1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

AC Milan - Đội bóng của những huyền thoại

Chủ đề trong 'AC Milan (ACM)' bởi prehistory, 21/10/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    AC Milan - Đội bóng của những huyền thoại

    Dưới đây là tập hợp các bài viết hay về Milan đã được đăng tải bên website, tôi post sang bên này coi như là để quảng cáo cho Milan

    Milan - Ngược dòng lịch sử

    AC Milan còn có tên là Milan Associazione Calcio s.p.a. Được thành lập vào năm 1899 (một trong số những CLB đầu tiên của nước Ý).
    Trụ sở CLB: Via Filippo Turati 3, 20121 Milano.
    Telephone: +39 0262281
    Fax: +39 026598876
    Sân vận động: Giuseppe Meazza, San Siro
    Chủ tịch hiện thời: Dott. Silvio Berlusconi
    Phó chủ tịch và giám đốc điều hành: Adriano Galliani
    Giám đốc thể thao: Ariedo Braida
    Giám đốc thương mại: Roberto Patrassi
    Giám đốc khu tập huấn Milanello: Antore Peloso
    Giám đốc Marketing: Laura Masi
    HLV trưởng: Carlo Ancelotti
    Được thành lập bởi một người Anh Alfred Edwards vào năm 1899, CLB Cricket và Football Milan là một trong số những CLB đầu tiên của Italia. Chỉ sau 2 năm thành lập, Milan đã có danh hiệu vô địch đầu tiên sau khi đánh bại Genoa ở trận chung kết.
    Vào năm 1938, Milan đổi tên CLB 3 lần và cuối cùng là cái tên quen thuộc mà chúng ta vẫn biết đến ngày hôm nay AC Milan (Associazione Calcio Milan). Cũng vào năm đó, Milan đã giành được vị trí thứ ba tại giải vô địch quốc gia với chỉ 3 điểm kém hơn đội vô địch Inter, đối thủ truyền kiếp của họ. Milan một lần nữa đứng sau Inter vào năm 1941 với một điểm kém hơn. Inter đứng thứ hai và vào năm đó Bologna dành chức vô địch. Năm tiếp sau đó, Milan lọt vào trận chung kết cúp quốc gia Italia (Coppa Italia) với Juventus và hòa 1-1. Sau đó thua 1-4 ở trận đá lại.
    Milan chiếm ưu thế tại Serie A trong những năm 1950, với 4 chức vô địch và một lần duy nhất đứng trong top 3 đội dẫn đầu. Cũng vào thời gian này, giải vô địch Italia đã là một giải đấu giầu có nhất thế giới và là sự hấp dẫn của các tài năng bóng đá khắp Châu Âu. Milan là một trong số ít CLB thành công nhờ những tài năng này với bộ ba người Thụy Điển: Gren, Nordahl và Liedholm. Họ đứng thứ 2 sau Juventus vào năm 1950, tuy nhiên đoạt được chức vô địch vào năm 1951, bỏ cách Inter 1 điểm. Sự thành công lại đến vào năm 1955 và 1957 và một lần đứng thứ 2 vào năm 1956 sau Fiorentina. Trong năm đó, Milan bị đánh bại ở bán kết European Cup bởi đội sau đó trở thành nhà vô địch, Real Madrid, và phong độ tồi tệ tại Serie A đã khiến Milan không giành được suất dự European Cup mùa sau đó. Chính nhờ lý do này mà vào năm 1959 Milan đoạt được Scudetto.
    Milan tiếp tục sự thời kỳ hoàng kim của mình vào những năm 60, tuy nhiên họ cần chinh phục được những mục tiêu mới tại giải trong nước và đấu trường Châu Âu. Họ tiến đến chức vô địch Cúp Châu Âu bằng trận thắng trước Olympiakos ở vòng đấu sơ bộ, nhưng sau đó lại để thua Barcelona trong cả 2 trận lượt đi và về. Tại giải đấu trong nước Milan cũng không có được phong độ tốt nhất với vị trí thứ 3 và 11 điểm kém hơn nhà vô địch Juventus. Milan cũng để Juventus giành chức vô địch vào năm 1961 với 4 điểm kém hơn, tuy nhiên vào năm 1962 CLB đã giành được chức vô địch thứ 5 của mình. Một lần nữa mục tiêu giành cúp Châu Âu đã khiến Milan phải nhường lại Scudetto cho đối thủ truyền kiếp Inter vào năm 1963. Bù lại họ đã có được chức vô địch cúp Châu Âu đầu tiên của mình. Trận chung kết diễn ra tại sân Wembley với CLB Benfica. Eusebia đưa Benfica vươn lên dẫn trước ở phút thứ 19 của trận đấu, nhưng Altafini đã trở thành người hùng của Milan trong trận đấu đó với hai bàn thắng được ghi ở hiệp 2 của trận đấu. Altafini cũng trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất vào năm đó với 14 bàn thắng.
    Chức vô địch Serie A không đến với các cầu thủ Milan trong vài năm, vị trí tốt nhất của họ là thứ hai vào năm 1965. Bốn năm sau thành công tại cúp Châu Âu, Milan giành chiến thắng đầu tiên ở Italia Cup sau khi đánh bại Padova 1-0 trong trận chung kết. Năm 1968 đánh dấu sự trở lại của Milan với chức vô địch Serie A và chiếc cúp C2 (Cup Winners Cup). Hamrin ghi hai bàn thắng chỉ trong 20 phút đem lại chiến thắng 2-0 cho Milan trước Hamburg trong trận chung kết cúp C2. Milan giành chức vô địch Serie A với 9 điểm bỏ xa đội đứng sau. Vào năm sau đó 1969, Milan chỉ đứng thứ 3, nhưng lại giành được Cúp Châu Âu với sự sáng tạo của huyền thoại Gianni Rivera (European Footballer of the Year) và một hat-trick của Prati trong trận chung kết với chiến thắng 4-1 trước Ajax tại sân Bernabeu, thủ đô Madrid.
    Trong vài năm sau đó, Milan thi đấu không thành công tại giải trong nước. Milan chỉ giành được vị trí thứ 2 vào năm 71 sau khi bị Inter giành chức vô địch, và năm 72, 73 về sau Juventus. Milan cũng để mất chiếc cúp Italia vào tay Torino trong năm 71, nhưng đã vô địch vào năm sau 1972. Ở mùa giải 1972-1973 Milan giành được chiếc cúp C2 thứ 2 của mình với bàn thắng duy nhất được ghi bởi Chiarugi. Milan cũng vào chung kết lần nữa trong năm 1974 nhưng bị đánh bại bởi 1.FC Magdeburg của Đông Đức. Vào năm 1979 Milan giành chức vô địch Serie A lần nữa với 3 điểm hơn so với Perugia.
    Thập kỷ 80 khởi đầu thật tồi tệ với Milan. Mục tiêu chinh phục cúp Châu Âu bị chấm dứt ở vòng 5 bởi FC Porto, và cho đến năm 1988 Milan không thể giành vị trí cao hơn thứ 3 tại Serie A. Có quá nhiều sự thất vọng diễn ra vào năm 1985, khi Sampdoria đoạt cúp Italia bằng việc đánh bại Milan. Cũng trong năm đó Ruud Gullit được bầu làm European Footballer of the Year. Sự can thiệp đúng lúc của Thủ tướng Italia Silvio Berlusconi và một khoản tiền khổng lồ đầu tư đã làm thay đổi vận mệnh CLB.
    Ba cầu thủ hàng đầu của bóng đá Châu Âu đều có mặt tại Milan vào những năm 88-89, Marco Van Basten với 2 lần được bầu. Thành công tại Serie A năm 1988 báo trước một thời hoàng kim của Milan. Vị trí thứ ba năm 1989 bị che mờ bởi thành công tại đấu trường Châu Âu, và vào năm 1990 Milan tiếp tục giành được cúp Châu Âu đồng thời về thứ hai tại Serie A. Chiến thắng 4-0 trước Steaua Bucharest trong trận chung kết cúp Châu Âu năm 1989 có sự đóng góp của Gullit và Van Basten. Một người Hà Lan khác, Frank Rijkaard, ghi bàn thắng duy nhất vào năm 1990 giúp Milan giành chiếc cúp danh giá của Châu Âu. Milan bắt đầu thống trị giải trong nước, giành Scudetto 3 lần từ năm 1992-1994. Với những chức vô địch này, Milan được đưa vào danh sách những CLB giành 10 chức vô địch của Italia. Cúp Châu Âu năm 1993 được thi đấu dưới một điều luật khác. Milan toàn thắng ở vòng đấu bảng, và chỉ chịu thua Olympique Marseille ở trận chung kết bởi bàn thắng duy nhất của Basile Boli. Điều luật tiếp tục được thay đổi vào những năm sau đó và Milan giành thắng lợi 4-0 trước Barcelona sau một chuối phong độ tuyệt vời ở mùa giải đó. Milan cũng lọt vào trận chung kết năm 1995 nhưng lại để thua Ajax với tỷ số 1-0 bằng bàn thắng ở phút 85 của Kluivert.
    Các kỷ lục của CLB:
    - Cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong mọi thời đại:210 Gunnar Nordahl
    - Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải:35 Gunnar Nordahl (49-50)
    - Cầu thủ có số lần khoác áo CLB nhiều nhất:531 Franco Baresi
    - Cầu thủ có số lần khoác áo ĐTQG nhiều nhất:126 Paolo Maldini
    - Hợp đồng mua lớn nhất:£27m Manuel Rui Costa (Fiorentina 01-02)
    - Hợp đồng bán lớn nhất:£8.3m Cristian Zenoni (Juventus 01- 02)
    - Thành tích ở Cúp Châu Âu:5 European Cups (63/69/89/90/94) 2 Cup-Winners?T Cups (68/73) 3 Super Cups (89/90/95) 3 Inter- Continental Cups (69/89/90) 2 Coppa Latin Cups (51/56) 1 Mitropa Cup (82)
    - Thành tích tại Serie A:Championships 16 (1901/06/07/51/55/57/59/62/68/ 79/88/92 /93/94 /96/99) Italian Cup:4 (67/72/73/77) Italian Super Cup:4 (88/92/93/94)
    - Điểm số nhiều nhất giành được trong một mùa giải:73 (95-96)
    - Điểm số thấp nhất giành được trong một mùa giải:27 (81-82)
    - Trận thắng đậm nhất trên sân nhà:9-0 v Palermo (50-51)
    - Trận thua đậm nhất trên sân nhà:1-6 v Juventus (96-97)
    - Trận thắng đậm nhất trên sân khách:8-0 v Genoa (54-55)
    - Trận thua đậm nhất trên sân khách:1-6 v Alessandria (35-36)
    - Số lần giành chiến thắng nhiều nhất trong một mùa giải:27 (49-50)
    - Số trận thắng ít nhất trong một mùa giải:5 (76-77)
    - Số trận thua nhiều nhất trong một mùa giải:15 (30-31)
    - Số trận thua ít nhất trong một mùa giải:0 (91-92)
    - Kỷ lục về bàn thắng trong một mùa giải:118 (49-50)
    - Kỷ lục thấp nhất về bàn thắng:21 (81-82)
    - Số lần để thủng lưới nhiều nhất:62 (32-33)
    - Số lần để thủng lưới ít nhất:12 (68-69)

    goodman

    Lịch sử chiếc áo Đỏ - Đen

    Lịch sử của chiếc áo sọc đỏ đen của Milan là một điều được ít fan biết đến nhất. Người chịu trách nhiệm và thiết kế chiếc áo thi đấu cho Milan là Herbert Kilpin, một trong số 3 người Anh đã sáng lập ra AC Milan. Kilpin lấy nguồn cảm hứng chính từ chiếc áo của một người Anh, thời điểm đó chiếc áo luôn có kẻ sọc và biểu tượng có hình chữ thập trên nền trắng. Chính vì vậy mà biểu tượng của CLB AC Milan có hình chữ thập đỏ trên nền trắng.
    Hai mươi năm chủ nghĩa phát xít đã ảnh hưởng rất lớn đến trang phục thi đấu của Milan. Với chiếc áo trắng có hai đường kẻ dọc, một màu đỏ và một màu đen, chạy dọc giữa áo. Vào năm 1942 Milan thay đổi trang phục, số kẻ sọc được tăng lên là năm sọc đỏ và đen.
    Chiếc áo thi đấu chính thức do Kilpin sáng tạo đã được thiết kế lại hai lần. Vào năm 1962 chiếc áo được thay đổi với chiếc cổ màu đen và vào năm 1978 là chiếc cổ áo hình chữ V.
    Năm 1981, Milan là CLB đầu tiên in tên cầu thủ của mình lên lưng áo. Trong cùng năm này, Milan đã giới thiệu chiếc áo thi đấu với hình ảnh một con quỷ xuất hiện bên ngực phải. Thêm vào đó là việc đưa tên nhà tài trợ lên chiếc áo thi đấu.
    Chiếc áo thi đấu của các thủ môn luôn có màu đen, nhằm đe dọa đối thủ của mình. Tuy nhiên vào năm 1999 chiếc áo màu vàng được sử dụng để đánh dấu danh hiệu vô địch thứ 10.
    Cũng vào năm 1999, chiếc áo của Kilpin được giới thiệu một lần nữa với một ngôi sao trên ngực áo (CLB nào giành được 10 chức vô địch sẽ được gắn 1 ngôi sao, và tiếp tục như vậy cho đến lần tiếp theo). Chiếc áo này được sử dụng trong đúng một năm (16/12/1999 - 16/12/2000)
    goodman


    P.H.T
  2. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    10. San Siro ?" La Scala của bóng đá
    Những mái vòm và những hàng cột dài của sân San Siro khiến người ta nhớ đến những hàng cột Hy Lạp cao vút bên bờ Địa Trung Hải hoặc trung tâm Georges Pompidou ở Paris. Nơi đây in đậm những năm tháng hào hùng của CLB vớI những kỉ niệm không thể nào quên? San Siro, cái tên gợi nên biết bao hoài nhớ trong trái tim của những ngườI hâm mộ Milan và cả những người hâm mộ bóng đá thế giới. Bởi vì đơn giản, nó là thánh điạ của Milan hùng mạnh và bất kể đó là sân chung vớI đội bóng không đội trời chung Inter Milan, sân bóng mà ngườI ta hay đọc một cách chính thức là Giuseppe Meazza, San Siro vẫn là cái tên người ta nhắc tới với lòng thành kính. Bởi nó không những gắn liền với AC Milan mà còn là biểu tượng của một thành phố Milano rộng lớn và có vị trí kinh tế hàn đầu của châu Âu, một biểu tượng của lòng tự hào, không khác gì vai trò của nhà hát opera La Scale hay nhà thờ Domo với thành phố. Đó là một SVĐ không chỉ nổi tiếng nhờ những kiến trúc mà còn ở những gì ngườI ta được chứng kiến trên sân cỏ. Về phương diện này, San Siro không thua kém gì Bernabeu ở Madrid, Nou Camp ở Barcelona hay Maracana ở Rio De Janeiro.
    75 năm về trước, đây là một trong những khu đất hoàn thuộc một vùng tồi tàn nhất của thành phố với tỉ lệ thất nghiệp, tội phạm và mù chữ thuộc loại cao nhất của Milano. Người ta đã có rất nhiều kế hoạch để phát triển khu vực này, nhưng cuối cùng do tệ quan liêu, các dự án vẫn chỉ tồn tại trên giấy tờ và có lẽ sẽ chẳng bao giờ trở thành hiện thực nếu một ngày kia không có một người có tên là Pirelli xuất hiện. ông là Chủ tịch của AC Milan từ năm 1909 đến năm 1929 và SVĐ được coi là một mòn quà của ông với thành phố Milano mà ông yêu mến. Cái tên San Siro xuất hiện từ tên của một nhà thờ nhỏ gần sân thờ thánh Siro. SVĐ đầu tiên được hoàn thành vào tháng 9 năm 1926 với sức chứa là 35 ngàn người. 9 năm sau, trước nhu cầu tăng lên của khán giảI, thành phố Milano đã quyết định cho xây dựng thêm 20 ngàn chỗ nữa mà tâng 2 của SVĐ xuất hiện. SVĐ mớI đã được khánh thành vào tháng 5 năm 1939, và trận đấu Quốc tế đầu tiên giữa Anh và Italia đã diễn ra tại nơi đây (2-2). Trong hai năm. 1954-1955, SVĐ có thêm 30 ngàn chỗ nữa và San Siro trở thành SVĐ lớn nhất Italia kể từ đó. Và taị Italia 90 khi nước này đăng cai World Cup, San Siro lại được tu bổ một lần nữa. Những kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Italia được vời đến và thế là 11 cột lớn, những mái che nặng hàng nghìn tấn được lắp đặt cho phép tất cả các khán giả theo dõi trận đấu đều được ngồi dưới mái che. SVĐ hiện đại nhất Italia này có thể cho phép tốI đa 85 ngàn khán giả có mặt tại sân, 2000 nhà báo và rất nhiều các trang thiết bị hiện đại bậc nhất.
    TạI SVĐ này cũng đã diễn ra khá nhiếu sự kiện thể thao và âm nhạc khác. Tháng 9 năm 1960, tạI đây đã diễn ra trận tái đấu tranh chức vô địch hạng ruồi thế giới giữa hai võ sĩ Carlos Ortiz và Duilio Loi trước sự chứng kiến của hơn 50 ngàn khán giả. Ca sĩ nhạc Reggae nổi tiếng thế giớI Bob Marley cũng đã dừng chân ở đây và có một buổi trình diễn vớI số lượng khán giả lên tới con số kỉ lục là 9 vạn người. Một số lượng khán giả tương tự cũng đã có mặt để chứng kiến Bruce Springsteen biểu diễn vào năm 1985.
    Nhưng nhắc đến San Siro là nhắc đến bóng đá và Milan. Đội bóng có một bảo tàng các chiến tích ở khán đài phía Nam, nơi lưu giữ tất cả những chiến tích của CLB trong suốt 100 năm qua. Cả Milan và Inter đều tự hào về SVĐ này. Nhưng chính AC Milan là đội bóng có nhiều dấu ấn hơn cả tại San Siro bởi vì mãi đến năm 1945, Inter mới dọn nhà về thi đấu tại đây. Trận đấu khai trương sân diễn ra vào ngày 19/9/1926 giữa Milan và Inter. Inter đã thắng Milan với tỉ số áp đảo 6-3 trước một biển người. Những năm 60, một huyền thoại và là huyền thoại lớn đầu tiên xuất hiện. Đó là Nereo Rocco, người đã mở ra một thời kì vàng son đầu tiên trong lịch sử CLB vào những năm 60. Ngay trong trận đấu đầu tiên dưới cương vị làm HLV của CLB, ông đã thốt lên một câu nói bất hủ và sau này những ngườI hâm mộ Milan còn nhớ mãi: ?oĐây là La Scala của Milano, nơi bắt đầu những giấc mơ. Một Milan hùng mạnh sẽ sinh ra tại nơi đây?. Rocco mất năm 1979 sau khi cùng Milan giành rất nhiều chiến thắng. Nhưng các CĐV thì không hề quên ông và thậm chí đã có thời kì ở San Siro có một khán đài mang tên ông. Chính Rocco là ngườI đã đem về Milan Gianni Rivera, lúc đó chỉ là một chàng trai vô danh ở Alessandria ít tên tuổi. Trong cai ngày mà Rivera lần đầu tiên đặt chân lên thảm cỏ của San Siro, anh đã suýt khóc khi các CĐV của Milan nhìn anh với một sự hoài nghi lớn lao. ?oĐó là động lực lớn thôi thúc tôi làm tất cả vì CLB ấy. Nó như một cái gì đấy khiên tôi bị tổn thương. Chưa bao giờ tôi phảI chơi trước một lượng khán giả lớn như thế. Họ luôn luôn đòi hỏi và tỏ ra giận hờn nếu không được đáp ứng?, về sau Rivera kể lại với lòng xúc động như thế.
    Chiến công lớn nhất của Milan trong lịch sử ở San Siro là một cuộc chinh phục khủng khiếp trước Real Madrid hùng mạnh trên đường vào trận chung kết Cúp C1 năm 1989. 85 ngàn cổ động viên trên sân San Siro đã gần như hoá điên sau 5 bàn thắng ngoạn mục của bộ 3 Hà Lan Rijkaard, Gullit, Van Basten và 2 ngôi sao nộI địa Ancelotti và Donadoni. Một màn pháo hoa chưa từng có nở bùng trên SVĐ và kéo dài đến nửa tiến trong khi bản thân các cầu thủ và CĐV gần như ngạt thở vì khói pháo. Đó là lễ ăn mừng lớn nhất của Milan trong lịch sử tại San Siro. ?oTôi không thể nào quên được những giây phút huy hoàng ấy?, về sau Van Basten kể lại, ?oChính các CĐV trên sân San Siro đã tiếp cho chúng tôi một sức mạnh khủng khiếp như thế để nghiền nát Real. Và ngay từ đấy, chúng tôi đã nghĩ rằng, chúng tôi sẽ trở thành những nhà vô địch của châu Âu?. Còn Arrigo Sacchi, người đã mang đến cho Milan những cuộc chinh phục đầy bi tráng ở châu Âu vào cuối những năm 80- đầu thập niên 90 cũng có lẽ sẽ không bao giờ quên được San Siro vì những lý do khác, cay đắng hơn. Sau thất bạI trước Rosenborg ngay trên sân nhà trong một trận đâu ảm đạm tháng 12 năm 1996 khiến CLB bị loại khỏi vòng đấu bảng, Sacchi đã mô tả San Siro như một ngọn núi lửa chỉ chực nuôt lấy ông. ?oQuang cảnh sân lúc ấy như một quan tái lớn nuốt gọn tất cả?, Sacchi kể lại, ?oTôi không thể chịu nổi cảm giác tủi hổ lúc ấy mà tôi quyết định ra đi ngay sau trận thua?.
    Kể từ năm 1980, San Siro được mang tên mới. Hội đồng thành phố cũng như cả hai CLB đều đồng ý đổi tên sân thành Giuseppe Meazza, tên của cầu thủ tiền đạo nổI tiếng đã từng khoác áo cho cả hai CLB trong những năm 30 của thế kỉ XX. Ông mãi mãi được ghi nhớ vì đã lập một kỷ lục ghi nhiều bàn thắng trong một trận đấu vào năm 1931 trên sân vận động này với 5 bàn thắng. Nhưng có lẽ đốI vớI những ngườI hâm mộ Milan, cái tên San Siro sẽ còn mãi và sẽ được ghi nhớ bởI vì chính tại sân này, những huyền thoại đã được sinh ra, những chiến thắng hào hùng xuất hiện và những giấc mơ đã trở thành hiện thực. Bởi San Siro là Milan.
    San Siro
    Địa chỉ: Stadio Giuseppe Meazza, Via Piccolomini 5. Đường dễ nhất đến SVĐ là theo tuyến tàu điện ngầm M1 tới Lotto, nơi có tuyến xe buýt đầu tiên đến SVĐ. Ban ngày, bạn có thể đi bộ khoảng 10 phút vòng quanh sân. Đây la nơi có địa điểm đẹp, thoáng đãng và nhất là môi trường rất trong lành, khác xa vớI bầu không khí ô nhiễm ở trung tâm Milano. San Siro có 2 quầy bán vé chính, một đặt ở phía bắc SVĐ, gần các cửa số 36,37 và quầy thứ hai ở phía nam, gần các cửa 26, 27. Rất khó kiếm vé nếu bạn muốn xem một trận gặp Juventus hay Inter Milan. Những người mua vé xem cả năm bao giờ cũng được ưu tiên và các vé lẻ chỉ thực sự dễ kiếm trog các trận đấu thường. Những năm còn bộ 3 Hà Lan, số người mua vé cả năm không khi nào dướI 75 ngàn ngườI còn giờ đây, con số ấy cũng vào khoảng 58 ngàn. Các trận đấu vớI Inter và Juventus thì bao giờ cũng có khoảng 8 vạn khán giả .
    Vé xem các trận đấu tại San Siro có 4 màu khác nhau: rosso (màu đỏ, bên khán đài chính vơi những ghế ngồi đắt tiền nhất, các khu VIP và báo chí), arancio (da cam, khán đài B), Blu (xanh nước biển, khung thành phía nam dành cho các CĐV Milan) và verde (xanh lá cây, khung thành phía Bắc, cho các CĐV Inter). Giá vé: rẻ nhất là ở tầng 3, tăng dần khi xuống tầng 2 và 1.
    Các CĐV trung thành của Milan thường vào sân bằng các cửa từ 17-22, còn các CĐV Inter vào bằng cửa từ 41 đến 46. Để tránh va chạm giữa các nhóm CĐV, người ta cô lập họ bằng các cửa 13 và 14.
    Tạp chí TTVH số 3-2001
    P.H.T
  3. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Thành tích trên đấu trường Châu Âu
    I. Từ những cuộc lật đổ đế chế Real Madrid
    Năm 1958 trở thành năm bản lề cho những chiến thắng trên chiến trường châu Âu của một ?oĐại Milan? mà sức mạnh của họ sẽ được khẳng định trong những năm tiếp theo. Milan trở thành đội bóng đầu tiên của Italia có mặt trong một trận chung kết Cúp C1 để rồi sau đó, trở thành đội bóng Italia giàu thành tích nhất trên mặt trận này. Tháng 5/1958, các chàng trai Đỏ-Đen có mặt trong trận đối đầu với Real Madrid hùng mạnh trên sân Heysel ở Bruxelles. Đó là một trận đấu với sự đối đầu của những cầu thủ tầm cỡ như Liedholm, Schiaffino và Grillo với Di Stefano, Kopa và Gento. Lúc ấy, Real Madrid đã 3 lần giành Cúp C1 liên tiếp và đã thực sự chứng tỏ được sức mạnh của mình trước một thế lực trẻ trung đang lên từ Italia. Bất chấp việc các cầu thủ Italia đã 2 lần dẫn điểm trước do công của Schiaffino và Grillo, Real không hề nao núng và gỡ lại 2 bàn do công của Di Stefano và Rial. Bàn quyết định của Real do công của Gento khi trog những giây đá hiệp phụ. Các cầu thủ Milan không cảm thấy buồn lắm sau trận đấu, bởi vì thất bại này không phải là một thảm hoạ. Chỉ có một mình Schiafino là cảm thấy buồn đến rơi lệ. Anh luôn luôn ganh đua với Di Stefano trên tất cả các phương diện, nhưng bao giờ cũng thất bại. Schiaffino đã rời CLB 2 mùa bóng sau đó, và không kịp chứng kiến thắng lợi đầu tiên của CLB trên chiến trường châu Âu vao năm 1963. Và những nỗi đau buồn của anh đã được một tên tuổi lớn khác san lấp: Đó là chân sút người Brazil Jose Altafini.
    Thật vậy, những người hâm mộ lớn tuổi của Milan có lẽ sẽ không bao giờ quên được những khoảnh khắc vinh quang tột đỉnh sau chiến thắng đầu tiên của CLB trên SVĐ Wembley vào một chiều tháng 5 năm 1963. Real Madrid đã không còn là mối đe doạ đối với Milan mà đối thủ của họ trong trận CK năm đó là Benfica, đội bóng vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá BĐN với những tên tuổi lớn như Torres, Coluna và nhất là ?oviên ngọc đen? Eusebio. Hàng hậu vệ 4 người của Milan do HLV huyền thoại Nereo Rocco lập ra đã đứng vững trong suốt trận đấu bất chấp sức ép khủng khiếp của các cầu thủ Benfica. Dù bị dẫn trước sau bàn thắng của Eusebio ở phút thứ 18, nhưng Milan không đầu hàng. 2 đường chuyền đẹp như mơ của Gianni Rivera, lúc đó chưa được 20 tuổi, đã tạo điều kiện cho Altafini chọc thủng lưới đối phương 2 lần, giúp Milan giành thắng lợi chung cuộc 2-1. Cũng năm đó, Altafini trở thành cầu thủ dội bom xuất sắc nhất của Cúp C1 với 14 bàn, một kỉ lục mà sau này chưa ai vượt qua.
    Đội hình ra sân của hai đội:
    Benfica: Costa Pereira, ****m, Cruz, Humberto, Rani, Coluna, Augusto, Santana, Torres, Eusebio, Simoes ?" HLV: Riera
    Milan: Ghezzi, Trebbi, David, Benitez, C. Maldini, G. Trapattoni, Sani, Pivatelli, Altafini, Rivera, Mora ?" HLV: Nereo Rocco.
    Các cầu thủ ghi bàn: Altafini (60, 81)- Benfica: Eusebio (18).
    6 năm sau cái ngày trọng đại ấy, lịch sử đã được lặp lại, nhưng la ở trên thánh địa Bernabeu và đối thủ của họ là đội bóng Hà Lan Ajax Amsterdam, lúc đó đã có Johan Cruyff và Keizer trong đội hình, nhưng họ vẫn không đủ sức hăm doạ Milan vì Milan quá mạnh. Quả thật năm đó là năm của Milan. Họ đã gạt đổ cả Celtic và Manchester United trên đường vào CK. Cú hat-trick của Pirati và bàn ấn định tỉ số của Sormani đã nhấn chìm Ajax. Đó là chiến tích thứ 2 của HLV huyền thoài Rocco ở Cúp C1.
    Đội hình ra sân của hai đội :
    Milan: Cudicini, Malatrasi, Anquilletti, Schnellinger, Rosato, Trapattoni, Lodetti, Rivera, Hamrin, Sormani, Prati ?" HLV: Rocco.
    Ajax: Bals, Suurbier (Muller), Hulshoff, Vasovic, Van Duivendode, Pronk, Groot (Nuninga), Swart, Cruyff, Danielson, Keizer ?" HLV: Rinus Michels.
    Các cầu thủ ghi bàn: Milan: Prati (7, 40, 75); Sormani (67) ?" Ajax: Vasovic (60).
    II. Tới phút huy hoàng của những ?oHà Lan bay?
    20 năm sau chiến thắng ở năm 1969, Milan lại có cơ hội để nâng cao chiếc Cúp C1 một lần nữa. Chiến thắng hào hùng của họ trong cuộc đua ở Serie A năm 1988 với sự góp mặt của những ngôi sao Hà Lan Gullit và Van Basten đã khiến người hâm mộ hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi của họ, dù co đường vào đến CK của họ không phải là không có khó khăn, nhưng càng vào sâu, Milan càng chứng tỏ bản lĩnh của các nhà vô địch. Họ đã gạt đổ Real Madrid ngạo mạn đến 5-0 trên sân nhà San Siro sau khi cầm chân đối phương 1-1 tại Madrid nhờ một cú bay người đánh đầu song song mặt cỏ của Van Basten. Ngày 24 tháng 5 năm 1989 là một ngày không thể quên với những người Rossoneri. Bằng một lối chơi đầy quyến rũ, Milan không phải chờ đến hết trận đầu mới phân định được thắng thua. Những Lacactus, Hagi, Petrescu đã hoàn toàn sụp đổ ngay trong hiệp 1 sau những bàn thắng của cặp bài trùng Hà Lan. Thời kì ?oĐại Milan? làm mưa làm gió trên đấu trường châu Âu và thế giới bắt đầu.
    Đội hình ra sân của hai đội:
    Milan: G. Galli, Tassotti, Costacurta (F. Galli), Baresi, Maldini, Colombo, Rijkaard, Ancelotti, Donadoni, Gullit (Virdis), Van Basten ?" HLV: Arrigo Sacchi.
    Steaua Bucarest: Lung, Iovan, Petrescu, Bumbescu, Ungureanu, Hagi, Stoic, Minea, Rotariu (Balaci), Lacatus, Piturca ?" HLV: Iordanescu.
    Các cầu thủ ghi bàn: Gullit (17, 38). Van Basten (26,46).
    Đúng một năm sau chiến thắng ở Barcelona, ngày 23 tháng 5 năm 1990 AC Milan lần thứ 2 liên tiếp đăng quang sau khi đánh gục Benfica trên sân Prater tại Vienna. Con đường vào CK của Milan lần này gian nan hơn trước dù không có những trận thắng vang dội như ở mùa bóng trước, nhưng Milan vẫn đủ bản lĩnh để vượt qua những đối thủ mạnh nhất của họ. 27 năm sau lần gặp mặt đầu tiên ở Wembley, Milan tiếp tục là kẻ chinh phục. Rijkaard, người đến sau cùng trong bộ 3 Hà Lan huyền thoại, đã ghi bàn thắng duy nhất của trận đầu trong một đường cản bóng thông minh của Van Basten. Milano trở thành thủ đô của bóng đá châu Âu. Một chiến thắng quá ngọt ngào đã đưa Milan lên ngôi vị số 1 thế giới và Sacchi trở thành HLV xuất sắc nhất thế giới năm đó.
    Đội hình ra sân của hai đội:
    Milan: G.Galli, Tassotti, Costacurta, Baresi, Maldini, Colombo (F.Galli), Rijkaard, Ancelotti (Massaro), Evani, Gullit, Van Basten. ?" HLV: A. Sacchi.
    Benfica: Silvino, Jose Carlos, Aldair, Ricardo, Samuel, Vitor Paneira (Brito). ?" HLV: Eriksson.
    Cầu thủ ghi bàn: Rijkaard (67)
    Trên thực tế, đó cũng là chiến thắng lớn cuối cùng trên chiến trường châu Âu của Arrigo Sacchi. Thất bại tại giải Serie A năm 1991 cũng như những bất đồng với Chủ tịch Berlusconi đã khiến Sacchi phải rũ áo ra đi. Nhưng nhiều nhà chuyên môn tin rằng chính thất bại của Milan trong chiến dịch bảo vệ danh hiệu vô địch Cúp C1 trước O.Marseille đã khiến ông mất chức. Trước thế lực mới lên ở châu Âu là đội bóng Pháp trẻ trung, Milan đã không thể chiến thắng được họ trên sân nhà (hoà 1-1) và thất bại (0-1) tại Velodrome vào tháng 3 năm đó đã đẩy Milan xuống vực sâu của sự tủi nhục. Không những không ghi được bàn thắng vào lưới đối phương, họ còn bị cầu thủ ưa làm trò người Anh Waddle chọc thủng lưới ở phút thứ 75. Milan bắt đầu mất bình tĩnh. Một cú va chạm đầy ác ý của Ancelotti khiến Waddle phải rời sân trong trạng thái bất tỉnh. Chưa hết, 3 phút trước khi kết thúc trận đấu, đèn trên sân vụt tắt. Quá thất vọng, Phó Chủ tịch Galliani xua tất cả các cầu thủ vào phòng và từ chối thi đầu tiếp khi đèn đã sáng trở lại. Hành động trẻ con ấy đã khiến cho Milan phải chịu một năm treo giò ở các Cúp Châu Âu và sau đó, thời kì của Capello bắt đầu.
    Nhưng O. Marseille tiếp tục là con ngáo ộp của Milan 2 năm sau đó, khi họ gặp nhat trong trận CK Cúp C1 ngày 26 tháng 5 năm 1993 tại Munich. Milan đã toàn thắng 10 trận trước đó, họ cũng vừa giành Scudetto trước đó một tuần và đầy niềm tin chiến thắng. Nhưng cú dội đầu của trung vệ Basile Boli đã nhấn chìm Milan một lần nữa. Đau đớn hơn cả, đó cũng là lần cuối cùng người ta được nhìn thấy Van Basten khoác chiếc áo Đỏ-đen trong một trận đấu chính thức của Milan. Đó cũng chính là trận đấu kết thúc huyền thoại về những người Hà Lan bay. Một kỷ nguyên của Milan đã chấm dứt như thế đấy. Capello gần như oà khóc sau thất bại.
    III. Chiến thắng vĩ đại trước Barcelona
    Capello không phải buồn lâu, bởi vì một năm sau, Milan đã trở lại huy hoàng hơn bao giờ hết. Với sự góp sức của Marcel Desailly, ngườI đã đoạt cúp C1 trong đội hình O.M một năm trước đó, Milan đã hoàn toàn đè bẹp đối thủ sừng sỏ Barcelona của Cruyff kiêu ngạo vào ngày 18/5/1994 tạI Athens vớI tỉ số không tưởng tượng nổI 4-0. Milan không phải là ứng cử viên của chức vô địch. Họ đã mất hai hậu vệ lão luyện Costacurta và Baresi do bị treo giò và lại phải đối mặt với những chân sút lừng danh Stoichkov và Romario của Barca. Nhưng Milan đã đứng vững, họ đã chơi một trong những trận đấu quyến rũ nhất trong lịch sử của mình. Trong trang phục màu trắng, Milan đã xuất hiện như những bóng ma, họ không cho Barca lấy một cơ hội. Đó là thắng lợi đẹp nhất của Capello. Còn đối với Berlusconi, không có gì quý giá hơn thế. Chiên thắng này đã góp phần đưa ông lên chức Thủ tướng Italia vào đầu năm 1995 và là Chủ tịch một CLB bóng đá đầu tiên trở thành một vị thủ tướng trong lịch sử thế giới.
    Đội hình ra sân của hai đội:
    Milan : Rossi, Tassotti, Galli, Maldini (Nava), Panucci, Albertini, Desailly, Donadoni, Boban, Savicevic, Massaro ?" HLV: Capello
    Barcelona: Zubizarreta, Ferrer, Nadal, R.Koeman, Sergi (Enrique), Amor, Bakero, Guardiola, Eusebio, Romario, Stoichkov ?" HLV: Johan Cruyff Các cầu thủ ghi bàn: Massaro (22,45). Savicevic (47), Desailly (58)
    [bIV. Sự trở lại của "đế chế" đỏ đen[/b]
    Những năm cuối của thế kỷ 21 là những năm khủng hoảng thực sự của AC Milan, không còn dành được những danh hiệu, hàng loạt cầu thủ đến rồi lại đi, thay HLV như thay áo, những Capello, Sacchi, Cesare Maldini, Terim ... đến rồi lại đi. Chỉ khi Carlo Ancelotti từ Juventus sang với đội thì Milan mới thực sự lột xác, tuy không còn giữ được lối đá đẹp mắt như trước nhưng những thắng lợi liên tiếp của Milan đã phần nào làm yên tâm người hâm mộ. Năm 2002 là một năm đặc biệt của AC Milan, sau khi vượt qua vô vàn khó khăn ở Cup C1, các bại tướng dưới tay của Milan có thể kể ra các "đại gia" của châu âu : Real Madrid, Bayern Muchen, Ajax Amsterdam, Deportivo Lacoruna... Trận chung kết châu âu của Milan năm này là trận chung kết khó khăn nhất trong lịch sử của AC Milan bởi đối thủ chính là Juventus, đội mà Milan đã thua trong chiến dịch dành Scudetto năm rồi, và tại Serie A Milan thường thua nhiều hơn là thắng. Vẫn trang phục màu trắng may mắn, AC Milan và Juventus trình diễn một trận chung kết châu âu mang đậm phong cách Italia, đến nỗi mà báo chí ngày hôm sau đều bình luận đây là trận chung kết nhàm chán nhất trong lịch sử châu âu. Hai đội bước vào vòng thi đấu luân lưu 11m, và may mắn cộng với sự tài năng của Dida đã giúp Milan dành chiếc cup C1 thứ 6 trong lịch sử... Không ai có thể quên được vẻ mặt "lơ láo" của Shevchenko ở cú sút quyết định.
    Đội hình ra sân của hai đội
    Milan : Dida, Kaladze, P.Maldini, Nesta, A.Costacurta (R.Junior), Seedorf, Pirlo (Serginho), I.Gattuso, Rui Costa (Ambrosini), F.Inzaghi, A.Shevchenko
    Juventus : Buffon, ,L.Thuram, A.Ferara, I.Tudor (Brillinderi), Montero, Camoranesi (Conte), Tarchinadi, E.David (Zalayeta), Zambrota, D.Trezeguet, A.DelPiero
    Cũng năm này, AC Milan cũng đem về sân San Siro chiếc siêu cúp châu âu sau khi đánh bại Porto 1 - 0 tại sân của công quốc Monaco. Đế chế đỏ đen đã trở lại và Real Madird hãy coi chừng.
    Tạp chí TTVH tháng 3/2001 + acmilanvn tháng 7/2003
    Herbert Kilpin - Người cha của các Rossoneri
    Chắc chắn sẽ không có AC Milan nếu không có một người có tên Herbert Kilpin ông là người đã sáng lập ra CLB nổi tiếng và cũng là người đội trưởng đầu tiên của CLB này, một điều gần như không có sự lặp lại ở bất cứ đâu. Là con trai của một doanh nhân người anh đến Milano lập nghiệp từ những năm 40 của thế kỷ 19, Kilpin không có những say mê kiếm tiền như bô và anh mình mà ông chỉ có một niềm say mê duy nhất là trái bóng. ở ltalia những năm cuối của thế kỷ 19, bóng đá vẫn chỉ là một môn thể thao xa lạ. Mặc dù LÐBÐ ltalia đã được thành lập ở dạng sơ khai không được ham chuộng như polo, đua xe đạp hay tennis. Thậm chí các sân bóng cũng chưa xuất hiện. Người ta chỉ có thể chơi bóng trên những khu đất trống, trong những bộ quần áo kỳ dị trông như pijama: quần dài đến tận đầu gối, áo phông rộng thừng thinh có cổ và đi những đôi giày cao cổ nặng trịch. Milan Cricket and Football Club (tiền thân của AC Milan hôm nay) đã ra đời trong một bối cảnh như thế vào một ngày mùa đông lạnh giá tháng 12/1899, trong một quán cà phê lụp xụp. ở trung tâm thành phố. Ban đầu đội bóng có 15 người, với Kilpin làm đội trưởng kiêm luôn chức Chủ tịch, Giám đốc điều hành và cũng là thủ quỹ Người ta nói rằng ông đã phải bân đi một nửa tài sản của mình để nuôi đội bóng trong nhưng năm đáu tiên khô khăn, trước sự ghẻ lạnh của hội đóng thành phố vốn luôn coi bóng đá chỉ là một trò chơi nhảm nhí và là nguồn gốc của những vụ mất trật tự công cộng. Chính Kipin là người đã tạo ra màu áo đỏ đen nổi tiếng với câu nói bất hủ: "Tôi thấy màu đỏ- đen như một cơn giận dữ giữa bầu trời bão tố". Và màu áo ấy đã đi cùng Milan trong suốt hơn 100 năm qua. Nhờ những thành tích đầu tiên và cả tài vận động của Kilpin, LÐBÐ ltalia đã chính thức công nhận sự tồn tại của CLB và cho phép CLB tham gia vào giải VÐQG ltalia sơ khai vào tháng 1/1900, đúng 1 tháng sau khi CLB thành lập. Kilpin là người năng nổ nhất trong đội bông ông không bao giờ ngại phải chơi những vị trí mà mình không ưa thích. Lúc đầu Kilpin đá ở vị trí tiền vệ, sau đó là tiền đạo. Những tư liệu cách đây gần 100 năm cho thấy những con số rất thứ vị ông đã ghi 10 bàn thắng cho Milan trong một trận đấu ở Cúp Lombardia với CLB nhỏ Castele, trận đầu mà Milan đã thắng tới 20-0 vào năm 1906.
    Có rất nhiều chuyện thú vị về Kilpin mà những người Rossoneri không bao giờ quên. Năm 1907, ở tuổi 39, ông rời Milan, từ bỏ chức vị chủ tịch và đội trưởng sau những tranh cãi với các thành viên còn lại (sau đó dẫn đến sự kiện đội bóng tách làm đôi để lnter Milan ra đời) và đến thi đấu cho Torino. Một trong số những cầu thủ mà ông thân nhất lúc bấy giở là Pozzo , người sau này trở thành HLV ÐT Italia và đưa dội tuyển đến 2 chiến thắng ở World Cup 1934 và 1938. Có một giai thoại kỳ cục về ông: mỗi lần bóng bay qua khung thành, Kilpin chạy ngay ra sau gôn, vớ lấy một chai rượu whisky và uống lấy uống để, rồi đưa 1 ly cho Pozzo. Ngay cả thủ môn của Milan thời ấy, Hoode, một người Anh. cũng tự tưởng thưởng cho mình một ngụm rượu mỗi khi chặn được một cú sút của đối phương. Chính rượu và những cơn say đã không cho phép Kilpin tiếp tục đá bóng. Trong những năm cuối đời ông sống trong cảnh bần hàn và chết trong cô đơn vào năm 1916, ở tuổi 48. Lúc ấy, ông đang là người tìm kiếm nhân tài cho Milan.
    Rất nhiều những sự kiện trong cuộc đời của Kilpin cho tới bây giờ vẫn là những điều bí ẩn. Nhưng điều quan trọng nhất là ông chính là người khai sinh ra một Milan hùng mạnh, đặt nền móng cho sự ra đời của 2 đội bóng thuộc loại mạnh nhất thế giới ở thành phố Milano . Tại bảo tàng của Milan hiện có một vị trí rất trang trọng dành cho Kilpin để ghi nhớ những gl mà ông đã làm cho CLB. Và trong trái tim những người Rossoneri, ông sẽ vẫn còn mãi.
    P.H.T
  4. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Renzo De Vecchi ?" ?oFiglio De Diô?
    ?oNgày xửa ngày xỈa Y Milano, có mTt cậu bé ham mê bóng 'á cực 'T có tên là Renzo De Vecchi...?. Những câu chuy?n về hậu v? n.i tiếng có bi?t hi?u là ?oFiglio De Diô? (Con Trời) của AC Milan có thf 'Ỉợc bắt 'ầu nhỈ thế. Câu chuy?n 'ầu tiên và sẽ 'Ỉợc các CĐV của Milan nh> mãi chính là mTt cậu bé cao nhỈng gầy nhẳng và có mTt 'ôi mắt rất sáng. Cậu bé học sinh ấy thỈờng xuyên có mặt trong bu.i tập của CLB trên mTt cái sân g" ghề Y ngối ô Milano, nhỈng không Y trên sân mà Y trên mTt bờ tỈờng, nỈi cậu bé hằng ngày quan sát những thần tỈợng Kilpin, Trere và Widmer của mình tập luy?n cần mẫn. Những giai thối từ bu.i 'ầu sỈ khai của AC Milan về ?o Con trời? vẫn còn 'Ỉợc nhắc lại mãi và 'ọng lại trong kí ức của những ngỈời hâm mT. Cậu bé mê AC Milan 'ến n-i mTt hôm trèo tỈờng vào và thậm chí còn tranh bóng v>i Herbert Kilpin, 'Ti trỈYng lúc ấy của 'Ti bóng và là mTt ngỈời cực kì nóng tính. Kilpin 'ã gần nhỈ phát 'iên lên khi bi 3 lần và ông 'u.i theo 'á 'ít cậu bé mấy lần mà không 'Ỉợc.
    Rất bực mình nhỈng nhận ra 'ây là mTt tài nfng l>n trong tỈỈng lai, Kilpin chấp nhận cho De Vecchi vào 'Ti bóng và ngay lập tức ?oCon Trời? trY thành mTt cầu thủ rất gíỏi và thậm chí 'Ỉợc gọi vào 'Ti hình 1 của Milan lúc m>i 15 tu.i, và ch? mTt nfm sau, De Vecchi khoác chiếc áo màu xanh sẫm của Squadra Azzurra, qua 'ó trY thành cầu thủ ít tu.i nhất thi 'ấu cho ĐTQG cũng nhỈ AC Milan.
    Tuy không dành 'Ỉợc nhiều chiến tích v>i AC Milan nhỈng những dấu ấn mà ông 'f lại cho Milan là không thf ch'i cãi 'Ỉợc. De Vecchi là ngôi sao 'ầu tiên của AC Milan '"ng thời cũng là mTt ngỈời 'em 'ến cho Milan những ảnh hỈYng l>n của mTt chế 'T luy?n tập và thi 'ấu nhà nghề cho CLB. Renzo De Vecchi mất nfm 1967, thọ 73 tu.i.
    Tạp chí TTVH s' 3-2001
    Nils Liedholm ?" Ngài Nam TỈ>c của Calcio
    Il Barone, ngỈời ta vẫn gọi Nils Liedholm mTt cách vừa trìu mến và kính trọng nhỈ thế. "ng 'Ỉợc 'ánh giá cao trên cả phỈỈng di?n cầu thủ và HLV bYi cái 'ầu thông minh, phong thái l t>i Liedholm ?" "ng 'ã là mTt tỈợng 'ài bóng 'á tại Ý.
    Sinh nfm 1922 Y Valdermarsvik, trên bờ bifn Baltique, cậu bé Nils rất ham mê chỈi bóng và thỈờng xuyên bi thời lỈợng ít hỈn nhiều. ?oTôi không cảm thấy m?t, bóng 'á nhỈ mTt thứ ma túy ''i v>i tôi?, sau này ông kf lại. Và sự kh. công rèn luy?n 'ã 'Ỉa ông t>i CLB Norrkoping r"i 'Ti tuyfn QG.
    Nfm 1949 là mTt nfm 'ặc bi?t, ông 'ã sang Ý cùng v>i Gren sau khi 'Ỉợc Gunnar Nordhal gi>i thi?u v>i ban lãnh 'ạo AC Milan. BT ba này 'ã viết nên mTt trang sử vàng son cho CLB. Họ 'ã ghi 'Ỉợc 118 bàn thắng trong 38 trận, 'áng nh> là trận 'è bẹp Juventus 7-1 (bây giờ xem Milan bi nhỈng 'ã không vỈợt qua Brasil của Péle.
    Bình tĩnh, quyết 'oán và sáng su't, rất tự nhiên ông trY thành HLV của Milan, trỈ>c hết là Y các 'Ti trẻ. Đến vòng 24 của mùa giải 1964 ?" 1965, ông lên nắm 'Ti I Milan. NhỈng sau 'ó, do mắc b?nh Gan, ông 'ã phải lui về v>i những 'Ti bóng nhỏ hỈn nhỈ Monza, Varese trỈ>c khi trY lại '?nh cao vào những nfm 70.
    Khi 'ó, Calcio 'ang bi ?" phòng ngự khu vực. Thay vì ?omTt kèm mTt? các hậu v? 'Ỉợc b' trí ?ocai quản? những khu vực nhất 'i. Trong mô hình chiến thuật này, Liedholm Ỉa thích sử dụng mTt tiền v? tự do chỈi sáng tạo và thông minh, vừa có khả nfng phát 'Tng tấn công, vừa có thf ghi bàn t't. Khi 'ó, Rivera là mẫu cầu thủ tuy?t vời trong 'Ti hình của Milan dỈ>i thời Liedholm. Ngày nay, mô hình này 'Ỉợc AS Roma áp dụng rõ nét nhất v>i vai trò của Totti, Tomassi Y phong 'T '?nh cao cũng là tiền v? thủ lý tỈYng cho sỈ '" chiến thuật này.
    Rất tiếc là Rivera khi 'ó 'ã lu'ng tu.i và ch? c'ng hiến cho Milan thêm mTt Scudetto vào nfm 1979, nhỈng 'ây là danh hi?u gắn mTt ngôi sao trên áo của Milan ?" Scudetto thứ 10 của CLB.
    Nfm 1983, Liedholm vô 'i AS Roma và những cầu thủ 'ầy kỹ thuật nhỈ Runo Conti, Falcao, Di Bartolomei và Ancelotti.
    MTt 'óng góp quan trọng của Il Barone v>i AC Milan, AS Roma và bóng 'á Ý là ông 'ã phát hi?n 'Ỉợc những tài nfng bóng 'á, những cầu thủ kỳ tài trong su't hỈn 20 nfm làm công tác huấn luy?n. Đó là: Gentile và Bettega Y Varese (sau này cả hai 'ều n.i danh Y Juventus và cùng 'Ti tuyfn Ý 'ốt cúp TG nfm 1982); Conti và Ancelotti Y AS Roma; Franco Baresi và Paolo Maldini Y AC Milan. Đấy là ch? kf những ngỈời n.i tiếng nhất?
    Nguy.n Th< Minh Th<nh
    Gianni Rivera - Cậu bé vàng của bóng 'á Italia
    Vi?c Gianni Rivera 'ến Vi?t Nam tháng 11/2001 vừa r"i chắc chắn sẽ trY thành mTt sự ki?n thf thao l>n nếu ?oQuả bóng Vàng châu ,u nfm 1969? 'ến 'ây không phải v>i mTt tỈ cách mTt Thứ trỈYng BT qu'c phòng. NhỈng những nhà báo Vi?t Nam 'ã 'Ỉợc gặp ông, dù ch? mTt khống thời gian ngắn ngủi cũng cảm nhận 'Ỉợc sự thanh nhã, 'iềm tĩnh và 'T lỈợng của ngỈời 'àn ông tóc vàng, từng 'Ỉợc coi là cầu thủ 'ẹp trai nhất bóng 'á Italia những nfm 60.
    ?oĐây là lần 'ầu tiên tôi 'ến Vi?t Nam, mTt 'ất nỈ>c rất xa Italia mà tôi ch? biết 'Ỉợc qua báo chí và truyền hình Y nỈ>c tôi?, Rivera nói trong mTt cuTc phỏng vấn hết sức ngắn ngủi v>i các nhà báo, ?oĐất nỈ>c các bạn rất 'ẹp, khá 'ông dân và còn rất trẻ?. Không có nhiều ngỈời Vi?t Nam 'Ỉợc xem ông thi 'ấu trong màu áo của Milan và Squadra Azzurra cách 'ây 3 thập k? nhỈng chắc chắn sẽ rất ấn tỈợng nếu 'Ỉợc biết về những gì ông 'ã c'ng hiến cho Milan và cho bóng 'á Italia, và là mTt trong những thần tỈợng l>n nhất Y San Siro. Gianni Rivera 'Ỉợc HLV n.i tiếng của Milan, Gipo Vani phát hi?n trong mTt trận 'ấu của 'Ti trẻ vào nfm 17 tu.i. Dáng cao, thanh nhã, kĩ thuật khá 'iêu luy?n, và 'ặc bi?t là mTt nhãn quan chiến thuật rất tinh tỈờng, mặc dù ông hỈi gầy gò, là những phẩm chất l>n lao của Rivera. Trong 12 nfm thi 'ấu cho Milan, gần nhỈ mọi 'Ỉờng bóng của CLB 'ều qua chân ông. Không những thế, Rivera còn có khả nfng dứt 'ifm hết sức tinh tế và mTt sự chín chắn hỈn ngỈời 'ã 'em 'ến cho ông chiếc bfng 'Ti trỈYng của ngỈời thủ lĩnh. N.i tiếng khi còn rất trẻ, Rivera 'ã trY thành nhà vô ' lại.
    Nhiều ngỈời cho rằng Rivera không hoàn thi?n và xuất sắc nhỈ ngỈời ta vẫn tôn vinh ông. Quả thật, t'c 'T là nhỈợc 'ifm l>n nhất của Rivera. "ng thiếu t'c 'T, không có khả nfng h- trợ phòng ngự và hỈi ngại va chạm. Chính vì thế mà mTt nhà báo Italia 'ã 'ặt cho ông bi?t danh ?oAbatinô?, (nghĩa là ?othầy tu? hốc ?oyếm thế?). Rivera cũng không thành công Y Squadra Azzurra. "ng luôn va chạm v>i HLV 'Ti tuyfn Valcareggi và không thỈờng xuyên 'Ỉợc 'á 'úng vi những pha va chạm v>i các trọng tài trong các trận 'ầu quan trọng. NhỈng các CĐV yêu mến ông vì ông luôn làm tất cả những gì có thf 'Ỉợc cho CLB bằng tất cả tình yêu của mình. Và không phải là 'iều 'ỈỈng nhiên khi các CĐV Milan bầu ông là ?oCầu thủ xuất sắc nhất mọi thời 'ại của Milan?. Rivera 'Ỉợc coi là ngỈời 'ại di?n cho thời kì ?oĐại Milan? thứ nhất th'ng tri trong những nfm 1960.
    Nfm 1979, Rivera giã từ bóng 'á và s' phận 'Ỉa ông 'ến con 'Ỉờng chính tri Rivera và ông 'Ỉợc coi là mTt trong s' những gỈỈng mặt sáng giá nhất cho chức Chủ tP.H.T
  5. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Các HLV huyền thoại ở Milan
    Nereo Rocco - Vị thánh ở San Siro
    Nereo Rocco là một trong số những HLV để lại ấn tượng nhất trong lịch sử của CLB không phải chỉ ở những danh hiệu lớn mà ông đem đến cho độI bóng mà còn vì cá tính hơi lập dị, sự chăm chỉ, tính hay pha trò nhưng đôi khi đến mức kì dị. Điều đặc biệt nhất chính là ở chỗ ông là ngườI đầu tiên nhận ra tài năng của Gianni Rivera và đưa cầu thủ này về với Milan khi Rivera mới có 16 tuổi để sau đó trở thành một ngôi sao sáng trong lịch sử CLB. Biệt danh của ông là ?oÔng thánh?, Rocco làm HLV tại Milan trong 3 thời kỳ khác nhau từ 1961-1963, 1967-1973 và 1975-1977. Nhiều người chỉ trích lối chơi của Milan dưới thời Rocco là nhàm chán và thiên về phòng ngự nhưng chính lối đá ấy đã đưa Milan tới chức vô địch Cúp C1 năm 1963. Hơn thế nữa, Jose Altafini, cầu thủ người Brazil được ông đưa về cách đấy 2 năm cũng là vua phá lưới trong năm ấy với 14 bàn thắng. Trong suốt những năm tháng dưới tay Rocco, Milan đã có những ngày tháng huy hoàng nhất và những cầu thủ vĩ đại nhất. Đó cũng là thời kì đầu tiên của một ?oĐại Milan? thống trị thế giới trong những năm 60. Milan đã giành được 2 Cúp C1, 2 Scudetto, 1 Cúp C2 và 1 Cúp Liên lục địa dưới triều đại của ông.
    Không chỉ là một HLV giỏI, Rocco cũng là một nhân cách lớn. Ông thường yêu các cầu thủ như con và các cầu thủ cũng coi ông như một người cha. Cesare Maldini, một trong số những cầu thủ được Rocco ưa thích nhất, kể lại rằng, mỗI khi đội bóng chơi không tốt thì mình là người đầu tiên bị chỉ trích bởi Rocco. ?oLúc ấy, ông ấy quay sang tôi, nháy mắt như muốn nói. ?oThế nào, con trai của bố mà lại chơi tệ thế à? ?o. Năm 1973, Milan thất bại trước Verona trong trận đấu cuối cùng ở Serie A và mất luôn chức vô địch vào tay đối thủ truyền kiếp Juventus, khi Rivera cãi nhau với trọng tài Lo Bello, người đã xử ép Milan rất nhiều trong trận đấu ấy, Rocco đã xông vào và nện cho ông này một trận tơi bời. Hậu quả là cả Rivera và Rocco bị cấm thi đấu và chỉ đạo 3 tháng. Nhưng Rocco thú nhận: ?o Tôi rất hả lòng hả dạ?. Rivera là người được ông cưng chiều nhất, trong một buổi tập của CLB, một thành viên của đội trẻ có một cú tắc vào Rivera đang ở tuổi xế chiều, Rocco nhảy dựng lên và gào thét ầm ỹ:? Sao mày dám làm trò đểu giả ấy?. Người ta còn nói rằng, Rocco cấm tất cả các cầu thủ đọc báo, truyện, thậm chí cả truyện tranh trong trại huấn luyện của CLB. Người ta sẽ còn nhớ mãi Rocco vì những điều ấy. Ông không mất nhiều thời gian để đi vào trái tim những người hâm mộ Milan. Rocco mất năm 1979 ở tuổI 67. Xin cám ơn ông , ?oÔng thánh? !
    Arrigo Sacchi ?" Một người hói thiên tài
    Sẽ không có ai dám khẳng định điều ấy nếu bây giờ là năm 1987, năm mà một Sacchi vô danh và rụt rè đặt chân lên thảm cỏ xanh mượt của San Siro hào nhoáng. Chính Berlusconi, người lúc ấy vừa ngôi lên ghế chủ tịch CLB một thời gian đã phát hiện ra ông, đưa ông về Milan, lúc ấy đang cần tìm một HLV thay thế Liedholm tài ba và tin cậy ông rất nhiều trong những năm ông ở đây. Sacchi không có một lý lịch ?ođẹp?. Ông chỉ là con của một người thợ đóng giày và có một sự nghiệp cầu thủ chẳng có gì đáng tự hào. Ông có một thời gian ngắn làm HLV cho Parma, lúc đó chỉ là một CLB vô danh chơi ở hạng Serie C1. Sacchi đã đưa CLB lên hạng Serie B trong vòng một năm, giúp họ đứng thứ 7 trong bảng xếp hạng và thế cũng đủ để lọt vào mắt xanh của Berlusconi, ngườI rất thích phong cách huấn luyện của Sacchi.
    Sacchi không được lòng các cầu thủ vốn được cưng chiều ở Milan. Ông đem về CLB hai cầu thủ mà về sau sẽ trở thành những chân sút lớn của CLB: Paolo Virdis và Daniela Massaro, lúc đó còn vô danh. Báo chí Italia mỉa mai gọi Sacchi là ?o Lão hói? và còn đặt cược xem ông sẽ ở lại với Milan trong bao nhiêu ngày. Thậm chí Franco Baresi còn cảm thấy tự ái khi Sacchi cho anh xem cuốn băng về hậu vệ Signorini của Parma và bắt anh phải chơi hệt như cầu thủ này. Các cầu thủ còn cảm thấy bất mãn hơn nữa khi Sacchi đưa vào áp dụng một chế độ luyện tập khổ sai, không cho phép các cầu thủ ngủ trưa mà thay vào đó là một tiếng đồng hồ liệu pháp tâm lý và thể lực. Chính chế độ tập luyện hà khắc ấy đã khiến các cầu thủ gọi ông là ?ocái búa tạ?. Một trong những chiến thuật lớn nhất đã được hoàn thiện dưới thời Sacchi là chiến thuật phòng thủ khu vực, vốn đã được áp dụng đầu tiên dưới thời của người tiền nhiệm Liedholm. Từ đây, Milan bắt đầu chơi với một hàng hậu vệ chuỗi mắt xích 4 ngườI phòng ngự theo chiều nghiêng với Baresi chơi ở vị trí libero, bẫy việt vị được áp dụng được áp dụng một cách liên tục tạo ra một sức ép lên đối phương. Sacchi cũng yêu cầu các cầu thủ phải chơi nhanh, tăng cường tấn công mạnh ở 2 cánh và sử dụng các tiền đạo và tiền vệ trung tâm trong một thế trận pressing liên tục trong suốt thời gian thi đấu. Đó chính là hệ thống thi đấu nổi tiếng thế giới mang tên Sacchi, và được coi là phát kiến lớn lao về chiến thuật cuối cùng của thế kỉ 20.
    Sacchi đã có công đưa về Milan bộ 3 huyền thoại Van Basten-Gullit-Rijkaard, cùng với một dàn cầu thủ nội địa đẳng cấp thế giới: Maldini, Costacurta, Donadoni, Baresi, Virdis, Colombo, Ancelotti, Evani?mở ra thời kì huy hoàng thứ 2 của AC Milan trên chiến trường bóng đá ngoài biên giới Italia. Trong 4 năm tại vị, Sacchi đã cùng Milan giành 1 Scudetto, 2 Cúp C1, 2 Cúp Liên lục địa và 2 Siêu Cúp châu Âu nhờ sức mạnh về nhân lực và chiến thuật đúng đắn của mình. Thời kì của Sacchi kết thúc năm 1991, sau một mùa giải trắng tay cùng CLB. Nhưng rất nhiều người cho rằng, ông phải ra đi vì không hoà hợp được với các cầu thủ của mình, trong đó có Van Basten, người luôn yêu cầu ông cho phép anh được chơi tự do hơn.
    Sau Milan, Sacchi cũng đã có 6 năm làm HLV cho Squadra Azzurra, và mặc dù các số liệu thống kê cho thấy, ông là HLV giàu thành tích hàng đầu của đội tuyển, nhưng Sacchi không được người dân Italia ưa thích do tính thích thử nghiệm của ông. Sacchi rời đội tuyển năm 1996 sau thất bại ở EURO. Sacchi cũng quay trở lại Milan trong những ngày khốn khó của CLB, nhưng cũng chỉ ở lại được vài tháng trước khi lại ra đi khi không cứu được CLB thoát khỏi những thất bại nhục nhã ở Champions League và Serie A. Sacchi cũng có thời kì làm HLV ở Aletico Madrid nhưng cũng không thành công. Hiện nay, sau khi đến rồi đi khỏi Parma, ông đang là một BLV bóng đá khá nổi tiếng và vẫn đang mong chờ một ngày nào đấy được trở lại với bóng đá đỉnh cao, bởi vì ?o Tôi được sinh ra là cho bóng đá và tất cả những gì trải qua vẫn là chưa đủ với tôi?. Dù thế nào đi chăng nữa, xin chúc Arrigo may mắn!
    Fabio Capello ?" Đi lên từ sự khiêm tốn
    Khuôn mặt hay nhăn nhó, nụ cười gần như không bao giờ thấy trên môi và một thái độ khá kín đáo khi tiếp xúc với báo chí, Capello là người đem đến cho người khác, những ấn tượng xấu nhiều hơn là sự yêu thích ban đầu. Nhưng có một điều đơn giản, ông thích nói ở trên sân nhiều hơn bởi bản tính giản dị và không thích màu mè. Capello đã từng có thời được coi là một tài năng trẻ. Chơi ở vị trí tiền vệ trong đội hình Roma rồi Juventus những năm 70, Capello được nhớ đến như một cầu thủ có lối chơi khiêm tốn, cần cù và năng động. Người ta sẽ còn nhớ mãi ông trong tư cách cầu thủ với bàn thắng duy nhất vào lướI đội tuyển Anh năm 1973 trong một trận đấu giao hữu ngay trên sân Wembley. Capello đến với Milan trong những năm cuối cùng của sự nghiệp nhưng cũng để kịp giành một Scudetto vớI CLB năm 1979 trước khi giải nghệ vào năm sau đó.
    Capello học được nhiều trong những tháng năm làm trợ lý cho HLV Liedholm trong những năm 80. Ông còn là cánh tay phải của Berlusconi ở tập đoàn Finivest trong khi vẫn là HLV của đội trẻ. Khi Capello lên nắm quyền thay cho Sacchi năm 1991, nhiều người cho rằng ông chỉ là bù nhìn của Berlusconi và thậm chí còn bi quan cho rằng, sau Sacchi sẽ không còn một Milan vĩ đại nữa. Nhưng họ đã nhầm, chuỗi thắng lợi của Milan, không dừng lại ở đấy. Các cầu thủ mệt nhoài bởi những buổi tập nặng nề dưới thời Sacchi nay có thể thở phào nhẹ nhõm vì những buổi tập đã nhẹ hơn và Capello cũng thành công trong việc đem lại một sự tự tin và sinh khí mới cho các cầu thủ. Kế tục những gì mà Sacchi đã để lại, Capello xây dựng một phong cách thi đấu mới, tập thể hơn, sắc sảo hơn nhưng cũng chặt chẽ hơn và chắc chắn hơn trong phòng ngự. VớI những chiến thắng trong 5 năm dưới quyền Capello, Milan tiến lên một đỉnh cao mới: 4 Scudetto, trong đó có 3 lần liên tiếp từ 1992 đến 1994, 1 Cúp C1, 1 Siêu Cúp châu Âu và 2 lần vào Chung kết Cúp C1 châu Âu. Đó là những năm tháng của một Milan hơi khắc khổ, ít sáng tạo hơn, nhưng đầy tính thực dụng và rất chặt chẽ. Nhưng cuộc hôn nhân của Capello với Milan đã kết thúc vào mùa xuân 1996. Sau khi đem về cho Milan một Scudetto nữa, Capello cũng trở lại một lần nữa vào năm 1997, nhưng không thành công.
    Capello cũng có một năm thành công với Real Madrid, đem lại một chức vô địch cho CLB ?oHoàng gia?. Giờ đây, đang là HLV của AS Roma, Capello đang hy vọng sẽ đưa CLB cũ của mình lên một đỉnh cao mới. 18 năm sau khi CLB này đoạt Scudetto lần cuối cùng. Nhưng các CĐV Milan không bao giờ quên ông. Bằng chứng là trong trận đấu của Roma trên sân San Siro với Milan, trên khán đài của SVĐ phấp phớI một băng rôn với dòng chữ: ?oGrazie Capello!? (?oXin cảm ơn Capello!?).
    Tạp chí TTVH số 3-2001
    Van Basten ?" Con thiên nga trắng trên sân cỏ xanh
    Tài năng có một không hai ấy nở rộ khi mới 17 tuổi và đã là một chân sút được sủng ái ở Ajax. Trận đấu đầu tiên của anh trong màu áo đỏ-trắng của Ajax là lúc anh được vào sân thay cho thần tượng Cruyff của mình. Một hành động đầy ý nghĩa cho phép một tài năng trẻ đi theo bước chân của một thiên tài. Đó cũng chính là sự kết thúc của kỉ nguyên Cruyff và mở ra một kỉ nguyên mang tên Van Basten.
    Rất mạnh trong không chiến, sút bóng hai chân đều hiệu quả, khả năng thăng bằng tuyệt hảo và kỹ thuật rất khéo léo dù có một thể hình cao lớn, anh là cơn ác mộng của tất cả những hàng hậu vệ. Chính những phẩm chất hàng đầu ấy đã đưa anh đến Milan, không phải là để tiếp thị cho những kế hoạch chính trị của ông Berlusconi mà là để chiến thắng. Tỷ phú truyền thông đầy tham vọng đang xây dựng một Dream Team để chinh phục thế giới. Van Basten cùng với những người đồng hương Ruud Gullit và Frank Rijkaard, anh là nòng cốt của một trong số những CLB mạnh nhất trong lịch sử bóng đá thế giới.
    Nhưng tất cả không phải là suôn sẻ với chàng trai đến từ Hà Lan. Một chấn thương năng nơi đầu gối phải suýt nữa đã huỷ hoại cả một mùa giải của anh ở đây. Không ai cảm thấy lạc quan về một ngôi sao chưa đá trận nào đã ngồi ngoài sân đến 6 tháng trong một đội hình giàu tham vọng như AC Milan. Nhưng Arrigo Sacchi là người rất kiên nhẫn, Van Basten đã góp phần cùng Milan giành tất cả những danh hiệu cao quý nhất trong cuộc đời cầu thủ: 3 Scudetto, 2 cúp C1, 2 Cúp Liên lục địa, 2 Siêu cúp Châu Âu và 3 lần được vinh dự giơ cao quả bóng vàng Châu Âu trong vòng có 6 năm ngắn ngủi. Hiếm ai có thể mơ thấy những chiến tích lẫy lừng như thế. Trong số 3 cầu thủ người Hà Lan, Van Basten là người được các CĐV yêu thích nhất. Họ đặt cho anh biệt danh ?oCon thiên nga trắng? do những cú chạy và những động tác hệt như của Rudolf Nureyev trong ballet. Rất khó có thể kể hết ra đây những bàn thắng kì diệu mà anh đã ghi được trong sự nghiệp nhưng có lẽ không ai có thể quên bàn thắng tuyệt diệu mà anh đã ghi được vào lưới ĐT Liên Xô (cũ) tại EURO 88. Trong 6 mùa giải ở Serie A, anh đã ghi tổng cộng 90 bàn thắng cho CLB và một lần trở thành Vua phá lưới vào năm 1992 với 25 bàn thắng.
    Nhưng bóng đá thật oan nghiệt. Nó đã cho anh tất cả nhưng cũng để lại cho anh nhiều nỗi đau. Những chấn thương liên tiếp đã buộc anh phải giã từ bóng đá khi mới 31 tuổi, độ tuổi vẫn còn khả năng thăng tiến trong đời cầu thủ, sau 3 năm vật vã với những chấn thương. Bóng đá thế giới đã bị cướp đi một trong số những viên ngọc sáng giá nhất của mình. Anh không khóc trong cuộc họp báo tuyên bố đầu hàng số phận của mình vào một ngày Hè 1995 nhưng cơn xúc động nghẹn ngào trào dâng trong lòng người có mặt. Họ hiểu rằng sẽ không bao giờ được chứng kiến chân sút vĩ đại nhất của bóng đá thế giới trổ tài ở những đầu trường nữa. ?oTôi đã cố gắng hết sức, tôi đã làm tất cả những gì có thể, với những bác sĩ danh tiếng nhất. Nhưng không hiệu quả. Tôi đã có những năm tháng tuyệt diệu nhất với Milan, nhưng tất cả đã chấm dứt rồi. Biết thế nào được. Đó chính là cuộc sống?, anh cay đắng phát biểu. Đối với Van Basten, những giây phút đáng nhớ nhất không phải là lúc anh cùng đội tuyển Hà Lan giở cao chiếc cúp vô địch châu Âu năm 1988 mà là ?otrước trận CK với Steatua Bucarest ở Barcelona năm 1989. Khi xe ô tô chở chúng tôi đến SVĐ Nou Camp, chúng tôi gần như không thể nhích lên nổi, hơn 90 ngàn CĐV của chúng tôi đang ào ra khắp các phố chính. Đó là một cảm giác không thể nào quên?.
    Cuộc sống đối với Van Basten bây giờ thật đơn giản. Anh giành nhiều thời gian trong ngày rỗi rãi để chơi golf, môn thể thao anh yêu thích nhất sau bóng đá và chăm sóc cho vợ và 2 con, những người đã ở bên anh trong những giờ phút huy hoàng và cay đắng nhất. Gần đây nhất, Van Basten đã có mặt trong nhóm ?oTask Force? của FIFA với những dự thảo thay đổi về luật. Những ý kiến mà anh đưa ra hết sức thú vị: ?oĐề nghị của tôi là : Khi một cầu thủ phạm lỗi 5 lần, anh ta sẽ được thay thế bởi một cầu thủ dự bị. Nếu thành viên thứ 3 của đội bị ra sân thì sẽ hết người thay và khi đó họ sẽ phải chơi với 10 người. Tôi làm như thế rút ra từ kinh nghiệm của bản thân mình. Tôi luôn luôn bị chơi xấu trong suốt sự nghiệp và là một ví dụ điển hình về chuyện một sự nghiệp đang phát triển thuận lợi bỗng nhiên kết thúc trong bi kịch?.
    Bây giờ, bóng đá không còn chiếm trọn tâm trí của anh nữa. Van Basten cung không thích làm HLV bởi những áp lực lớn lao mà công việc đó đem lại. Anh đang tận hưởng tất cả những gì tốt đẹp nhất mà cuộc đời đem lại. ?oTôi cần được nghỉ ngơi. Khi chấn thương tôi nhận ra rằng trong cuộc đời này có những điều còn quan trọng hơn cả bóng đá. Thay vì cứ phải gò mình vào những thời khoá biểu luyện tập và thi đấu, tôi có thể sống một cách tốt hơn. Bây giờ tôi mới hiểu cuộc sống còn có bao nhiêu điều đẹp đẽ khác?.
    Dù sự nghiệp phải kết thúc trong bi kịch như thế, nhưng Van Basten đã có gần như tất cả những gì mà một cầu thủ nhà nghề mơ ước. Có thể anh sẽ không quay trở lại với bóng đá dù anh hoàn toàn có khả năng. Nhưng nếu anh trở lại, Milan sẵn sàng giang rộng cánh tay đón người con trở về.
    Một sự nghiệp lẫy lừng
    Sinh ngày: 30/10/1964 ở Utretch, Hà Lan
    Cao: 1m87
    Sự nghiệp ở AC Milan (1987-1995), 147 trận, 90 bàn thắng, Vua phá lưới Serie A 1990 và 1992
    Các danh hiệu: 3 lần vô địch Hà Lan: 1982, 1983, 1985; 3 lần Cúp Hà Lan: 1983, 1986, 1987; 1 Cúp C2 châu Âu với Ajax: 1987; 1 chức vô địch châu Âu với ĐT Hà Lan: 1988; 3 Scudetto: 1988,1992,1993; 2 Cúp C1 châu Âu:1989, 1990; 2 siêu Cúp Italia: 1989,1993; 2 lần Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFA: 1988,1992; 3 lần ?oQuả bóng vàng châu Âu?: 1988, 1989, 1992; 4 lần Vua phá lưới Hà Lan: 1984, 1985, 1986, 1987; 1 lần Chiếc giày vàng châu Âu năm 1986 (33 bàn thắng)
    Tạp chí TTVH số 3-2001
    P.H.T
  6. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Ba chàng ngự lâm quân Van Basten ?" Gullit ?" Rijkaard
    Khởi đầu kỷ nguyên thống trị Italia và Châu Âu của đế chế Milan chính là 3 chàng ngự lâm pháo thủ Ruud Gullit, Marco Van Basten và Frank Rijkaard. Với bộ ba người Hà Lan bay, Milan đã thống trị Châu Âu, mọi con đường đếu dẫn đến San Siro. Dưới gót giày của những chiến binh Rossoneri, tất cả các đối thủ đều run sợ trước màu sắc đỏ và đen và ngã mình trước sức mạnh của Milan. Milan đã reo rắc nổi kinh hoàng cho các đối thủ, Real Madrid, Juventus, Benfica, Inter, Napoli của Maradona ... đều đã nếm mùi thất bại. Sự thống trị của Milan được ví như sự thống trị Châu Âu của hoàng đế Napoleon. Đó là sự thật không thể chối cãi trước một Milan hùng mạnh.
    Sau khi thành danh với PSV và Ajax; Ruud Gullit và Van Basten đã đến với Milan vào những năm 1986 - 1987 và giúp Milan đoạt Scudetto và trở lại đấu trường Châu Âu sau nhiều năm vắng bóng. Ngay trong lần trở lại đấu trường Châu Âu, bằng một lối đá pressing - lối đá tổng lực luôn tạo sức ép lên đối thủ của nhà chiến lược cách tân HLV A. Sacchi, với sự thể hiện hoàn hảo của các cầu thủ Baresi, Maldini, Ancceloti, Donadoni, Gullit và Van Basten; trong đó 2 cầu thủ người Hà Lan đóng vai trò quan trọng trong sơ đồ chiến thuật của Milan. Hai anh đã đóng góp rất nhiều bàn thắng quan trọng cho Milan, đặc biệt là mỗi người hai bàn thắng trong trận chung kết C1 năm 1988 - 1999 trước đội bóng Rumania Stuea Bucarest.
    Với phong độ suất sắc của Van Basten và Gullit thể hiện tại vòng chung kết Euro 88 đã tái hiện lại hình ảnh cơn lốc màu da cam, Hà Lan đã đăng quang tại giải này. Không ai quên được bàn thắng của Van Basten với cú "vô lê" không tưởng vào lưới thủ môn xuất sắc nhất thế giới R. Dasaev (Liên Xô). Cùng đăng quang với Hà Lan, Van Basten cũng nhận phần thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất vòng chung kết và Quả bóng vàng Châu Âu 88 sau Gullit quả bóng vàng Châu Âu 87. Điều này cho thấy giá trị của hai cầu thủ này và ánh mắt tinh đời của vị Chủ tịch đam mê S. Berluconi.
    Tại Euro 88, Milan cũng đã phát hiện ra một tiền vệ phòng ngự Frank Rijkaard và anh đã đến với Milan sau khi Euro 88 kết thúc. Khi đó Rijkaard đang lưu lạc Tây Ban Nha với đội bóng nhỏ Real Zaragoza và chưa tạo được dấu ấn nào tại vị trí của mình. Việc Rijkaard đến với Milan đã hoàn tất bộ ba người Hà Lan bay tại Milan. Thi đấu ở 3 vị trí trọng yếu trong sơ đồ chiến thuật của Milan, 3 chàng ngự lâm quân đã góp phần mang đến nhiều thành công cho Milan. Milan là câu lạc bộ xuất sắc nhất thế giới, họ không có đối thủ cản bước? và như một quy luật tất yếu của kẻ mạnh, Milan đoạt thêm chiếc Cúp C1 lần thứ hai liên tiếp trong tổng số 4 cúp C1 của họ và người giúp Milan đăng quang chính là Frank Rijkaard bằng bàn thắng duy nhất vào lưới CLB Benfica.
    Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Rijkaard, Van Basten và Gullit mang các số áo 8, 9 và 10 ?" đó là sự thể hiện tuyệt đối về vị trí thi đấu của mình. Thời đó, số áo thể hiện vị trí của một cầu thủ trên sân.
    - Với số 8, Rijkaard là 1 tiền vệ phòng ngự có nhiệm vụ cản phá, thu hồi bóng và phát động tấn công. Với anh, Milan có 1 sự đảm bảo chắc chắn bằng vàng, muốn thắng Milan trước tiên phải vượt qua anh trước khi xâm nhập bộ tứ hậu vệ huyền thoại của Milan là Baresi, Maldini, Costacuta và Tasotti. Điều này quả là khó cho các đối thủ của Milan. Rijkaard có một lối đá chắc chắn đôi khi rắn, không hoa mỹ và rất cần cù. Anh như một người anh hùng thầm lặng trước danh tiếng của 2 người đồng hương.
    - Với số 9, đó là số áo của một trung phong ghi bàn của một đội bóng và với số áo này, Van Basten đã ghi rất nhiều bàn thắng cho Milan và anh sẽ mãi mãi được ghi nhận là tiền đạo xuất sắc nhất trong lịch sử Milan.
    - Với số 10, đó là thủ lĩnh, nhạc trưởng, linh hồn của một đội bóng và đó chính là Gullit. Những đường bóng mê thuật, những pha kiết thiết sắc như dao cạo, những cú đá phạt và những bàn thắng tuyệt đẹp,? đều được Gullit trình diễn tại San Siro ?
    Tiếp nối thành công của Milan là những chiếc cúp Liên lục địa, Siêu Cúp Châu Âu, vô địch Serrie A liên tiếp xuất hiện tại Milan. Suốt một thời gian dài, Milan thống trị nước Ý và Châu Âu với bộ ba Hà Lan. Năm 1992 nhờ chức vô địch và đoạt giải vua phá lưới Serrie A, Van Basten đoạt danh hiệu quả bóng vàng Châu Âu lần thứ 3 trong sự nghiệp của mình. Nhắc đến Milan thập niên 90, tất cả đều nghĩ đến Milan của bộ 3 Hà Lan bay và họ đã làm quên đi bộ ba huyền thoạI người Thụy Điển của Milan trong thập niên 60.
    Sau thất bại trước OM trong trận chung kết Champions League 2002 ?" 2003, đánh dấu sự thoái trào của ba chàng ngự lâm pháp thủ. Gullit sang Sampdoria tìm kiếm vinh quang mới, Rijkaard trở về CLB cũ Ajax và Van Basten do những chấn thương hành hạ đã phải giã từ sân cỏ ở độ tuổi 29 đẹp nhất của đời cầu thủ. Gullit và Rijkaard vẫn thành công tại các CLB mới của mình điều đó chứng tỏ giá trị trình độ của họ là vĩnh cửu. Nhưng điều tiếc nuối nhất cho các Rossoneri là sự chia tay sân cỏ của Van Basten, không ai quên được hình ảnh khi Van Basten khóc chạy vòng quanh sân San Siro chào tạm biệt tất cả các cổ động viên và từ giờ phút đó, tất cả các Milanista mới nhận ra một sự thật phũ phàng sân San Siro sẽ vĩnh viễn mất đi những pha bóng, những động tác kỹ thuật, những bàn thắng đẹp như trong mơ của 3 chàng ngự lâm quân. Dấu ấn của bộ ba Hà Lan tại Milan quá lớn, tất cả các cầu thủ sau này đến với Milan đều được đem so sánh với họ?nhưng rất may, Milan đã có những cầu thủ thay thế hoàn hảo đó là những M. Desailly, Z. Boban, Savisevic, Shevchenko,?
    Gullit, Van Basten, Rijkaard! Xin cảm ơn những gì các anh mang lại, các anh là một phần lịch sử của Milan, những gì các anh đóng góp cho Milan sẽ khắc sâu trong trái tim đầy nhiệt huyết của tất cả các cổ động viên Milan.
    Chipheo
    Frank Rijkaard - Người chiến binh thầm lặng
    Trong bộ ba người Hà Lan bay tạo dựng nên đế chế Milan trong thập niên 90, Rijkaard không nổi bật như 2 người bạn của mình là Ruud Gullit và Van Basten, bởi vì vị trí của anh là một tiền vệ thủ. Một vị trí ít được chú ý như tiền vệ dẫn dắt hay tiền đạo, nhưng nó vô cùng quan trọng trong sơ đồ chiến thuật của các đội bóng, đặc biệt là Milan thời bấy giờ, lấy phòng ngự chắc chắn, sau đó tấn công liên tục gây sức ép toàn bộ mặt sân (pressing) làm đối thủ hoảng loạn. Điều này cần thiết phải có một tiền vệ thủ cực kỳ cơ động, cản phá các đợt lên bóng của đối phương, phát động tấn công ngay từ sân nhà và có thể trực tiếp ghi bàn?nhiệm vụ này được giao cho Rijkaard và anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, tạo nên một dấu ấn rỏ nét trong thành công của Milan. Với vị trí của mình, tên tuổi Rijkaard bay xa và nhắc đến vị trí tiền vệ thủ, các HLV, Bình luận viên và người hâm mộ thường đem anh ra để so sánh.
    Lối đá của anh rất chắc chắn, dũng mãnh và đầy uy lực. Đó là tố chất cần có của một tiền vệ thủ, một mẫu cầu thủ mà các tiền vệ thủ nổi tiếng thế hệ sau anh như: Desailly, Viera, Roy Kean, