1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

84 Thành Tựu Giả Đại Ấn

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi vinhlac, 03/07/2015.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    44) Mahasiddha Goraksa: Người chăn bò

    [​IMG]


    Cho dù sinh ra ở giai cấp nào
    Ngươi cũng có cơ hội đi tới giải thoát rốt ráo
    Mà không có chướng ngại nào
    có thể ngăn lối ngươi đi
    Ta! Goraksa cũng chộp lấy cơ hội ấy
    Ta gieo hạt giống giác ngộ
    Bằng cách phục vụ cho Caurangi một cách vô tư
    Acinta đã ban cho ta
    những giọt rượu trường sinh
    Goraksa đã chứng đắc
    Riêng ta đứng nơi đây
    Uy nghiêm như một vị vua của ba cõi


    Truyền thuyết


    Goraksa sinh ra trong một gia đình tiểu thương dưới đời vua Devapala. Thuở thiếu niên, ông đã chăn trâu để giúp gia đình.


    Một hôm theo lệ thường, Goraksa đang cùng lũ mục đồng nô đùa thì đại sư Minapa đến chỗ bọn trẻ. Ngài nói: “Này các cháu, các cháu có nhìn thấy lũ kên kên bay lượn quanh đây không? Gần đây có một hoàng tử gặp nạn. Ngài bị chặt lìa chân tay và đang nằm chờ chết. Có cháu nào giúp ta đến cứu mạng hoàng tử không?”


    Nghe nhà sư nói, Goraksa đáp ngay: “Cháu thấy ạ! Nhưng trong khi cháu đi cứu ông hoàng, xin ông giúp cháu trông chừng đàn trâu.”


    Thế là, Minapa canh bầy trâu, còn Goraksa đi tìm hoàng tử gặp nạn. Theo hướng bay lượn của bầy kên kên, Goraksa tìm thấy một hoàng tử đang nằm ngất bên thân một cây to.
    Goraksa quay lại báo với nhà sư: “Quả nhiên đúng như lời ông nói.”


    Sư hỏi: “Thế con đã làm gì?”
    “Thưa ông, con đã cho hoàng tử phân nửa phần thức ăn mà con mang theo.”
    “Tốt lắm! Vậy con hãy chăm sóc hoàng tử cho đến khi ngài lành bệnh nhé! ”
    Nói xong, nhà sư từ biệt.
    Cậu bé vâng lời, đi chặt những cành lá to để dựng lều cỏ rồi vực hoàng tử vào bên trong.


    Ngày ngày Goraksa mang thức ăn đến cung phụng, lại còn tắm rửa cho ngài một cách chu đáo. Goraksa phục vụ và an ủi vị hoàng tử trong 12 năm.


    Bấy giờ, Goraksa đã trở thành một chàng thanh niên cao lớn.
    Một ngày nọ, theo thường lệ, Goraksa đến chỗ ông hoàng, cậu ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy vị hoàng tử này đang đứng thẳng trên đôi chân.


    Trong giây lát, Goraksa hiểu ra rằng lâu nay vị hoàng tử đã tu tập phép Du-già của sư Minapa truyền cho. Nay việc hành trì đã đem lại kết quả nên tứ chi của hoàng tử lành lại như cũ.
    Đoạn, ông hoàng vận thần thông bay lượn giữa không trung và hỏi vọng xuống: “Ngươi có muốn học phép thiền định của ta không?”


    Goraksa đáp: “Tôi không cần phải học với ngài. Tôi cũng có một chân sư. Chính thầy tôi sai tôi chăm sóc, nuôi dưỡng ngài bấy lâu nay.”


    Nói xong, Goraksa quay đi chăn trâu và chờ sư Minapa đến. Chẳng bao lâu thì sư Minapa lại xuất hiện, Goraksa thuật lại sự việc, sư lấy làm hài lòng. Ngài điểm đạo cho chàng và truyền cho pháp thuật.


    Goraksa y pháp tu hành mãi cho đến khi thấy có hiện tượng sở đắc, ngài bèn đi tìm Minapa.


    Nhưng sư lại bảo Goraksa sẽ không thể đại triệt đại ngộ nếu ông không hoá độ được vô số chúng sanh thoát khỏi luân hồi.
    Goraksa lại bắt đầu vân du khắp nơi để hoằng pháp độ sinh. Nhưng Đại phạm thiên vương hiện ra khuyên rằng: “Ngài chỉ nên truyền pháp cho những kẻ chí tâm cầu đạo, chớ có trao pháp cho kẻ thiếu tín tâm và những kẻ ngu độn.”


    Nghe vậy, từ đó Goraksa chỉ truyền pháp cho những ai hội đủ các duyên và căn cơ khế hợp với giáo pháp của ngài.

