1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

A bridge too far bản dịch tiếng ta

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi allah_akbar, 11/05/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Trong lúc chiếc xe jeep của Browning được rỡ xuống, vài quả đạn đại bác Đức nổ tung gần đó. Đại tá Chatterton lập tức lao xuống cái rãnh gần nhất. "Tôi không bao giờ quên Browning đứng bên trên tôi với dáng vẻ của một nhà thám hiểm, rồi hỏi, "George, ngài làm cái quái gì dưới đó thế?" Chatterton thẳng thắn, "Tôi đang cố rúc cho kỹ, thưa ngài," ông ta trả lời. "Được, ngài có thể chấm dứt cố rúc cho kỹ được rồi đấy," Browning nói với viên đại tá. "Đã đến lúc chúng ta phải đi." Từ một túi áo, Browning móc ra một gói bọc giấy lụa. Đưa nó cho Chatterton, ông nói, "Cắm nó lên chiếc jeep của tôi". Chatterton mở gói ra và thấy bên trong nó là một lá cờ nhỏ thêu hình Pegasus màu xanh nhạt trên nền màu hạt dẻ, biểu tượng của lực lượng đổ bộ đường không Anh quốc. Với lá cờ phấp phới đầu mui xe, viên tư lệnh của lực lượng Market lao vụt đi.
    Tại vạt rừng Renkum ở phía tây Arnhem, trung úy Neville Hay, chuyên viên được huấn luyện chu đáo phụ trách đơn vị thông tin "Phantom", hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa. Đơn vị của anh đã lắp ráp các máy radio được trang bị loại anten đặc biệt của họ với hy vọng thiết lập được liên lạc tức thời với sở chỉ huy của tướng Browning. Ưu tiên đầu tiên của Hay khi tiếp đất là liên lạc với quân đoàn và thông báo vị trí của mình. Trước đó, anh đã biết hệ thống liên lạc của sư đoàn hoàn toàn gián đoạn. Trong lúc viên trung úy có thể lường trước chuyện này ở các hiệu thính viên ít kinh nghiệm hơn của lực lượng thông tin hoàng gia, anh không thể ngờ khó khăn này lại xảy ra với người của chính mình. "Chúng tôi dự kiến thiết lập vị trí ở khu đổ bộ và, cho dù nó bị che khuất bởi rừng thông, chúng tôi đã từng thành công ở những điều kiện địa hình còn tồi tệ hơn thế," anh nhớ lại. "Chúng tôi cố gắng xoay xở và chẳng bắt được gì cả". Cho đến lúc anh phát hiện ra trục trặc nằm ở đâu, sẽ không có cách nào để báo cho tướng Browning biết diễn biến tác chiến của sư đoàn của tướng Urquhart hay truyền lệnh từ Browning tới sư đoàn đổ bộ đường không Anh số 1. Thật khôi hài, hệ thống điện thoại của Hà Lan trong thời gian đó vẫn hoạt động bình thường, bao gồm cả một hệ thống đặc biệt thuộc sở hữu của ban giám đốc trạm năng lượng PGEM tại Nijmegen và được nối với toàn tỉnh. Nếu viên trung úy biết điều này, tất cả những gì Hay phải làm, với sự giúp đỡ của lực lượng kháng chiến Hà lan, là nhấc một máy điện thoại lên.
    Cách đó 15 dặm lo lắng cũng bắt đầu xuất hiện tại sở chỉ huy của Browning, thiết lập tại chân cao điểm Groesbeek. Tất cả hệ thống thiết bị thông tin của sư đoàn 82 đều bị hư hại khi đổ bộ. Hệ thống của Browning đã tới nơi an toàn, và một phần được chuyển tạm cho sư đoàn 82 để đảm bảo liên lạc tức tời với tướng Gavin. Bộ phận thông tin của quân đoàn cũng bắt liên lạc qua radio với đạo quân Anh số 2 của tướng Dempsey và sở chỉ huy hậu cứ của quân đoàn tại Anh, và nhận được liên lạc radio với sư đoàn 101. Nhưng họ không thể nào tìm ra sư đoàn của Urquhart. Thượng tá Walch tin rằng lỗi thuộc về bộ phận thông tin quân đoàn. "Trước khi chiến dịch được lên kế hoạch, chúng tôi đã yêu cầu được trang bị một bộ phận thông tin nghiêm chỉnh," ông nói. "Chúng tôi phát hoảng nhận ra rằng các thiết bị của chúng tôi không đủ mạnh và lực lượng hiệu thính viên của sở chỉ huy rất yếu và thiếu kinh nghiệm". Trong lúc Browning có thể chỉ huy và điều chỉnh tác chiến của sư đoàn 82, sư đoàn 101 và quân đoàn 30 của Horrock, mặt trận tối quan trọng tại Arnhem lại hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của ông. Như Walch nói, "Chúng tôi hoàn toàn không biết chuyện gì đang diễn ra tại Arnhem".
    Một kiểu tê liệt đã bắt đầu ảnh hưởng tới kế hoạch của Montgomery. Nhưng vào thời điểm khởi đầu này chưa ai nhận ra. Trong toàn tuyến của chiến dịch Market Garden, khoảng 20000 quân đồng minh đang có mặt tại Hà Lan, hướng tới chiếm lĩnh các cầu và giữ thông suốt hành lang cho những đơn vị hùng hậu của lực lượng Garden mà lực lượng thiết giáp mũi nhọn dự kiến sẽ hội quân với sư đòan 101 vào lúc trời tối.
    Trên mái phẳng của một nhà máy lớn gần kênh đào Meuse-Escaut, tướng Brian Horrock, tư lệnh quân đoàn 30, quan sát những phi đoàn tàu lượn lớn cuối cùng bay qua trên đầu những chiếc tăng đang chờ đợi của ông. Ông đã đứng trên mái nhà máy từ lúc 11 giờ sáng, và như ông nói, "Tôi có đủ thời gian để ngẫm nghĩ". Cảnh tượng của lực lượng không vận khổng lồ "đúng là rất ấn tượng, nhưng tôi không hề có ảo tưởng rằng đó sẽ là một trận đánh dễ dàng", Horrock nhớ lại. Một cách chi tiết, ông đã tính tới mọi khả năng, thậm chí ra lệnh cho người của mình mang theo tối đa lương thực, xăng và đạn có thể được, "vì rất có thể chúng tôi sẽ phải tự xoay xở lâu". Còn một lo lắng nữa mà viên tướng không thể rứt bỏ được, nhưng ông đã không nói với ai - ông không thích một cuộc tấn công bắt đầu vào chủ nhật. "Chưa cuộc tấn công nào tôi tham dự trong cả cuộc chiến bắt đầu vào chủ nhật mà lại thành công hoàn toàn". Đưa ống nhòm lên, ông quan sát con đường ngoằn ngoèo như dải ruy băng màu trắng hướng lên phía bắc về phía Valkenswaard và Eindhoven. Hài lòng vì cuộc tấn công đổ bộ đường không đã bắt đầu, Horrock ra lệnh cho lực lượng Garden tấn công. Vào đúng 2 giờ 15 chiều, trong tiếng gầm sấm sét, 350 khẩu pháo bắt đầu khai hỏa.
    Cuộc pháo kích thật khủng khiếp. Hàng tấn thuốc nổ nối tiếp nhau xé nát vị trí quân địch án ngữ phía trước. Cơn bão lửa, rải ra trên một chiều sâu 5 dặm và chính diện dài 1 dặm, khiến mặt đất rung lên dưới những chiếc xe tăng của đơn vị cận vệ Ireland trong lúc họ chiếm lĩnh tuyến xuất phát. Sau đơn vị mũi nhọn, hàng trăm xe tăng và xe bọc thép bắt đầu từ từ rời khu vực tập kết, sẵn sàng đi vào hàng khi chiếc tăng đầu tiên chuyển bánh. Phía trên đầu, hàng đoàn máy bay phóng pháo Typhoon lượn đi lượn lại, đợi lệnh của chỉ huy đơn vị cận vệ Ireland, trung tá Joe Vandeleur, thông báo cho họ mục tiêu phía trước. Vào lúc 2 giờ 35, trung úy Keith Heathcote hét vào máy bộ đàm, "Lái xe, tiến lên!"
    Những chiếc tăng chầm chậm tiến khỏi khu vực đầu cầu đi ngược lên con đường với tốc độ 8 dặm một giờ. Lúc này, bức tường lửa pháo binh đã chuyển lùi lại phía trước đoàn tăng với cùng tốc độ. Những người lính tăng có thể nhìn thấy đạn đại bác nổ tung phía trước họ chỉ 100 yard. Trong lúc các phân đội tiến lên, chìm trong bụi của trận pháo kích, người ta cũng khó nói chắc lúc đó liệu những chiếc tăng có nguy cơ bị pháo nhà bắn nhầm phải không.
    Sau phân đội dẫn đầu là chiếc xe trinh sát của trung tá Joe Vandeleur và em họ Giles của ông. Đứng trên xe của mình, Vandeleur có thể thấy cả trước lẫn sau mình, bộ binh ngồi trên các xe tăng, mỗi xe đều được sơn những vạch vàng để những chiếc Typhoon trên đầu phân biệt. "Cảnh tượng thật không thể tin được," Vandeleur nhớ lại, "nhưng mọi việc đều diễn ra theo đúng kế hoạch". Lúc này, những xe tăng đi đầu đã tiến ra khỏi đầu cầu và vượt qua biên giới Hà Lan. Đại úy Mick O''****, chỉ huy phân đội 3, gọi radio lại, "Tiến ổn thỏa. Phân đội mũi nhọn đã vượt qua". Rồi, chỉ vài giây sau, tình hình đã thay đổi. Như Vandeleur nhớ lại, "Bọn Đức đã thực sự bắt đầu nện chúng tôi".
    Phục kích trong các vị trí kiên cố được ngụy trang chu đáo ở cả hai bên đường, các pháo thủ Đức không những đã sống sót qua đợt pháo kích mở đường và còn đợi đến khi chúng vượt qua vị trí của họ. Không nổ súng, quân Đức cho những chiếc tăng đầu tiên đi qua. Thế rồi chỉ trong 2 phút 3 chiếc tăng của phân đội mũi nhọn và 6 chiếc của phân đội tiếp theo đã bị loại khỏi vòng chiến. Bốc cháy và nằm chết gí trên đường, chúng nằm rải ra trên nửa dặm đường. "Chúng tôi vừa vượt qua biên giới thì bị rơi vào phục kích," trung úy Cyril Russell nhớ lại. "Bất thần những chiếc tăng phía trước quay ngang ra đường hoặc bùng cháy. Tôi có linh cảm chẳng dễ chịu gì là chiếc tiếp theo trúng đạn sẽ là chiếc xe tôi đang ngồi trên. Chúng tôi nhảy xuống những chiếc rãnh ở bên vệ đường". Trong lúc Russell tiến lên phía trước để xem phần còn lại của trung đội anh chỉ huy có làm sao không, một khẩu súng máy lên tiếng; viên trung úy bị trúng đạn vào cánh tay và ngã nhào xuống rãnh. Với Russell, cuộc chiến đã chấm dứt.
    Xe tăng mà thượng sĩ James Doggart ngồi trên bị trúng đạn. "Tôi không nhớ đã nhìn thấy gì hoặc nghe thấy tiếng nổ," anh kể lại. "Tôi đột nghiên bị ngã ngửa nằm bẹp người dưới đáy một khe rãnh, chiếc tăng đổ nghiêng ngay phía trên. Một khẩu Bren nằm gác đè lên ngực tôi, bên cạnh tôi là một cậu trẻ tuổi, tay gần như nát bét. Gần đó, bốn người nữa của chúng tôi đã chết. Chiếc xe tăng bốc cháy và tôi không nhìn thấy ai trong tổ lái thoát ra ngoài".
    Trung úy Barry Quinan, trên chiếc xe tăng đi sau cùng của phân đội dẫn đầu, nhớ rằng chiếc Sherman của anh quẹo sang trái tụt xuống một khe hào, và Quinan nghĩ rằng người lái xe đang cố vòng qua những chiếc tăng bị bắn cháy phía trước. Nhưng chiếc xe đã bị trúng một quả trái phá, lái chính và lái phụ hy sinh. Chiếc Sherman bắt đầu bốc cháy và pháo thủ của Quinan," cố gắng trườn qua nóc xe, đã lôi được nửa người tôi ra khỏi tháp pháo trước khi tôi nhận ra chúng tôi đã "dính đòn"". Trong lúc hai người leo ra khỏi xe, Quinan trông thấy những người khác chui ra theo. Hết chiếc này tới chiếc khác, các xe tăng lần lượt trúng đạn. "Tôi nhìn thấy một trưởng xe đưa hai tay lên cố che mặt khỏi ngọn lửa đang bùng lên trùm kín xe".
  2. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Mũi đột kích đã bị chặn đứng từ khi chưa thực sự kịp bắt đầu và 9 chiếc tăng bị bắn hỏng chặn đứng đường hành quân. Các phân đội tiếp theo không thể tiến lên được. Cho dù họ có vượt qua được các chướng ngại vật đang cháy đùng đùng đó, các pháo thủ Đức sẽ lại bắn hạ họ. Để cuộc đột kích tiếp tục, Vandeleur gọi các máy bay phóng pháo Typhoon và, được trợ giúp nhờ những quả pháo hiệu đỏ từ xe tăng bắn đi đánh dấu các vị trí nghi ngờ có quân Đức, những chiếc máy bay gầm rít lao xuống. "Đó là lần đầu tiên tôi được nhìn những chiếc Typhoon xung trận," Vandeleur nhớ lại, " và tôi thật sự thán phục sự gan dạ của đám phi công. Họ lao tới thành hàng một, chiếc nọ nối đuôi chiếc kia, lao qua màn pháo kích của chính quân ta. Một chiếc nổ tung ngay trên đầu tôi. Thật không thể tin nổi... tiếng đại bác bắn, tiếng động cơ máy bay, tiếng hét và chửi rủa của binh lính. Trong lúc đó, sư đoàn hỏi tôi trận đánh đang diễn ra thế nào. Chỉ huy phó của tôi chỉ giơ tai nghe lên cao rồi nói, "Nghe đi"."
    Trong lúc các máy bay bổ nhào xuống mục tiêu, Vandeleur cử một chiếc xe ủi bọc thép tiến lên đẩy các xe tăng cháy ra khỏi đường. Những âm thanh của trận đánh lúc này rền vang trên hàng dặm đường xa lộ, vọng tới tận xe của Vandeleur và chiếc xe của đội liên lạc RAF có nhiệm vụ gọi máy bay chi viện. Trung úy Donald Love, viên phi công trinh sát phối thuộc cho đơn vị thông tin này, lúc này hòan toàn ân hận là đã xung phong tình nguyện. Trong lúc biên đội trưởng Max Sutherland hướng dẫn những chiếc Typhoon, Love chui ra xem chuyện gì đang xảy ra. Những cuộn khói đen bốc lên ngùn ngụt phía trước, và một khẩu pháo chống tăng tự hành ngay phía trước chiếc xe thông tin đang bốc cháy. Trong lúc Love quan sát, một chiếc xe bọc thép gắn súng máy Bren chạy ngược trở lại mang theo thương binh. Một người bị chém đứt mất vai, toàn bộ quần áo của anh ta cháy rụi. "Tôi tin chắc chúng tôi đã bị bao vây," Love kể, "tôi kinh hoàng tự hỏi mình tại sao tôi không ở lại bên không quân, chỗ của tôi".
