1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

A bridge too far bản dịch tiếng ta

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi allah_akbar, 11/05/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Đang quay về trang trại của mình nằm cạnh Renkum, cách Wolfheze chưa đầy 1 dặm, Jan Pennings nhìn thấy máy bay bay thấp từ phía tây tới. Anh nghĩ những chiếc máy bay này quay lại để oanh tạc tuyến đường sắt. Anh chán ngán quan sát chúng, sẵn sàng nhào xuống tìm nơi ẩn nấp nếu bom rơi xuống. Khi những chiếc máy bay bay tới không phận Renkum, Pennings sững sờ nhìn thấy ?onhững kiện hàng được ném xuống, sau đó là lính nhảy dù. Tôi biết ở Normandy lực lượng Đồng Minh đã dùng lính dù và tôi tin chắc rằng đó là sự khởi đầu của cuộc tấn công.?
    Ít phút sau, đạp xe về tới trang trại, Jan kêu lớn với vợ mình, ?oRa đi! Chúng ta tự do rồi!? Rôi những người lính dù đầu tiên anh từng trông thấy đi vào sân trang trại. Ngỡ ngàng và vui mừng, Pennings bắt tay họ. ?oTrong nửa giờ nữa,? họ nói với anh, ?ohàng trăm người nữa của chúng tôi sẽ tới?.
    Tài xế Jan Peelen cũng đã trông thấy lực lượng dò đường đổ xuống Renkum. Anh nhớ lại rằng ?ohọ tiếp đất hầu như hoàn toàn yên lặng. Họ rất có kỷ luật và lập tức khống chế khu tiếp đất?. Giống như những toán dò đường khác ở phía bắc tuyến đường sắt, họ tiến hành đánh dấu các bãi nhảy dù và bãi đáp tàu lượn. Cách đó 15 dặm về phía nam, gần thị trấn Overasselt, cậu thanh niên 19 tuổi Theodorus Roelofs, đang ẩn trốn bọn Đức, bất ngờ được giải thoát bởi lực lượng dò đường của sư đoàn 82, những người đã đổ xuống nhay cạnh trang trại của gia đình cậu. Những người lính Mỹ, cậu nhớ lại,?khá ít, và tôi sợ rằng nhóm nhỏ những người can đảm này sẽ bị tiêu diệt?. Những người dò đường không để phí thời gian. Phát hiện ra cậu thanh niên Hà Lan nói được tiếng Anh, họ lập tức kết nạp Roelofs vào toán và sử dụng cậu làm người dẫn đường và phiên dịch. Xác nhận các vị trí trên bản đồ của họ và chỉ họ tới các bãi đổ bộ đã được định trước, Roelofs ngạc nhiên quan sát những người lính đánh dấu địa điểm ?obằng những dải vải màu và pháo hiệu khói?; Ba phút sau một chữ O khổng lồ màu vàng và những cuộn khói tím đánh dấu rõ rành khu vực này.
    Bốn chiếc C47 chở lực lượng dò đường của sư đoàn 101 tới các khu đổ bộ phía bắc Eindhoven đã gặp phải hỏa lực phòng không rất mạnh. Một chiếc bốc cháy rơi xuống đất. Chỉ 4 người sống sót. Ba chiếc còn lại tiếp tục chuyến bay, và những người dò đường đã được thả chính xác xuống hai khu đổ bộ của sư đòan 101. Vào lúc 12 giờ 54, tất cả khu nhảy dù và hạ cánh suốt dọc khu quyết chiến của Market Garden đều đã được định vị và đánh dấu. Thật ngạc nhiên, quân Đức vẫn không báo động.
    Tại trại lính Hoenderloo, trung tá Walter Harzer, tư lệnh sư đòan Hohenstaufen, đang chúc mừng viên đại úy vừa được tặng huy chương Paul Grabner. Vài phút trước đó, Harzer đã trông thấy vài chiếc dù rơi xuống phía tây Arnhem. Ông ta không ngạc nhiên. Ông ta cho rằng đó là phi hành đoàn của một máy bay ném bom bị bắn hạ. Ở Oosterbeek, tại khách sạn Tafelberg, thống chế Model đang uống một ly khai vị trước bữa trưa ?" một ly Moselle lạnh ?" với tham mưu trưởng của mình, trung tướng Hans Krebs, sĩ quan tác chiến đại tá Hans von Tempelhof và trợ lý sở chỉ huy đại tá Leodegard Freyberg. Như viên sĩ quan văn phòng trung úy Gustav Sedelhauser nhớ lại, ?o Bất cứ khi nào có mặt tại sở chỉ huy, thống chế cũng luôn chính xác đến từng giây. Chúng tôi luôn luôn ăn trưa lúc 13 giờ?. Đó cũng chính là giờ G cho lực lượng Market.
    Lúc này, bay thành đội hình dày đặc, đoàn C47 khổng lồ chở sư đoàn 101 bay qua lãnh thổ Bỉ do Đồng minh kiểm soát với tiếng động cơ vang rền. Quá Brussels 25 dặm, đội hình này ngoặt lên hướng bắc về phía biên giới Hà Lan. Sau đó, những người lính trên máy bay nhìn xuống và, lần đầu tiên họ nhìn thấy đối tác mặt đất của mình, lực lượng Garden mà cuộc tấn công trên bộ đã được đồng bộ hóa với cuộc tập kích đường không. Đó là một quang cảnh hoành tráng không thể nào quên. Đội hình khổng lồ của quân đoàn 30 của tướng Horrock trải ra trên khắp các cánh đồng, các ngả đường. Những đội hình xe tăng, xe half track, xe bọc thép bánh hơi, xe chở lính dày đặc, và hết dãy này đến dãy khác đại bác dàn ra sắn sàng cho cuộc đột kích. Trên các xe tăng các cần anten lay động trong gió, và hàng ngàn lính Anh đứng trên xe hay đang tập hợp đông nghịt trên các cánh đồng vẫy tay chào những người trên trời. Màn khói màu da cam bốc lên trên không trung đánh dấu dải mặt trận của người Anh. Phía sau là kẻ thù.
    Lướt sát mặt đất, các máy bay khu trục dẫn đầu đội hình tới các khu đổ quân, sãn sàng dọn sạch mọi thứ phía trước đội hình. Cho dù những cuộc oanh kích dữ dội trước khi đổ quân đã tiêu diệt rất nhiều vị trí phòng không của kẻ thù, lúc này những lưới ngụy trang lại đột ngột được tung ra để lộ những vị trí của quân địch. Một số người nhớ lại đã thấy đỉnh nhiều đống rơm tung ra để lộ những nòng súng 88 và 20 mm. Bất chấp những cuộc tấn công rất kỹ lưỡng của máy bay khu trục, không thể loại bỏ được hết các vị trí quân địch. Chỉ còn cách các khu đổ quân ở phía bắc Eindhoven có 7 phút, đội hình của sư đoàn 101 vấp phải hỏa lực phòng không dữ dội.
    Binh nhì John Cipolla đang ngủ khi anh đột ngột bừng tỉnh bởi ?otiếng súng phòng không nổ đanh, và mảnh đạn cắm xuyên vào máy bay của chúng tôi?. Cũng như những người khác, Cipolla còng người xuống dưới sức nặng của trang bị phải mang theo, khiến anh hầu như không thể nhúc nhích được. Bên cạnh khẩu súng trường, chăn, áo mưa, balô, anh này còn phải mang dây đạn vắt chéo qua vai, các túi nhét đầy lựu đạn, khẩu phần ăn và chiếc dù chính cộng thêm chiếc dù phụ. Hơn nữa, trên máy bay của anh, mỗi người phải mang thêm một quả mìn. Anh nhớ lại, ?omột chiếc C47 ở bên trái chúng tôi cháy bùng lên, rồi một chiếc khác nữa, và tôi nghĩ ?oChúa ơi, lần tới là tới lượt cánh mình rồi! Liệu mình có thóat khỏi cái máy bay này không!!?
    Chiếc C47 của anh rung lên và tất cả dường như cùng hét lên một lúc, ?oNhảy thôi! Chúng ta dính đạn rồi!? Người chỉ huy nhảy ra lệnh ?oĐứng lên cài móc dù?. Rồi anh ta bình thản kiểm tra trang bị. Cipolla có thể nghe thấy từng người báo cáo, ?oMột OK. Hai OK. Ba OK.? Dường như hàng giờ trôi qua trước khi Cipolla, người đứng cuối dãy, được hô ?oHai mươi mốt OK.? Sau đó đèn xanh bật sáng, mọi người nối nhau nhảy ra ngoài, dù mở tung ra trên đầu họ. Ngó lên trên để kiểm tra chiếc dù của mình, Cipolla nhìn thấy chiếc C47 anh vừa rời khỏi đang bốc cháy. Trong lúc anh quan sát, chiếc máy bay rơi xuống như một bó đuốc.
    Bất chấp trận mưa mảnh đạn cắm vào các máy bay, các đội hình vẫn không dao động. Phi công của không đoàn vận tải số 9 vẫn giữ vững hành trình không thay đổi. Trung úy Robert O?TConnell nhớ lại phi đội của anh bay sát nhau ,? đến mức tôi nghĩ phi công của chúng tôi sắp sửa đập cánh máy bay vào tai của viên phi công lái chiếc bên trái chúng tôi.? Máy bay của O?TConnell bị cháy. Đèn đỏ báo chuẩn bị nhày bật sáng, và ?ocó nhiều khói trong khoang đến mức tôi không nhìn được hết dãy của mình?. Binh lính bật ho và lớn tiếng đòi nhảy ra. O?TConnell ?ođứng chắn ngang cửa để ngăn họ lại?. Viên phi công vẫn tiếp tục lái thẳng không tránh né, và O?TConnell nhìn thấy toàn đội hình bắt đầu hạ độ cao và giảm tốc, chuẩn bị cho việc thả quân. O?TConnell hy vọng ?onếu phi công nghĩ chiếc máy bay sắp rơi, anh ta sẽ bật đèn xanh đúng lúc để mọi người kịp thoát ra.? Bình thản, viên phi công lái chiếc máy bay đang bốc cháy cho đến lúc tới ngay trên khu đổ quân. Sau đó đèn xanh bật sáng và O?TConnell cùng người của mình nhảy ra an toàn. Sau này O?TConnell được biết chiếc máy bay phải đáp bụng nhưng tổ lái thoát nạn.
    Không hề nghĩ tới sự an toàn của chính mình, các phi công lái máy bay vận tải đưa máy bay của mình qua làn đạn tới khu đổ quân. ?oĐừng lo cho tôi,? trung úy Herbert E.Shulman, phi công của một chiếc C47 bị bắn cháy, nói qua radio với viên chỉ huy bay. ?oTôi sẽ đưa những người lính này tới đúng bãi đổ quân?. Anh đã làm đúng như vậy. Những người lính dù nhảy ra an toàn. Chỉ vài giây sau, chiếc máy bay cháy bùng lên đâm xuống đất. Thượng sĩ Charles A.Mitchell kinh hoàng nhìn thấy lửa phụt ra từ động cơ chiếc máy bay anh vừa rời khỏi. Trong lúc người phi công tiếp tục giữ vững đường bay, Mitchell nhìn thấy toàn bộ toán lính dù nhảy xuống qua đám lửa.
    Bi kịch chưa dừng lại ở đây. Binh nhì Paul Johnson vừa đến bên khoang lái thì chiếc máy bay của anh bị bắn trúng giữa thân và cả hai thùng nhiên liệu bốc cháy. Trong số 16 lính dù, phi công và phụ lái, chỉ Johnson và hai người khác kịp nhảy. Họ đã phải dẫm lên những xác chết trong khoang máy bay để nhảy ra ngoài. Tất cả những người sống sót đều bỏng nặng , Johnson bị cháy hết tóc. Cả ba người rơi xuống một khu dấu xe tăng của quân Đức. Trong nửa giờ họ chiến đấu với kẻ thù từ một rãnh nước. Sau đó, cả ba đều bị thương, bị áp đảo và bị bắt làm tù binh
  2. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Đúng vào lúc đèn xanh báo nhảy bật sáng trên một máy bay khác, người lính dù đứng đầu hàng, đang ở bên cạnh cửa, bị giết. Anh ta ngã đè lên trung sĩ John Altomare. Thi thể của anh ta lập tức được chuyển sang bên và những người còn lại nhảy ra. Và, trong lúc một toán lính dù khác đang lơ lửng trên không, một chiếc C47 mất lái đã quệt phải hai người trong số họ, hai người này bị cánh quạt động cơ chém rời thành từng mảnh.
    Như thường lệ, những người Mỹ vẫn tìm được cách bông đùa ngay cả trong cuộc tiếp cận kinh hoàng tới các khu đổ quân. Ngay sau khi đại úy Cecil Lee đứng dậy móc dù, máy bay của anh bị trúng đạn. Mảnh đạn ghém xuyên thủng chỗ ngồi anh vừa mới rời khỏi. Gần đó, một người lính lớn tiếng mỉa mai, ?oGiờ thì chúng nó cho bọn mình cả bồn cầu nữa?. Trên một máy bay khác, trung úy Anthony Borrelli tin chắc mình đã bị tê liệt. Đèn đỏ bật và tất cả móc dù- trừ Borrelli, người không thể nào nhúc nhích được. Mới đeo lon sĩ quan được hai tuần và lần đầu tham chiến, Borrelli, người đứng đầu dãy, ý thức được mọi người đang nhìn mình. Anh bối rối nhận ra mình đã móc dù vào chỗ ngồi. Binh nhì Robert Boyce tham gia trận đánh bất chấp thiện ý của viên nha sĩ sư đoàn, người đã ghi anh ta thuộc dạng ?okhông được tham chiến? do vấn đề về răng. Với sự can thiệp của chỉ huy đại đội, Boyce, một cựu binh từ Normandy, được phép tham chiến. Khi máy bay của anh ta tiếp cận mục tiêu, Boyce nhìn thấy người Hà Lan bên dưới giơ hai ngón tay lên làm hình chữ V tượng trưng cho chiến thắng để chào mừng. Boyce chỉ cần có thể. ?oÊ, nhìn kìa,? anh gọi những người khác, ?ohọ đang cược hai ăn một là cánh mình sẽ không tới nơi được?.
    Mối e ngại không bao giờ tới được khu đổ bộ ít nhất cũng lớn như vậy ở nhiều người khác. Đại tá Robert F.Sink, chỉ huy trung đoàn 506, thấy ?onhững tràng đạn cao xạ dữ dội lao tới chào đón chúng tôi.? Trong lúc ông nhìn qua cửa, chiếc máy bay lắc dữ dội và Sink trông thấy một phần cánh máy bay rách rời ra. Ông quay lại những người cùng dãy và nói, ?oThế đấy, cánh máy bay toi rồi?. Và Sink nhẹ nhõm vì ?okhông ai có vẻ quan tâm nhiều đến việc này. Họ cho thấy lần này chúng tôi thực sự đã nhập cuộc?.
    Trên máy bay số 2, người phó của Sink, trung tá Charles Chase, nhìn thấy cánh bên trái máy bay của họ bốc cháy. Đại úy Thomas Mulvey nhớ lại rằng Chase nhìn chăm chăm vào đám cháy một phút rồi bình thản nhận xét, ?oTôi nghĩ bọn chúng đang bắt kịp chúng ta đấy. Tốt nhất nên đi thôi.? Khi đèn xanh trên cả 2 máy bay bật sáng, tất cả lập tức nhảy ra ngoài. Chiếc máy bay chở Chase đâm xuống đất bốc cháy. Chiếc máy bay chở Sink, với bên cánh bị hư hại, dường như đã an toàn quay về Anh.
    Hỏa lực phòng không cũng dữ dội không kém trùm lên đội hình trung đoàn 502, và máy bay thuộc hai toán khác nhau đã suýt đâm vào nhau. Một dãy máy bay, hơi mất phương hướng, đã đi cắt vào hướng của một nhóm khác, khiến nhóm này phải tăng độ cao và thả quân ở độ cao lớn hơn dự tính. Trên chiếc máy bay đi đầu nhóm này có sư đòan trưởng, tướng Maxwell D.Taylor, và tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trung đoàn 502, trung tá Patrick Cassidy. Đứng bên khung cửa, Cassidy thấy một máy bay trong nhóm cháy bùng. Ông chỉ nhìn thấy có 7 chiếc dù. Rồi lửa bùng lên ở chiếc C47 bay ngay bên trái. Tất cả lính dù nhảy khỏi máy bay. Ngỡ ngàng trước đám cháy, Cassidy không nhận ra đèn xanh đã bật. Tướng Taylor, đứng sau lưng ông, bình thản khẽ nói. ?oCassidy, đèn xanh rồi.? Cassidy máy móc đáp, ?oVâng, thưa ngài, tôi biết,? và nhảy. Taylor nhảy ngay sau ông.
    Với tướng Taylor, cuộc đổ quân của sư đòan 101 là ?omột thành công hiếm có, gần như một buổi tập?. Trong kế hoạch ban đầu, ban tham mưu của Taylor đã ước tính thương vong ở mức 30%.Trong số 6695 lính dù lên máy bay ở Anh, 6669 người đã nhảy dù. Bất chấp hỏa lực phòng không dữ dội, sự kiên cường của các phi công lái C47 và tiêm kích hộ tống đã giúp sư đoàn 101 có một cuộc nhảy dù gần như hoàn hảo. Cho dù một số đơn vị đã bị thả cách khu đổ quân từ 1 đến 3 dặm về phía bắc, họ đã tiếp đất gần nhau đến mức có thể nhanh chóng tập hợp được. Chỉ có 2 máy bay không tới được khu đổ quân, và không đoàn vận tải số 9 đã nhận về mình phần tổn thất lớn nhất trong quyết tâm anh dũng của họ nhằm đưa bằng được lực lượng dù tới đích. Trong số 424 chiếc C47 chở sư đoàn 101, một phần tư bị trúng đạn, 16 chiếc bị rơi, tổ lái hy sinh.
    Tổn thất của các tàu lượn cũng rất lớn. Sau đó, khi các biên đội này tới nơi, chỉ 53 trong số 70 tàu lượn xuất phát ban đầu hạ cánh không bị thương tích gì tại khu hạ cánh gần Son. Tuy thế, bất chấp những trường hợp phải bỏ cuộc, bất chấp hỏa lực phòng không của đối phương và các vụ hạ cánh bắt buộc, các tàu lượn đã mang được tới nơi gần 80% số binh lính và 75% số xe jeep và xe tải chúng chuyên chở. Lúc này những con chim ưng gầm thét của Taylor bắt đầu tiến tới các mục tiêu của họ - những cây cầu và điểm vượt sông trên 15 dặm hành lang quan trọng nằm ngay phía trước lực lượng mặt đất của Anh.
    Đại tướng Kurt Student và tham mưu trưởng của ông ta, đại tá Reinhard, đứng trên ban công ngôi nhà của viên tướng gần Vught và ?ochỉ đơn giản là tròn mắt ra nhìn, ngơ ngẩn như những gã ngốc?. Student nhớ lại ?o nhìn về phía nào, chúng tôi cũng thấy từng đoàn máy bay ?" tiêm kích, vận tải ?" bay trên đầu mình. Chúng tôi leo lên nóc nhà để biết chính xác hơn những đơn vị này đang đi đâu.?
    Những đoàn máy bay này xem ra đang hướng về Grave và Nijmegen và, chỉ vài dặm về phía nam gần Eindhoven và Son, ông ta có thể nhìn thấy rõ các máy bay vận tải ?" chiếc này nối đuôi chiếc khác ?" bay tới và thả quân cùng trang bị. Một số máy bay bay thấp đến nỗi Student và Reinhard bất giác nằm phục xuống. ?oNgoài sân sở chỉ huy, nhân viên văn phòng, lái xe và hiệu thính viên chạy ra, bắn với tất cả các loại vũ khí. Như thường lệ, chẳng thấy bóng dáng tiêm kích của bên mình đâu cả?. Sudent hòan toàn choáng váng. ?oTôi không thể nói chuyện gì đang xảy ra hay những đơn vị này đang tới đâu. Vào lúc đó, tôi không hề nghĩ đến sự nguy hiểm đang đe dọa chính mình?. Nhưng Student, một chuyên gia về tác chiến nhảy dù, cảm thấy đầy ngưỡng mộ và ghen tỵ. ?oCảnh tượng hùng vĩ đó đã gây ấn tượng sâu sắc với tôi. Tôi vừa nhìn vừa suy nghĩ và nhớ lại những chiến dịch đổ bộ của chúng tôi, rồi tôi nói với Reinhard, ?oChà, giá như có lúc tôi có được trong tay mình những phương tiện như vậy. Chỉ một lần thôi, có được từng ấy máy bay!? Suy nghĩ của Reinhard thực tế hơn nhiều. ?oTướng quân,? ông ta nói với Student, ?ochúng ta phải làm điều gì đó!? Họ rời mái nhà xuống văn phòng của Student.
    Chỉ mới tối hôm trước, Student đã cảnh báo trong báo cáo hàng ngày của ông, ?oNhững đoàn quân xa lớn di chuyển phía nam kênh Maas-Schelde cho thấy một cuộc tấn công sắp diễn ra.? Vấn đề là ở chỗ: nó đã thực sự bắt đầu chưa? Nếu vậy, thì những đơn vị đổ bộ đường không này đang hướng tới các cây cầu xung quanh Eindhoven, Grave, và Nijmegen. Tất cả các điểm vượt song đều đã được chuẩn bị cho việc phá hủy và được bảo vệ bởi các đơn vị công binh đặc biệt và các đội tuần tiễu. Một chỉ huy cầu đã được chỉ định cho mỗi điểm với mệnh lệnh nghiêm ngặt phải phá hủy ngay cầu khi bị tấn công. ?oĐộng thái hiển nhiên của đồng minh,?Student nhận định, ?osẽ là dùng lực lượng đổ bộ trong tình huống này để chiếm các cầu trước khi chúng ta kịp phá hủy chúng?. Vào thời điểm đó, Student thậm chí không nghĩ tới tầm quan trọng của cây cầu qua sông Rhine hạ tại Arnhem. ?oNối máy cho tôi với Model?, ông ta nói với Reinhard.
    Reinhard nhấc máy và phát hiện ra rằng đường dây điện thoại không hoạt động. Sở chỉ huy đã bị cô lập.
    Tại Oosterbeek, cách đó 37 dặm, trong khách sạn Tafelberg, trung úy Gustav Sedelhauser, sĩ quan văn phòng của Model, đang bực bội. ?oCác anh vẫn còn ngái ngủ từ hôm qua đấy à?? anh ta quát vào một chiếc điện thoại dã chiến. Hạ sĩ quan Youppinger, một trong số 250 người của đơn vị bảo vệ Model do Sedelhauser chỉ huy, nhắc lại những gì anh ta vừa nói. Tại Wolfheze, ?otàu lượn đang hạ thẳng xuống đầu chúng ta?, anh ta khăng khăng. Sedelhauser dập mạnh điện thoại xuống và chạy vào phòng hành quân, tại đây anh này báo cáo lại thông tin cho một viên trung tá đang sững sờ. Cả hai người vội chạy tới phòng ăn, nơi Model và tham mưu trưởng của ông,tướng Krebs, đang ăn trưa. Phụ trách tác chiến, đại tá Tempelhof sững sờ; chiếc kính một mắt rời khỏi mắt Krebs. ?oVậy chúng ta sẽ là đích?, Tempelhof nói.
    Model đứng bật dậy và ra một loạt mệnh lệnh nhằm sơ tán lập tức sở chỉ huy. Vừa lao ra khỏi phòng ăn để thu xếp đồ của mình, ông vừa nói vọng lại,?Chúng tới tìm tôi và sở chỉ huy này!? Một lát sau, chỉ mang theo một vali nhỏ, Model lao qua cửa khách sạn Tafelberg. Trên đường ông ta đánh rơi chiếc vali làm nó bật mở hất tung ra những chiếc khăn tắm và đồ lót của ông.
    Krebs theo sau Model ra ngoài vội đến mức Sedelhauser thấy ?oông ta thậm chí còn quên cả mũ, súng ngắn và thắt lưng?. Tempelhof thậm chí còn chẳng có thời gian để gỡ những tấm bản đồ chiến sự treo ở phòng hành quân. Đại tá Freyberg, trợ lý sở chỉ huy, cũng vội vàng như vậy. Đi qua trước mặt Sedelhauser, ông ta quát, ?oĐừng có quên xì gà của tôi đấy?. Trong xe của mình, Model ra lệnh cho lái xe của ông, Frombeck. ?oNhanh lên! Doetinchem! Tới sở chỉ huy của Bittrich!?
    Sedelhauser đợi cho đến khi chiếc xe đi khuất và quay vào khách sạn. Trong phòng hành quân, anh ta trông thấy những tấm bản đồ- chỉ rõ tất cả các vị trí đóng quân từ Hà Lan tới Thụy Sĩ ?" vẫn còn nằm trên mặt một chiếc bàn. Anh này bèn cuộn lại và mang theo mình. Sau đó viên trung úy ra lệnh sơ tán lập tức khỏi khách sạn Hartenstein và Tafelberg; tất cả phương tiện, anh ta ra lệnh, ?otất cả các xe con, xe tải, motor, đều phải đi ngay lập tức?. Báo cáo cuối cùng anh ta nhận được trước khi rời tới Doetinchem là quân Anh chỉ còn cách đó chưa đầy hai dặm. Trong lúc vội vã anh ta đã quên bẵng những điếu xì gà của Freyberg.
    Bao quanh bởi những cuộn khói từ những ngôi nhà đang cháy, đội hình tàu lượn hùng hậu của quân Anh bắt đầu hạ cánh. Những khu đổ quân được đánh dấu bằng những dải nylon màu cam và huyết dụ lúc này đã bắt đầu trông giống như một bãi đỗ máy bay khổng lồ. Khói hiệu màu xanh bốc lên từ hai khu đổ quân ?" ?oReyers Camps Farm? ở phía bắc và ?oRenkum Heath? ở phía tây nam- gần Wolfheze. Từ những khu này, từng dãy máy bay kéo và tàu lượn nối nhau dài tới gần 20 dặm cho tới điểm tiếp cận nằm gần thị trấn Hertogenbosch, tây nam Nijmegen. Hàng đoàn máy bay tiêm kích bảo vệ những không đoàn khổng lồ này. Mật độ không lưu dày đặc đến mức các phi công nhớ tới những khi tắc đường vào giờ cao điểm ở vòng cung Piccardilly Circus bận rộn của London.
  3. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Những biên đội này ?"mỗi nhóm cách nhau 4 phút bay ?" bay chậm rãi trên vùng đồng quê Hà Lan bằng phẳng chằng chịt kênh rạch. Những mốc định vị các phi công đã được phổ biến phải nhận ra lúc này bắt đầu xuất hiện phía dưới họ: những dòng sông lớn Maas và Waal và xa hơn về phía bắc, sông Rhine hạ. Sau đó, khi từng nhóm bắt đầu hạ độ cao, binh lính nhìn thấy Arnhem nằm về phía bên phải và các mục tiêu chủ yếu của họ: cầu đường sắt và cầu đường bộ. Thật ngạc nhiên, bất chấp sự cảnh báo của RAF tiên đoán hỏa lực phòng không dày đặc, đoàn tàu lượn đông đảo đã không gặp bất kỳ phản kháng nào. Những cuộc ném bom chuẩn bị tại Arnhem đã hiệu quả hơn nhiều so với tại Eindhoven. Không một tàu lượn hay máy bay kéo nào bị bắn hạ trong lúc tiếp cận.
    Với sự chính xác tuyệt đối, các phi công dày dạn kinh nghiệm của RAF và trung đoàn tàu lượn đã tiếp cận các khu hạ cánh. Sau khi các tàu lượn tháo cáp nối, các máy bay kéo bay cao lên lượn trở ra để nhường chỗ cho những cặp tiếp theo. Những thao tác bay phức tạp này cũng như mật độ không lưu dày đặc đã tạo ra những vấn đề khó khăn. Thượng sĩ phi công Bryan Tomblin nhớ lại sự đông đúc hỗn độn trên không phận các khu đổ quân. ?oTàu lượn, máy bay kéo, cáp, đủ thứ trên không,? anh nhớ lại. ?oBạn phải luôn nhìn ngó xung quanh?.
    Thượng sĩ nhất Victor Miller, lái một chiếc Horsa, còn nhớ đã bay qua sông Rhine Hạ và thấy nó ?oyên ả lạ thường?. Xa hơn, anh chợt nhận ra khu đổ bộ của mình, với một vạt rừng hình tam giác và một trang trại nhỏ nép vào rìa phía xa của vạt rừng?. Vài giây sau, Miller nghe thấy tiếng nói của hoa tiêu trên chiếc Stirling đang kéo mình. ?oOK số 2. Khi anh đã sẵn sàng.? Miller xác nhận. ?oChúc may mắn, số 2?, viên hoa tiêu nói với anh. Miller lập tức tháo cáp nối. Chiếc máy bay kéo biến mất, sợi cáp kéo bay phấp phới phía sau. Miller biết nó sẽ được thả rơi xuống kẻ thù ?o như món quà chia tay trước khi chiếc Stirling quay về căn cứ?.
    Chiếc tàu lượn bay chậm dần lại và lướt dần xuống mặt đất. Miller ra lệnh mở cánh hãm tốc và phụ laí của anh, thượng sĩ Tom Hollingsworth, lập tức kéo một chiếc cần. Chiếc tàu lượn chững lại trong khoảnh khắc, ?otrong khi những cánh hãm tốc lớn mở ra phía dưới cánh tàu lượn để làm chậm tốc độ của chúng tôi lại?. Khu đổ quân, Miller ước lượng, chỉ còn cách chưa tới 1 dặm. ?oTôi nhắc Tom quan sát các tàu lượn ở phía anh ta. Một chiếc bay ngang qua trước mặt chỉ cách chúng tôi chưa đến 50 yard?, và, trước sự ngạc nhiên của Miller, ?o rồi lượn theo cùng hướng. Một chiếc khác có vẻ như sắp đâm vào bên sườn chúng tôi. Tôi không nghĩ là tay phi công nhìn thấy chúng tôi, có lẽ anh ta chỉ chăm chú đến việc hạ cánh?. Để tránh va chạm, Miller đánh liều lạng xuống lướt qua bụng chiếc tàu lượn đang lao tới. ?oMột bóng đen lớn lao qua phía trên buồng lái của chúng tôi, gần hơn mức tôi có thể dửng dưng. Tôi chỉ lo làm sao hạ cánh mà còn nguyên vẹn nên chẳng hề quan tâm liệu quân địch có bắn vào chúng tôi không ?" mà việc này thì có lo cũng chẳng thay đổi được gì nhiều?.
    Miller tiếp tục hạ cánh với ?onhững ngọn cây vươn lên hướng tới bụng chiếc tàu lượn và lướt qua hai bên cánh. Khi mặt đất xuất hiện, một chiếc tàu lượn khác lao tới sát cạnh. Tôi hạ càng, chúng tôi chạm đất, nảy nên chừng 3 bộ rồi tiếp đất hẳn. Tom kéo hết phanh và chúng tôi lê dài bụng trên cánh đồng; Sau đó các bánh xe càng tiếp đất lún vào đất mềm và chúng tôi dừng lại cách những hàng cây to lớn chừng 50 yard.? Trong sự im lặng, sau những tiếng động điếc tai không dứt trong lúc tiếp đất, Miller nghe thấy tiếng súng bộ binh cỡ nhỏ, ?o nhưng ý nghĩ duy nhất của tôi lúc đó là nhảy ra khỏi tàu lượn trước khi có ai đó đâm xuống hay đáp xuống đầu chúng tôi. Tôi là người cuối cùng chui ra ngoài. Tôi nhảy thẳng từ nắp cửa khoang lái và rơi xuống mặt đất Hà Lan ở phía dưới tôi 4 bộ, một cách khá nặng nề.?
    Chiếc tàu lượn chở hiệu thính viên Graham Marples bay vòng rồi quay trở lại địa điểm đổ quân vì không lưu quá đông. ?oNhưng đến lúc đó chúng tôi đã hết đà lượn,? Marples nhớ lại, ?o tôi nhìn thấy cành cây đâm xuyên qua sàn tàu lượn. Chúng phá tan sàn thành từng mản, và điều tiếp theo tôi biết là chúng tôi đã chúi đầu lao xuống. Tôi nghe thấy mọi thứ vỡ như củi khô bị bẻ vậy. Chúng tôi gần như cắm đầu xuống đất nhưng không ai bị thương trừ vài vết xước hay bầm tím?. Sau đó, viên phi công cho Marples biết anh ta đã lái tàu lượn lượn vòng để tránh đâm vào một tàu lượn khác. Nhiều tàu lượn khác, sau khi đã vượt qua thành công mọi trở ngại của chuyến bay dài, lại gặp tai họa khi hạ cánh. Thượng sĩ George Davis đứng gần chiếc Horsa trống rỗng của mình quan sát các tàu lượn khác tới nơi. Là một trong những người đầu tiên hạ cánh, Davis đã mang theo 32 người của lữ đoàn đổ bộ số 1. Anh trông thấy 2 tàu lượn ?ogần như lao song song với nhau qua khu đổ quân và đâm vào cây. Cánh của cả hai chiếc đều bị gãy lìa?. Vài giây sau, một chiếc Horsa nữa lao tới. Tốc độ của nó nhanh tới mức Davis biết chắc nó không thể nào dừng lại kịp. Chiếc tàu lượn lao vào cây. Không ai trèo ra ngoài. Cùng thượng sĩ William, phụ lái của mình, Davis chạy tới chiếc tàu lượn và nhìn qua cửa kính khoang lái bằng thủy tinh hữu cơ. Tất cả những người bên trong đều đã chết. Một khẩu cối 75 mm đã bật khỏi xích chằng, nghiền nát các pháo thủ và tiện cụt đầu phi công cũng như phụ lái.
    Trung úy Michael Dauncey vừa hạ cánh chiếc tàu lượn của mình ?" chở một chiếc jeep, moóc và 6 pháo thủ của một khẩu đội pháo ?" thì thấy một chiếc Hamilcar 8 tấn to lớn lao xuống. ?oĐất của khu đổ bộ khá mềm,? anh nhớ lại, ?o và tôi thấy mũi chiếc Hamilcar cắm xuống?. Trọng lượng và tốc độ tiếp đất làm chiếc tàu lượn lún sâu hơn vào đất cho đến khi chiếc đuôi kềnh càng dựng lên trên không và chiếc Hamilcar bị lộn ngửa bụng lên trời. Dauncey biết ?ocó cố đào bới cũng vô ích. Nóc của một chiếc Horsa thì phẳng, nhưng một chiếc Hamilcar có một khoang nhô lên cho phi công ngồi, và chúng tôi biết các phi công không còn hy vọng sống sót?.
    Tiếp đất trên một chiếc Hamilcar khác, thượng sĩ Gordon Jenks cũng nhìn thấy tai nạn đó và lập tức hiểu ra mặt đất phía trước quá yếu. Anh quyết định ngay không hạ cánh xuống cánh đồng nữa. ?oTôi nghĩ thầm nếu chúng tôi lượn sang phải ngay lúc đó,? anh nhớ lại, ?o chúng tôi sẽ vẫn còn đủ tốc độ để giữ chiếc tàu lượn trên không, vượt qua hàng rào và hạ cánh an toàn xuống khu đổ quân kế tiếp?. Jenks kéo cần điều khiển về phía trước, lượn xuống, bay là là cách mặt đất vài bộ. Sau khi lái chiếc tàu lượn to lớn nhẹ nhàng lướt qua bên trên hàng rào, Jenks ?ohạ nó xuống bãi đỗ kế tiếp nhẹ nhàng như một chiếc lông chim?.
    Trên khắp bãi đổ quân, đuôi các tàu lượn được tháo ra, và pháo, khí tài, dự trữ, xe jeep và xe tải được dỡ xuống. Những người lính trên tàu lượn của thượng sĩ Henry Brook, cũng như nhiều người khác, phát hiện ra thao tác dỡ hàng thật ngon lành trên lý thuyết nhưng khi thực hành lại khó khăn hơn nhiều. ?oCó 8 chốt kẹp có dây bảo vệ giữ lấy đuôi tàu lượn,? Brook giải thích. ?oKhi còn ở Anh lúc luyện tập, bạn luôn có thể tháo đuôi và đưa xe jeep cùng moóc kéo ra trong đúng 2 phút. Trên thực địa, mọi thứ khác hẳn. Chúng tôi cắt dây và tháo chốt, nhưng chiếc đuôi vẫn kẹt cứng.? Brook và những người khác cuối cùng phải chặt đứt đuôi ra. Pháo thủ J.W.Crook cũng bị thất vọng như vậy, nhưng một chiếc jeep ở gần đó đã tới giúp người của anh và bằng dây tời của nó lôi chiếc đuôi tàu lượn rời ra.
    Trên khắp khu đổ quân binh lính bắt đầu thu nhặt quân dụng từ các tàu lượn bị rơi. Việc hai chiếc Hamilcar khổng lồ bị tai nạn là một tổn thất nghiêm trọng. Chúng mang theo 2 khẩu pháo 17 pound cùng xe tải 3 tấn và xe moóc chở đạn. Nhưng toàn bộ 15 khẩu pháo 75 mm của trung đoàn pháo hạng nhẹ đổ bộ số 1 đều tới nơi an toàn.
    Phần lớn những người đổ bộ bằng tàu lượn đều nhớ lại sự yên lặng lạ lung, gần như ảo giác sau khi tiếp đất. Sau đó, từ các điểm tập hợp, mọi người nghe thấy tiếng kèn túi chơi bài ?oBlue Bonnets?. Cùng lúc, những người lính ở ven khu rừng Renkum trông thấy các thường dân Hà Lan lang thang thơ thẩn trong rừng hay cuống cuồng chạy tìm chỗ trốn. Trung úy Neville Hay thuộc đơn vị Phantom nhớ lại ?ođó là một cảnh tượn kỳ lạ. Một số người mặc áo bệnh nhân màu trắng và có vẻ đang được dẫn đi thành đoàn. Đàn ông và phụ nữ đi lại gần, vẫy tay, cười phá lên, hò hét. Họ trông thật điên khùng.? Phi công tàu lượn Victor Miller cũng ngỡ ngàng bởi tiếng người từ trong rừng. Sau đó, ?otừng nhóm đàn ông và phụ nữ kỳ quặc mặc đồ trắng đi qua trước mặt tôi?. Chỉ sau đó những người lính mới biết các thường dân cử xử lạ lùng đó là các bệnh nhận nội trú của bệnh viện tâm thần Wolfheze vừa bị ném bom.
    Tướng Urquhart đổ bộ tại Renkum. Ông cũng để ý tới sự yên lặng. ?oMọi thứ yên ắng đến vô lý,? ông nhớ lại, ?oKhông thể tin là thực?. Trong lúc tham mưu trưởng của ông, đại tá Charles Mackenzie, thiết lập sở chỉ huy lâm thời của sư đoàn bên bìa rừng, Urquhart đi tới khu đổ quân của lính nhảy dù, cách đó chừng 400 yard. Cũng sắp tới giờ lữ đoàn dù số 1 của thượng tá Lathbury đến nơi. Từ xa vọng lại tiếng động cơ của các máy bay đang tới gần. Mọi hoạt động tại khu đáp tàu lượn ngưng lại khi mọi người ngẩng đầu lên nhìn những hàng dài C47. Súng bộ binh và súng phòng không bắn lên trong lúc lực lượng dù đổ bộ cũng thưa thớt và chuệch choạc như lúc các tàu lượn tiếp đất. Vào 1 giờ 53 phút đúng, và trong 15 phút tiếp theo, bầu trời tràn ngập những chiếc dù đầy màu sắc khi lữ đoàn 1 đổ bộ. Khoảng 650 kiện hàng thả dù được buộc vào những chiếc dù màu vàng tươi, đỏ và nâu ?" gồm súng, đạn, khí tài ?" được thả xuống cùng những chuỗi lính dù. Nhiều dù hàng khác, được đẩy khỏi máy bay trước khi lính dù nhảy xuống, được chứa đầy đủ thứ trang bị, bao gồm cả những chiếc motor cỡ nhỏ gập lại được. Trong số những lính dù vốn đã phải mang nặng, nhiều người còn phải mang theo túi hàng. Trên lý thuyết, những túi này sẽ được thả xuống nhờ một sợi dây trước khi người chạm đất. Những hàng chục kiện rơi khỏi người mang và đập xuống đất. Nhiều kiện là những maý bộ đàm rất quý báu.
  4. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Binh nhì người Anh Harry Wright nhảy xuống từ một chiếc C47 Mỹ. Trong lúc lơ lửng trên không, anh rơi mất cả mũ lẫn ba lô. Anh rơi xuống đất khá mạnh. Quản lý trung đoàn thượng sĩ Robertson chạy tới. Trán Wright bê bết máu. ?oCậu bị đạn cao xạ văng phải à?? Robertson hỏi. Wright chậm chạp lắc đầu. ?oKhông, trầy da thôi,? anh ta đáp. ?oĐó là tại tay phi công Yankee chết tiệt. Chúng ta bay quá nhanh khi nhảy dù xuống?. Robertson băng bó vết thương, và sau đó, trước sự ngạc nhiên của Wright, đưa cho người lính bị thương một chiếc bánh thịt lợn từ túi của anh ta. ?oTôi súyt nữa chết sững vì sốc,? Wright nhớ lại. ?oĐầu tiên, Robertson là người Scotland, và làm quản lý, anh ta chẳng cho ai cái gì bao giờ?.
    Những chuyện lạ lùng có vẻ diễn ra khắp nơi tại các khu đổ quân. Người đầu tiên thượng sĩ Norman Swift thấy khi chạm đất là thượng sĩ Les Ellis, lúc đó đang mang một con gà gô chết đi qua. Swift ngạc nhiên hỏi con vật từ đâu ra. ?oTớ đã tiếp đất trúng vào nó,? Ellis giải thích. ?oAi mà biết được? Lát nữa chuyện đó có khi lại đâm hay, lúc chúng tôi đã đói?.
    Người lính công binh Ronald Emery chỉ vừa kịp tháo dù ra thì một bà lão người Hà Lan đã chạy tới vơ lấy nó và lao đi mất, để lại anh chàng Emery trố mắt ngạc nhiên nhìn theo. Ở một chỗ khác, hạ sĩ Geoffrey Stanners, còng người vì trang bị, nhảy trúng cánh một chiếc tàu lượn. Như một chiếc cầu bật, chiếc cánh hất bổng Stanners lên không. Anh này tiếp đất an toàn bằng cả hai chân.
    Choáng váng sau cú rơi quá mạnh, trung úy Robin Vlasto nằm bất động một lúc, cố gắng định hướng. Anh ta nhận thấy ?o vô số người và kiện hàng rơi xuống xung quanh tôi trong lúc máy bay tiếp tục thả lính dù xuống?. Vlasto quyết định rời khỏi khu đổ quân càng nhanh càng tốt. Trong lúc anh cố tháo dù ra, viên trung úy nghe thấy một tiếng động kỳ lạ. Nhìn quanh, anh trông thấy trung tá John Frost, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2, đi ngang qua, vừa đi vừa thổi cây còi săn của mình.
    Binh nhì James W.Sims cũng trông thấy Frost. Sims đã trải qua một ngày đầy sự kiện trước khi tiếp đất. Luôn quen bay cùng các phi công RAF, mà thái độ quen thuộc, như Sims nhớ, là: ?oĐừng lo, các cậu bé, bất luận chuyện gì xảy ra, cánh này sẽ đưa các cậu tới nơi? ?" Sims cảm thấy choáng khi trông thấy tay phi công người Mỹ. ?oĐó là một tay trung tá với một chiếc mũ mềm đội trên đầu. Áo bay của anh ta mở phanh, và anh ta phì phèo một điếu xì gà to. Trung úy của chúng tôi chào anh ta khá nghiêm chỉnh và hỏi liệu mọi người có cần di chuyển lên phía mũi máy bay khi cất cánh không?. Tay người Mỹ nhăn mặt. ?oCái chết tiệt gì cơ, trung úy, không cần,? Sims nhớ anh ta nói, ?oTôi sẽ lôi được cái của nợ chết tiệt này lên khỏi mặt đất cho dù có phải kéo lê đít nó đi nửa đường băng?. Viên chỉ huy của Sims ngớ người không nói được gì. Lúc này, cho dù có cảm tình với trung tá của mình, Sims, trong lúc nhìn Frost đi qua, đã không thể chịu đựng hơn được nữa. Đồ lề trang bị lỉnh kỉnh xung quang, anh ta ngồi phệt dưới đất lẩm bẩm, ?oHãy nhìn bố già Johnny Frost, một khẩu 45 trong một tay, một cái kèn mắc dịch trong tay kia?.
    Trên khắp các khu nhảy dù và đáp tàu lượn, nơi 5191 người của sư đoàn đã tới nơi an toàn, các đơn vị được tập hợp lại, vận động khỏi khu đổ quân. Tướng Urquhart ?okhông thể cảm thấy hài long hơn. Mọi việc đều có vẻ xuôi chèo mát lái?. Thượng sĩ John C.Lord cũng có cùng ý nghĩ. Người lính dù kỳ cựu nhớ lại rằng ?ođây là lần đổ bộ tuyệt nhất tôi đã từng tham gia. Tất cả đều bình thản và nghiêm chỉnh?. Nhưng dự trữ hậu cần mà anh đã mang theo vẫn làm Lord băn khoăn. Trong lúc nhìn quanh, thấy binh lính tập hợp nhanh chóng, không bị kẻ thù nào quấy rầy, anh này nhớ lúc đó đã nghĩ,? Mọi thứ thuận lợi đến mức không thể tin được?. Nhiều người khác cũng nghĩ vậy. Trong khi một đơn vị chuẩn bị rời khỏi khu đổ quân, trung úy Peter Stainforth nghe thấy trung úy Dennis Simpson nói khẽ, ?oTất cả diễn ra quá tốt, tôi không khoái vậy chút nào?.
    Người có nhiệm vụ khẩn cấp nhất sau khi đổ bộ là viên thiếu tá 43 tuổi Fređie Gough chỉ huy đơn vị trinh sát của sư đoàn đổ bộ đường không số 1. Chỉ huy bốn phân đội đội trang bị xe jeep hỏa lực mạnh, Gough có nhiệm vụ đột kích ngay tới cầu trước khi tiểu đoàn của trung tá John Frost vận động theo sau tới nơi. Gough và người của mình nhảy dù xuống, sau đó tìm phương tiện di chuyển của họ, đã được chuyển tới bằng tàu lượn. Gough nhanh chóng tìm được người phó của mình, đại úy David Allsop, tại khu đổ quân và nhận được một số tin xấu. Toàn bộ phương tiện của 1 trong số 4 đơn vị - khoảng 22 xe ?" đã không tới nơi, Allsop báo cáo. Ba mươi sáu trong số 320 tàu lượn dự kiến đổ bộ ở Arnhem đã bị mất, cùng với chúng là toàn bộ số xe jeep của phân đội A của Gogh. Tuy vậy, cả Gough và Allsop đều tin rằng vẫn còn đủ phương tiện để đột kích tới cầu Arnhem. Gough ra lệnh lên đường. Với việc lực lượng của ông đã bị giảm xuống, tất cả lúc này phụ thuộc vào phản ứng của quân Đức.
  5. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Trong sự hỗn loạn và bối rối, sĩ quan cao cấp đầu tiên của Đức ra lệnh báo động là tướng Wilhem Bittrich, tư lệnh quân đoàn panzer SS số 2. Vào lúc 1 giờ 30, Bittrich nhận được báo cáo đầu tiên từ Luffwafe cho biết lính đổ bộ đường không đang đổ xuống lân cận Arnhem. Một báo cáo thứ hai, tới sau đó vài phút, cho hay khu vực bị tấn công gồm Arnhem và Nijmegen. Bittrich không liên lạc được với ai tại sở chỉ huy của thống chế Model tại khách sạn Tafelberg ở Oosterbeek. Ông cũng không thể liên lạc được với tư lệnh thành phố Arnhem hay với tướng Student ở Vught. Cho dù tình hình còn chưa rõ ràng, Bittrich lập tức nghĩ tới đạo quân số 15 của tướng Von Zangen mà phần lớn đã thoát qua cửa Schelde vào Hà Lan. "Ý nghĩ đầu tiên của tôi là cuộc tấn công của lực lượng đổ bộ nhằm kìm chân lực lượng của Von Zangen, ngăn không cho các đơn vị này hợp quân được với lực lượng còn lại của chúng tôi. Sau đó, rất có thể mục tiêu sẽ là một cuộc đột kích của quân Anh qua sông Rhine vào nước Đức". Nếu suy nghĩ của ông là chính xác, Bittrich tin rằng chìa khóa cho một chiến dịch như vậy là những chiếc cầu tại Arnhem-Nijmegen. Ông lập tức báo động các sư đòan panzer SS số 9 Hohenstaufen và số 10 Frunsberg.
    Trung tá Walter Harzer, tư lệnh sư đoàn Hohenstaufen, đang dự bữa trưa tiếp theo lễ gắn huy chương cho đại úy Paul Grabner, đang "ăn dở súp" khi Bittrich gọi tới. Bittrich thông báo ngắn gọn tình hình và lệnh cho Harzer "tuần tiễu trên hướng Arnhem và Nijmegen". Sư đoàn Hohenstaufen cần lập tức vận động chiếm giữ khu vực Arnhem và tiêu diệt lực lượng đổ bộ đường không ở phía tây Arnhem gần Oosterbeek. Bittrich cảnh báo Harzer rằng "hành động cấp tốc là bắt buộc. Việc khống chế và làm chủ cây cầu Arnhem là có tầm quan trọng quyết định". Cùng lúc đó, Bittrich lệnh cho sư đoàn Frunsberg - mà tư lệnh, tướng Harmel, đang ở Berlin - tiến tới Nijmegen, "để chiếm giữ và bảo vệ cây cầu tại thành phố này".
    Harzer lúc này phải đối mặt với khó khăn làm thế nào để đưa những đơn vị cuối cùng của sư đoàn Hohenstaufen, dự kiến sẽ lên đường về Đức bằng tàu hỏa trong chưa đầy một giờ nữa - gồm cả những chiếc tăng, half track và xe bọc thép chở quân "hư hỏng" mà ông ta đã quyết định giữ không giao lại cho Harmel. Harzer quay sang Grabner. "Giờ chúng ta làm gì đây?" ông ta hỏi. "Các xe đều đã bị tháo dỡ đưa lên tàu rồi." Trong số đó, 40 xe thuộc về tiểu đoàn trinh sát của Grabner. "Sau bao lâu anh có thể lắp súng và xích trở lại xe?" Harzer hỏi. Grabner lập tức gọi lính kỹ thuật của mình tới. "Chúng tôi sẽ sẵn sàng sau 3 đến 5 giờ nữa," viên đại úy báo cáo lại Harzer. "Hãy hoàn tất trong 3 giờ," Harzer gằn giọng trước khi lên đường quay về sở chỉ huy.
    Cho dù ông ta đã đoán đúng nhờ những lý do sai lầm, Bittrich cũng đã đưa vào trận 2 sư đoàn panzer mà tình báo của Montgomery đã hoàn toàn bỏ qua.
    Viên sĩ quan được lệnh rời khỏi Oosterbeek để nhường chỗ cho sở chỉ huy của thống chế Model lúc này nhận thấy mình và binh lính dưới quyền đóng ngay sát khu đổ quân của người Anh. Thiếu tá SS Sepp Krafft, chỉ huy tiểu đoàn dự bị và huấn luyện lính tùng thiết SS, lo lắng "đến phát hoảng". Sở chỉ huy cuối cùng của ông ta, đặt tại khách sạn Wolfheze, chỉ cách cánh rừng Renkum chưa đầy 1 dặm. Đồn trú gần đó là hai đại đội của ông, đại đội thứ 3 đóng tại Arnhem làm lực lượng dự bị. Từ khách sạn, Krafft có thể thấy vạt rừng "đông nghẹt tàu lượn và lính, chỉ cách đó chừng vài trăm yard". Ông ta luôn tin rằng lực lượng đổ bộ sẽ phải mất hàng giờ để tập hợp, nhưng trong khi ông ta quan sát "người Anh tập hợp khắp nơi và bắt đầu hành tiến sẵn sàng chiến đấu". Viên thiếu tá không hiểu nổi tại sao một lực lượng lớn đến thế lại đổ xuống vùng này."Mục tiêu quân sự duy nhất mà tôi nghĩ có tầm quan trọng nào đó là cây cầu tại Arnhem".
    Viên chỉ huy đang hoảng hồn không biết tới đơn vị bộ binh Đức nào khác trong khu vực ngoài tiểu đoàn thiếu của ông ta. Cho đến lúc tăng viện tới, Krafft quyết định rằng "tôi có trách nhiệm ngăn không cho quân địch tiến tới cầu - nếu đúng là họ định chiếm nó". Các đại đội của ông được bố trí thành một hình tam giác lệch, đáy là đường Wolfheze, gần như sát bìa khu rừng Renkum. Phía bắc sở chỉ huy của Krafft là trục đường chính Ede-Arnhem và đường sắt Amsterdam - Utrecht - Arnhem; về phía nam, đường đi Utrecht cắt qua Renkum và Oosterbeek tới Arnhem. Vì không đủ người rải dọc tất cả các tuyến đường, Krafft quyết định chiếm lĩnh vị trí từ đường sắt ở phía bắc tới con đường Utrecht-Arnhem ở phía nam. Viên thiếu tá vội vã lệnh cho đại đội dự bị rời Arnhem tới hội quân với phần còn lại của tiểu đoàn tại Wolfheze. Các trung đội súng máy được bố trí chốt chặn hai đầu dải phòng ngự, lực lượng còn lại phân tán ẩn trong các vạt rừng.
    Cho dù thiếu người, Kraft có trong tay một vũ khí mới đang thử nghiệm: một loại ống phóng rocket nhiều nòng có thể phóng các quả đạn súng cối lớn hơn cỡ nòng. Một số đơn vị vũ khí này đã được để lại đơn vị ông ta để huấn luyện. Giờ đây viên thiếu tá định dùng chúng để làm bối rối người Anh và tạo ra ấn tượng về một lực lượng mạnh hơn.
  6. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Trong lúc Krafft đang ra lệnh, một chiếc xe lao tới trước sở chỉ huy của ông ta và thiếu tướng Kussin, tư lệnh thành phố Arnhem, vội vã bước vào. Kussin đã cho xe chạy hết tốc độ từ Arnhem tới tận nơi tự mình tìm hiểu xem chuyện gì đang diễn ra. Trên đường đi viên tư lệnh đã gặp thống chế Model đang trên đường tới Doetinchem. Dừng lại chốc lát bên đường, Model lệnh cho Kussin ra lệnh báo động và thông báo tình hình với Berlin. Lúc này, nhìn về phía vạt rừng, Kussin choáng váng trước cuộc đổ bộ quy mô lớn của người Anh. Ông này gần như tuyệt vọng nói với Krafft sẽ cố tìm cách nào đó để có được tăng viện tới nơi vào lúc 6 giờ chiều. Khi Kussin quay ra lên đường trở lại Arnhem, Krafft cảnh báo ông ta không nên đi theo con đường Utrecht-Arnhem. Viên thiếu tá đã nhận được báo cáo về các đơn vị Anh di chuyển theo tuyến đường đó. "Hãy đi theo những con đường nhỏ," Krafft nói với Kussin. "Đường chính đã bị phong tỏa rồi." Kussin cau mặt. "Tôi sẽ đi qua được," ông ta trả lời. Krafft đứng nhìn theo chiếc xe lao nhanh về phía xa lộ.
    Viên thiếu tá tin chắc rằng tăng viện của Kussin sẽ chẳng bao giờ tới nơi, và việc đơn vị nhỏ bé của ông ta bị tiêu diệt chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngay trong lúc bố trí lực lượng dọc đường Wolfheze, Krafft lệnh cho lái xe của mình, binh nhì Wilhem Rauh, thu nhặt tư trang của ông. "Hãy để đồ của tôi lên xe và lái về Đức," Krafft nói với Rauh. "Tôi chắc khó sống sót được".
    Tại Bad Saarnow gần Berlin, tư lệnh sư đoàn 10 Frunsberg, tướng Heinz Harmel, đang báo cáo với phụ trách tác chiến của lực lượng Warfen SS, thiếu tướng Hans Juttner, và trình bày về tình hình quân đoàn SS số 2 đã suy yếu của Bittrich. Nếu muốn quân đoàn tiếp tục là một đơn vị tác chiến có sức chiến đấu, Harmel nhấn mạnh, "những yêu cầu khẩn cấp của Bittrich về người, thiết giáp, xe cơ giới, pháo cần phải được đáp ứng." Juttner hứa làm những gì ông có thể làm được, nhưng cảnh báo rằng "vào lúc này sức chiến đấu của tất cả các đơn vị tác chiến đều giảm sút". Ai cũng muốn được ưu tiên, và Juttner không thể hứa trước bất cứ sự giúp đỡ tức thời nào. Trong lúc hai người trao đổi, cần vụ của Juttner bước vào cầm theo một thông báo qua radio. Juttner đọc và không nói không rằng đưa cho Harmel. Thông báo viết: "Tấn công đổ bộ đường không tại Arnhem. Về ngay. Bittrich". Harmel lao ra khỏi văn phòng chạy tới xe của mình. Harmel ra lệnh cho người lái xe, hạ sĩ Sepp Hinterholzer: "Quay về Arnhem - và nhanh hết mức có thể".
  7. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Thiếu tá Anthony Deane-Drummond, chỉ huy phó thông tin của sư đoàn đổ bộ đường không Anh số 1, không hiểu nổi có chuyện gì không ổn. Trước đó các máy radio của ông đã nhận được rất rõ tín hiệu từ lữ đoàn của thượng tá Lathbury khi đơn vị này vận động tới các mục tiêu, bao gồm cả cầu Arnhem. Nhưng lúc này, khi các tiểu đoàn của Lathbury tới gần Arnhem hơn, tín hiệu radio mỗi lúc một yếu đi. Các hiệu thính viên của Deane-Drummond liên tục có những báo cáo khiến ông bối rối lo lắng. Họ không thể nào liên lạc được với các đơn vị đi xe jeep, và tín hiệu nhận được từ các đơn vị khác thì yếu đến mức khó nghe rõ. Thế nhưng các tiểu đoàn thuộc lữ đoàn của Lathbury cũng như đơn vị trinh sát của thiếu tá Freddie Gough chỉ cách đó chừng 2 đến 3 dặm.
    Deane-Drummond đặc biệt lo ngại về các thông báo từ Lathbury. Chúng có ý nghĩa sống còn với tướng Urquhart trong việc chỉ huy tác chiến. Deane-Drummond quyết định cử một chiếc jeep mang theo hiệu thính viên và máy radio đi thu tín hiệu từ Lathbury và chuyển về sư đoàn. Ông lệnh cho nhóm này thiết lập vị trí tại khoảng giữa sư đoàn và các đơn vị thông tin di động của Lathbury. Một thời gian ngắn sau đó, Deane-Drummond nhận được tín hiệu từ đơn vị này. Tầm hoạt động của họ có vẻ bị giảm đi rất nhiều - tối thiểu ra, các máy "22" có thể hoạt động hiệu quả ít nhất ở khoảng cách tới 5 dặm - và tín hiệu rất yếu. Hoặc là thiết bị hoạt động không tốt, ông nghĩ, hoặc các hiệu thính viên đã lựa chọn vị trí chuyển sóng không hợp lý. Nhưng khi ông tiếp tục nghe, tín hiệu bị mất hoàn toàn. Deane-Drummond không còn liên lạc được với ai nữa. Cả một toán hiệu thính viên Mỹ đặc biệt được trang bị hai xe jeep mang radio cũng vậy. Được vội vã tập hợp lại và điều tới sở chỉ huy sư đòan đổ bộ của Anh chỉ vài giờ trước khi cất cánh ngày 17, những người Mỹ này có nhiệm vụ giữ liên lạc giữa mặt đất với không trung qua các máy tần số rất cao để gọi máy bay phóng pháo tới yểm trợ gần. Trong những giờ đầu của trận đánh, những chiếc jeep liên lạc này đã có thể thay đổi tình hình hoàn toàn. Nhưng trên thực tế chúng trở thành vô dụng. Không bộ radio nào trên các xe này đã được điều chỉnh cho phù hợp để liên lạc với các máy bay. Lúc này, khi trận đánh mới chỉ mở màn, hệ thống liên lạc của người Anh đã hoàn toàn vô hiệu.
    Như thể tuân theo hiệu lệnh, các cỗ súng Đức đồng loạt lên tiếng khi những máy bay chở sư đoàn 82 tiếp cận các khu đổ quân. Nhìn xuống dưới, chuẩn tướng James M.Gavin thấy hỏa lực mặt đất bắn lên từ một dải công sự nằm song song với kênh đào Maas-Waal. Tại những khu vực có cây che phủ, các pháo đội của đối phương đã im lặng chờ đợi lúc này cũng bắt đầu bắn. Vừa quan sát, Gavin tự hỏi liệu kế hoạch tác chiến của ông cho sư đoàn 82, đã được dựa trên những tính toán về rủi ro, có hợp lý hay không.
    Được giao nhiệm vụ chiếm giữ khoảng giữa đoạn hành lang của Market-Garden, sư đoàn có nhiều mục tiêu nằm cách xa nhau, trải dài 10 dặm từ nam lên bắc và 12 dặm từ tây sang đông. Bên cạnh việc cho thả 1 đại đội dù xuống gần đầu tây cây cầu tại Grave, mục tiêu dự định sẽ được đánh chiếm bằng yếu tố bất ngờ, Gavin đã lựa chọn 3 khu nhảy dù và 1 khu đáp tàu lượn lớn. Khu vực cuối cùng phải phù hợp với 50 chiếc tàu lượn Waco của ông cùng 38 chiếc Horsa và Waco chở sở chỉ huy quân đoàn đổ bộ đường không số 1 của Anh của tướng Frederick Browning. Nhưng Gavin chỉ ra lệnh cho lực lượng dò đường đánh dấu một khu nhảy dù, nằm ở phía bắc Overasselt. Ba khu còn lại, nằm gần dải cao điểm Groesbeek và biên giới Đức, được cố ý không đánh dấu. Lính nhảy dù và tàu lượn của Gavin phải tiếp đất mà không có ám hiệu hay khói màu nhằm làm đối phương khó xác định được điểm đổ bộ của họ. Khoảng 30 phút sau khi sư đoàn 82 tiếp đất, sở chỉ huy quân đoàn của Browning sẽ đổ bộ.
    Vì mối lo lớn nhất của Gavin là việc xe tăng địch có thể bất thần xuất hiện từ phía biên giới Đức ở phía đông khu vực nhảy dù và đáp tàu lượn lớn nhất của ông, ông đã ra hai mệnh lệnh khác thường. Để bảo vệ cả sư đoàn của mình và sở chỉ huy của Browning, ông đã lệnh cho lính dù của mình hướng dù tiếp cận tới gần bất cứ khẩu đội phòng không nào họ phát hiện được khi ở trên không và vô hiệu hóa chúng càng nhanh càng tốt. Và, lần đầu tiên trong lịch sử tác chiến đổ bộ đường không, ông cho thả dù cả một tiểu đoàn pháo dã chiến hoàn chỉnh xuống khu vực đổ quân lớn nằm trước mặt một khu rừng và cách biên giới Đức chừng 1,5 dặm. Lúc này, quan sát hỏa lực phòng không dày đặc và nghĩ tới khả năng xe tăng đối phương đang có mặt dọc Bức tường đế chế, Gavin hiểu cho dù ông đã lường hết mọi tình huống trong kế hoạch, nhiệm vụ mà binh lính sư đoàn 82 phải đối đầu vẫn sẽ rất khó khăn.
    Các cựu binh của Gavin từ Normandy không bao giờ quên trận đồng đội của họ bị thảm sát tại Sainte Mere Eglise. Bị thả nhầm vào ngôi làng đó, những người lính dù đã bị quân Đức dùng súng máy bắn hạ trong lúc tiếp đất; rất nhiều người hy sinh trong lúc hoàn toàn bất lực, bị mắc dù vào đường dây điện thoại hay cây xung quanh quảng trường chính của làng. Chỉ đến khi Sainte Mere Eglise hoàn toàn được đơn vị của trung tá Ben Vandervoort kiểm soát những người lính đã hy sinh mới được hạ xuống chôn cất. Lúc này, trong khi sư đoàn 82 chuẩn bị nhảy xuống Hà Lan, một số người hô lớn cho những người móc dù phía sau họ nghe: "Hãy nhớ lấy Sainte Mere Eglise". Cho dù làm như vậy rất mạo hiểm, nhiều người lính vừa nhảy xuống vừa lên đạn bắn.
  8. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    Tiếp đi đồng chí.
  9. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Đại úy Briand Beaudin, nhảy xuống khu đổ quân nằm gần cao điểm Groesbeek, nhìn thấy mình đang lao thẳng xuống một ụ súng phòng không Đức quay nòng chĩa vào mình. Beaudin liền rút khẩu Colt 45 của anh ra bắn. " Chợt tôi nhận ra," Beaudin nhớ lại," việc đó thật vô ích, chĩa khẩu súng ngắn của tôi vào khẩu pháo phòng không đó trong lúc bản thân đang lắc lư chao đảo trên không". Tiếp đất gần ụ súng, Beaudin bắt cả kíp pháo thủ làm tù binh. Anh nghĩ bọn Đức "ngỡ ngàng đến mức chẳng bắn phát nào cả".
    Thiếu úy James J.Coyle nghĩ anh sắp đáp xuống nóc một căn lều quân y của quân Đức. Bất thần, quân địch túa ra từ căn lều và chạy tới những khẩu súng 20 mm bố trí gần đó. Cả anh chàng thiếu úy này cũng rút cây 45 của mình ra nhưng chiếc dù của anh bị cuốn đi và Coyle rời xa căn lều. Một tên Đức bắt đầu chạy theo Coyle. "Tôi không thể ngắm đúng vào gã Đức đó," Coyle nhớ lại. "Lúc này thì súng của tôi chĩa xuống đất, chỉ 1 giây sau nó đã lại chĩa thẳng lên trời. Tôi vẫn còn đủ tỉnh táo để đút khẩu súng vào bao để không làm rơi mất nó hay tự bắn phải mình khi tiếp đất". Chạm đất, chưa kịp tháo dù, Coyle lập tức rút súng ra. "Gã Đức chỉ còn cách tôi vài bộ, nhưng hắn hành động như thể không biết tôi đang có mặt. Rồi tôi chợt hiểu hắn không chạy tới chỗ tôi; chỉ đơn giản là hắn bỏ chạy". Khi gã người Đức chạy qua trước mặt Coyle thấy hắn vứt cả súng lẫn mũ sắt đi, và Coyle có thể thấy "hắn chỉ là một cậu trai chừng 18 tuổi. Tôi không thể bắn một người không có vũ khí. Lần cuối cùng tôi thấy cậu ta lúc cậu ta đang chạy về phía biên giới Đức".
    Khi những viên đạn phòng không bắt đầu bắn thủng dù của anh, binh nhì Edwin C.Raub bực đến mức anh cố ý lái dù hạ xuống cạnh một khẩu súng phòng không. Không tháo dù, vừa lôi nó sau người, Raub lao tới tấn công bọn Đức với khẩu Tommy của mình. Anh hạ được một tên, bắt sống số còn lại, sau đó dùng thuốc nổ phá hủy khẩu súng.
    Cho dù kháng cự của kẻ thù với các trung đoàn 505 và 508 tại khu vực Groesbeek được coi là không đáng kể, hỏa lực súng bộ binh và phòng không cũng bắn lên khá mạnh từ các khu rừng xung quanh khu đổ quân. Không đợi đến lúc tập hợp, binh lính của sư đoàn 82, từng người đơn lẻ hay theo từng toán nhỏ, tiếp cận các ổ đề kháng này, dập tắt chúng và bắt tù binh. Đồng thời, các máy bay chiến đấu bay sát ngọn cây, xả súng máy xuống vị trí địch. Quân Đức đã gây nhiều tổn thất cho các máy bay này. Chỉ trong vài phút, 3 chiếc trúng đạn rơi xuống gần các khu rừng. Thượng sĩ Michael Vuletich nhìn thấy một chiếc trong số này. Nó lao xuống cày đất dọc khu đổ quân rồi đột ngột dừng lại, chỉ còn thân máy bay là nguyên vẹn. Rồi viên phi công chui ra không hề hấn gì, đứng bên xác chiếc máy bay châm một điếu thuốc lá. Vuletich nhớ anh ta ở lại đại đội của anh chiến đấu như một lính bộ binh.
    Từ dưới đất, thượng sĩ James Jones thấy một chiếc P47 bốc cháy ở độ cao chừng 1500 bộ. Anh nghĩ viên phi công sẽ nhảy ra nhưng chiếc máy bay hạ xuống, lao qua khu đổ quân rồi vỡ tung từng mảnh. Đuôi máy bay rời ra, động cơ văng ra xa, còn buồng lái thì dừng lại giữa cánh đồng. Jones tin chắc phi công đã chết, nhưng khi anh quan sát, nắp buồng lái bật mở và "một anh chàng nhỏ thó không mũ kẹp một khẩu 45 dưới nách chạy tới chỗ chúng tôi." Jones nhớ lúc đó đã hỏi, "Này ông bạn, thế quái nào mà ông lại không nhảy dù hả?'' Tay phi công nhăn mặt. "Chết tiệt, tôi sợ nhảy dù," anh ta trả lời Jones.
    Vừa tiếp đất và đang còn thu dù, thượng sĩ Russell O''ationeal trông thấy một chiếc P51 bổ nhào tấn công một vị trí phục kích của quân Đức gần khu đổ quân của anh. Sau khi lượn 2 vòng qua lưới đạn súng máy, chiếc máy bay bị trúng đạn; nhưng viên phi công vẫn kịp vòng lại đáp bụng an toàn. Theo O''ationeal, "tay này nhảy ra khỏi máy bay chạy đến chỗ tôi và gào lên, "Đưa tôi một khẩu súng, nhanh lên! Tôi biết rõ chỗ thằng con hoang Đức này đang nấp và tôi sẽ tóm hắn"." Trong lúc O''ationeal tròn mắt nhìn theo, anh chàng phi công nhặt lấy một khẩu súng và lao về phía rừng.
    Trong vòng 18 phút, 4511 người thuộc các trung đoàn 505 và 508 của sư đoàn 82, cùng với công binh và 70 tấn trang bị, đã tiếp đất chính xác hoặc ngay gần các khu đổ quân của họ nằm gần thị trấn Groesbeek bên rìa phía đông của các cao điểm có rừng cây che phủ. Trong lúc họ tập hợp, chiếm lĩnh khu vực và vận động tiếp cận các mục tiêu, những đội dò đường đặc biệt đánh dấu địa điểm đổ quân cho việc đổ bộ pháo binh, lực lượng tàu lượn của sư đoàn 82, và Sở chỉ huy của người Anh. Cho tới lúc này, tính toán của tướng Gavin đã thành công. Thế nhưng, cho dù liên lạc radio giữa các trung đoàn được thiết lập gần như lập tức, vẫn còn quá sớm để Gavin, đi cùng trung đoàn 505, biết được những gì xảy ra cách đó 8 dặm về phía tây, nơi trung đoàn 504 đổ bộ xuống phía bắc Overasselt. Và ông cũng không thể biết liệu cuộc tấn công chiếm cây cầu tại Grave có diễn ra theo kế hoạch không.
    Giống như phần còn lại của sư đoàn, 137 chiếc C47 chở trung đoàn 504 của đại tá Reuben H.Tucker vấp phải hỏa lực phòng không dữ dội khi tới gần khu đổ quân ở Overasselt. Cũng như tại các khu vực khác, các phi công giữ vững đường bay, và vào lúc 1 giờ 15, 2016 lính dù bắt đầu đổ bộ. Mười một máy bay lượn xa hơn về phía tây hướng tới một điểm đổ bộ nhỏ hơn nằm gần cây cầu cốt tử dài 1500 bộ bắc qua sông Maas gần Grave. Những chiếc C47 này chở đại đội E thuộc tiểu đoàn 2 của thiếu tá Edward Wellems tới mục tiêu tức thời quan trọng nhất của sư đòan 82. Họ có nhiệm vụ đánh chiếm cầu từ phía tây; phần còn lại của tiểu đoàn của Wellems sẽ tấn công từ Overasselt tới đầu cầu phía đông. Nếu cầu Grave không được kiểm soát nhanh chóng và nguyên vẹn, thời gian biểu chặt chẽ của Market Garden sẽ không thể thực hiện được. Mất cây cầu này cũng có nghĩa là thất bại của toàn chiến dịch.
    Trong lúc các máy bay chở đại đội E hướng tới điểm tấn công ở phía tây cầu, trung đội trưởng trung úy John S. Thompson có thể thấy rõ sông Maas, thành phố Grave, cuộc đổ bộ quy mô của trung đòan 504 về phía tay phải của anh hướng Overasselt và gần hơn, những cánh đồng có mương bao bọc, nơi đại đội của anh dự kiến nhảy dù xuống. Trong lúc Thompson quan sát, những người khác trong đại đội cũng đã nhảy khỏi máy bay và đáp xuống vùng lân cận cầu Grave; nhưng trên máy bay của viên trung úy đèn xanh vẫn chưa bật. Khi nó bật, Thompson nhận thấy họ đang bay trên những tòa nhà. Anh đợi vài giây, thấy cánh đồng đang ở phía dưới họ và cùng với người trong trung đội của mình nhảy xuống. Nhờ một sai lầm may mắn, viên trung úy và trung đội của anh tiếp đất chỉ cách đầu cầu phía tây nam chừng năm sáu trăm yard.
    Thompson có thể nghe thấy tiếng súng bắn vu vơ từ hướng Grave, nhưng quanh chính cây cầu tất cả có vẻ im ắng. Anh không biết nên đợi phần còn lại của đại đội tới nơi hay tấn công ngay với 16 người trong trung đội của mình. "Vì đây là nhiệm vụ hàng đầu của chúng tôi, tôi quyết định tấn công," Thompson kể lại. Lệnh cho hạ sĩ Hugh H.Perry đi gặp đại đội trưởng, Thompson để anh ta mang theo một báo cáo ngắn gọn: "Chúng tôi đang tiến tới cầu."
  10. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Hỏa lực bắn ra từ thành phố và những tòa nhà xung quanh mỗi lúc một dữ dội, và Thompson dẫn trung đội nấp xuống một mương thoát nước gần đó. Vận động về hướng cầu, tất cả đều ngập nước đến tận cổ. Họ bắt đầu hứng đạn từ một tháp phòng không gần cầu và Thompson nhận thấy quân địch cắp theo bao liên tục chạy ra chạy vào một ngôi nhà gần đầu cầu. Anh nghĩ đó hẳn là trạm phát điện. Sợ rằng quân Đức đang mang bộc phá gài lên cầu để chuẩn bị phá cầu, Thompson khẩn trương triển khai người của mình, bao vây ngôi nhà và nổ súng. "Chúng tôi quét sạch cả khu vực bằng súng máy, chiếm trạm phát điện, tìm thấy 4 lính Đức bị giết, 1 bị thương," Thompson nhớ lại. "Có vẻ chúng đang vận chuyển trang bị cá nhân và chăn đệm". Bất thần, hai chiếc xe tải xuất hiện trên đường xa lộ từ phía Grave hướng về cây cầu. Một người của Thompson bắt chết người lái của một chiếc, chiếc này lạng sang bên đường trong lúc đám lính Đức ngồi trên thùng vừa kêu ầm ĩ vừa nhảy xuống đất. Chiếc xe thứ hai dừng ngay lại, đám lính trên xe nhảy xuống đất. Người của Thompson nổ súng, nhưng bọn Đức không có vẻ muốn giao chiến. Không bắn trả, quân Đức bỏ chạy.
    Súng vẫn bắn ra từ tháp phòng không, nhưng lúc này đường đạn đã cao quá đầu những người lính dù. "Tên xạ thủ không thể hạ khẩu súng phòng không 20 mm xuống đủ thấp để bắn trúng chúng tôi", Thompson nhớ lại. Xạ thủ bazooka của trung đội, binh nhì Robert McGraw, trườn lên và từ khoảng cách 75 yard, bắn ba phát, hai phát trúng đỉnh tòa tháp, và khẩu súng im bặt.
    Mặc dù một khẩu 20 mm hai nòng lắp trên một tòa tháp phía bên kia sông gần đầu cầu vẫn còn bắn, Thompson cùng đơn vị của mình vẫn phá hủy các thiết bị điện và dây cáp họ nghi ngờ được nối với các khối bộc phá. Trung đội sau đó tiến hành phong tỏa đường và rải mìn dọc con đường tiếp cận cầu từ hướng tây nam. Trên tòa tháp phòng không họ đã tiêu diệt, họ tìm thấy tên xạ thủ đã chết nhưng khẩu súng 20 mm vẫn không hư hại. Người của Thompson liền chĩa nó bắn vào tháp phòng không bên kia sông. Thompson biết trung đội của anh sẽ sớm được tăng viện bởi phần còn lại của đại đội E đang tiến theo sau và, không lâu sau đó, bởi tiểu đoàn của thiếu tá Wellems đang vận động lại từ phía Overasselt để chiếm đầu cầu phía đông bắc. Nhưng về phần của trung úy Thompson, mục tiêu chủ yếu đã hoàn thành.
    Lúc này, những tiểu đoàn còn lại thuộc trung đoàn 504 của Tucker đang vận động về phía đông, hướng tới ba điểm vượt sông và cây cầu đường sắt qua kênh đào Maas-Waal. Hướng tới cây cầu còn có các đơn vị của trung đòan 505 và 508, nhằm chiếm các đầu cầu phía đối diện. Không phải tất cả các mục tiêu này đều cần thiết cho bước tiến của Market-Garden. Tận dụng lợi thế bất ngờ và hậu quả của tình trạng hỗn loạn phía địch, Gavin hy vọng có thể chiếm được tất cả; nhưng chỉ cần một trong số này, cộng với cây cầu sống còn tại Grave, là đủ.
    Để chế áp đối phương, bảo vệ các vị trí của mình và sở chỉ huy của tướng Browning và hỗ trợ cho lính dù của mình trong lúc tiếp cận mục tiêu, Gavin dựa nhiều vào pháo binh của mình; và lúc này những khẩu pháo của đơn vị pháo dã chiến dù 376 đã tới nơi. Các đơn vị pháo nhỏ cũng đã được đổ bộ trong các chiến dịch trước, nhưng đều bị phân tán và mất rất nhiều thời gian để tập hợp và khai hỏa. Đơn vị gồm 544 người đang tới nơi lúc này đã được lựa chọn từng người một, mỗi người đều là một lính dù kỳ cựu. Trong số 48 máy bay chở tiểu đoàn này còn có cả pháo - 12 khẩu 75 mm, được tháo rời. Các khẩu pháo sẽ được thả dù trước, sau đó là khoảng 700 cơ số đạn. Xếp thành hàng, những chiếc C47 lần lượt xuất hiện, và rất nhanh chóng, các khẩu pháo được đẩy xuống. Theo sau là đạn và pháo thủ, tất cả thực hiện một cuộc đổ bộ gần như hoàn hảo.
    Một tai nạn đã xảy ra nhưng hầu như không gây một chút ngừng trệ nào. Trung tá Wilbur Griffith, chỉ huy tiểu đoàn 376, bị vỡ mắt cá chân khi nhảy nhưng người của ông lập tức lấy một chiếc xe cút kít Hà Lan để chở chỉ huy của mình. "Tôi không bao giờ quên cảnh trung tá được kéo đi từ chỗ này sang chỗ kia", thiếu tá Augustin Hart nhớ lại, " và lớn tiếng ra lệnh cho một người lắp súng trong thời gian nhanh nhất". Khi công việc đã hoàn tất, Griffith được kéo tới chỗ tướng Gavin. Ông báo cáo: "Súng vào vị trí, thưa ngài, và sẵn sàng bắn khi có lệnh". Chỉ sau hơn 1 giờ, trong cuộc đổ quân thành công nhất thuộc kiểu này từng được thực hiện, toàn tiểu đoàn đã tập hợp và 10 khẩu pháo của họ đã nhả đạn.
    Mười bốn phút sau khi lực lượng pháo binh của sư đoàn 82 đổ bộ, những chiếc tàu lượn Waco chở một tiểu đoàn chống tăng đổ bộ đường không, công binh, các bộ phận thuộc sở chỉ huy sư đoàn, súng, đạn, xe jeep và moóc bắt đầu tới nơi. Trong số 50 tàu lượn rời nước Anh, chỉ có 4 chiếc không tới nơi. Tuy thế không phải tất cả đều đáp được xuống khu đổ quân. Một số tàu lượn tiếp đất cách đó đến 1 hay 2 dặm. Một chiếc, do đại úy Anthony Jedrziewski cầm lái, tách khỏi máy bay kéo quá chậm và Jedrziewski kinh hoàng nhận thấy "chúng tôi đang hướng thẳng tới đất Đức, khởi đầu một cuộc xâm lược chỉ bằng 1 tàu lượn". Viên phi công quay 180 độ và bắt đầu tìm chỗ hạ cánh. Trong lúc họ hạ độ cao, Jedrziewski nhớ, "chúng tôi bị gãy một cánh do va vào một cây rơm, một cánh khác nằm lại ở một hàng rào và cuối cùng dừng lại với mũi tàu lượn cắm xuống đất. Nhìn thấy đất ngập đến tận đầu gối của mình, tôi không dám chắc hai chân tôi vẫn còn dính vào phần còn lại của cơ thể. Sau đó, chúng tôi nghe tiếng chào đón chẳng mấy mến khách của một khẩu 88 mm và chúng tôi đẩy chiếc jeep ra rồi lao về phía khu vực của mình". Họ may mắn hơn đại úy John Connelly, phi công chiếc tàu lượn của anh này bị giết trong lúc tiếp đất. Connelly, chưa bao giờ đi tàu lượn trước đó, cầm lấy tay lái và hạ chiếc Waco vào ngay bên trong biên giới Đức, cách khu đổ quân 6 đến 7 dặm, gần thành phố Wyler. Chỉ Connelly và một người khác thoát khỏi bị bắt. Họ đã ẩn trốn cho đến khi trời tối và cuối cùng tìm được đơn vị vào giữa buổi sáng ngày 18/9.
    Tuy thế, nhìn chung, sư đoàn 82 đã mang tới đích thành công 7467 lính dù và đổ bộ bằng tàu lượn. Đơn vị cuối cùng hạ cánh là 35 chiếc Horsa và Waco chở sở chỉ huy quân đoàn của tướng Frederick Browning. Ba chiếc đã mất dọc đường, hai trước khi tới được lục địa, chiếc thứ ba, ở phía nam Vught, đã rơi xuống gần sở chỉ huy của tướng Student. Sở chỉ huy của Browning hạ cánh gần như xuống đúng biên giới Đức. "Cũng có ít súng phòng không bắn lên, và hầu như không có chống trả từ phía quân địch," thượng tá Gordon Walch, tham mưu trưởng của Browning nhớ lại. "Chúng tôi hạ cánh cách khu rừng đánh dấu biên giới Đức chừng 100 yard về phía tây và tàu lượn của tôi cách chiếc của Browning chừng 50 yard".
    Đại tá George S.Chatterton, chỉ huy lữ đoàn tàu lượn, cầm lái chiếc Horsa của Browning. Sau khi chạm bánh trước vào một đường dây điện, Chatterton đáp xuống một ruộng bắp cải. "Chúng tôi chui ra," Chatterton nhớ lại, " và Browning, nhìn ngó xung quanh, nói, "Chúa ơi, chúng ta ở đây rồi, George!" Gần đó, thượng tá Walch thấy Browning chạy qua khu đổ bộ về phía biên giới. Khi ông ta quay lại vài phút sau, ông giải thích với Walch, "tôi muốn trở thành sĩ quan Anh đầu tiên đái lên đất Đức".

Chia sẻ trang này