năm 1975, song nó không phải là con hổ giấy (1).
    Trong khi quân đội Việt Nam Cộng hòa vấp phải những khó khăn về hậu cần và tinh thần chiến đấu, và phần lớn ban lãnh đạo của họ đều kém cỏi, nhưng những người lính của quân đội Việt Nam Cộng hòa đều là những chiến binh dày dạn kinh nghiệm, và Nam Việt Nam vẫn còn một khối lượng dự trữ lớn về đạn dược và quân cụ (đã được kiểm chứng khi kết thúc chiến tranh).
    Sự sụp đổ của quân đội Việt Nam Cộng hòa là một tất yếu không tránh khỏi, nhưng quá trình đi đến kết thúc có thể sẽ kéo dài hơn và đẫm máu hơn nếu những người cộng sản lựa chọn một kế hoạch tấn công trực diện theo cách mà trước đây họ vẫn làm.
    Thực ra, đòn đánh gây thiệt hại nhất trong toàn bộ chiến dịch của cộng sản có lẽ là đòn làm suy sụp tâm lý người chỉ huy tối cao của quân đội Việt Nam Cộng hòa khi phải đương đầu với một chiến lược tài giỏi và bất ngờ của đối phương?
    Kế hoạch ban đầu:
    Những ý tưởng ban đầu về cuộc tấn công năm 1975 đã được vạch ra trong hai cuộc hội nghị quân sự cấp cao được tổ chức ở Hà Nội vào tháng Ba và tháng Tư năm 1974 để xem xét lại tình hình quân sự (2). Hai hội nghị này đã đi đến kết luận là Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giành lại được thế chủ động ở miền Nam lần đầu tiên kể từ sau cuộc tấn công vào dịp lễ Phục sinh năm 1972.
    Sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết ở Paris tháng một năm 1973, Quân đội Nhân dân Việt nam đã triển khai mạnh mẽ tuyến đường vận chuyển hậu cần vào phía Nam - đường mòn Hồ Chí Minh. Do tầm quan trọng, tuyến đường này nhanh chóng trở thành mục tiêu tấn công của không lực Hoa Kỳ.
    Bắc Việt Nam đã chuyển một khối lượng lớn đồ quân dụng và trang bị vũ khí vào Nam ?" riêng năm 1973 là 8 vạn tấn quân dụng, trong đó có 27.000 tấn vũ khí, 6.000 tấn xăng dầu vào 40.000 tấn gạo. Mười vạn quân Bắc việt mới nhập ngũ đã hành quân xuôi theo đường mòn vào Nam trong năm 1973 và 8 vạn quân cũng trên đường vào Nam trong nửa đầu năm 1974. Sức mạnh của các đơn vị quân đội Nhân dân Việt Nam sau những tổn thất năm 1972 giờ đây đã đạt được mức cao nhất trong chiến tranh ?" 40 vạn quân sẵn sàng ở tư thế chiến đấu (3).
    Sau những cuộc họp tháng Ba và tháng Tư, vào tháng Năm, Bộ Tổng tham mưu ở Hà Nội đã hoàn thành phác thảo ?oĐề cương sơ bộ về một kế hoạch giành chiến thắng trong chiến tranh ở miền Nam? (4). Tài liệu nghiên cứu này đã được trình lên Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, vị tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp.
    Ngày 18/7/1974, sau khi xem xét kỹ lưỡng bản phác thảo này, tướng Giáp đã đến thăm cấp phó của ông ?" tướng Hoàng Văn Thái, và ra lệnh chuẩn bị một kế hoạch chiến dịch hoàn toàn tự lập để giành toàn thắng ở miền Nam vào cuối năm 1976. Toàn bộ quan điểm của tướng Giáp là triển khai một cuộc tấn công hai giai đoạn, trước tiên là trận tấn công chủ yếu của quân chủ lực chính quy ở Tây Nguyên, tiếp theo là trận tấn công toàn lực đánh vào lực lượng phòng thủ ở Sài Gòn (5).
    Trong khi nhiều nhà sử học cho rằng tướng Giáp hầu như không có vai trò gì trong cuộc tấn công năm 1975, bởi vì vào lúc đó ông chỉ còn nắm cương vị trên danh nghĩa do bị ốm và do những thất bại trong các trận tấn công vào năm 1968 và 1972, nhưng các báo cáo chính thức của Bắc Việt lại cho thấy tướng Giáp đóng vai trò rất lớn trong việc hoạch định kế hoạch và chỉ huy toàn bộ cuộc tấn công ngay từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc thắng lợi (6).
    Ngày 26/8/1974, sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng, phân tích và mổ xẻ nhiều bản phác thảo trước đó, Bộ Tổng Tham mưu đã hoàn tất bản ?oKế hoạch chiến lược cho hai năm 1975 ?" 1976? và đệ trình lên Ban lãnh đạo cấp cao của Quân đội và của ********************** để xin ý kiến (7). Bản kế hoạch sau khi hoàn tất cuối cùng đã được Bộ Chính trị ********************** thông qua sau một phiên họp kéo dài trong tháng 10/1974 (8).
    Mặc dù, Quân đội Nhân dân Việt Nam biết họ đã giành lại được thế chủ động ở miền Nam Việt Nam, nhưng kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu rất thận trọng vì Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng (9).
    Những nỗ lực trong việc xây dựng lại các cơ sở du kích của ********* ở vùng nông thôn đã bị thất bại, chỉ đạt được 30% mục tiêu tăng cường sức mạnh chiến đấu của kế hoạch 1973 ?" 1974 đối với các lực lượng quân sự địa phương ở miền Nam (10).
    Ngoài ra, các cơ sở chính trị ở đô thị vẫn còn rất yếu và điều quan trọng nhất là lực lượng chính quy của Quân đội Nhân dân Việt Nam vấp phải sự thiếu hụt nghiêm trọng về vũ khí hạng nặng và đạn dược (11).
    Hơn nữa, trong lúc các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam tin rằng có một cánh cửa mở ra cơ hội khoảng vài năm để tìm kiếm chiến thắng trước khi Hoa Kỳ trở lại bình ổn sau những vụ bê bối ở trong nước, Quân đội Nhân dân Việt Nam cho rằng họ vẫn phải sẵn sàng để đương đầu với một sự can thiệp có thể xảy ra từ bên ngoài (12).
    Những chỉ thị ban đầu của tướng Giáp đã yêu cầu các lực lượng quân đội ở miền Bắc phải sẵn sàng đương đầu với khả năng cuộc tấn công có thể kích động việc ném bom trở lại miền Bắc của Hoa Kỳ, kể cả việc đổ bộ lực lượng người nhái của đối phương vào vùng biển Bắc Việt (13).
    Bộ Tổng Tham mưu trước tình hình đó đã xác định rõ, quân đội Nhân dân Việt Nam không thể tiến hành một cuộc ?oTổng tấn công và nổi dậy?, sử dụng lực lượng đông đảo du kích ở nông thôn và thành thị trên cả nước như kiểu Tết 1968 (mà trên thực tế đã không diễn ra), và cũng không có đủ nguồn lực để tiến hành một cuộc tấn công rộng khắp trên toàn quốc như cách đã làm ?" tấn công trên toàn trận tuyến vào Lễ Phục sinh năm 1972.
    Sự thiếu hụt các lực lượng pháo binh hạng nặng và thiết giáp, được xem là lực lượng cực kỳ quan trọng để tấn công vào các căn cứ công sự vững chắc của các trung đoàn và sư đoàn quân đội Việt Nam Cộng hoà, vẫn đè nặng lên đầu óc của các nhà vạch kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt nam, những người đã đệ trình kế hoạch lên Bộ Chính trị tháng 10/1974.
    Mọi sự chú ý tập trung vào vai trò mà sự thiếu hụt đạn dược của quân đội Việt Nam Cộng hoà có thể tác động đến sự sụp đổ của Việt Nam, nhưng phía Nam Việt nói chung cũng không biết rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng ở tình cảnh tương tự. Viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt là các loại ?ovũ khí tấn công? (pháo và thiết giáp) đã bị cắt giảm đáng kể từ sau Hiệp định ngừng bắn được ký ở Paris (14).
    Những tổn thất của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc tấn công năm 1972 cùng với sự cắt giảm viện trợ càng làm cho sự thiếu hụt vũ khí, đạn dược trở nên nghiêm trọng thêm.
    Hơn nữa, phần lớn pháo và thiết giáp của Quân đội Nhân dân Việt Nam đều ở tình trạng kém chất lượng, thiếu phụ tùng thay thế (15). Nhiều đơn vị pháo binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là các đơn vị ở phía Nam, chỉ được trang bị các súng cối loại nhẹ, súng trường không giật hoặc các ống phóng rocket một nòng (chỉ súng B40, B41).
    Tại Trung ương Cục miền Nam (COSVN ?" Central office for South VN), trên địa bàn tác chiến bao gồm nửa phía Nam đất nước, có 7 sư đoàn bộ binh (các sư đoàn 3,4,5,6,7,8, và 9) và một Bộ Chỉ huy quân đoàn (Quân đoàn 4) chỉ được hỗ trợ bởi 5 tiểu đoàn pháo binh dã chiến, 2 trong số 5 tiểu đoàn này chỉ được trang bị bằng những vũ khí lấy được của Mỹ với rất ít đạn, 3 tiểu đoàn thiết giáp đều có trang bị hạn chế (16).
    Quân đoàn Hai của Quân đội Nhân dân Việt Nam với 3 trung đoàn pháo binh thuộc biên chế của 3 sư đoàn bộ binh, 1 lữ đoàn pháo thuộc quân đoàn, 1 lữ đoàn tăng và 1 tiểu đoàn thiết giáp độc lập, chỉ có thể đưa vào chiến trường tổng cộng 89 xe tăng và xe vận tải bọc thép, và 87 khẩu pháo được kéo theo khi mở cuộc tấn công vào Sài Gòn tháng 4/1975 (17).
    Tuy nhiên, vấn đề nghiêm trọng nhất là sự vô cùng thiếu thốn về đạn cho xe tăng và pháo hạng nặng (các pháo chiến trường và súng cối 85 mm và cỡ đạn lớn hơn). Trong cuộc tấn công năm 1972, họ đã sử dụng trên 22 vạn viên đạn cho xe tăng và pháo hạng nặng, chỉ riêng mặt trận Quảng Trị đã sử dụng hết 15 vạn viên đạn (18).
    Cho đến năm 1974, dự trữ đạn cho xe tăng và pháo hạng nặng của Quân đội Nhân dân Việt Nam bao gồm toàn bộ số đạn cất giữ trong các kho ở tiền phương và số đạn dự trữ chiến lược ở miền Bắc, cũng chỉ có tổng cộng 10 vạn viên (19).
    Vấn đề đạn dược thiếu hụt nghiêm trọng đến mức Bộ Chỉ huy pháo binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam phải thay các vũ khí lớn bằng những khẩu pháo 76,2mm và 57mm lạc hậu hơn nhưng có lượng đạn dự trữ lớn hơn để khắc phục phần nào sự thiếu hụt.
    Do tính chất nghiêm trọng của vấn đề đạn dược, Bộ Chỉ huy cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã ra lệnh phải dành riêng đạn dược và vũ khí hạng nặng để sử dụng cho một đòn đánh quyết định, và chỉ được tung ra khi đã có quyết định tấn công cuối cùng (20). Kế hoạch 1975-1976 chỉ cho phép sử dụng trên dưới 10% dự trữ đạn pháo trong toàn bộ chiến dịch năm 1975; 45% số đạn pháo còn lại dành cho chiến dịch năm 1976, phần còn lại phải để dự trữ (21).
    Trích dẫn:
    1..Lewis Sorley
    2.Viện Lịch sử quân sự Việt Nam ?" Hoàng Văn Thái
    3.(Như trên)
    4.(Như trên)
    5.Hoàng Văn Thái
    6.Hoàng Văn Thái ?" Văn Tiến Dũng
    7.(Như trên)
    8.(Như trên)
    9.(Như trên)
    10.Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam
    11.Hoàng Văn Thái
    12.(Như trên)
    13.(Như trên)
    14.Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam ?" Hoàng Văn Thái
    Arnold R. Isaacs ?" Oleg Sarin và Ler Dvoretsky
    15.Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam ?" Hoàng Văn Thái
    16.Trần Văn Trà
    17.Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam
    18.Trần Văn Trà
    19. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam ?" Hoàng Văn Thái
    20. Trần Văn Trà
    21.(Như trên)

  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Ối giời ! bác Bundeswehr post cái này lên sớm thì mình đỡ " cãi nhau " khô cả cổ với kqndvn.
    Còn cái gì cho lên nốt đi bác ơi !
  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Một cách tuyệt đối bí mật, chiếc máy bay C.118 của không quân Mỹ đến Tân Sơn Nhất lúc 3 giờ sáng ngày 26-4 để chở thiệu đi di tản. Thiệu được báo trước một giờ để sửa soạn hành lý lần cuối cùng, kể cả chuyện lén lút chở đi số tiền 100 nghìn đôla mà Kỳ nói là đầy ắp 4 vali thuộc quỹ dự phòng hờ trong dinh. Cựu thủ tướng và là tướng 4 sao Khiêm được báo trước 20 phút. Xe Mỹ chở họ đến Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh đi Đài Loan. Chẳng có họp báo, chẳng có tường thuật việc Thiệu đến Đài Bắc. Cuộc ra đi của Thiệu âm thầm và hoàn toàn nhục nhã.
    Quốc hội Sài Gòn họp sau lúc Thiệu ra đi. Một số ý kiến đồng ý với Martin nên cử Hương hay Trần Văn Lắm làm tổng thống. Lắm vẫn mơ ước chức vụ ấy và đến lúc này vẫn còn thèm. Khi cộng sản đã vây chặt Sài Gòn và sắp san nó thành bình địa thì Martin lại có ý kiến khác nữa là Hương hoặc Lắm, ai làm tổng thống cũng được, còn thủ tướng nên để cho Minh lớn.
    Trước lúc bình minh ngày thứ bảy, nhiều xe vận tải Bắc Việt Nam đỗ lại bên sông Sài Gòn cách thủ đô 6 dặm về phía Bắc. Chúng chở hoả tiễn và đạn pháo 105. Những đại bác và hoả tiễn này đã nằm vào các vị trí bắn sau những rặng cây. Chiến tranh bắt đầu trở lại sáng chủ nhật và báo hiệu bằng tin dữ: 4 hoả tiễn rơi xuống Sài Gòn. Đây là dấu hiệu cho thấy phút bắt đầu của giai đoạn cuối và ai nấy đều biết. Ba năm rưỡi, chưa có đạn pháo hay hoả tiễn rơi xuống Sài Gòn. Bây giờ chiến tranh đang rẽ sang một bước ngoặt mới, cho thấy Hà Nội sẵn sàng tấn công Sài Gòn. Thời gian cấp bách một cách tuyệt vọng. Sự xào xáo chính trị nội bộ bây giờ là một thứ xa hoa không còn chỗ đứng.
  10. Bundeswehr

    Bundeswehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2004
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Một sự kết thúc chiến lược vô song: ?oThời cơ chiến lược?
    15:0'' 6/4/2005


    (Tiếp theo kỳ trước) Mặc dù kế hoạch tháng 10 đã được cân nhắc thận trọng, nó vẫn là một kế hoạch tùy thuộc rất lớn vào thời cơ. Mục tiêu toàn bộ của kế hoạch là phải tạo ra được, bằng mọi biện pháp có thể có, cái mà Quân đội Nhân dân Việt Nam gọi là một ?othời cơ chiến lược? (strategic opportunity).
    Thời cơ chiến lược đó có thể là một cuộc đảo chính quân sự ở Sài Gòn, một biến động chính trị dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ Việt Nam, hoặc một chiến thắng quân sự có ý nghĩa quyết định của các đơn vị chủ lực Quân đội Nhân dân Việt Nam (22). Dù bằng cách nào và bất cứ khi nào thời cơ chiến lược xuất hiện, bản kế hoạch yêu cầu các lực lượng phải ngay lập tức hành động và khai thác triệt để thời cơ, mở cuộc tấn công bằng mọi sức mạnh có thể có để giành toàn thắng trong thời gian ngắn nhất có thể được trước khi ?ođối phương có xu hướng can thiệp?, nghĩa là trước khi Hoa Kỳ và Trung Hoa kịp có phản ứng (23).
    Kế hoạch tấn công đề ra trong năm 1975 được chia làm 3 giai đoạn và tiếp sau đó sẽ là một cuộc ?oTổng tấn công và Tổng nổi dậy? (General offensive and general Uprising) vào năm 1976 để ?ogiải phóng? hoàn toàn miền Nam.
    Giai đoạn Một của kế hoạch 1975, một cuộc tấn công hạn chế trong địa bàn tác chiến của Trung ương Cục miền Nam có thể kéo dài từ tháng 12-1974 đến tháng 2-1975. Giai đoạn Hai, trọng tâm của đợt tấn công năm 1975, sẽ bắt đầu vào tháng 3-1975 bằng một trận công kích cỡ quân đoàn vào tiền đồn biên giới Đức Lập nằm trên Đường 14 thuộc vùng cực nam Tây Nguyên. Trận công kích Đức Lập sẽ được hỗ trợ bằng một hoạt động tác chiến thứ hai nhằm đánh lạc hướng quân địch ở miền Đông Nam Bộ (khu vực rộng lớn từ Sài Gòn đến giáp ranh Tây Nguyên), vùng hạ du miền Trung Việt Nam và vùng Trị Thiên (nơi đóng quân của Quân đoàn Một quân lực Việt Nam Cộng hòa).
    Giai đoạn Ba, từ tháng 8 đến tháng 10-1975, là một giai đoạn hỗn hợp nhiều ý tưởng bao gồm những trận tấn công tiếp tục vào phía Bắc Trung Việt, củng cố các lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam trên toàn miền Nam và sẵn sàng cho việc thực hiện ?onhững kế hoạch thời cơ? (contingency plans) khi cần.
    Những mục tiêu đề ra cho kế hoạch 1975 là phá hủy một phần đáng kể toàn bộ sức mạnh của quân đội Việt Nam Cộng hòa; đánh bại chương trình bình định; mở rộng mạng lưới cung cấp hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam dọc theo Đường 14 cho đến toàn bộ các tuyến đường dẫn đến đồng bằng sông Cửu Long; cắt đứt các tuyến đường liên lạc của kẻ địch; làm tê liệt nền kinh tế Nam Việt Nam; và kích động sự chống đối chính trị đối với Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (24). Tất cả những mục tiêu khác nhau này đều nhằm cùng một mục đích tối hậu: làm suy kiệt khả năng kháng cự của Nam Việt và tạo mọi điều kiện cho sự xuất hiện một ?othời cơ chiến lược?.
    Mặc dù Bộ Chính trị đã thông qua kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu trong phiên họp hồi tháng Mười, nhưng bản kế hoạch đó chưa hoàn toàn thỏa mãn, và Bộ Chính trị đã quyết định họp lại vào tháng Mười hai để đánh giá lại tình hình triển khai và xem xét lại cả kế hoạch nếu cần. Các sự kiện diễn ra lúc đó đã làm thay đổi căn bản kế hoạch của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
    Trong phiên họp toàn thể tháng Mười, Bộ Chính trị đã kết luận căn cứ vào tình hình mới trong nội bộ nước Mỹ (hậu quả chính trị của việc Nixon từ chức): Hoa Kỳ không có khả năng can thiệp trở lại vào cuộc chiến theo một phương cách có ý nghĩa nào (25). Nỗi băn khoăn chính yếu của các nhà vạch kế hoạch của Quân đội Nhân dân Việt Nam được giải tỏa, đã cho phép họ có quyền tự do lựa chọn những phương án táo bạo hơn.
    Hơn nữa, trong cuộc chiến kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12-1974, Sư đoàn 304 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã vượt qua cứ điểm then chốt Thượng Đức ở vùng núi phía Tây Đà Nẵng và đánh bại hàng loạt cuộc phản công có ý nghĩa quyết định của hai sư đoàn quân lực Việt Nam Cộng hòa ?" Sư đoàn 3 và Sư đoàn đổ bộ đường không thiện chiến. Chiến thắng Thượng Đức đã thuyết phục Ban lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam về khả năng những người lính của họ giờ đây có thể đánh bại ngay cả những đội quân thiện chiến nhất, được trang bị tốt nhất và được sự hỗ trợ tối đa của quân lực Việt Nam Cộng hòa (26).
    Tuy nhiên, có hai nhân tố cuối cùng để đi đến chiến lược chung cuộc của Quân đội Nhân dân Việt Nam, luôn luôn ứng nghiệm đối với các nhà hoạch định kế hoạch ở mọi nơi, đó là: thời cơ và yếu tố con người. Trong trường hợp này, yếu tố con người là tướng Trần Văn Trà.
    ? Như chúng ta đã biết, một yếu tố then chốt trong kế hoạch tổng thể của Bộ Tổng tham mưu là yêu cầu sẵn sàng khai thác ngay lập tức mọi thời cơ chiến lược. Khi tướng Trà nhận được lệnh từ Bộ Tổng tham mưu giao cho Trung ương Cục miền Nam chuẩn bị một kế hoạch thời cơ (a contingency plan) cho một cuộc tấn công tức khắc vào Sài Gòn trong trường hợp xảy ra một ?osự kiện chính trị ?" quân sự? (một cuộc đảo chính), ông đã biến ?okế hoạch thời cơ? này thành nền tảng của toàn bộ kế hoạch của Trung ương Cục miền Nam cho năm 1975, chiếm Sài Gòn ngay trong năm 1975 chứ không đợi đến năm 1976, xem đó là mục tiêu tối hậu trong kế hoạch của Trung ương Cục miền Nam.
    Tướng Trà đề nghị Hà Nội gửi ngay cho mình thêm ba hoặc bốn sư đoàn để thực hiện kế hoạch này, và ông đã thay đổi cuộc tấn công hạn chế ở giai đoạn Một theo yêu cầu của Bộ Tổng tham mưu đối với Trung ương Cục miền Nam thành một hoạt động tác chiến chủ yếu nhằm tạo cơ sở bước đầu cho cuộc tấn công vào Sài Gòn bằng cách giành quyền kiểm soát toàn bộ tỉnh Phước Long. Khi Bộ Chỉ huy tối cao đang cân nhắc yêu cầu đó, tướng Trà đã lên đường ra Hà Nội để trực tiếp bảo vệ ý kiến của mình.
    Ra tới Hà Nội vào cuối tháng 11-1974, tướng Trà nhận thấy Bộ Tổng tham mưu đã bác bỏ phần lớn kế hoạch tấn công Phước Long và nghiêm cấm việc sử dụng những vũ khí trang bị quý giá của Trung ương Cục miền Nam như thiết giáp và pháo hạng nặng vào những trận tấn công nhỏ hơn. Tướng Trà bắt đầu tìm cách thuyết phục những người đồng chí cũ trong ban lãnh đạo Đảng, đặc biệt là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, để thay đổi quyết định của Bộ Tổng tham mưu (28).
    Giữa lúc đó trong những trận tấn công đầu tiên, quân đội của tướng Trà đã đè bẹp những cứ điểm nhỏ của quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Bù Đăng và Bù Na trên Đường 14. Bộ Chỉ huy quân sự của Trung ương Cục miền Nam, trong báo cáo gửi Hà Nội ngày 20 tháng Mười Hai nói rõ: Bên trong đống đổ nát của hai cứ điểm nói trên, các lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiếm được nguyên vẹn 4 khẩu pháo 105 mm và 7000 viên đạn. Kho báu bất ngờ ấy đã làm cho ban lãnh đạo ở Hà Nội sửng sốt. Bảy nghìn viên đạn pháo, lớn hơn một nửa số đạn mà Bộ Tổng Tham mưu dự định đem sử dụng trên cả nước trong toàn bộ chiến dịch năm 1975.
    Tướng Trà lúc này lập luận rằng ông có thể sử dụng số chiến lợi phẩm này cho kế hoạch tấn công vào thủ phủ tỉnh Phước Long mà không phải đụng đến số đạn dự trữ hiện có (29). Thực ra, Quân đội Nhân dân Việt Nam hy vọng sẽ thu giữ được nhiều đạn hơn nữa tại những căn cứ lớn của địch. Đó là một lý lẽ mà ban lãnh đạo không thể phản bác.
    Tướng Trà được trao quyền thực thi những kế hoạch do ông đề nghị (30). Ngày 6-1, Sư đoàn 3 và Sư đoàn 7 đã hoàn thành việc chiếm đóng Phước Long và thu được thêm 1 vạn viên đạn pháo. Phía Nam Việt không hề có dấu hiệu muốn chiếm lại Phước Long, và trong lúc đó Hoa Kỳ có hành động đe dọa bằng cách đưa lực lượng chiến đấu trên tầu sân bay Enterprise tiến vào Nam Việt Nam, nhưng không bao lâu sau, tầu Enterpise rút ra và mối đe dọa cũng biến mất (31).
    Chiến thắng ngoài dự kiến ở Phước Long cuối cùng đã làm cho ban lãnh đạo Bắc Việt Nam nhận thấy kế hoạch ban đầu của họ là quá thận trọng. Đánh giá của Bộ Chính trị cho rằng: Hoa Kỳ không có khả năng can thiệp trở lại vào cuộc chiến, đã được chứng minh là đúng đắn. Những điểm yếu trong hệ thống phòng thủ của Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bộc lộ rõ. Và điều quan trọng là cuối cùng đã tìm được giải pháp khắc phục sự thiếu hụt nghiêm trọng nhất về đạn dược, đó là đánh chiếm các kho vũ khí và đạn pháo của Quân đội Việt Nam Cộng hòa (32).
    Ngoài ra, trận đánh chiếm Phước Long càng làm cho Bộ Chính trị thấy rõ kế hoạch tấn công chính trong năm 1975 của quân chủ lực, cuộc tấn công đánh Đức Lập vào tháng ba bằng ba sư đoàn giờ đây đã trở nên không còn thích hợp và buộc phải thay đổi. Kế hoạch được thông qua hồi tháng Mười đã đề ra hai mục tiêu chính cho trận tấn công Đức Lập: Thứ nhất là dọn sạch Đường 14 để sử dụng làm đường vận chuyển chiến lược cho trận tấn công cuối cùng vào Sài Gòn, và thứ hai là thu hút và tiêu diệt một bộ phận đáng kể quân lực Việt Nam Cộng hòa khi chúng cố gắng giành lại những vùng đất đã bị mất. Với những bài học rút ra từ trận đánh Phước Long, giờ đây rõ ràng là nếu Đức Lập bị tấn công thì mục tiêu thứ hai sẽ không đạt được.
    Trận Phước Long cho thấy, Việt Nam Cộng hòa đã sẵn sàng rời bỏ những vùng xa và không quan trọng về mặt chiến lược, như Đức Lập chẳng hạn. Nếu quân đội Nam Việt không cố chiếm lại Đức Lập thì cả ba sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ bị giam chân vào một nơi trống vắng chẳng có kẻ thù để chiến đấu, và yếu tố bất ngờ sẽ biến mất. Trần Văn Trà khẳng định chính ông là người đầu tiên đề nghị chuyển mục tiêu tấn công vào Ban Mê Thuột (chữ trong nguyên văn). Cho dù ý tưởng đó có phải do tướng Trà nêu ra trước tiên hay không thì ban lãnh đạo Bắc Việt Nam đã không bỏ qua triển vọng chiếm được Ban Mê Thuột (33).
    Ban Mê Thuột là một thành phố có trên 10 vạn dân, là ?othủ phủ? của các bộ tộc ở Tây Nguyên. Nơi đặt đại bản doanh và các căn cứ hậu cần của sư đoàn 23 quân lực Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả tổ hợp tiếp vụ Mai Hắc Đế với những kho đạn pháo lớn đầy cám dỗ. Thành phố giữ vai trò một đầu mối giao thông quan trọng, nơi Đường 14 từ Kon Tum chạy xuôi xuống phía Nam đến vùng ngoại vi phía Bắc Sài Gòn, gặp Đường 21 chạy sang phía Đông đến thành phố biển Nha Trang rộng lớn.
    Nếu chiếm được Ban Mê Thuột, các lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể vận động rất nhanh theo đường phía Bắc đánh úp Pleiku từ phía sau, tiến sang phía Đông cắt Việt Nam làm hai phần, hoặc xuôi về phía Nam để tấn công Sài Gòn. Quân đội Việt Nam Cộng hòa sẽ không chịu để mất một vị trí chiến lược quan trọng như vậy và sẽ buộc phải phản công. Điều đó là hoàn toàn chắc chắn vì các gia đình binh sĩ của Sư đoàn 23 đều có nhà ở Ban Mê Thuột ?" các đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hòa không thể bỏ mặc vợ con mà không chiến đấu.
    Mười năm trước, một xóm nhỏ ở Bình Giã phía Đông Sài Gòn đã được chọn làm mục tiêu tấn công đầu tiên của cộng sản trong một trận tác chiến gồm nhiều trung đoàn (tháng 12 năm 1964) chủ yếu vì ở đó có nhiều gia đình lính thủy Việt Nam Cộng hòa. Các vị chỉ huy của Quân đội Nhân dân Việt Nam biết chắc rằng quân đội Việt Nam Cộng hòa sẽ liều lĩnh chiếm lại Bình Giã để giải cứu cho những người thân và đã đặt bẫy để tiêu diệt lực lượng tiếp viện của quân lực Việt Nam Cộng hòa (34).
    Chú thích:
    22. Hoàng Văn Thái.
    23. (Như trên)
    24. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam ?" Trần Văn Trà.
    25. Văn Tiến Dũng ?" Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.
    26. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam ?" Hoàng Văn Thái.
    28. Trần Văn Trà - Davidson.
    29. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam ?" Trần Văn Trà - Davidson.
    30. Trần Văn Trà - Hoàng Văn Thái.
    31. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam ?" Hoàng Văn Thái ?" Davidson.
    32. Hoàng Văn Thái
    33. Trần Văn Trà - Hoàng Văn Thái.
    34. Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Chia sẻ trang này