    Những người lính tăng thuộc những phân đội đang bị kẹt lại phải chờ phía sau, như đại úy Roland Langton mô tả, có một cảm giác "bất lực lạ lùng; Chúng tôi chẳng thể tiến lên hay lùi lại được". Langton quan sát bộ binh tiến lên quét sạch quân địch khỏi khu rừng hai bên đường phía trước, đi đầu là hai xe bọc thép gắn súng máy Bren. Langton nghĩ những người lính đó có thể là một bộ phận tiền đội của sư đoàn bộ binh 43."Bất thình lình tôi thấy cả hai chiếc xe bật tung lên không trung," Langton nhớ lại. "Chúng đã cán phải mìn của địch". Khi khói đã tan, Langton nhìn thấy "các thi thể vắt trên cây. Tôi không biết là bao nhiêu, không thể nào đếm được. Cành cây nào cũng có những mảnh thi thể vắt qua".
    Với những chiếc Typhoon bay phía trước chỉ vài yard, bộ binh Anh lầm lì đánh bật quân Đức ra khỏi vị trí phục kích. Thượng sĩ Doggart đã thoát ra khỏi cái rãnh nơi anh rơi xuống khi xe tăng trúng đạn. Anh chạy dọc bên đường và nhảy xuống một công sự đã bỏ trống của quân địch." Đúng lúc ấy, hai tên Đức - một gã thanh niên không có cả áo quân phục, gã kia là một tay khốn kiếp mặt mũi bặm trợn chừng 30 tuổi - nhảy vào công sự ngay sau tôi từ phía đối diện", Doggart kể lại. Không chần chừ, Doggart đạp thẳng vào mặt gã lớn tuổi hơn. Gã thanh niên lập tức đầu hàng. Chĩa súng vào chúng, Doggart giải chúng ngược trở lại dọc theo đường " cùng một đoàn lính Đức, tất cả cắm cổ chạy, hai tay đặt sau gáy. Tay nào lề mề là bị ngay một đạp vào lưng".
    Từ trong rừng, từ các chiến hào, quanh các đồng cỏ và dọc con đường lúc này đã được dọn quang, vang lên những tràng tiểu liên Sten khi bộ binh tiến lên. Những người lính cận vệ không nương tay với quân địch, đặc biệt là đám bắn tỉa. Nhiều người còn nhớ tù binh bị bắt đi thành hàng đôi dọc theo đường, khi đi chậm sẽ bị thúc bằng lưỡi lê. Một tù binh trong đoàn người mỗi lúc một đông thêm đó cố bỏ chạy, nhưng gần đó có chừng hơn một đại đội bộ binh và một số người nhớ lại - theo như lời của một người - "gã nọ đã toi mạng ngay khoảnh khắc ý nghĩ đó chui vào đầu hắn".
    Joe Vandeleur quan sát tù binh bị giải qua trước chiếc xe trinh sát của ông. Khi một tên Đức đi qua trước mặt, Vandeleur thấy hắn có một cử động bất ngờ. "Tên khốn đó đã moi một quả lựu đạn hắn dấu ra và ném vào một chiếc xe bọc thép. Quả lựu đạn nổ tung và một thượng sĩ dưới quyền tôi nằm trên đường, một chân bay mất. Tên Đức lập tức bị súng máy từ bốn phía xối tới bắn gục."
    Tại vị trí chỉ huy của mình, tướng Horrock nhận được báo cáo rằng đường tiến quân đã được quét sạch và bộ binh, mặc dù bị tổn thất nặng, đã đánh bật quân Đức ở hai bên đường. Như ông thuật lại sau đó, "Đám Ireland đã phát chán bị ngắm bắn, và như thường xảy ra với những chiến binh lão luyện, họ đã phát bẳn".
    Có lẽ không ai nổi điên hơn đại úy Eamon Fitzerald, sĩ quan quân báo của tiểu đòan 2, người lúc đó đang hỏi cung kíp pháo thủ của một khẩu pháo chống tăng. Theo trung tá Giles Vandeleur, "Fitzerald có kiểu khai thác thông tin khá thú vị. Vốn là một người khổng lồ, anh ta nói thạo tiếng Đức, nhưng giọng thì kinh khủng. Thói quen của anh ta là rút súng ngắn ra, chĩa thẳng vào bụng tên Đức và, ngồi gần sát vào hắn, quát thẳng câu hỏi vào mặt tù binh." Kết quả, Vandeleur luôn nghĩ, "là tuyệt vời. Chỉ vài phút sau khi hỏi cung kíp pháo thủ này, xe tăng của chúng tôi đã hạ được các vị trí súng chống tăng được ngụy trang của Đức với độ chính xác khó tin và con đường đã đủ quang đãng để chúng tôi tiếp tục tiến lên".
    Nhiều lính cận vệ Ireland tin rằng chính thượng sĩ Bertie Cowan đã xoay chuyển tình thế trận đánh. Chỉ huy một chiếc Sherman, Cowan đã định vị được một khẩu pháo chống tăng Đức và hạ nó bằng một phát đạn duy nhất. Trong trận đánh, thiếu tá Edward G.Tyler, chỉ huy phân đội, rất ngạc nhiên thấy một tên Đức đứng trên xe của Cowan chỉ hướng bắn. Anh ta thấy chiếc tăng vượt qua đường và nổ súng; sau đó, bị cuốn vào trận đánh, viên thiếu tá cũng quên luôn chi tiết này. Sau đó, Tyler được biết Cowan đã hạ được ba khẩu đội Đức. "Khi có được chút thời gian, tôi liền tới chúc mừng cậu ta," Tyler thuật lại. "Cowan cho tôi hay rằng gã Jerry trên xe của cậu ta là khẩu đội trưởng của khẩu đội đầu tiên bị cậu ta hạ và tên này đã đầu hàng". Hắn sau đó được đại úy Fitzgerald hỏi cung rồi quay trở lại chỗ Cowan, nơi hắn tỏ ra "rất hợp tác".
    Đơn vị cận vệ Ireland lại tiếp tục tiến lên, nhưng giao chiến tiếp tục diễn ra không ngừng. Lớp vỏ của quân Đức rõ ràng là rắn hơn nhiều so với ước đoán. Trong số tù binh có cả lính thuộc các tiểu đoàn dù nổi tiếng và - trước sự ngạc nhiên hoàn toàn của người Anh - các cựu binh thuộc các sư đoàn Panzer SS số 9 và 10: đây là những đơn vị tướng Wilhem Bittrich đã gửi tới tăng cường cho đạo quân dù thứ 1 của Student. Và để làm cho sự kinh ngạc hoàn tất, một số tù binh hóa ra lại thuộc đạo quân số 15 của tướng Von Zangen. Như ghi trong nhật ký chiến đấu của đơn vị cận vệ Ireland," quân báo của chúng ta có một ngày đầy những ngạc nhiên đáng bực mình: hết trung đoàn này đến trung đoàn khác của quân Đức xuất hiện ở nơi mà đáng lẽ ra chúng không có mặt mới phải".
    Tướng Horrock đã trông đợi đơn vị thiết giáp mũi nhọn của ông có thể vượt qua quãng đường 13 dặm tới Eindhoven trong vòng"hai hay ba giờ". Thời gian quý báu đã bị mất, và lính cận vệ Ireland mới chỉ tiến được 7 dặm, tới Valkenswaard vào lúc sẩm tối. Market Garden đã trễ rất nhiều so với thời gian biểu.
  3. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Nhằm có được khả năng cơ động tối đa, các tàu lượn của tướng Maxwell D.Taylor chỉ mang theo chủ yếu xe jeep - không có một khẩu pháo nào. Việc người Anh không tới được Eindhoven đúng kế hoạch là một tai họa. Taylor đã hy vọng vào sự yểm trợ của pháo tăng dọc dải hành lang 15 dặm mà những chú Chim ưng gầm thét phải chiếm giữ. Các sĩ quan liên lạc Hà Lan của Taylor đã phát hiện ra tình hình thực tế - sư đòan 101 sẽ phải chiến đấu độc lập lâu hơn so với dự kiến - gần như lập tức. Được lực lượng kháng chiến trợ giúp, họ chỉ cần đơn giản dùng điện thoại để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra với người Anh.
    Lính dù của Taylor đã chiếm được Veghel, mục tiêu nằm xa nhất về phía bắc trong đoạn hành lang của họ, một cách chớp nhoáng cùng với 4 điểm vượt sông - cầu đường sắt và đường bộ qua sông Aa và kênh đào Willems. Hiển nhiên là có giao chiến ác liệt; nhưng dù sao 4 mục tiêu đã được chiếm lĩnh trong vòng 2 giờ. Xa hơn về phía nam, nằm nửa đường từ Veghel tới Son, thị trấn St Oedenrode và cây cầu trên xa lộ qua sông Dommel đã được khống chế một cách khá dễ dàng. Theo nhật ký điện thoại chính thức của Hà Lan, Johanna Lathouwers, một điện thoại viên lâu năm đã quá quen với những cuộc gọi quốc tế, nghe thấy "một giọng Mỹ không lẫn vào đâu được gọi tới từ đường dây Oed 1 (St Oedenrode) lúc 14 giờ 25, yêu cầu nối máy với Valkenswaard, một cuộc gọi kéo dài 40 phút."
    Người Mỹ nhanh chóng nhận ra rằng mũi nhọn của lực lượng Garden thậm chí còn chưa tới được Valkenswaard. Giờ đây thì xem ra xe tăng của Horrock, đã bị chậm trễ, khó lòng tới được Eindhoven nẳm tại đầu phía nam của dải hành lang trước khi trời tối; và như thế sẽ không thể kịp giúp người Mỹ đánh chiếm và kiểm soát các mục tiêu nằm rải trên một khu vực rộng của họ. Binh lính sư đoàn 101 cho tới lúc đó đã thành công ngoạn mục. Giờ đây họ bắt đầu gặp khó khăn.
    Mục tiêu khẩn yếu nhất Taylor phải chiếm là cây cầu trên xa lộ qua kênh đào Wilhelmina tại Son, cách Eindhoven 5 dặm về phía bắc. Theo kế hoạch dự phòng cho trường hợp trục giao thông chính này bị phá hủy, Taylor đã quyết định chiếm một cây cầu qua kênh tại Best, nằm cách cây cầu chính 4 dặm về phía tây. Vì cây cầu này chỉ được coi là thứ yếu, chỉ có một đại đội của trung đoàn 502 được cử tới Best, và người ta cũng ước đoán rằng tại đó chỉ có một lực lượng nhỏ quân Đức. Tình báo của Taylor đã không biết rằng sở chỉ huy của tướng Student chỉ cách các khu đổ quân của sư đoàn 101 có 10 dặm về phía tây bắc và sở chỉ huy của đạo quân số 15 của von Zangen vừa tới nơi cũng đóng gần Tilburg. Trong số những lực lượng này có sư đoàn bộ binh 59 đã tổn thất của thiếu tướng Walter Pope cùng một lực lượng pháo binh đáng kể.
    Gần như vừa tiếp cận cầu, đại đội H đã gọi radio báo cáo họ đã vấp phải chốt kiểm soát của địch và gặp kháng cự mạnh. Báo cáo này khởi đầu cho một trận đánh đẫm máu sẽ còn kéo dài suốt đêm và trong cả hai ngày sau đó. Cuộc giao chiến lúc đầu chỉ có một đại đội tham gia cuối cùng đã hút vào gần như cả một trung đoàn. Nhưng ngay từ lúc đó những người lính can trường của đại đội H, cho dù chịu tổn thất nặng nề, đã giáng trả lại xứng đáng đòn phản kích mạnh bất ngờ này của quân Đức.
    Trong khi đại đội H đang tiến về phía cây cầu tại Best, trung đoàn 506 của đại tá Robert F.Sink cũng tiếp cận cây cầu đường bộ chính tại Son. Họ hầu như không gặp sự chống cự nào cho tới khi tới rìa làng phía bắc. Lúc đó họ bị một khẩu 88 mm của Đức bắn vào. Trong vòng chưa đầy 10 phút, đơn vị đi đầu diệt gọn khẩu đội này bằng bazooka. Chiến đấu dọc các con phố, người Mỹ chỉ còn cách con kênh chưa đầy 50 yard thì cây cầu nổ tung, mảnh vụn rơi xuống như mưa quanh những người lính dù. Với đại tá Sink, người đã chiếm được Eindhoven và những điểm vượt sông tại đó lúc 8 giờ tối, việc cây cầu bị phá hủy quả là một cú đau. Nhanh chóng phản ứng và ngay dưới làn đạn kẻ thù, 3 người - thiếu tá James LaPrade, thiếu úy Millford F.Weller và thượng sĩ John Dunning - nhảy xuống kênh bơi sang bờ bên kia. Những người còn lại của tiểu đoàn theo gương họ hoặc vượt kênh bằng xuồng. Tới bờ nam, họ dập tắt sự chống cự của quân Đức và thiết lập đầu cầu.
    Trụ giữa chiếc cầu vẫn còn nguyên vẹn, và công binh sư đoàn 101 lập tức lắp đặt một cây cầu tạm. Sự trợ giúp lại đến từ một nguồn không ngờ tới. Người dân Hà Lan cho biết có một lượng gỗ chợ đen lớn được chứa trong một nhà kho ngay gần đó. Trong vòng 1 giờ rưỡi lực lượng công binh đã sử dụng trụ cầu còn lại và gỗ để hoàn thành một cây cầu tạm. Như đại tá Sink nhớ lại, "Cái cầu này đúng là đáng chán về mọi mặt, trừ một điểm là nó giúp tôi đưa được phần còn lại của trung đoàn qua sông theo hàng một". Cho tới khi thiết bị bắc cầu được chuyển tới, hành lang của Market Garden tại Son chỉ còn là một cây cầu ván gỗ đủ một người đi.
    Thống chế Model vẫn còn sốc khi ông ta tới sở chỉ huy của Bittrich tại Doetinchem. Bình thường đoạn đường này viên thống chế đi chỉ hết nửa giờ, nhưng hôm nay, vì ông ta phải dừng lại dọc đường nhiều lần để báo động các chỉ huy đồn trú về cuộc đổ bộ đường không, cuộc hành trình đã kéo dài hơn một giờ. Cho dù bên ngoài thống chế có vẻ bình tĩnh, Bittrich nhớ lại "câu đầu tiên ông nói với tôi là, "Suýt nữa thì chúng bắt được tôi! Chúng tới tập kích sở chỉ huy. Thử tưởng tượng xem! Súyt nữa thì chúng bắt được tôi!"
    Bittrich lập tức báo cáo cho Model tin tức mới nhất mà sở chỉ huy quân đoàn Panzer SS số 2 có được. Vẫn chưa thể hình dung ra rõ ràng ý định của Đồng Minh, nhưng Bittrich nói với Model giả thiết của mình: cuộc tấn công nhằm kìm chân đạo quân số 15 trong khi đạo quân Anh số 2 tấn công vào Ruhr. Điều này sẽ buộc Đồng Minh phải chiếm các cầu tại Nijmegen và Arnhem. Model bác bỏ hoàn toàn ý kiến này. Cây cầu tại Arnhem không phải là mục tiêu, ông ta nói. Những đơn vị đổ bộ này sẽ tản ra và tiến theo hướng đông bắc tới Ruhr. Model tin rằng tình hình vẫn còn quá lờ mờ để có thể đưa ra kết luận cuối cùng. Ông ta thực sự bối rối về việc lực lượng đổ bộ đã xuất hiện ở khu vực Nijmegen. Tuy vậy, ông tán đồng các biện pháp Bittrich đã thực hiện.
    Bittrich vẫn nhấn mạnh vấn đề những chiếc cầu. "Thưa thống chế, tôi khẩn thiết yêu cầu phá hủy lập tức các cầu tại Nijmegen và Arnhem," ông nói. Model nhìn ông ngạc nhiên. "Không được phá hủy chúng," ông ta kiên quyết lệnh cho Bittrich. "Cho dù người Anh có kế hoạch gì, những cây cầu này có thể giữ được. Không. Dứt khóat không. Không được phá những cây cầu này". Sau đó, gạt chủ đề trên sang một bên, Model nói, "Tôi đang tìm nơi thiết lập sở chỉ huy mới, Bittrich". Trước khi Bittrich kịp trả lời, Model lại trầm ngâm nói, "Anh biết đấy, suýt nữa chúng đã bắt được tôi".
    Tại sở chỉ huy của mình ở Vught, tướng Kurt Student phải đối mặt với một vấn đề đau đầu: đạo quân nhảy dù số 1 của ông đã bị cuộc tấn công đổ bộ đường không cắt làm đôi. Không còn liên lạc điện thoại và phải dựa hoàn toàn vào radio, ông ta không thể chỉ huy được đạo quân bị chia cắt của mình nữa. Lúc này các đơn vị mạnh ai nấy đánh không hề có sự hiệp đồng chỉ huy thống nhất. Thế rồi, một món quà đúng lúc và bất ngờ của vận may, một chiếc vali còn nguyên vẹn tìm thấy trong chiếc tàu lượn Waco rơi gần sở chỉ huy của ông được trình lên viên tướng.
    "Thật không thể tin được," Student kể. "Trong vali là toàn bộ mệnh lệnh tác chiến cho chiến dịch của kẻ địch". Student và ban tham mưu bị hút vào những tấm bản đồ thu được. "Chúng chỉ cho chúng tôi thấy tất cả - các khu đổ quân, hành lang chiến dịch, các mục tiêu, thậm chí cả tên của các sư đoàn tham gia. Tất cả! Lập tức chúng tôi hiểu ra chiến lược của họ. Họ định chiếm các cây cầu trước khi chúng ta kịp phá hủy. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là, "Đây là sự lặp lại! Sự lặp lại! Lịch sử đang lặp lại!" Trong chiến dịch đổ bộ của chúng tôi tại Hà Lan năm 1940, một trong các sĩ quan của tôi, bất chấp lệnh cấm nghiêm ngặt, đã mang ra mặt trận các tài liệu mô tả chi tiết toàn bộ cuộc tấn công của chúng tôi, và những tài liệu này đã rơi vào tay kẻ địch. Giờ đây bánh xe đã xoay chiều. Tôi biết chính xác mình cần phải làm gì".
    Tuy nhiên, Model chưa biết điều này. Chưa bao giờ Student cảm thấy tuyệt vọng đến thế. Vì hệ thống liên lạc của ông ta đã bị gián đoạn, có lẽ phải đến gần 10 giờ viên tư lệnh mới đưa được bí mật của chiến dịch Market Garden tới tay Model. Điều bí mật đó là cây cầu tại Arnhem có vai trò quan trọng sống còn. Những tài liệu tịch thu được chỉ rõ rằng đó là đầu cầu để Montgomery tiến vào Ruhr.
    Đó là kiểu giao chiến mà Model thích nhất: một trận đánh đòi hỏi sự linh hoạt, táo bạo, và trên hết, tốc độ. Từ sở chỉ huy của Bittrich, Model gọi điện cho tư lệnh mặt trận phía Tây, Von Runstedt. Với phong cách ngắn gọn đến cộc lốc của mình, viên thống chế mô tả tình hình và yêu cầu lập tức được tăng viện. "Cách duy nhất để đánh bại một cuộc tấn công đổ bộ đường không là phản kích ngay trong 24 giờ đầu tiên", ông ta nói với Von Runstedt. Model yêu cầu lực lượng phòng không, pháo tự hành, xe tăng và bộ binh; và ông ta muốn lực lượng tăng viện được chuyển tới Arnhem lúc trời tối. Von Runstedt trả lời rằng tất cả lực lượng tăng viện có thể thu xếp được sẽ lập tức lên đường. Quay sang Bittrich, Model nói đắc thắng, "Giờ thì chúng ta sẽ có tăng viện!" Model quyết định sẽ chỉ huy từ Doetinchem; nhưng, cho dù bề ngoài ông ta đã hồi phục được cú sốc sau khi phải vội vàng bỏ chạy khỏi Oosterbeek, lần này viên thống chế quyết định không mạo hiểm với nguy cơ bị đánh úp bất thình lình. Ông ta từ chối sử dụng tòa lâu đài tiện nghi; ông sẽ chỉ huy trận đánh từ ngôi nhà của người làm vườn.
  4. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Sự nhìn xa trông rộng kịp thời của Bittrich lúc này bắt đầu phát huy tác dụng. Các đơn vị thuộc sư đoàn Hohenstaufen của Harzer đang nhanh chóng hướng tới các khu chiến sự. Sư đoàn Frunsberg của Harmel - Harmel dự kiến sẽ quay từ Đức về trong đêm - cũng đã lên đường. Bittrich đã lệnh cho Harzer thiết lập sở chỉ huy tại một trường trung học nằm ở ngoại vi phía bắc Arnhem nhìn xuống thành phố, và việc di chuyển đang được tiến hành. Nhưng Harzer đang sôi lên vì sốt ruột. Những chiếc xe bọc thép dự kiến sẽ lên đường quay về Đức vào đầu buổi chiều hôm đó vẫn đang được lắp lại xích và súng. Harzer đã ra lệnh điều động các đơn vị gần khu đổ bộ của người Anh nhất tiến ra chốt chặn tại các vị trí ở phía tây Arnhem. Vào lúc này, ông ta cũng chỉ có rất ít xe bọc thép, một số pháo tự hành cùng vài xe tăng cùng bộ binh. Tuy thế, Harzer hy vọng bằng cách cơ động liên tục ông ta có thể chặn bước và làm quân Anh bị lúng túng cho tới khi phần còn lại của sư đoàn sẵn sàng tham chiến.
    Cũng thật lạ lùng là Harzer thậm chí không hề biết tiểu đoàn huấn luyện lính tùng thiết SS của thiếu tá Sepp Krafft đang có mặt trong vùng và hiện là đơn vị duy nhất có mặt trên đường tiến của lực lượng đổ bộ Anh. Harzer tập trung lực lượng của mình trên hai đường xa lộ chạy vào Arnhem: đường Ede - Arnhem và đường Utrecht - Arnhem. Đoan chắc rằng lực lượng dù sẽ phải dùng những trục đường chính này, viên sư trưởng đã bố trí lực lượng của mình thành một hình bán nguyệt bao lấy hai xa lộ. Có thể do thiếu lực lượng hay không để ý đến, Harzer đã không bố trí lực lượng nào chốt chặn một con đường phụ vắng vẻ chạy song song với bờ bắc sông Rhine. Đây là con đường duy nhất không được bảo vệ mà người Anh có thể sử dụng để tiếp cận cầu Arnhem.
    Trong bộ binh phục ngụy trang và những chiếc mũ sắt đặc trưng, vai trĩu nặng vũ khí đạn dược, binh lính lữ đoàn nhảy dù số 1 của thượng tá Lathbury đang trên đường tới Arnhem. Xen giữa các toán lính hành quân bộ là những chiếc xe jeep kéo pháo nhẹ và những chiếc xe tải bốn bánh chở vũ khí và hậu cần. Trong lúc tướng Roy Urquhart nhìn họ đi qua trước mặt, ông chợt nhớ tới lời bình luận mà tướng Horrock nói với ông vài tháng trước. "Lính của anh đúng là sát thủ", Horrock đã bình luận đầy thán phục. Lúc đó, Urquhart đã nghĩ lời nhận xét có lẽ hơi quá. Nhưng vào ngày chủ nhật này ông không còn chắc vậy nữa. Khi lữ đoàn 1 tiến qua trước mặt, Urquhart thực sự cảm thấy tự hào.
    Kế hoạch dự kiến dùng 3 tiểu đoàn của Lathbury để đánh chiếm Arnhem, mỗi tiểu đoàn vận động theo một hướng khác nhau. Tiểu đoàn 2 của trung tá John Frost được giao mục tiêu chính: tiến theo một con đường nhánh chạy gần bờ bắc sông Rhine, họ có nhiệm vụ chiếm cây cầu chính bắc trên xa lộ. Trên đường, họ còn phải khống chế cây cầu đường sắt cũng như các cầu phao nằm phía tây cây cầu chính. Tiểu đoàn 3, do trung tá J.A.C.Fitch chỉ huy, sẽ tiến theo đường Utrecht - Arnhem và tiếp cận cầu từ hướng bắc, hỗ trợ cho Frost. Một khi 2 tiểu đoàn này đã hoàn thành nhiệm vụ, tiểu đoàn 1 của trung tá D.Dobie có nhiệm vụ tiến theo xa lộ Ede - Arnhem - con đường nằm xa nhất về phía bắc - và chiếm cao điểm phía bắc thành phố. Lathbury đặt cho mỗi mũi một biệt danh. Dobie, ở xa nhất về phía bắc, được gọi là "Báo"; Fitch, ở giữa, là "Hổ"; và Frost, mũi quan trọng nhất, là "Sư tử". Tiến trước cả lữ đoàn, những chiếc jeep của đơn vị trinh sát do thiếu tá Freddie Gough chỉ huy dự định sẽ tiếp cận cầu, đánh chiếm nó một cách chớp nhoáng và giữ vững tới khi Frost đến nơi.
    Cho tới lúc này, Urquhart nhận định, giai đoạn đầu đã diễn ra suôn sẻ. Ông không quá lo lắng về việc liên lạc trong sư đòan bị gián đoạn vào thời điểm hiện tại. Ông đã có kinh nghiệm về gián đoạn liên lạc hoàn toàn nhiều lần trong các chiến dịch ở Bắc Phi. Vì ông không thể liên lạc được với lữ đoàn đổ bộ số 1 của thượng tá Hicks, đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ các khu đổ quân và đáp tàu lượn trong hai ngày tiếp theo, Urquhart đi tới sở chỉ huy của Hicks. Tại đây ông được biết lữ đoàn đổ bộ đã vào vị trí và Hicks lúc này đang vắng mặt để chỉ huy việc triển khai các tiểu đoàn của mình. Tuy nhiên, tại sở chỉ huy của Hicks, Urquhart được biết một phần quan trọng của kế hoạch chiếm cây cầu tại Arnhem đã bị trục trặc. Ông được thông báo - một cách sai lầm - rằng phần lớn xe trinh sát của thiếu tá Gogh đã bị hư hại trong các vụ rơi tàu lượn; không ai tại sở chỉ huy của Hicks biết Gough đi đâu. Không đợi Hicks quay về, Urquhart quay lại sở chỉ huy của mình. Ông cần tìm ra Gough càng nhanh càng tốt và vạch ra một kế hoạch thay thế, nhưng lúc này lo lắng lớn nhất của ông là báo tin cho Lathbury và nhất là Frost biết tiểu đòan 2 sẽ phải trông cậy hoàn tòan vào chính mình. Frost sẽ phải chiếm cây cầu chính tại Arnhem mà không có sự trợ giúp của Gough như dự kiến.
    Tại sở chỉ huy sư đoàn, lại có thêm tin xấu chờ đợi Urquhart. "Không những không có tin gì về Gough", Urquhart nhớ lại, "mà ngoại trừ một vài tín hiệu radio tầm ngắn, toàn bộ hệ thống liên lạc của sở chỉ huy đã trở thành vô dụng. Chúng tôi không thể liên lạc với lữ đoàn nhảy dù 1, và thực tế là với toàn bộ thế giới bên ngoài".
    Đại tá Charles Mckenzie, tham mưu trưởng của Urquhart, quan sát viên tướng đi đi lại lại," bồn chồn lo lắng chờ tin". Urquhart lệnh cho sĩ quan thông tin của mình, thiếu tá Anthony Deane-Drummond, tìm nguyên nhân "của gián đoạn liên lạc, xem chuyện gì đã xảy ra với các thiết bị radio và sửa lại lập tức". Các liên lạc viên cũng được cử đi tìm Gough. Và thời gian cứ qua đi trong khi chẳng có tin gì mới, Urquhart, cực kỳ lo lắng, quyết định không đợi thêm nữa. Bình thường, ông sẽ chỉ huy trận đánh từ sở chỉ huy sư đoàn; nhưng lúc này, từng giây từng phút trôi qua không có liên lạc, ông bắt đầu cảm thấy có điều gì đó không bình thường với trận đánh này. Quay sang Mckenzie, ông nói, "tôi nghĩ tôi phải đi xem xét một lượt, Charles ạ." Mackenzie không ngăn cản ông. "Lúc ấy," Mckenzie nhớ lại, "vì chúng tôi không nhận được bất cứ tin tức nào, quyết định đó có vẻ không phải là không hợp lý". Chỉ mang theo lái xe và một hiệu thính viên trên chiếc jeep của mình, Urquhart đuổi theo đơn vị của Lathbury. Lúc đó là 4 giờ 30 chiều.
    Vận động theo tuyến đường phía bắc, tuyến "Báo" - xa lộ Ede-Arnhem - đơn vị trinh sát đổ bộ đường không của thiếu tá Freddie Gough đã hành động rất khẩn trương. Cho dù các xe dành cho phân đội A không tới nơi, Gough đã rời bãi đổ quân với phần còn lại của đơn vị lúc 3 giờ 30 chiều. Anh tin tưởng mình có đủ xe cho nhiệm vụ đánh chiếm chớp nhoáng cây cầu. "Trên thực tế," anh nhớ lại, "tôi đã để lại bãi đổ quân vài chiếc jeep dự bị. Chúng tôi có thừa đủ xe để tiến tới Arnhem". Gough thậm chí còn tách 12 người của đơn vị mình phái xuống phía nam liên lạc với tiểu đoàn 2, đang hành tiến theo tuyến "Sư tử" để tiếp cận cầu. Viên thiếu tá không hề biết rằng việc mất những chiếc xe dành cho phân đội A đã gây ra những tin thất thiệt và thông tin lầm lẫn. Nhiều báo cáo về trận Arnhem còn nói rằng đơn vị của Gough không tác chiến được do những chiếc xe chở bằng tàu lượn cho đơn vị của ông đã không tới nơi. "Thất bại, nếu muốn gọi như vậy", Gough nói, "không phải do thiếu xe jeep, mà vì không ai cảnh báo chúng tôi về sự có mặt trong vùng của các sư đoàn Panzer SS 9 và 10".