  2. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    45) Mahasiddha Nigunapa

    [​IMG]


    Niguna là con trai trong một gia đình thuộc giai cấp thấp ở Purvadesa. Ông rất lười và không phân biệt được cái gì là tốt hay xấu. Trong tình trạng đó, ông đi đến một nơi hoang vắng và gặp một yogi. Vị yogi rủ ông vào thành phố để đi ăn xin, nhưng ông từ chối vì sợ không xin được gì. Yogi hỏi ông có sợ chết không. Niguna trả lời là có sợ, nhưng ông quá lười biếng nến dù có biết cách để thoát khỏi nó, ông cũng sẽ chỉ thực hành lúc đi ngủ. Vị yogi làm lễ điểm đạo và truyền cho ông phép thiền định trong giấc mộng và giấc ngủ để nhận ra sự bất khả phân giữa sắc và không.

    Tuân theo chỉ dẫn của Guru, Niguna chăm chỉ thực hành và sống bằng nghề ăn xin. Khi ông thành tựu giác ngộ bản tính của ngũ uẩn và đạt được tịnh quang, ông đắc quả vị siddhi. Ông thể hiện con đường vô phân biệt sắc và không. Khi ông đã phá tan tất cả các dấu hiệu của vô minh, ông đạt được quả vị thành tựu giả của Đại Ấn, và đi vào cảnh giới của các Dakas.
  3. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    46) Mahasiddha Kirava: Người chinh phục

    [​IMG]


    Từ thuở vô minh phủ lấy ta
    Sinh tâm phân biệt người với ta.
    Ngay lúc nhận ra lẽ thật ấy
    Bao nhiêu vọng tưởng khuất dần xa
    Cả tên gọi “Phật” cũng chỉ là nhãn hiệu
    Đem dán làm chi khắp hà sa?
    Khi biết bản tâm là trống rỗng
    Hình thù không có, tìm đâu ra?


    Truyền thuyết


    Kirapalapa cai trị một vương quốc rộng lớn và hùng mạnh. Nhưng nhà vua không bao giờ thỏa mãn với sự giàu có của mình nên thường đem quân đánh phá các nước láng giềng để vơ vét của cải.


    Tuy vậy, nhà vua không hề có ý niệm gì về cảnh tàn khốc của chiến tranh. Có một lần, nhà vua cùng quân lính đi tiếp quản một thành phố đã bị đánh chiếm hoàn toàn, và nhà vua lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy những cảnh tượng hãi hùng sau cuộc chiến. Phụ nữ, trẻ con, người già, người bệnh bị bỏ lại trong thành vì tất cả đàn ông, thanh niên đều đã chạy trốn. Tất cả các nạn nhân đều tiều tụy, hốc hác và đói khát. Họ lang thang, vất vưỡng khắp trên đường phố.


    Chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh, nhà vua động lòng từ bi, xuống chiếu tha tội cho các trai tráng để họ có thể trở về đoàn tụ cùng gia đình.
    Từ đó, hằng ngày nhà vua đều tổ chức chẩn bần, bố thí cho người nghèo đói.
    Một hôm, có nhà sư Du-già đến kinh thành để khất thực. Vua hoan hỷ cúng dường cho Sư những thứ tốt nhất và khẩn cầu Sư giáo hoá.


    Sư làm lễ qui y cho nhà vua, truyền giới Bồ Tát và dạy cho vua về Bốn tâm vô lượng cùng với phép thiền định.
    Nhưng nhà vua vẫn không thoả mãn, ngài muốn được thọ lãnh pháp môn tối thắng để có thể chứng ngộ trong đời hiện tại.
    Sở nguyện như vậy, nhưng công việc triều chính khiến vua thật khó lòng tu tập tinh tấn. Ngài liền trình bày trở lực với tôn sư.


    Vị chân sư nói: “Ngươi hãy quán tất cả chúng sinh trong ba cõi là kẻ thống soái các chiến binh kiêu hãnh. Trong vô tận của bản tâm lưu xuất hằng hà sa số các anh hùng hợp lực đánh bại kẻ thù kia, để rồi ngươi, đức vua vĩ đại, tắm mình trong sự vinh quang ấy.”
    Nhà vua lãnh hội được ý nghĩa lời dạy của chân sư, có thể tinh tấn tu tập ngay trong khi giải quyết những công việc triều chính. Nhờ đó đạt đến sự giải thoát.

  4. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    47) Mahasiddha Kapalapa: Người mang bình bát sọ

    [​IMG]


    Tất cả hiện tượng vốn không hai
    Áo quần, trang sức ở bên ngoài
    Lưng đeo bình bát bằng xương sọ
    Cổ khoác dây chuyền lấy từ xương
    Bản ngã tự nó là không thật
    Tìm kiếm làm chi chỉ phí công


    Truyền thuyết


    Kapalapa là một thường dân ở xứ Rajapuri, có một vợ và năm con trai. Chẳng may người vợ mất sớm, Kapalapa mang xác vợ ra nơi mộ địa.


    Trong khi đang than khóc về cái chết của người vợ yêu dấu, ông nhận được tin năm người con trai của ông cũng đột nhiên qua đời.


    Kapalapa lại mang xác năm đứa con đặt cạnh thi thể của vợ.
    Trong hoàn cảnh đau thương ấy của Kapalapa, chân sư Krsnacarya xuất hiện, hỏi ông về nguyên do của sự đau buồn ấy.


    “Bạch Đại đức! Vợ con tôi nay đã chết cả. Tôi không còn chỗ nương tựa. Tôi chỉ mong được chết theo họ để khỏi phải chịu đựng nỗi đau khổ này.”


    “Này hiền hữu! Tất cả chúng sinh trong ba cõi đều bị đám mây tử thần bao phủ, không chỉ riêng mình ngươi chịu nỗi khổ sinh ly tử biệt. Nếu ngươi chỉ ngồi than khóc mà không làm được gì để vơi đi nỗi sầu thì thật là vô ích. Vì thần chết cũng đang rình rập ngươi từng giây, từng phút, tốt hơn hết ngươi nên tu tập thiền định để dứt trừ phiền não.”


    “Cúi xin ngài từ bi thương xót chỉ dạy cho tôi.”


    Krsnacarya làm phép đưa ông ta nhập vào Mạn-đà-la của Thủ thần Hevajra và truyền cho giáo pháp.

    [​IMG]

    Để hỗ trợ cho pháp tu của Kapalapa, Sư lấy xương của năm người con xâu lại thành vòng đeo nơi cổ của Kapalapa và dùng xương sọ của người vợ làm bình bát.


    “Hãy quán tưởng chiếc bình bát này và hư không là một. Sự thể nhập của cả hai chính là cách thiền định của ngươi.”


    Theo lời dạy của Chân sư, Kapalapa tu tập trong 9 năm thì giác ngộ được chân lý. Để nói lên sự giác ngộ của mình, ngài đọc kệ:


    Ta là một nhà sư Du-già
    Bình bát bằng xương sọ
    Và ta đã nhận ra
    Bản chất của chiếc đầu lâu này
    Và thực tính của các pháp là một.
    Với trí giác như thế, ta đi lại tự tại
    Không một điều gì có thể ngăn ngại.

  5. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    48) Mahasiddha Nagabhodhi: Nhà luyện kim

    [​IMG]


    Khi một con người si mê chưa giác ngộ
    Mơ hồ tưởng mình là bậc thánh
    Y hành sử như một tên đạo chích
    Lẻn vào hoàng cung đánh cắp ngọc ngà
    Khi một người còn si mê chưa giác ngộ
    Y như con voi bị kẹt giữa đám bùn lầy


    Truyền thuyết


    Ngài Nagarjuna tức Bồ Tát Long Thụ, xuất thân từ dòng dõi bà-la-môn thuộc vương quốc Càn-chí (Kanci), miền đông Ấn Độ.


    Thuở thiếu thời ngài là một con người gàn dở, thường hay nhũng nhiễu, cưỡng đoạt tài sản người khác. Số nạn nhân lên đến 25.000 gia đình. Dân chúng trong vùng oán thán và các thầy tư tế bà-la-môn cũng kinh hãi dời chỗ ở.


    Về sau, Nagarjuna thấy hối hận về những hành vi tác tệ của mình, ngài đem trả lại tài sản đã cưỡng đoạt và phân chia tài sản riêng của chính mình cho những kẻ nghèo khó, rồi tự lưu đày mình sang xứ khác.


    Rời Kahora, ngài đến tu viện Nalanda để tu học. Tại đây ngài trở thành một học tăng kiệt xuất về Ngũ minh môn. Nhưng chẳng bao lâu ngài chán ngán môn này, quay sang tu thiền.
    Ngài thường trì tụng thần chú Long Nữ (Tara mantra). Do sự cảm ứng, vị nữ thần này tuân theo sở nguyện của ngài nên khiến tu viện luôn có đầy đủ vật thực cho 700 vị tăng của tu viện.
    Nhưng bản thân ngài thích sống cuộc đời du hành khất thực. Mỗi đêm khi ngã lưng nằm xuống, ngài lại suy nghĩ: “Ta thật là vô tích sự. Ta phải tìm phương tiện khéo để giúp đỡ chúng sinh.”


    Vì vậy, ngài đến vùng Rajagrha để nhập thất và dùng thần chú để triệu thỉnh 12 nữ dạ-xoa Đại tướng, tức 12 vị thần chủ quản các nguyên tố đất, nước, lửa, gió.


    Khi ngài nhập đàn khởi trì thần chú, thì ngày thứ nhất động đất xảy ra, ngày thứ hai hạn hán, ngày thứ ba có bão lửa, ngày thứ tư gió to, ngày thứ năm mưa gươm đao, ngày thứ sáu có vô số kim cương từ hư không rơi xuống.


    Đến ngày thứ bảy, 12 vị nữ dạ-xoa hợp lực tấn công ngài dữ dội, nhưng ngài vẫn không động tâm.


    Sau đó, ngài dùng Hàng phục pháp (Kuyo) để nhiếp phục các nữ dạ-xoa. Chúng nữ dạ-xoa hiện ra đảnh lễ, cung kính thưa: “Bạch tôn sư, chúng đệ tử có mặt.”


    Ngài dạy: “Các ngươi ngày ngày hãy mang cho ta một ít vật thực.”


    Chúng thần lãnh mệnh lui đi. Rồi mỗi ngày họ đều mang đến cúng dường cho ngài một nắm cơm và một nắm rau trong suốt 12 năm.


    Sau đó ngài lại thu nhiếp thêm 108 thần nữ dược-xoa. Để giúp đỡ chúng sinh, ngài định dùng thần thông biến núi Gandhasila thành núi vàng. Trước tiên, ngài dùng định lực biến ngọn núi lớn này thành núi sắt, rồi từ sắt biến thành đồng, nhưng khi ngài định tiếp tục biến nó thành vàng thì Bồ Tát Văn-thù hiện ra ngăn lại: “Chớ có làm thế? Nếu tôn giả biến ngọn này núi thành vàng thì cũng chỉ tạo ra sự tranh giành giữa các chúng sanh mà thôi, khác gì tạo nghiệp ác cho họ? Chi bằng tôn giả ra sức giáo hoá cho chúng thoát khỏi ba đường ác, đạt đến Niết-bàn giải thoát.”


    Vâng lời Bồ Tát, ngài Nagarjuna thôi không thi triển pháp thuật. Vì vậy, cho đến ngày nay ngọn núi Gandhasila vẫn còn giữ nguyên màu tia tía của chất đồng.


    Rời chốn ấy, Nagarjuna đi về phía nam. Nơi ấy có một con sông lớn chắn ngăn. Ngài nhờ những người chăn cừu quanh đấy chỉ giúp ngài chỗ cạn nhất để ngài có thể lội qua bờ kia. Nhưng họ lại đưa ngài đến khúc sông sâu và đầy cá sấu.


    May thay, một kẻ tốt bụng tình nguyện cõng ngài bơi qua sông. Đến giữa sông, Nagarjuna dùng thần thông hoá ra một bầy cá sấu ra vẻ như đe doạ cả hai. Người đàn ông tốt bụng vẫn giữ vẻ điềm nhiên: “Ngài đừng sợ. Miễn là ta còn sống, ta sẽ cố đưa ngài an toàn sang sông.”


    Nghe nói thế, sư lấy làm cảm phục, thâu phép lại và nói: “Ta là Arya Nagarjuna. Ngươi nhận ra ta chăng?”


    “Tôi có nghe đại danh của tôn sư nhưng lâu nay chưa từng gặp.”


    “Ngươi có công mang ta qua sông an toàn. Vậy ngươi ước nguyện điều chi, ta sẽ biến thành hiện thực.”


    “Vậy xin tôn sư cho tôi được làm vua.”


    Sư toé nước vào một thân cây sala, lập tức cây ấy hóa thành con voi trắng cho vua cưỡi.


    “Nhưng còn binh lính?”


    “Khi nào voi rống, tức thì có binh lính hiện ra.”


    Đức vua ấy lấy hiệu là Salabandha, cai trị tám triệu bốn trăm ngàn hộ dân trên một vùng đất nguy nga tên là Bhabitan. Vua lập nàng Sindhi làm hoàng hậu.


    Sau một vài năm trị vì vương quốc Bhabitan, vua Salabandha đâm ra chán ngán cuộc đời làm vua của mình, ông lại tìm đến Sriparvatta để tìm sự khuây khoả.


    Nhà vua tìm đến thầy mình và khẩn nài: “Bạch thầy! Làm vua chỉ được một ít lạc thú mà quá nhiều phiền não. Con muốn từ bỏ ngai vàng để được kề cận bên thầy.”


    “Ngươi chớ từ bỏ vương quốc của mình. Hãy giữ lấy xâu chuỗi này. Nó sẽ bảo vệ vương quốc của ngươi, ban cho ngươi thứ rượu vô uý khiến tâm ngươi không kinh hãi khi đối mặt với thần chết.”


    Mặc dù không muốn trở về nhưng nhà vua phải vâng lời thầy.
    Tất cả mọi thứ trong vương quốc Bhabitan từ cây cối đến chim muông đều tươi tốt khoẻ mạnh khiến quỷ thần ghen tị. Cho đến một ngày nọ, ánh sáng mặt trời, mặt trăng tự dưng biến mất, hoa quả chưa đến kỳ đơm bông kết trái đã lìa cành, dịch bệnh hoành hành, rừng khô, cỏ úa...


    Chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế, vua Salabandha đoán biết thầy mình gặp nạn. Ngài liền trao quyền bính cho thái tử Cindhakumara rồi đem theo một ít tùy tùng đến vấn an thầy.


    Nagarjuna hỏi: “Này con! Vì sao con đến?”


    Nghe thầy hỏi, đức vua cất tiếng hát ai oán:


    Định mệnh ôi trớ trêu,
    Phật pháp sao khó bày
    Bóng tối che ánh sáng
    Mây mù che trăng rằm
    Thánh tăng còn phải lụy
    Sinh tử chia đôi đường
    Con đến đây chỉ vì
    Chợt thấy điềm bất tường
    Cúi mong thầy từ bi
    Ban cho cam lồ vị
    Sư đọc kệ đáp:
    Có sinh thì có diệt
    Tụ tán lẽ thường tình
    Trần gian là huyễn mộng
    Chớ buồn rầu, sầu khổ
    Rượu vô uý! Cạn ly!
    Vua buồn rầu hỏi: “Thưa tôn sư, nếu như tôn sư không còn có mặt trên đời này nữa, thì rượu vô uý kia nào có vị chi?”


    Biết đã đến lúc phải trả nghiệp đời trước, ngài Nagarjuna phát nguyện bố thí tất cả những thứ mà ngài sở hữu. Phạm Thiên bèn hoá thành một người bà-la-môn đến xin thủ cấp của ngài. Bồ Tát hoan hỷ nhận lời.


    Vua Salabandha không nỡ chứng kiến cái chết của thầy, ngài tựa đầu vào chân sư rồi tắt thở. Dân chúng thấy vậy, nguyền rủa không tiếc lời ý muốn độc ác của kẻ kia. Nhưng vô ích, Sư đã hứa cho đầu của mình. Ngài dùng ngọn cỏ sula tự cắt lấy đầu rồi trao cho người bà-la-môn kia. Tức thời, muôn thú kêu vang thảm thiết, cây cối héo tàn. Tám nữ dạ-xoa đại tướng hiện ra canh giữ nhục thân của sư, không rời giây lát.


    Từ thi thể của sư phát ra một luồng ánh sáng bay vút lên cao, nhập thẳng vào ngài Nagabhodi (Long Trí). Truyền thuyết còn nói rằng khi đức Phật Di-lặc ra đời trong tương lai thì ngài Nagarjuna sẽ tái sinh để cứu độ chúng sinh.

  6. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    49) Mahasiddha Sarvabhaksa: Người háu ăn

    [​IMG]


    Trong vô minh tất cả mùi vị đều khác nhau
    Trong giác ngộ mọi thứ đều một vị
    Khi còn vô minh, Niết-bàn và Luân hồi là hai
    Khi giác ngộ, cả hai là một


    Truyền thuyết


    Sarvabhaksa là thần dân của Đức vua Singhacandra thuộc Vương quốc Abhira. Ông ta có một cái bụng rất to và ăn không biết no, có thể ăn bất cứ món gì mà ông vớ được.


    Một hôm không tìm được đủ thức ăn, bụng cồn cào dữ dội, Sarvabhaksa đến ngồi ở một cái hang đá, đầu óc suy nghĩ miên man đến cái ăn.


    Chân sư Saraha gặp ông ta ở chốn này bèn hỏi han. Kẻ háu ăn nói: “Bụng tôi lúc nào cũng cồn cào như lửa, ăn rất nhiều nhưng chẳng hề biết no. Tôi đang đói lắm.”


    “Nếu ngươi không chịu đựng được cái đói, khi tái sinh trong loài ngạ quỷ thì ngươi biết làm sao?”


    “Ngạ quỷ là gì?”


    Đại sư Saraha liền giải thích về bản chất của loài quỷ đói này và nguyên nhân phải thác sinh vào đó.


    Nghe xong, Sarvabhaksa rùng mình kinh sợ, vội thưa: “Làm sao tôi có thể tránh khỏi bị đọa vào ác đạo? Xin thầy mở lòng từ bi cứu giúp.”


    Sư điểm đạo và truyền phép thiền định mà Chân sư Bhusuku đã tu tập: “Hãy quán tưởng bụng người là bầu trời, sức nóng trong bao tử là một đám cháy lớn, thức ăn uống là tất cả các pháp thế gian. Khi ăn, hãy nuốt cả vũ trụ vào.”


    Sarvabhaksa tu tập một cách miên mật. Trong thiền định, ông nuốt cả mặt trăng, mặt trời và núi Meru, khiến thế gian chìm trong bóng tối.


    Dân chúng kinh hoàng trước việc lạ ấy. Các Thiên nữ tìm đến cầu xin ngài Sahara. Sư bảo với đệ tử: “Hãy quán tưởng những gì ngươi ăn đều không rốt ráo.”


    Sarvabhaksa vâng lời thầy tiếp tục tu tập đến khi đạt thần thông Đại thủ ấn. Khi ấy, mặt trăng, mặt trời lại hiện ra toả sáng như trước.

  7. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    50) Mahasiddha Sakara: Người sinh từ hoa sen

    [​IMG]


    Long vương Basuka
    chế ngự những con người đau khổ
    bằng những trận mưa dầm dề.
    Nơi có quyền năng cao nhất của Như Lai.
    Long vương của trí tuệ
    Ban những cơn mưa xuân mát mẻ của Bí mật pháp
    Cho những ai may mắn hiểu được lý âm dương.


    Truyền thuyết


    Indrabhuti cai trị vương quốc Kanci gồm một triệu bốn trăm ngàn hộ, nhưng chưa có con nối nghiệp.


    Ngài cùng hoàng hậu ngày đêm cầu khẩn Trời, Phật ban cho ngài một hoàng tử.


    Sáu tháng sau, hoàng hậu nằm mộng thấy bà nuốt trọn ngọn núi Meru, uống cạn nước của một đại dương, gót hài của bà dẫm nát cả ba cõi thế giới.


    Đức vua không đủ khả năng để giải thích giấc mộng. Ngài ban lệnh sẽ thưởng cho những ai có thể giải đoán được. Một đạo sĩ đến nói với ngài: “Đây là điềm báo trước sự ra đời của một bậc Đại trí, một vị Bồ Tát, hay một bậc Minh quân, một vì vua của Vương quốc chân lý. Ngay lúc ngài sinh ra sẽ có một trận mưa vàng bạc tưới đều khắp nơi.”


    Quả nhiên sau đó hoàng hậu thụ thai. Và đúng như lời tiên đoán, đến kỳ khai hoa nở nhuỵ liền có một cơn mưa vàng bạc đổ xuống nơi nơi.


    Sau khi cơn mưa dứt, người ta phát hiện ra một hài nhi nằm trên đóa sen lớn trong vườn thượng uyển.


    Vị hoàng tử sơ sinh được đặt tên là Saroruha. Do công đức đời trước của hoàng tử nên từ khi ngài sinh ra, dân chúng luôn được sống trong sự sung túc.


    Ít lâu sau, hoàng hậu lại sinh thêm một hoàng nam.


    Khi đức vua băng hà, Saroruha từ chối việc kế vị ngai vàng, trao vương quyền cho em. Bản thân ngài trở thành một tu sĩ.
    Rời khỏi hoàng cung, Saroruha đi về phía Sri Dhanyakataka để tìm Chân sư. Trên đường đi tầm sư học đạo, Saroruha đã gặp được Chân sư. Đây chính là hoá thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.


    Để thử thách Saroruha, Bồ Tát nói với Saroruha rằng ngài cũng có thể hiển lộ pháp thân. Nhưng Saroruha thành thực thưa với thầy rằng ngài không thể tự mình đi đến giải thoát.


    Saroruha cung kính đảnh lễ vị Chân sư để cầu pháp. Bồ Tát liền hiện thân truyền pháp thiền định Hevajra cho Saroruha rồi biến mất.

    [​IMG]

    Saroruha tiếp tục đi đến Sri Dhanyakataka để tu tập thiền định.


    Một hôm, có một vị du tăng từ xa đến nơi ngài Saroruha đang tu tập để tìm hiểu giáo pháp. Vị này xin làm thị giả cho ngài với điều kiện là khi nào ngài đắc quả thì truyền pháp cho ông ta.
    Sư đồng ý. Vị du tăng liền lưu lại trong hang động để phục vụ ngài trong suốt 12 năm.


    Ngay vào lúc ngài Saroruha bắt đầu nhập thất, nạn đói hoành hành khắp nơi vì nắng hạn, người chết nhiều vô kể.


    Sợ biến cố này làm kinh động đến Chân sư, trở ngại việc thiền định của thầy, nên người thị giả im lặng không tiết lộ.


    Vào ngày cuối cùng của thiền thất trải qua 12 năm, người thị giả đến khất thực tại hoàng cung, nhưng ngay cả tại đây người ta cũng chỉ có thể cúng dường cho ông một chén gạo nhỏ.


    Ông cẩn thận mang về dâng lên vị Chân sư. Rủi thay, khi về đến nơi, lúc bước qua ngưỡng cửa thì vị này vấp té, làm rơi bát gạo vung vãi khắp nơi.


    Sư thấy thế, bèn hỏi: “Ngươi say à?”


    “Thưa không! Đệ tử chỉ vì quá đói bụng nên đi không vững.”


    “Ngươi không tìm được thức ăn à?”


    Người thị giả thú thật rằng ông đã giấu thầy về nạn đói. Sư quở trách: “Cớ sao ngươi không cho ta biết? Ta có thể làm mưa để cứu dân lành.”


    Saroruha nhặt những hạt gạo bị đổ dưới đất rồi đi ra một dòng sông. Tại đây, ngài tác pháp cúng dường cho các Hộ pháp Long vương, đoạn dùng ấn chú triệu thỉnh tám vị Long vương đến quở trách cho đến khi đầu của bọn họ sắp vỡ tung. Ngài mắng rằng: “Nạn đói này là do các ngươi gây ra. Các ngươi phải chịu trách nhiệm. Hôm nay các ngươi phải làm một cơn mưa thực phẩm, ngày mai là mưa ngũ cốc, ngày kế tiếp lại là mưa thực phẩm, sau đó phải mưa vàng, bạc trong ba ngày. Đến ngày thứ bảy, hãy mưa như bình thường.”


    Các vị Long vương vâng lệnh làm theo lời Sư.


    Sau đó Sư truyền tâm pháp cho Rama, tên của vị thị giả, và dặn dò đệ tử: “Ngươi không được hành động vì lợi ích của bản thân mà hãy vì lợi ích của chúng sinh. Nếu không, ngươi sẽ không bao giờ đạt tới cứu cảnh giải thoát. Sau khi ta đi rồi, ngươi nên đến Sri Parvata mà tu tập.”


    Nói rồi, như có đôi cánh, Sư bay vút vào không trung.


    Sau khi Rama đến Sri Parvata thì lấy một nàng công chúa làm vợ, nhưng cả hai vợ chồng đều từ bỏ cung điện vào sống trong một khu rừng già cho đến khi tu chứng.
  8. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    51) Mahasiddha Panaha: Thợ đóng giày

    [​IMG]


    Những mẫu khuôn của một trái tim thanh tịnh
    Không phải được tạo bởi vọng tưởng,
    mà nó tự hiển hiện
    Nên thực thể luôn luôn sinh động
    Để đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của ta.


    Truyền thuyết
    Tại Sendhonagar có một người thợ giày tên gọi là Upanaha. Một ngày nọ, ông tình cờ gặp một nhà sư Du-già đi khất thực trong thành. Upanaha sinh tâm ngưỡng mộ nên đi theo nhà sư ra tận nơi mộ địa. Sư nhận thấy người thợ giày có đầy đủ tín căn nên giảng về Tứ diệu đế và những lợi ích của sự giải thoát.


    Kế đó, Sư khai tâm cho y bằng bài kệ:


    Những cái chuông do người tạo ra
    Để gắn lên đôi giày đem bán
    Âm thanh reo vui trên đôi chân của kẻ khác
    Tiếng chuông rung trên bước chân
    Khác nào tiếng âm vang cuộc đời.
    Hãy quán niệm rằng.
    Không có sự phân ly giữa âm thanh ấy.
    Upanaha tu tập trong 9 năm thì trừ dứt vô minh và đạt thần thông Đại thủ ấn.


  9. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    52) Mahasiddha Pacari: Người bán bánh

    [​IMG]


    Đừng nhìn quanh quẩn
    Chú mục vào tâm
    Thiền định thực hành
    Được vui thanh tịnh


    Truyền thuyết


    Pacaripa làm nghề bán bánh mì dạo ở thành Campa. Vì nghèo khổ, ông chỉ có một bộ quần áo duy nhất mang trên người. Ông thường nhận bành mì của một chủ hiệu rồi đem đi bán dạo khắp nơi để kiếm sống.


    Một ngày nọ, ông không bán được ổ bánh nào mà bụng thì đói meo nên đành phải ăn một ổ bánh. Chưa ăn được phân nửa thì một nhà sư đến khất thực. Pacaripa không thể nào biết được rằng nhà sư này chính là hóa thân của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Tuy nhiên, ông vui vẻ nhịn phần ăn của mình để cúng dường cho vị sư ấy.


    Nhưng trước khi trao bánh, Pacaripa cung kính đảnh lễ vị sư và nói thật rằng bánh ấy không phải của mình.


    Vị sư cười nói: “Nếu quả vậy thì ngươi đúng là đại thí chủ của ta. Có lẽ ta nên truyền pháp cho ngươi.”


    Pacaripa liền chuẩn bị một mạn-đà-la và dâng hoa lên cho sư. Nhà sư làm lễ qui y, truyền giới Bồ Tát cho ông cùng với chân ngôn Lục tự đại minh.


    Một ngày nọ, Pacaripa gặp lại ông chủ hiệu bánh mì. Ông này đòi khoản tiền bánh mà Pacaripa còn thiếu lại. Pacaripa nói rằng mình quả thật không có vật sở hữu nào đáng giá để trừ vào món nợ ấy. Người chủ hiệu bánh tức giận, xông vào đánh đập Pacaripa.


    Khi ấy, Pacaripa liền kêu lên: “Đâu chỉ một mình ta ăn bánh, còn có thầy ta ăn nữa.”


    Tiếng kêu của Pacaripa vang dội như tiếng sấm khiến ông chủ bánh hoảng sợ dừng tay, nói: “Ta đánh ngươi như thế cũng đã đủ trừ nợ. Bây giờ ngươi hãy đi cho khuất mắt ta.”


    Pacaripa đi vào một ngôi đền thờ đức Quán Thế Âm, ông đứng trước tượng đòi tiền nửa ổ bánh mì. Lập tức có ba mươi lượng vàng hiện ra trước mắt ông. Pacaripa liền trả hết nợ cho ông chủ bánh.


    Khi ấy, Pacaripa thầm nghĩ: “Hẳn đức Quán Thế Âm chính là thầy của ta.”


    Vì vậy, ông khởi hành đi về phía núi Potala, là nơi Bồ Tát trú ngụ. Trên đường, Pacaripa phải băng qua một rừng gai, có lúc bị gai nhọn đâm vào da thịt, chân tay đến rướm máu. Đau đớn, Pacaripa kêu lớn danh hiệu của Bồ Tát. Đức Quán Thế Âm bèn hiện ra và nói: “Đúng, ta chính là chân sư của ngươi. Ngươi không cần phải đến Potala nữa mà hãy quay về Campa để hoằng dương chánh pháp.”


    Pacaripa quá đổi vui mừng, bay bổng lên không rồi quay về xứ cũ.

  10. vinhlac

    vinhlac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2015
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    53) Mahasiddha Godhuri: Người bẫy chim

    [​IMG]

    Các hiện tượng bên trong hay bên ngoài
    đều từ tâm mà ra
    Khi nhận ra bản chất của tâm là ánh sáng
    Thì ngủ nghỉ, đi lại, mơ mộng và thiền định
    đều hiển hiện trong pháp giới
    Hiểu được trọn vẹn như vậy
    nên ta nhận ra Phật tính


    Truyền thuyết


    Godhuripa là dân xứ Disunagar, sống bằng nghề bẫy chim.
    Một hôm ông đang dùng tấm lưới lớn để bẫy chim thì gặp một nhà sư Du-già. Sư hỏi thăm về nghề nghiệp. Godhuripa bảo rằng: “Do nghiệp bất thiện đời trước nên kiếp này tôi phải làm nghề bẫy chim để sống. Dẫu biết rằng đây không phải là một nghề tốt, nhưng không có cách nào khác hơn, thưa đại sư.”


    Đại sư nói: “Nếu vậy, đời sau của ngươi lại càng tệ hại hơn nữa. Sao ngươi không tu tập pháp Phật để tìm thấy sự an lạc?”


    “Xin thầy xót thương mà dạy cho pháp giải thoát.”


    Đại sư liền làm phép khai tâm, điểm đạo cho Godhuripa rồi dạy rằng: “Ngươi hãy quán sát tất cả âm thanh trong thế gian này đều là tiếng chim hót. Hai thứ ấy đều là một thì chứng vào pháp giới.”


    Godhuripa tu tập được 9 năm thì dứt vô minh, chứng đắc Đại thủ ấn. Ngài thọ được một trăm năm và hóa độ trên ba trăm đệ tử.

Chia sẻ trang này