  5. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Ngay từ đầu, Gough đã có nhiều e ngại về vai trò đơn vị của anh phải đảm nhiệm trong kế hoạch tấn công Arnhem. Thay vì thử một cú may rủi, Gough đã đề nghị cử một phân đội xe jeep trinh sát đi trước đội hình của từng tiểu đoàn trong số 3 tiểu đoàn tấn công. "Như thế," anh nói, " chúng tôi có thể nhanh chóng phát hiện ra con đường tốt nhất, dễ nhất để tiếp cận cây cầu". Không được chấp nhân, anh lại yêu cầu tăng cường một đơn vị tăng hạng nhẹ vận chuyển bằng tàu lượn cho cuộc tấn công chớp nhoáng. Cả đề nghị này cũng bị bác bỏ. Thế nhưng Gough vẫn lạc quan. "Tôi không hề lo lắng. Theo dự kiến ở đó chỉ có vài tay lính lão đầu bạc của bọn Đức ở Arnhem cũng vài chiếc xe tăng kiểu cũ và dăm khẩu pháo. Tôi trông đợi một trận đánh nhanh gọn".
    Lúc này, trong khi họ đang lao nhanh theo tuyến đường "Báo", những chiếc jeep dẫn đầu đội hình bị rơi vào ổ phục kích của xe bọc thép Đức và pháo 20 mm. Chỉ huy phó của Gough, đại úy David Allsop, tình cờ đã ghi lại thời điểm. Đó là lúc đúng 4 giờ chiều. Gough lái xe lên đầu đội hình xem xét. "Đúng lúc tôi định đi lên, tôi nhận được tin nói rằng Urquhart muốn gặp tôi ngay. Tôi chẳng biết nên làm gì nữa," Gough nói. "Tôi nằm dưới quyền Lathbury, và tôi nghĩ ít ra tôi cũng phải cho ông ấy biết tôi đang đi đâu, nhưng tôi không biết ông ấy đang ở chỗ nào. Đơn vị của tôi lúc đó rơi vào lưới hỏa lực dữ dội của địch và bị chững lại, phải bố trí phòng ngự gần tuyến đường sát ở ngoại vi Wolfheze. Tôi nghĩ họ sẽ giữ vững được một thời gian, vì thế tôi vòng lại hướng về sở chỉ huy sư đoàn tại khu đổ quân. Lúc đó là 4 giờ 30 chiều". Vào đúng lúc tướng Urquhart lên đường đi tìm Lathbury thì Gough lại đang hối hả quay về gặp Urquhart.
    Trên cả ba tuyến hành quân, binh lính lữ đoàn nhảy dù số 1 đều được người Hà Lan nồng nhiệt đón chào. Nhiều dân thường từ các trang trại đã đi theo những người lính dù suốt từ khi họ rời khu đổ bộ, và khi đám đông lớn dần, cuộc chào đón xem ra đã làm cuộc hành quân chững lại. Đại úy Eric Mackay, đi theo tuyến "Sư tử" nằm xa nhất về phía nam cùng tiểu đoàn 2 của trung tá Frost, đã cảm thấy bất an trước không khí hội hè này. "Những người Hà Lan đã giữ chân chúng tôi lại," anh kể. "Vẫy tay, vỗ tay hoan hô, họ đưa chúng tôi táo, lê, hay một thứ đồ uống gì đó. Nhưng họ làm ảnh hưởng đến tốc độ hành quân của chúng tôi và làm tôi e rằng họ làm chúng tôi không tới được vị trí của mình". Trung úy Robin Vlasto nhớ rằng " phần đầu của cuộc hành quân chẳng khác gì một cuộc diễu binh khải hoàn, và những người dân phát điên vì vui sướng. Tất cả thật không thể tin được, đến nỗi chúng tôi gần như tưởng rằng xe tăng của quân đoàn 30 của Horrock sẽ tiến ra khỏi Arnhem để đón chào chúng tôi. Những người dân đứng xếp hàng hai bên đướng, mang theo những khay lớn bia, sữa, quả đến mời chúng tôi. Chúng tôi phải khó khăn lắm mới nhắc nhở mọi người nhớ tới khả năng quân Đức tấn công".
    Cô gái trẻ Anje van Maanen, con gái một bác sĩ ở Oosterbeek, nhớ lại đã nhận được một cú điện thoại đầy phấn khích từ gia đình Tromp ở Heelsum, nằm ngay phía nam khu đổ quân của người Anh tại khu rừng Renkum. "Chúng ta tự do rồi. Tự do!" Gia đình Tromp nói với cô. "Đám Tommy đã đáp xuống sau nhà chúng tôi và họ đang tiến tới Oosterbeek. Trông họ dễ thương lắm! Chúng tôi đang hút thuốc và ăn chocolate". Anje gác máy," phát điên lên vì vui mừng. Tất cả chúng tôi đều nhảy múa vòng quanh nhà. Thế là đến rồi! Cuộc tấn công! Tuyệt quá!" Cô gái 17 tuổi Anje nóng lòng đợi bố quay về nhà. Bác sĩ Van Maanen đang đỡ đẻ ở nhà hàng xóm, và Anje nghĩ điều đó "thật phiền toái, nhất là lúc này, vì chồng của người mẹ lại là một tên Nazi Hà Lan". Bà Ida Clous, vợ một nha sĩ ở Oosterbeek và là một người bạn của gia đình Van Maanen, cũng nghe tin lực lượng đổ bộ đường không đang tiến công. Bà vội vàng lục tung tất cả đám hộp giỏ đồ khâu để nhặt nhạnh tất cả những gì màu da cam. Khi người Anh tiến vào Oosterbeek, bà định sẽ cùng ba đứa con nhỏ chạy ra chào đón những người giải phóng với những lá cờ màu da cam tự tạo.
    Jan Voskuil, đang lẩn trốn tại nhà bố mẹ vợ tại Oosterbeek, chần chừ giữa mong muốn chạy tới đường đi Utrecht để chào đón những người lính dù và sự cần thiết phải ngăn bố vợ không đi cùng mình. Ông lão rất hăng hái. "Tôi đã 78 tuổi rồi và chưa bao giờ nhìn thấy chiến tranh cả. Giờ tôi muốn thấy nó". Cuối cùng ông cụ cũng được thuyết phục ở lại trong vườn và Voskuil, gia nhập dòng người đi đón quân Anh, đã bị một người cảnh sát ngăn lại ở ngoại ô Oosterbeek. "Như thế này quá nguy hiểm", viên cảnh sát nói với đám đông. "Quay lại đi". Voskuil chậm chạp quay về nhà. Tại đó anh bắt gặp đúng tay lính Đức đã xin trú nhờ lúc cuộc oanh tạc xảy ra hồi sáng. Lúc này anh ta đã mặc binh phục chỉnh tề, khoác áo ngụy trang, đội mũ sắt, cầm súng trường. Hắn mời Voskuil chocolate và thuốc lá. "Tôi đi đây", anh ta nói. "Đám Tommy sắp đến". Voskuil mỉm cười. "Giờ anh sẽ quay trở về Đức," anh nói. Tay lính nhìn Voskuil vài giây. Rồi chậm rãi lắc đầu; "Không đâu thưa ngài," anh ta nói với Voskuil. "Chúng tôi sẽ chiến đấu". Người Hà Lan nhìn theo tay lính Đức đang quay đi. "Giờ thì nó sắp bắt đầu," Voskuil nghĩ, "nhưng mình có thể làm gì?" Anh bồn chồn đi đi lại lại trong vườn. Chẳng thể làm gì ngoài chờ đợi.
    Không bị cản trở sự ngăn cản của cảnh sát và những lời cảnh báo nên ở lại trong nhà, những người nông dân Hà Lan và gia đình họ đứng suốt dọc mỗi con đường tiến quân. Thượng sĩ nhất Harry Callaghan, hành quân theo tuyến "Hổ" ở giữa, nhớ lại có một người phụ nữ nông dân đã lách qua đám đông chạy tới chỗ anh với một bình sữa. Anh cảm ơn bà và người phụ nữ mỉm cười đáp lại, "Tốt, Tommy, tốt". Nhưng cũng giống như Eric Mackay, Callaghan, một cựu binh từ thời Dunkirk, không khỏi khó chịu trước số lượng dân thường vây quanh những người lính. "Họ chạy bên cạnh chúng tôi đeo băng tay,tạp dề, những dải ruy băng nhỏ, tất cả đều màu da cam," anh nhớ lại. "Những đứa trẻ, với những mảnh vải màu cam dính vào váy hay áo, chạy theo nô đùa vui vẻ. Phần lớn đến sát bên những người lính mời họ chocolate. Thật khác xa so với tình huống trong tập luyện. Tôi bắt đầu lo lắng nghĩ tới những tay bắn tỉa".
    Đúng như Callaghan e ngại, cuộc diễu hành khải hoàn đột ngột kết thúc. "Mọi việc diễn ra thật nhanh," anh kể lại. "Một giây trước chúng tôi còn đều bước tiến về phía Arnhem; chỉ một giây sau, tất cả chúng tôi đều tản ra nhào xuống nấp dưới các hào rãnh. Bọn xạ thủ bắn tỉa đã nổ súng, và ba người lính dù hy sinh nằm lại trên đường". Viên thượng sĩ kỳ cựu không để mất thời gian. Anh đã nhìn thấy ánh chớp lửa từ bụi cây phía trước cách họ chừng 50 yard. Trong lúc những người dân Hà Lan tản đi, Callaghan dẫn một toán 12 người tiến lên. Anh dừng lại gần một cái cây và nhìn lên. Có cái gì đó lóe sáng. Chĩa khẩu Sten của mình lên, anh bắn thẳng lên cây. Một khẩu súng tự động Schmeisser rơi cạch xuống đất, và khi Callaghan nhìn lên cây, anh thấy một tên Đức treo lủng lẳng ở đầu một sợi dây thừng.
    Cũng lúc đó, những đơn vị khác thuộc tiểu đoàn 3 của trung tá Fitch cũng có một cuộc chạm trán bất ngờ. Binh nhất Frederick Benneth vừa đưa vài quả táo cho đồng đội thì một chiếc xe nhỏ của Đức lao xuống dọc theo con đường. Benneth nổ súng với khẩu Sten của mình. Chiếc xe dừng lại cố quay đầu nhưng đã quá muộn. Tất cả những người gần Benneth đều nổ súng và chiếc xe chững lại, thủng lỗ chỗ vì đạn. Khi những người lính thận trọng tới gần, họ thấy tên lái xe nằm vắt nửa người ra ngoài. Xác của một sĩ quan cao cấp Đức cũng nằm đổ vật ra qua một khung cửa khác. Với Benneth " trông tay này có vẻ là một sĩ quan Đức cao cấp", mà đúng là vậy. Thiếu tướng Kussin, tư lệnh thành phố Arnhem, đã bỏ qua lời cảnh báo của thiếu tá SS Sepp Krafft rằng cần tránh con đường xa lộ Utrecht - Arnhem.
  6. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Nhiều người nhớ họ bắt đầu vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Đức sau một giờ hành quân - vào lúc 4 giờ 30. Hai trong 3 tiểu đoàn - tiểu đoàn của Dobie theo con đường phía bắc, và tiểu đoàn của Fitch theo con đường giữa - bất ngờ vấp phải những đợt phản kích bất chợt rồi tháo lui rất quyết liệt của quân địch. Đơn vị trinh sát của thiếu tá Gough, lúc này do đại úy Allsop chỉ huy, cố hết sức tìm cách đánh tạt sườn quân Đức để mở đường tới tiểu đoàn 1 của Dobie. Nhưng, theo lời kể của Allsop, "cho dù theo hướng nào chúng tôi cũng chạm phải quân địch trước mặt". Người lính trinh sát William Chandler nhớ rằng khi phân đội C của anh thăm dò thực địa, "đạn quân Đức bắn ra gần và dày đến mức có thể cảm thấy được khi chúng bay qua bên cạnh".
    Khi tiến tới gần Wolfheze, cả tiểu đoàn gần như bị chặn đứng. "Chúng tôi chững lại," binh nhì Walter Boldock nhớ lại. "Sau đó chúng tôi lại tiến lên. Rồi lại bị chặn lại và phải đào công sự. Sau đó chúng tôi lại vận động theo hướng khác. Quá trình tiến lên của chúng tôi phụ thuộc vào sự thành công của đại đội dẫn đầu. Suốt dọc đường đạn cối và súng bộ binh bắn vào chúng tôi liên tục". Bên một bụi cây, Boldock thấy một thượng sĩ mà anh quen bị thương nặng. Tiến thêm một chút, anh trông thấy thi thể cháy xém của một trung úy. Người này đã bị trúng một quả bom phospho. Với một người lính khác, binh nhì Roy Edward, "như thể chúng tôi chạy vòng quanh khắp vùng đồng quê và mắc vào một trận vận động chiến suốt cả buổi chiều".
    Những người lính dù chững lại trước cuộc phản kích dữ dội không hề được lường trước của quân địch. Binh nhì Andrew Milbourne, đi theo tuyến đường phía bắc, nghe thấy tiếng súng vọng lại từ phía nam và trong chốc lát đã lấy làm mừng rằng tiểu đoàn 1 đã được giao nhiệm vụ đánh chiếm cao điểm phía bắc Arnhem. Thế rồi, ở gần Wolfheze, Milbourne nhận thấy đội hình hành quân ngoặt xuống phía nam rời khỏi đường chính. Anh này trông thấy nhà ga xe lửa, và ngay cạnh đó, một chiếc xe tăng. Phản ứng đầu tiên của anh là cảm giác khoái trá. "Chúa ơi!" anh nghĩ,"Monty có lý. Đạo quân số 2 đã tới đây rồi!" Thế rôi, khi chiếc tháp pháo chầm chậm quay, Milbourne nhìn thấy hình chữ thập đen trên chiếc xe tăng. Bất thần, anh binh nhì dường như thấy quân Đức khắp nơi. Anh nhào vội xuống một khe rãnh và, vừa thận trọng nhô đầu lên, vừa tìm một vị trí thuận lợi để đặt khẩu súng máy Vicker của mình.
    Thượng sĩ Reginald Isherwood cũng nhìn thấy chiếc tăng này. Một chiếc jeep kéo theo một khẩu pháo hạng nhẹ tiến lên và bắt đầu quay vòng để đón bắn chiếc tăng. "Một pháo thủ kêu lớn," Chúng ta cần bắn trước chúng. Nếu không thì chúng ta toi mất," Isherwood nhớ lại. "Khẩu súng được quay lại nhanh như chớp, nhưng khi khẩu đội trưởng của quân ta hô "Bắn!" tôi nghe thấy tên chỉ huy Đức cũng làm vậy. Bọn Jerry có vẻ đã nhanh hơn chúng tôi 1/10 giây". Chiếc tăng đã bắn trúng mục tiêu. Chiếc jeep nổ tung và toàn khẩu đội hy sinh.
    Trong sự hỗn loạn mỗi lúc một tăng cùng với hỏa lực dữ dội từ mọi phía, lúc này trung tá Dobie đã hiểu sự chống cự ông gặp phải quyết liệt hơn nhiều so với mức độ dự kiến. Ông cũng không tin còn có thể đánh chiếm được cao điểm phía bắc Arnhem. Viên tiểu đoàn trưởng không thể liên lạc được với thượng tá Lathbury qua radio, và thương vong thì tăng lên từng phút. Dobie quyết định hướng tiểu đoàn xa hơn xuống phía nam, dự định hội quân với Frost đang tiến tới cây cầu chính tại Arnhem.
    Việc gián đoạn thông tin và sự thiếu chỉ đạo do việc này gây ra đã khiến các tiểu đoàn trưởng không thể biết chính xác chuyện gì đang xảy ra. Trên địa hình hoàn toàn xa lạ, với những tấm bản đồ đã cho thấy thường rất thiếu chính xác, các đại đội và trung đội thường mất liên lạc với nhau. Tại một ngã tư gần đoạn đường xa lộ mà binh lính tiểu đoàn 3 của trung tá Fitch đã giết tướng Kussin, người Anh hứng trọn hỏa lực từ súng cối phản lực và súng máy thuộc tiểu đoàn SS của thiếu tá Krafft. Đội hình hành quân bị phá vỡ, mọi người vội vã tản vào các vạt rừng. Những quả đạn cối, nổ tung trên không phía trên đầu họ, làm văng ra các mảnh ghém chết người theo mọi hướng.
    Hiệu thính viên Stanley Heyes vẫn còn nhớ rõ hỏa lực dữ dội của quân địch. Anh nhảy vào rừng và đánh rơi chiếc radio dự trữ; vừa cúi xuống nhặt nó lên anh đã bị thương vào mắt cá chân. Heyes cố lết vào rừng. Vừa ngã vật người vào một bụi rậm, anh nhận ra người nằm bên cạnh là một lính Đức. "Hắn ta còn trẻ và cũng kinh hoàng không kém gì tôi," Heyes kể, "nhưng hắn đã dùng cuộn băng dã chiến băng lại vết thương ở mắt cá cho tôi. Chỉ lát sau cả hai chúng tôi lại bị thương vì đạn cối và đành nằm đó chờ ai đó mang đi". Heyes và người lính Đức trẻ sẽ còn phải nằm lại trong bụi cây đó cho tới tối mịt, khi lực lượng cứu thương Anh tìm thấy và sơ tán họ.
    Tương tự như tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 3 cũng bị chặn đứng. Sau 2 giờ trên đường, cả tiểu đoàn chỉ tiến được có 2 dặm rưỡi. Lúc này, trung tá Fitch cũng đi tới cùng kết luận như Dobie ở tuyến đường phía trên; ông cần tìm một con đường khác tới cầu Arnhem. Thời gian rất gấp rút, và cây cầu vẫn còn cách xa 4 dặm.
    Trong khu rừng gần Wolfheze, thiếu tá SS Sepp Krafft tin chắc mình đã bị bao vây. Ông ta ước lượng người Anh áp đảo tiểu đoàn thiếu của mình tới khoảng 20 chọi 1. Nhưng, cho dù coi cuộc kháng cự của mình là "mất trí", viên thiếu tá cũng không dám tin vào thành công của quyết định liều lĩnh của mình. Những khẩu cối phản lực đã làm quân Anh rối loạn, và binh lính của ông báo cáo lại rằng quân dù vận động dọc tuyến đường Utrecht - Arnhem đã bị chặn đứng ở nhiều điểm, và tại một số nơi khác có vẻ quân địch đã bỏ đường cái. Krafft vẫn tin rằng tiểu đoàn mình là đơn vị Đức duy nhất trong khu vực, và không hề có ảo tưởng có thể kìm chân người Anh được lâu. Ông ta đã gần cạn hết đạn cối phản lực và chịu tổn thất nặng, một trung úy dưới quyền đã đào ngũ. Thế nhưng Krafft vẫn thầm hãnh diện về "sự can đảm đầy gương mẫu của các chàng trai trẻ của tôi". Viên thiếu tá đầy tham vọng Krafft, người sau đó đã viết một báo cáo dài nhằm báo công của mình lên Himmler về chiến tích của tiểu đoàn huấn luyện lính tùng thiết do ông ta chỉ huy, đã không hề biết rằng "các chàng trai trẻ" của ông ta đang được trợ sức bởi xe tăng, pháo binh và xe thiết giáp thuộc sư đoàn Hohenstaufen của trung tá Wilhelm Harzer, chỉ cách sở chỉ huy của Krafft có chừng 1 hay 2 dặm về phía đông.
    Thiếu tá Freddie Gough hoàn toàn không còn hiểu chuyện gì nữa. Mệnh lệnh của Urquhart yêu cầu ông quay về sư đòan không hề cho biết rõ ý định của viên tướng. Khi rời khỏi tuyến đường Báo của tiểu đoàn 1, Gough mang theo 4 xe jeep hộ tống thuộc đơn vị trinh sát của mình. Giờ đây, tại sở chỉ huy sư đoàn, tham mưu trưởng của Urquhart, đại tá Charles Mackenzie cũng không thể giúp gì nhiều cho viên thiếu tá. Tư lệnh, Mackenzie nói, đã đi tìm thượng tá Lathbury, người đang cùng ban chỉ huy đi theo tiểu đoàn của trung tá Frost trên tuyến đường phía nam, tuyến Sư tử. Mang theo nhóm hộ tống của mình, Gough lại một lần nữa lên đường. Hiển nhiên là đâu đó trên đường ông sẽ gặp được ít nhất một trong hai người.
    Chiếc jeep của tướng Urquhart đi theo xa lộ Utrecht - Arnhem và ngoặt xuống phía nam rời đường chính rẽ vào một đường nhánh dẫn tới tuyến đường Sư tử của Frost. Chỉ sau vài phút ông đã bắt kịp đơn vị chặn hậu của tiểu đoàn 2. Họ đang tiến thành hàng một ở hai bên đường. Urquhart nghe thấy tiếng súng nổ xa xa phía trước, nhưng ông cảm thấy "thiếu sự khẩn trương. Mọi người xem ra đều hành quân khá thong thả". Lao nhanh theo con đường, Urquhart tới sở chỉ huy của Frost cũng chỉ để biết Frost đã đi lên phía các đơn vị tiền tiêu, lúc này đang vấp phải kháng cự của quân Đức. "Tôi cố nhấn mạnh tới sự khẩn trương mà tôi muốn truyền đạt cho Frost", Urquhart viết trong hồi ký, "và cho họ biết sự không may của phi đội Recco". Được biết Lathbury đã đi sang tuyến đường giữa để nắm tình hình của tiểu đoàn 3, Urquhart đuổi theo. Một lần nữa, ông và Gough lại lỡ nhau chỉ vài phút.
    Bắt kịp các đơn vị đi sau của tiểu đoàn 3 trên tuyến Hổ, viên tướng được biết Lathbury đã đi lên phía trước. Ông đi theo. Tại một ngã tư trên tuyến đường Utrecht - Arnhem, Urquhart tìm thấy viên thượng tá. Cả khu vực nằm dưới làn đạn cối dữ dội. "Một số quả đạn này rơi chính xác như đặt vào giữa ngã tư và các vạt rừng nơi rất nhiều người thuộc tiểu đoàn 3 đang ẩn nấp", Urquhart viết trong hồi ký. "Đó là bằng chứng đầu tiên cho tôi thấy tốc độ và sự kiên quyết trong phản ứng của quân Đức". Nấp dưới một đoạn hào, Urquhart và Lathbury trao đổi về tình hình. Cả hai đều lo lắng về tốc độ tiến quân chậm chạp của lữ đoàn, và hiện giờ việc thiếu phương tiện liên lạc trầm trọng đã làm tê liệt mọi nỗ lực chỉ huy của họ. Lathbury hoàn toàn không nắm được tiểu đoàn 1 và cũng chỉ có liên lạc chập chờn với Frost. Có vẻ cả hai chỉ huy tiểu đoàn cũng chỉ có thể chỉ huy chiến đấu ở chính nơi họ tình cờ có mặt. Lúc này, mối bận tâm của Lathbury là tìm cách đưa tiểu đoàn 3 ra khỏi khu ngã tư, vòng qua khu rừng lân cận để tiếp tục tiến lên. Urquhart quyết định cố gắng liên lạc về sư đoàn bằng radio trên chiếc jeep của ông. Trong lúc ông tiến lại chiếc xe, viên sư đoàn trưởng thấy nó bị trúng đạn cối, người hiệu thính viên bị thương nặng. Cho dù chiếc radio có vẻ không bị hư hại, Urquhart cũng không thể liên lạc được về sở chỉ huy. "Tôi rủa thầm mạng lưới liên lạc khốn kiếp," Urquhart viết trong hồi ký. "Lathbury khuyên tôi không nên cố tìm cách quay về sở chỉ huy. Lúc này quân địch đã có mặt khắp nơi giữa chúng tôi và khu đổ quân... Tôi nghĩ ông ta có lý... và tôi ở lại. Nhưng chính vào lúc này tôi ý thức được tôi đang mất sự kiểm soát tình hình".
  7. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Binh lính thuộc tiểu đoàn 1 và 3 bị cuốn vào những cuộc đấu súng dữ dội liên tục. Những đơn vị Waffen SS dày dạn kinh nghiệm và kiên cường, ít hơn về số lượng nhưng được xe half track, xe tăng và pháo binh hỗ trợ, đã khiến cuộc hành quân của người Anh tại hai tuyến đường phía bắc chững lại về mức rùa bò. Trong sự hỗn độn, binh lính bị tách khỏi sĩ quan chỉ huy của mình, thậm chí lạc đơn vị khi các đại đội bị xé lẻ tản mát trong các khu rừng hay chiến đấu dọc đường, trong các khu vườn hay quanh từng ngôi nhà. Những con quỷ đỏ đã phục hồi lại sau cú sốc ngạc nhiên đầu tiên trước sức mạnh của thiết giáp Đức, và cho dù tổn thất nặng nhưng từng người một hay thành từng nhóm nhỏ, họ đang giáng trả quân địch những đòn quyết liệt. Dù vậy, có rất ít khả năng tiểu đoàn 1 và 3 có thể tới được mục tiêu tại Arnhem như kế hoạch dự định. Giờ đây tất cả phụ thuộc vào tiểu đoàn 2 của trung tá John Frost, vẫn đang tiến khẩn trương theo con đường gần sông Rhine hạ, con đường nhỏ mà quân Đức đã bỏ qua không phòng ngự.
    Cho dù tiểu đoàn của Frost đã vài lần bị chững lại vì đụng độ với quân địch, ông đã không cho người của mình tản ra hay triển khai đội hình chiến đấu. Đại đội A mũi nhọn của ông, do thiếu tá Digby Tatham-Warter chỉ huy khẩn trương tiến lên, để mặc những đơn vị quấy rối của kẻ địch cho các phân đội đi sau giải quyết. Trong số tù binh bị đơn vị mũi nhọn bắt, Frost được biết một đại đội SS có lẽ đang chặn con đường tiến vào Arnhem từ phía tây. Sử dụng những phương tiện chuyên chở chiếm được cũng như những chiếc jeep của họ để trinh sát phía trước và hai bên sườn đội hình, tiểu đoàn liên tục tiến gấp. Khoảng sau 6 giờ chiều một chút, mục tiêu đầu tiên của Frost, chiếc cầu đường sắt qua sông Rhine hạ nằm chếch về phía đông nam Oosterbeek, xuất hiện trong tầm nhìn. Theo kế hoạch, đại đội C của thiếu tá Victor Dover tách khỏi đội hình hướng tới sông. Cây cầu có vẻ vắng lặng không ai bảo vệ khi họ tiếp cận. Trung úy Peter Barry, 21 tuổi, được lệnh đưa trung đội của mình vượt cầu. "Tất cả im ắng khi chúng tôi bắt đầu tiến lên," Barry nhớ lại. "Khi chúng tôi vượt qua các cánh đồng tôi nhìn thấy gia súc chết nằm khắp nơi". Trung đội của Barry còn cách cầu 300 yard thì anh nhìn thấy "một tên Đức chạy lên cầu từ phía đầu bên kia. Hắn ra giữa cầu, quỳ xuống, và bắt đầu làm gì đó. Ngay lập tức, tôi ra lệnh cho một tiểu đội nổ súng và tiểu đội thứ hai lao lên cầu. Lúc này, tên Đức đã biến mất".
    Barry nhớ lại họ "tiến lên cầu và bắt đầu chạy nhanh nhất có thể qua cầu. Thế rồi đột nhiên, một tiếng nổ rung trời chuyển đất vang lên và cây cầu nổ tung trước mắt chúng tôi". Đại úy Eric Mackay thuộc công binh hoàng gia cảm thấy mặt đất chấn động do vụ nổ. "Một quầng lửa màu vàng cam bùng lên rồi khói đen trùm lên cây cầu. Tôi nghĩ nhịp cầu thứ hai kể từ bờ bắc đã bị phá hủy", Mackay kể lại. Trên cầu, chìm dưới làn khói, trung úy Barry lệnh cho người của mình rời cây cầu đổ nát quay trở lại bờ bắc. Khi trung đội bắt đầu di chuyển, quân Đức nấp bên kia sông bắt đầu nổ súng. Barry bị trúng đạn vào chân và tay, hai người khác cũng bị thương. Quan sát những người lính đi xuyên qua lửa và khói quay trở lại, Mackay, người đã luôn lo ngại về chiến dịch từ lúc bắt đầu, nhớ lại lúc đó đã nghĩ, "Thế là mục tiêu số 1 đi tong". Trung tá Frost tỏ ra triết lý hơn. "Tôi biết một trong ba cây cầu đã bị phá hủy, nhưng đây là cây cầu ít quan trọng nhất. Lúc đó tôi đã không nhận ra đây là bất lợi lớn đến thế nào". Lúc đó là 6 giờ 30 chiều và vẫn còn hai cây cầu nữa cần phải chiếm.
    Các kỹ sư của sư đoàn Hohenstaufen đã phải mất 5 giờ để lắp trở lại các xe tăng, half track và xe bọc thép chở quân mà Harzer định đưa về Đức. Viên đại úy mới được gắn huy chương Paul Grabner, khi tiểu đoàn trinh sát gồm 40 xe của mình đã sẵn sàng, liền lên đường rời trại Hoenderloo ở phía bắc Arnhem và tiến gấp về phía nam. Harzer đã lệnh cho viên đại úy phải tuần tiễu toàn khu vực giữa Arnhem và Nijmegen để đánh giá quy mô lực lượng đổ bộ đường không Đồng Minh có mặt trong vùng này. Grabner tiến gấp qua Arnhem, và qua radio báo cáo sở chỉ huy sư đoàn Hohenstaufen rằng thành phố hoàn toàn vắng lặng. Không có dấu hiệu nào của quân địch. Lúc gần 7 giờ tối đơn vị của Grabner đi qua cây cầu xa lộ lớn tại Arnhem. Đi qua đầu cầu phía nam 1 dặm, Grabner dừng xe lại để báo cáo,
    "Không phát hiện quân địch. Không có lính dù". Hết dặm này tới dặm khác, những chiếc xe bọc thép hạng nhẹ của anh ta chậm rãi tuần tiễu cả hai bên xa lộ, và báo cáo radio của Grabner luôn thông báo như vậy. Cho tới tận Nijmegen cũng không có gì thay đổi. Theo lệnh từ sở chỉ huy sư đoàn, Grabner có nhiệm vụ tuần tiễu xa hơn ra vùng ngoại ô Nijmegen rồi quay lại sở chỉ huy.
    Đơn vị của Grabner và các đơn vị tiền đội thuộc tiểu đoàn 2 của Frost đã lệch nhau chừng 1 giờ. Grabner vừa rời khỏi Arnhem thì người của Frost đã xâm nhập thành phố và bí mật tiếp cận các mục tiêu còn lại của họ. Thật khó giải thích, cho dù đã có chỉ dẫn rất cụ thể của tướng Bittrich, Harzer đã hoàn toàn bỏ qua việc bảo vệ cầu Arnhem.
    Trời đã tối khi trung tá Frost lệnh cho tiểu đoàn tiến gấp hơn tới mục tiêu tiếp theo, cây cầu phao nằm cách cầu Arnhem chừng 1 dặm về phía tây. Đại đội A của thiếu tá Digby Tatham-Warter, vẫn dẫn đầu đội hình, một lần nữa bị chững lại trên cao điểm ở ngoại ô phía tây Arnhem. Xe bọc thép và súng máy của quân địch đã khiến họ phải dạt khỏi đường cái vòng qua vườn của những ngôi nhà ven đường. Đến nơi sau đó, Frost trông thấy 10 tù binh Đức được canh gác bởi một người lính duy nhất của đại đội A và, như sau này ông có viết, "cú đánh vòng qua vườn của Digby đã hoàn toàn thành công và đại đội lại có thể tiến lên". Frost quay lại với tiểu đoàn. Trong bóng tối, những luồng đạn chốc chốc lại lao qua đường nhưng khi những người lính dù tiến lên, họ đi qua xác xe cháy cùng lính Đức chết và bị thương - bằng chứng hùng hồn, theo Frost, cho thấy "tiến triển thuận lợi của Digby".
    Tiến gấp qua các con phố của Arnhem, tiểu đoàn tới được cầu phao và phải chứng kiến thất bại thứ hai của mình. Nhịp giữa của chiếc cầu phao đã bị tháo đi khiến nó trở nên vô dụng. Trong lúc đại úy Mackay đứng nhìn chiếc cầu phao vô tích sự, anh cả quyết "đây là một kế hoạch được ăn cả ngã về không điển hình. Tôi lập tức nghĩ, "Giờ thì chúng ta cần phải chiếm được cái cầu chết tiệt còn lại". Anh lập tức lên đường. Chỉ cách đó chưa đầy một dặm, những nhịp cầu bê tông và thép hiện lên trong ánh sáng đang tắt hẳn.
    Trên tuyến Hổ của tiểu đoàn 3, vừa đi vừa dừng về hướng Arnhem, tướng Urquhart hiểu rõ ông đã bị mắc kẹt. Trong màn đêm đang sập xuống, với các toán quân địch không ngừng ngăn cản cuộc hành quân, ông không thể quay về sở chỉ huy sư đoàn được nữa. Ông cảm thấy lo lắng. "Vừa đi tôi vừa ước gì biết được tình hình tại những nơi khác hiện ra sao". Ngay trước khi trời tối, Urquhart được biết đại đội dẫn đầu tiểu đoàn 3 đã tiến tới ngoại ô Oosterbeek "gần một nơi gọi là khách sạn Hartenstein. ...Chúng tôi tiến rất chậm," Urquhart viết lại trong hồi ký, "và Lathbury, sau khi thảo luận với tiểu đoàn trưởng Fitch đã hạ lệnh dừng lại".
    Trong một ngôi nhà lớn gần đường, Urquhart và Lathbury chuẩn bị nghỉ qua đêm. Chủ nhà, một người Hà Lan trung niên tầm thước, gạt sang bên những lời xin lỗi của viên tướng vì sự bất tiện ông gây ra cho hai vợ chồng chủ nhà, rồi thu xếp cho hai người sĩ quan một căn phòng tầng trệt nhìn ra đường lớn. Urquhart rất bồn chồn và không tài nào ngủ được. "Tôi liên tục kiểm tra xem có thiết lập được liên lạc với Gough hay Frost không, nhưng chẳng có gì, cho dù từ sở chỉ huy của tôi hay từ các nơi khác".
    Cây cầu lớn hiện ra phía trước. Bộ khung cầu đã là cả một kiến trúc khổng lồ, với đường chạy qua bên trong và bên dưới dọc theo bờ sông từ tây sang đông. Ở hai đầu cầu mái nhà dân và các xưởng máy cao gần như ngang với mặt cầu. Trong bóng tối, các đường lên cầu và những nhịp cầu uốn cong bắc qua sông Rhine trông thật đồ sộ và ấn tượng. Đây mục tiêu chính - bản lề cho kế hoạch mạo hiểm của Montgomery - và để tiếp cận nó đơn vị của Frost đã phải chiến đấu trong hành tiến gần 7 giờ liền.
    Lúc này, khi bộ phận tiền đội của tiểu đoàn 2 tiếp cận cầu, trung úy Robin Vlasto, chỉ huy một trong các trung đội của đại đội A, cảm thấy choáng ngợp "trước chiều cao không thể tin nổi của nó". Vlaston nhận thấy "có lô cốt ở hai đầu cầu, và ngay cả khi trông có vẻ hoàn toàn vắng vẻ, những chiếc lô cốt trông thật đe dọa". Trong bóng tối đại đội A lặng lẽ chiếm lĩnh vị trí dưới những rầm cầu lớn ở đầu cầu phía bắc. Phía trên đầu họ là tiếng xe cộ đi lại.
    Đại úy Eric Mackay thuộc công binh hoàng gia, tiếp cận cầu qua một loạt con phố đan như bàn cờ, đến một quảng trường nhỏ yên ắng dẫn thẳng tới trụ cầu. Anh nhớ rằng "sự yên lặng khi chúng tôi tiến qua các phố thật nặng nề, và khắp xung quanh chúng tôi dường như chỗ nào cũng có những chuyển động nhẹ. Mọi người bắt đầu cảm thấy căng thẳng, và tôi muốn chiếm cầu càng nhanh càng tốt". Bất ngờ màn đêm bị xé toang bởi đạn quân Đức bắn ra từ một con đường hẻm. Một chiếc xe kéo chở bộc phá của công binh nổ tung, ánh lửa khiến tất cả mọi người bị soi sáng rõ mồn một. Ngay lập tức, Mackay ra lệnh cho tất cả mọi người đem theo trang bị băng qua quảng trưởng. Họ chạy nhanh qua bất chấp làn đạn của quân Đức. Chỉ sau vài phút, không mất một người, họ đã tới cầu. Quan sát địa hình quanh đầu cầu phía bắc, Mackay nhìn thấy bốn ngôi nhà ở phía đông. "Một ngôi nhà trong số đó là trưởng học nằm ở góc ngã tư", anh nhớ lại. "Tôi nghĩ ai giữ những ngôi nhà đó sẽ kiểm soát cầu". Mackay lập tức lệnh cho công binh của mình đi vào trong trường.
  8. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Sau 8 giờ tối một chút, trung tá Frost và sở chỉ huy tiểu đoàn tới nơi. Frost phái đại đội B của thiếu tá Douglas Crawley lên cao điểm nằm bên kia đường sắt, đem theo súng chống tăng để bảo vệ sườn trái của tiểu đoàn, giúp đại đội A được tự do tiến thẳng tới cầu. Đại đội C của thiếu tá Dover, được lệnh đi theo các đơn vị tiền tiêu vào thành phố và chiếm sở chỉ huy Đức. Lúc này, có mặt ngay gần cây cầu, Frost không thể liên lạc với bất cứ đại đội nào qua radio. Ông lập tức phái liên lạc viên đi xác định địa điểm của các đại đội.
    Quyết định không chờ đợi, Frost lệnh cho đại đội A chiếm cầu. Khi những người lính dù bắt đầu băng qua, quân Đức đột ngột bừng dậy. Những người lính dù bị chụp vào lưới lửa từ lô cốt ở đầu bắc và một chiếc xe bọc thép đỗ ở đầu nam cầu. Một trung đội, được công binh của Eric Mackay mang theo súng phun lửa trợ chiến, bắt đầu tiến theo nóc những ngôi nhà nằm cao ngang mặt cầu. Đồng thời, trung đội của trung úy Vlaston cũng men theo các tầng trệt và tầng hầm để tiến lên, tiến từ nhà nọ sang nhà kia cho đến khi tới vị trí của Mackay. Họ tấn công lô cốt. Khi súng phun lửa bắt đầu hành động, Frost nhớ lại "cứ như thể lửa từ địa ngục phun lên". Bầu trời sáng rực, ầm vang tiếng súng máy, tiếng nổ, tiếng vũ khí đạn dược cháy và tiếng đầu nòng của một khẩu đại bác. Một tòa nhà gỗ gần đó cháy bùng, có tiếng kêu kinh hãi vang lên". Cũng lúc đó, Frost có thể nghe thấy tiếng những quả đạn Piat của Vlaston bắn vào lô cốt. Bất thình lình, trận đánh dữ dội chấm dứt. Súng trong lô cốt im bặt và qua ánh lửa, Frost nhìn thấy lính Đức loạng choạng đi về phía người của ông. Đại đội A đã khai thông đầu cầu phía bắc và kiểm soát được nó. Nhưng lúc này, lửa và vũ khí bắt lửa đang nổ khiến việc băng qua chiếm đầu cầu phía nam chẳng khác nào tự sát. Chỉ cần sớm hơn nửa giờ, Frost đã có thể thành công. Nhưng lúc này, ở phía bờ nam, một đơn vị lính tùng thiết SS đã chiếm lĩnh vị trí.
    Frost cố gắng liên lạc với thiếu tá Crawley thêm lần nữa. Ông muốn tìm vị trí có thuyền hay bè để đại đội C sử dụng vượt sông tấn công quân Đức ở đầu cầu phía nam. Một lần nữa, liên lạc radio gián đoạn. Tệ hơn nữa, các liên lạc viên phái đi không thể tìm thấy đại đội; và họ báo cáo không trông thấy một chiếc thuyền nào cả. Còn về đại đội C, toán quân cử đi bắt liên lạc với đơn vị này bị chặn đứng và đang giao chiến ác liệt gần sở chỉ huy Đức.
    Những người lính của Frost bồn chồn nhìn qua cây cầu Arnhem. Lực lượng Đức trấn giữ đầu cầu phía nam mạnh đến đâu? Ngay cả lúc này, đại đội A vẫn tin rằng có thể chiếm được đầu cầu phía nam bằng tấn công bất ngờ qua sông, nếu tìm được đủ người và thuyền. Nhưng cơ hội đó đã trôi qua. Một trong những điều trớ trêu mỉa mai nhất của trận chiến Arnhem là việc đã có thể dễ dàng vượt qua sông Rhine hạ ngay trong giờ đầu tiên sau khi đổ quân. Cách đó chính xác 7 dặm về phía tây, tại làng Hevedorp - mà tiểu đoàn của Frost đã hành quân ngang qua trên đường tới các mục tiêu của họ - có một chiếc phà lớn kéo bằng cáp có thể vận chuyển khách bộ hành và xe cộ, chiếc phà đó đã hoạt động bình thường suốt cả ngày trên lộ trình qua sông Rhine hạ giữa Hevedorp bên bờ bắc và Driel bên bờ nam. Frost không biết gì về chiếc phà nói trên. Thậm chí nó còn không được liệt kê đến trong danh sách mục tiêu của Urquhart. Trong việc chuẩn bị gấp gáp của chiến dịch Market Garden một chìa khóa quan trọng cho việc chiếm cây cầu Arnhem - chiếc phà tại Driel - đã hoàn toàn bị bỏ qua.
    Trung tá Frost cũng không làm được gì hơn tối hôm đó, ngoài việc cho canh phòng đầu cầu phía bắc đề phòng quân địch phản công từ phía nam. Ông vẫn chưa liên lạc được với các đại đội lạc đường của tiểu đoàn mình và lúc này, trong một ngôi nhà nhìn xuống cây cầu, Frost thiết lập sở chỉ huy của tiểu đoàn. Thượng sĩ Harold Back thuộc bộ phận giải mã tiểu đoàn 2 nhớ rằng từ cửa sổ phía trước của ngôi nhà, những người tại sở chỉ huy có thể quan sát được mặt cầu. "Cửa sổ của căn phòng cho chúng tôi tầm nhìn trực tiếp của chính cây cầu," Back nói. "Hiệu thính viên của chúng tôi dựng anten lên nóc nhà và di chuyển hướng thường xuyên, nhưng chẳng liên lạc được với ai cả".
    Ít lâu sau, sở chỉ huy lữ đoàn cũng tới nơi và đóng tại tầng mái một ngôi nhà gần ngôi nhà của Frost. Sau khi thảo luận với các sĩ quan dưới quyền, Frost nghĩ chắc chắn các tiểu đoàn 1 và 3 đang bị kìm chân trên các tuyến Hổ và Báo hoặc đang giao chiến ở phía bắc cầu đâu đó trong thành phố Arnhem. Không thiết lập được liên lạc, không thể biết rõ chuyện gì đang xảy ra. Nhưng nếu hai tiểu đoàn này không tới được Arnhem trong đêm, quân Đức sẽ có thêm thời gian quý báu để khép chặt khu vực giữa Frost với phần còn lại của sư đoàn. Thêm vào đó, Frost còn lo rằng cây cầu vẫn có thể bị phá hủy. Theo ý kiến của công binh, sức nóng từ đám cháy đã làm hỏng hết mọi được dây điện dẫn từ cầu vào thành phố, và tất cả những đường cáp phát hiện được đều đã bị công binh xung kích phá hủy. Tuy vậy, không ai biết liệu còn đường cáp nào được dấu kín đâu đó hay không. Và, như Frost nhớ lại, " những đám cháy đã khiến chẳng ai có thể tiếp cận cầu để gỡ bộc phá cài trên đó nếu có".
    Nhưng đầu cầu phía bắc đã nằm trong tay Frost và ông cũng như những người lính can đảm của mình không hề có ý buông xuôi. Cho dù lo lắng về những đại đội thất lạc và phần còn lại của sư đoàn không liên lạc được, ông không để lộ ra ngoài. Đến thăm các trung đội đang đóng rải ra trong vài ngôi nhà gần cầu, viên trung tá thấy binh lính của mình "đang rất phấn chấn, như họ hoàn toàn có lý do để cảm thấy". Như binh nhì James Sims nhớ lại, "Chúng tôi cảm thấy rất hài lòng về mình, trong khi trung tá pha trò và hỏi han tình hình của chúng tôi".
    Tại sở chỉ huy tiểu đoàn, Frost ngồi xuống nghỉ ngơi lần đầu tiên trong ngày. Uống một cốc trà lớn, ông thầm nghĩ dù sao thì tình hình cũng không quá tệ."Chúng tôi đã đi qua tám dặm địa hình phức tạp, để chiếm mục tiêu của mình trong vòng 7 giờ sau khi đổ bộ xuống Hà Lan... một chiến công đáng tự hào". Cho dù bồn chồn, Frost, cũng như người của mình, vẫn lạc quan. Lúc này ông có trong tay một lực lượng chừng 500 người thuộc nhiều đơn vị, và ông tin tưởng các đại đội thất lạc sẽ hội quân với ông tại cầu. Dù sao đi nữa, ông cũng sẽ chỉ phải giữ tối đa thêm 48 giờ - cho đến khi quân đoàn 30 của tướng Horrock tới nơi.
    Từ Berlin cho tới mặt trận phía tây, chỉ huy cao cấp của Đức choáng váng trước cuộc tấn công bất ngờ của Đồng minh. Chỉ có tại Arnhem, nơi sư đoàn đổ bộ số 1 của Anh đã gần như nhảy xuống đầu 2 sư đoàn panzer của tướng Bittrich, là sự phản ứng diễn ra mau lẹ và quyết liệt. Tại những nơi khác, những viên tư lệnh lúng túng và ngỡ ngàng cố tìm cách xác định xem liệu những sự kiện bất ngờ của ngày 17/9 có thực sự là màn mở đầu cho cuộc xâm lược đế quốc hay không. Người ta đã dự kiến một cuộc tấn công trên bộ của quân Anh từ Bỉ. Tất cả lực lượng dự bị thu thập được, gồm cả đạo quân 15 của tướng Von Zangen, tơi tả đến mức binh lính chẳng còn gì hơn ngoài khẩu súng cầm theo bên mình, đều đã được tung ra chiếm lĩnh các vị trí để đối phó với nguy cơ này. Chiến hào được đào, các cứ điểm chiến lược được củng cố trong một nỗ lực tột cùng nhằm buộc người Anh phải trả giá đắt cho mỗi bước tiến.
    Không ai lường trước việc lực lượng đổ bộ đường không sẽ được sử dụng đồng thời với cuộc tấn công mặt đất của quân Anh. Liệu cuộc tấn công đường không này có phải là màn mào đầu cho cuộc đổ bộ đường biển lên Hà Lan như Berlin e ngại không? Suốt đêm, trong lúc các sĩ quan tham mưu cố gắng phân tích tình hình, báo cáo về những cuộc tấn công đổ bộ đường không khác làm bức tranh chiến sự thêm rắc rối. Lính dù Mỹ, với số lượng chưa rõ và đơn vị chưa xác định được, đang có mặt ở khu vực Eindhoven - Nijmegen; sư đoàn đổ bộ số 1 của Anh chắc chắn đã đổ quân xuống xung quanh Arnhem. Nhưng giờ đây những báo cáo mới lại nói tới quân dù ở lân cận Utrecht, và cả một báo cáo hoàn toàn vô căn cứ về việc lực lượng đổ bộ đường không đổ quân xuống Warsaw ở Ba Lan.
  9. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Tại sở chỉ huy của thống chế Gerd von Runstedt ở Koblenz, phản ứng chung là ngạc nhiên. Von Runstedt không ngạc nhiên về cuộc tấn công bằng về người, như ông lý luận, sẽ chỉ huy nó - Montgomery. Đầu tiên, Von Runstedt nghi ngờ rằng những chiến dịch bất ngờ và rõ ràng là có phối hợp giữa lực lượng đổ bộ đường không và lực lượng mặt đất là màn mở đầu cho chiến dịch tấn công đế chế của Eisenhower. Viên thống chế đã từ lâu đoan chắc rằng Patton và đạo quân Mỹ số 3 đang hướng tới Saar là mối nguy hiểm thực sự. Để chống lại mối nguy cơ đó, Von Runstedt đã tung ra lực lượng tốt nhất của mình để đẩy bật các đơn vị thiết giáp đang hành tiến của Patton. Giờ đây người lính danh tiếng nhất nước Đức trở nên mất phương hướng trong chốc lát. Chưa bao giờ ông lường tới khả năng cuộc đột kích chính của Eisenhower lại được chỉ huy bởi Montgomery, người ông luôn nhìn nhận là "quá cẩn trọng, nguyên tắc và hành động theo thói quen". Ông thực sự bối rối trước sự táo bạo của đòn tấn công Montgomery tung ra. Những báo cáo tới tấp đến từ sở chỉ huy của Model với giọng điệu hoảng hốt đã minh chứng rõ ràng sự bất ngờ và nghiêm trọng của cuộc tấn công: "Chúng ta cần lường tới khả năng nhiều đợt đổ quân sẽ được thực hiện trong đêm... Quân địch tin tưởng rằng cuộc tấn công của chúng có tầm quan trọng chiến lược và người Anh đã đạt được thành công ban đầu đáng kể trước Student và đột kích tới Valkenswaard... vị trí của ta ở đây đặc biệt nguy kịch... việc thiếu lực lượng dự bị mạnh, cơ động cao càng làm tăng khó khăn của chúng tôi... tình hình chung của cụm quân B, hiện đã bị căng ra đến cực độ, là rất khẩn cấp... chúng tôi yêu cầu, càng nhanh càng tốt, lực lượng panzer, pháo binh, súng chống tăng hạng nặng, các đơn vị phòng không, và nhất thiết chúng ta phải có máy bay tiêm kích trực chiến trên không cả ngày lẫn đêm..."Model kết thúc như sau: ..." lực lượng Đồng minh tập trung chủ yếu vào cánh bắc phòng tuyến của chúng ta". Đây là một trong số hiếm hoi lần Von Runstedt tôn trọng quan điểm của viên sĩ quan mà ông đã từng mỉa mai ám chỉ là có tướng của một viên thượng sĩ mẫn cán. Trong phần báo cáo đó của mình, Model đã xóa đi chút nghi ngờ cuối cùng của Von Runstedt về danh tính người chịu trách nhiệm cho động thái bất ngờ này. "Cánh bắc" của cụm quân B chính là Montgomery.
    Trong đêm không thể ước lượng được sức mạnh của lực lượng đổ bộ Đồng minh tại Hà Lan, nhưng Von Runstedt tin rằng sẽ có thêm những đợt đổ quân mới. Lúc này cần phải không những trám kín những lỗ hở trên chiến tuyến Đức mà còn cần tìm thêm viện binh cho cụm quân B của Model. Một lần nữa, Von Runstedt buộc phải đánh liều. Từ sở chỉ huy của ông, mệnh lệnh truyền đi để di chuyển một số đơn vị từ vị trí của họ án ngữ trước mặt quân Mỹ tại Aachen. Việc điều động này rất mạo hiểm nhưng cần thiết. Những đơn vị trên sẽ vận động lên phía bắc ngay lập tức, và để họ tới được chiến tuyến cần ít nhất 48 giờ nữa. Von Runstedt ra thêm các mệnh lệnh khác tới những khu vực phòng ngự dọc biên giới tây bắc Đức, huy động tất cả các đơn vị thiết giáp và phòng không sẵn có tới Hà Lan, nơi viên thống chế lúc này hoàn toàn đoan chắc là đang ẩn chứa nguy hiểm cho đế chế. Trong lúc làm việc hối hả trong đêm để củng cố hình thái phòng ngự của mình, viên hiệp sĩ chữ thập sắt chợt nghĩ ngợi tới sự lạ lùng của tình hình. Ông vẫn chưa hết bàng hoàng rằng viên sĩ quan chỉ huy cuộc tấn công quy mô lớn của Đồng minh lại là Montgomery.
    Đêm đã khuya khi chiếc xe chở tướng Wilhem Bittrich từ sở chỉ huy của ông từ Doetinchem tới tiến vào những con phố tối tăm của Arnhem. Bittrich quyết định tự đi thị sát tình hình. Trong lúc ông đi luồn lách qua thành phố, lửa vẫn cháy và những mảnh vỡ văng rải rác trên đường - kết quả của cuộc không kích lúc sáng. Thi thể binh sĩ tử trận cùng xác xe cộ nằm rải ra nhiều nơi là bằng chứng cho thấy, như Bittrich sau này có nói, "những cuộc giao chiến ác liệt đã xảy ra". Thế nhưng ông ta vẫn chưa hình dung được rõ ràng những gì đang xảy ra. Quay về sở chỉ huy, Bittrich được biết từ báo cáo thu thập được từ hai nữ điện thoại viên tại bưu điện Arnhem - những người này sau đó ông ta đã tặng huân chương chữ thập sắt - rằng cây cầu lớn trên xa lộ đã bị lính dù Anh khống chế. Bittrich nổi cơn thịnh nộ. Mệnh lệnh đặc biệt của ông ta cho Harzer bảo vệ cầu đã không được thực hiện. Giờ thì điều cần kíp là bảo vệ chặt chẽ cây cầu tại Nijmegen qua sông Waal trước khi quân Mỹ ở phía nam chiếm được nó. Cơ hội thành công duy nhất của Bittrich là cố gắng đè bẹp cuộc tập kích của quân Đồng minh trên dọc hành lang và cầm chân quân Anh tại Arnhem. Lực lượng dù đối phương lúc này đang chiếm được đầu bắc cây cầu tại Arnhem cũng như những tiểu đoàn bị xé lẻ vẫn cố gắng tới hội quân với lực lượng này phải bị tiêu diệt.
    Cuối cùng thì kế hoạch tuyệt mật của chiến dịch Market Garden rơi vào tay đại tướng Kurt Student cũng tới được sở chỉ huy mới của thống chế Model. Ông ta đã rời bỏ ngôi nhà của người làm vườn tại lâu đài Doetinchem và chuyển đi cách đó 5 dặm về hướng tây nam, gần ngôi làng nhỏ Terborg. Student đã mất gần 10 tiếng đồng hồ mới tìm được viên thống chế và báo cáo tài liệu này qua radio. Được mã hóa và chuyển đến thành 3 phần, giờ đây toàn bộ Market Garden đã bị bộc lộ.
    Model và ban tham mưu nghiên cứu chăm chú tài liệu này. Trước mắt họ là toàn bộ kế hoạch của Montgomery: tên của các sư đoàn đổ bộ sử dụng, thời gian biểu cho các chuyến bay đổ quân và tiếp tế trong thời gian 3 ngày, vị trí chính xác của các bãi nhảy dù và đáp tàu lượn, những cây cầu mục tiêu chính - kể cả hành lang bay của các máy bay tham chiến. Model, như sau đó Harzer được nghe từ chính ông này, gọi kế hoạch này là "hoang tưởng". Đến mức mà trong những giờ phút quan trọng đó Model đã không muốn tin vào nó.
    Kế hoạch này quá chi tiết, cụ thể để có thể tin là thực. Model nói với ban tham mưu rằng chính sự chính xác của tài liệu này khiến người ta khó bị thuyết phục về tính xác thực của nó. Ông ta nhấn mạnh lại lần nữa quan điểm của mình rằng cuộc đổ quân xuống phía tây Arnhem là mũi nhọn cho một cuộc tấn công đổ bộ đường không quy mô lớn hướng tới Ruhr, qua Bocholt và Munster, nằm 40 dặm về phía đông. Cần đề phòng những cuộc đổ bộ nữa, ông cảnh báo, và lực lượng này một khi tập hợp lại hẳn sẽ tiến lên phía bắc rồi ngoặt sang phía tây. Lý luận của Model không phải là vô căn cứ. Như ông ta nói với ban tham mưu của mình, "Nếu chúng ta tin vào bản kế hoạch này và phỏng đoán rằng cây cầu Arnhem là mục tiêu thực sự, tại sao lực lượng dù lại không đổ bộ trực tiếp xuống cầu. Tại đây, quân địch đã đổ xuống những khu vực trống trải rải trên diện tích rộng phù hợp cho việc tập hợp lực lượng, và hơn nữa, lại cách cầu 8 dặm về phía tây".
    Model đã không thông báo cho tướng Bittrich về tài liệu này. "Tôi không hề biết cho tới tận sau chiến tranh,"Bittrich nói, "rằng kế hoạch của Market Garden đã rơi vào tay chúng tôi. Tôi không rõ tại sao Model không cho tôi biết. Dù sao đi nữa, kế hoạch đó cũng sẽ chỉ khẳng định lại quan điểm của tôi rằng điều quan trọng cần làm là phải ngăn chặn việc hội quân giữa lực lượng đổ bộ và đạo quân Anh số 2 - mà để làm được điều đó, đối phương chắc chắn cần đến những cây cầu. Một sĩ quan dưới quyền Bittrich lại biết đến tài liệu nọ. Trung tá Harzer có vẻ là sĩ quan duy nhất ngoài ban tham mưu của viên thống chế được Model cho biết về kế hoạch bắt được. Harzer nhớ lại rằng "Model luôn chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất, vì thế ông không hoàn toàn bỏ qua bản kế hoạch. Như ông nói với tôi, ông hề có ý định để đám lính trọc đầu của đối phương tóm được". Chỉ có thời gian mới có thể nói cho người Đức liệu bản tài liệu đó có là thật hay không. Cho dù viên thống chế định kiến vẫn chưa được chuẩn bị sẵn sàng để chấp nhận bằng chứng đang bày ra trước mặt ông ta, thì phần lớn ban tham mưu của ông đều bị ấn tượng. Với kế hoạch của Market Garden nằm trong tay mình, sở chỉ huy của Model báo động tất cả các đơn vị phòng không đang triển khai về những đợt đổ quân mới mà theo kế hoạch sẽ xảy ra sau vài giờ nữa. Cả OB West cũng không được thông báo về việc thu được bản kế hoạch của Market Garden, ngay cả báo cáo của Model cho Von Runstedt cũng chẳng đả động đến việc này. Vì một số lý do nào đó Model đã coi nhẹ bản kế hoạch và không chuyển lên cấp trên.
    Ít nhất cũng có một nghi ngờ được loại trừ. Trung uý Gustav Sedelhauser, sĩ quan hành chính của sở chỉ huy, nhớ lại rằng theo nội dung của bản kế hoạch thu được, Model giờ đây tin rằng ông ta và sở chỉ huy tại Oosterbeek đã không bao giờ là mục tiêu tấn công của lực lượng đổ bộ đường không.
  10. allah_akbar

    allah_akbar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2004
    Bài viết:
    343
    Đã được thích:
    0
    Đúng vào lúc trung tá John Frost đang củng cố vị trí tại đầu cầu phía bắc ở Arnhem, cuộc tiếp cận thận trọng tới một mục tiêu sống còn khác cách đó 11 dặm mới chỉ bắt đầu. Cây cầu năm nhịp bắc qua sông Waal tại Nijmegen nằm trên đoạn giữa hành lang chiến dịch do sư đoàn 82 đảm trách là điểm vượt sông cuối cùng mà xe tăng quân đoàn 30 của tướng Horrock phải vượt qua trên đường tới Arnhem.
    Với thành công ngoạn mục, lính dù trung đoàn 504 của chuẩn tướng James M.Gavin đã chiếm được cây cầu quan trọng tại Grave cách Nijmegen 8 dặm về tây nam; và, vào lúc 7h30 tối, các đơn vị thuộc các trung đoàn 504 và 505 đã làm chủ một điểm vượt kênh đào Maas-Waal tại làng Heumen, cách Grave gần 5 dặm về phía đông. Hy vọng của Gavin muốn chiếm cả 3 điểm vượt sông cùng cây cầu đường sắt đã bị phá sản. Những cây cầu còn lại đã bị nổ tung hay phá hoại nghiêm trọng bởi quân Đức trước khi sư đoàn 82 kịp chiếm. Tuy vậy, 6 giờ sau khi đổ quân, lực lượng của Gavin đã mở thông được một con đường để lực lượng mặt đất của Anh có thể tiến qua. Thêm vào đó, các đội tuần tiễu của trung đoàn 505 lùng sục khu vực giữa khu đổ quân của sư đoàn 82 gần cao điểm Groesbeek và biên giới Đức đã chỉ gặp phải kháng cự yếu ớt; và, đến khi đêm xuống, một lực lượng khác của trung đoàn 508 đã khống chế một vạt rừng dài 3 dặm dọc biên giới Hà Lan - Đức ở phía bắc khu đổ bộ tại Groesbeek rồi ngoặt xuống ngoại ô phía đông nam Nijmegen. Lúc này, với ba trong số 4 mục tiêu chính đã được kiểm soát, mọi việc phụ thuộc vào việc đánh chiếm cây cầu đường bộ dài 1960 bộ tại Nijmegen.
    Mặc dù tướng Browning đã lệnh cho Gavin không được tấn công cây cầu tại Nijmegen cho đến khi cao điểm gần Groesbeek đã được khống chế, Gavin tự tin rằng tất cả mục tiêu của sư đoàn 82 có thể được chiếm hết trong ngày đầu tiên. Đánh giá tình hình 24 giờ trước khi đổ bộ, Gavin đã gọi đến gặp tư lệnh trung đoàn 508, đại tá Roy E.Lindquist, và lệnh cho ông ta điều 1 tiểu đoàn tiến thẳng tới cây cầu. Trong sự bất ngờ và hỗn loạn do cuộc tập kích đổ bộ gây ra, Gavin lý luận, cũng đáng thử canh bạc liều này. "Tôi đã nói kỹ càng với Lindquist về nguy hiểm nếu bị phục kích trong các khu phố", Gavin nhớ lại, "và chỉ ra rằng để tới cầu cần tiếp cận từ phía động thành phố, không đi qua các khu đông dân". Không rõ do hiểu lầm hay muốn làm khác chỉ thị ban đầu, Lindquist lại nhớ rằng ông ta được lệnh không cho người của mình tấn công cầu cho tới khi các mục tiêu khác của trung đoàn đã được chiếm giữ. Với tiểu đoàn 1 do trung tá Shields Warren Jr. chỉ huy, Lindquist chỉ định nhiệm vụ chiếm lĩnh các vị trí bảo vệ dọc theo xa lộ Groesbeek-Nijmegen cách thành phố khoảng 1 1/4 dặm về phía đông nam. Warren phải bảo vệ khu vực này và hội quân với hai tiểu đoàn còn lại của trung đoàn theo hướng tây và đông. Chỉ khi các nhiệm vụ này hoàn tất, Warren nhớ lại, ông ta mới được chuẩn bị tiến vào Nijmegen. Như vậy, thay vì tiếp cận cầu từ những khu đất canh tác bằng phẳng ở hướng đông, tiểu đoàn của Warren lại đi vào đúng giữa trung tâm khu vực dày đặc nhà cửa mà Gavin đã muốn tránh.
    Đêm đã buông xuống hẳn trước khi Warren tới được mục tiêu của mình. Lúc này, sau khi đã để mất nhiều thời gian quý báu, các đơn vị dẫn đầu đội hình bắt đầu vận động chậm chạp qua những con phố yên ắng, hầu như vắng tanh của Nijmegen. Mục tiêu chính là tiếp cận được bùng binh dẫn tới đầu cầu phía nam. Ngoài ra còn có một mục tiêu ngoài dự kiến. Lực lượng kháng chiến ngầm Hà Lan đã báo lại rằng thiết bị phát nổ dùng phá cầu được đặt tại trụ sở bưu điện chính. Thông tin quan trọng này tới được Warren chỉ sau khi họ đã bắt đầu vận động về phía cầu. Một trung đội lập tức được điều tới bưu điện, tại đó, sau khi đã khống chế được lính gác Đức, lính công binh cắt đứt dây điện và phá nổ tất cả những gì họ nghi là thiết bị kích nổ. Không ai biết rõ thiết bị này có thực sự nối với những khối bộc phá gài trên cầu không, nhưng lúc này ít nhất đường dây điện và các công tắc đã bị phá hủy. Khi trung đội này định quay về hội quân với lực lượng chính, họ phát hiện ra quân địch đã ở sát sau lưng. Họ bị cô lập và trong 3 ngày sau đó buộc phải cố thủ trong tòa nhà bưu điện cho tới khi tiếp viện tới.
    Trong lúc đó, khi lực lượng còn lại của Warren tiếp cận một công viên dẫn tới cầu, họ bất ngờ hứng chịu đạn súng máy và xe bọc thép bắn tới dữ dội. Đại úy Arie D.Bestebreurtje, sĩ quan Hà Lan phối thuộc sư đoàn 82, nhớ lại rằng "súng bất thần bắn thẳng vào chúng tôi, và tôi có thể nhìn thấy chớp lửa lóe lên sau những bụi cây. Quân địch có vẻ ở khắp xung quanh chúng tôi". Trước khi anh kịp nâng khẩu carbin của mình lên bắn, Bestebreurtje bị trúng đạn vào tay trái , khuỷu tay và ngón trỏ bàn tay phải. Với hạ sĩ James R.Blue, trận đánh bất ngờ nổ ra trên đường phố tối mò chẳng khác gì một cơn ác mộng. "Ngay lập tức chúng tôi rơi vào một trận cận chiến," Blue nhớ lại. Anh đang đi trên phố cùng binh nhất Ray Johnson, cả hai đều cầm súng trường M1 lắp lưỡi lê, khi họ đối mặt với lính SS. Khi Johnson định dùng lê hạ một tên Đức, Blue lao tới một tên sĩ quan với một con dao găm. "Lệnh cho chúng tôi là không được nổ súng. Nếu phải cận chiến chúng tôi có lệnh chỉ dùng dao và lưỡi lê". Nhưng,"Blue nhớ lại," những con dao dã chiến có vẻ ngắn quá, vậy là tôi dùng khẩu súng của tôi. Màn này lập tức được khép lại, nhưng gần như ngay lúc đó một khẩu pháo tự hành bắt đầu bắn về hướng chúng tôi và chúng tôi quay vào công viên rồi tập hợp lại với những người khác trong trung đội". Binh nhì James Allardyce nhớ lại nghe thấy ai đó gọi cứu thương ở phía trước, nhưng "đạn rít lên dọc theo phố và trong bóng tối mọi việc hỗn độn đến mức không ai biết những người khác đang ở đâu. Chúng tôi thiết lập một vành đai phòng ngự quanh một ngôi trường xây bằng gạch. Phía trước chúng tôi nghe thấy những giọng nói tiếng Đức và tiếng kêu gào rên rỉ của những người bị thương. Chúng tôi không thể tới được cầu. Cuối cùng bọn Jerry đã chặn đứng được chúng tôi". Đúng vậy, tiểu đoàn trinh sát của đại úy Paul Grabner, trước đó đã để xổng mất tiểu đoàn của Frost tại cầu Arnhem, đã đến Nijmegen sớm hơn nhiều so với những người Mỹ quá chậm trễ.
    Tới nửa đêm ngày đầu tiên của cuộc tấn công đổ bộ đường không lớn nhất trong lịch sử, lính đổ bộ Anh -Mỹ đang trên đường hành quân, hay chiến đấu, hướng tới các mục tiêu chính của họ. Trong những giờ dài hành quân và chiến đấu ác liệt với một kẻ thù mạnh và kiên cường ngoài dự kiến,họ đã chiếm được phần lớn các mục tiêu mà những người thiết kế chiến dịch đã trông đợi họ đánh chiếm một cách nhanh chóng và dễ dàng. Từ những người lính can đảm thuộc tiểu đoàn 2 của trung tá John Frost đang bám lấy đầu bắc cây cầu Arnhem, suốt dọc hành lang về phía nam cho tới nơi binh lính sư đoàn 101 của đại tá Robert Sink đang vật lộn để sửa lại cây cầu tại Son, tất cả mọi người đều chung một quyết tâm cao độ; họ cần giữ thông con đường qua đó xe tăng và bộ binh của đạo quân Anh số 2 sẽ tiến qua. Vào lúc nửa đêm này, họ tin chắc rằng viện binh đang trên đường hoặc rằng tiếp tế và tăng viện, theo kế hoạch sẽ tới nơi ngày 18, sẽ giúp họ củng cố vững vàng hơn vị trí của mình. Bất chấp tổn thất nặng nề, hỗn loạn và trục trặc về liên lạc, những người lính của đạo quân đổ bộ vẫn hoàn toàn lạc quan. Nói gì thì nói, ngày Chủ nhật gia quân đã không đến nỗi nào.
    Có một quầng đỏ hắt lên bầu trời Arnhem trong khi chiếc xe lao hết tốc độ đưa thiếu tướng Heinz Harmel từ Berlin về tới gần thành phố. Căng thẳng và mệt mỏi sau cuộc hành trình dài, Harmel tới sở chỉ huy sư đoàn Frunsberg tại Ruurlo, chỉ để biết hiện sở chỉ huy của ông đã chuyển tới Velp, cách Arnhem chừng 3 dặm về hướng đông bắc. Tại đây, ông tìm thấy tham mưu trưởng của mình, trung tá Paetsch, trông có vẻ kiệt sức. "Cảm ơn Chúa là ngài đã quay về!" Paetsch nói. Ông ta nhanh chóng báo cáo tóm tắt tình hình trong ngày cho Harmel cùng những lệnh nhận được từ tướng Bittrich. "Tôi lặng người," Harmel nhớ lại. "Mọi việc có vẻ hỗn độn và không rõ ràng. Tôi rất mệt, nhưng tình hình nghiêm trọng đến mức tôi gọi cho Bittrich và báo với ông ta rằng tôi sẽ tới gặp ông".
    Bittrich cũng không ngủ. Harmel vừa xuất hiện, Bittrich lập tức bắt đầu tóm tắt tình hình. Bực bội và thất vọng, ông cúi xuống bản đồ. "Lính dù Anh đã đổ bộ xuống đây, phía tây Arnhem," ông nói với Harmel. "Chúng ta không rõ sức mạnh thực sự cũng như ý đồ của chúng." Chỉ xuống Nijmegen và Eindhoven, viên quân đoàn trưởng nói, "Lực lượng đổ bộ của Mỹ đã chiếm giữ nhiều vị trí tại hai khu vực này. Đồng thời, lực lượng của Montgomery đã tấn công lên phía bắc từ kênh đào Meuse-Escaut. Tôi tin rằng mục tiêu là nhằm chia cắt lực lượng của ta. Theo quan điểm của tôi, mục tiêu của chúng là các cây cầu. Khi những cây cầu đã được kiểm soát, Montgomery có thể đánh thẳng vào trung tâm Hà Lan và từ đó, vào vùng Ruhr." Bittrich phẩy tay. "Model không đồng ý. Ông ta vẫn tin rằng sẽ có thêm lực lượng đổ bộ được thả xuống phía bắc sông Rhine, phía đông và tây Arnhem và tiến về Ruhr".
    Sư đoàn Hohenstaufen của Harzer, Bittrich tiếp tục giải thích, đã được lệnh tấn công quân Anh ở phía tây và bắc Arnhem. Chỉ huy lực lượng vũ trang tại Hà Lan, tướng Christiansen, đã được lệnh điều động lực lượng của mình - một hỗn hợp gồm các tiểu đoàn huấn luyện và phòng vệ - đặt dưới quyền chỉ huy của trung tướng Hans von Tettau. Nhiệm vụ của họ là giúp sư đòan Hohenstaufen ở hai bên sườn nhằm đánh chiếm các khu đổ quân và đáp tàu lượn của quân Anh. Sư đòan Frunsberg, Bittrich tiếp tục, được giao phụ trách đối phó với mọi diễn biến ở đông Arnhem và kéo xuống phía nam tới Nijmegen. Dùng ngón tay khoanh lên bản đồ, Bittrich nói với Harmel, "Cây cầu tại Nijmegen cần được giữ bằng mọi giá. Bên cạnh đó cây cầu tại Arnhem và toàn bộ khu vực về phía nam tới Nijmegen là trách nhiệm của anh." Bittrich dừng lời và đi đi lại lại trong phòng. "Nhiệm vụ của anh," ông nói với Harmel, "đã bị làm cho khó khăn hơn. Harzer đã không bố trí đơn vị thiết giáp nào ở đầu cầu phía bắc tại Arnhem. Quân Anh hiện đã ở đó".
    Càng nghe, Harmel càng giật mình nhận ra rằng khi cầu Arnhem bị quân Anh khống chế, sẽ không có cách nào đưa thiết giáp của ông ta vượt sông Rhine một cách nhanh chóng và hướng xuống Nijmegen. Cả sư đòan của ông ta sẽ phải chuyển qua sông Rhine bằng một chiếc phà tại làng Pannerden, cách Arnhem 8 dặm về hướng đông nam. Bittrich, lường trước được khó khăn này, đã ra lệnh bắt đầu chuyển quân bằng phà. Đó sẽ là một cuộc hành quân chậm chạp, đầy bất trắc và vòng vèo tới Nijmegen, và để chuyển toàn bộ xe, binh lính sẽ đòi hỏi toàn bộ nguồn lực của Harmel.
    Khi rời sở chỉ huy của Bittrich, Harmel hỏi tư lệnh của mình, "Tại sao không phá hủy cây cầu tại Nijmegen trước khi quá muộn?" Giọng Bittrich đầy mỉa mai. "Model đã thẳng thừng bác bỏ ý kiến này. Chúng ta có thể cần đến cầu để phản công." Harmel ngớ người ngạc nhiên. "Bằng cái gì ?" ông hỏi.

Chia sẻ trang này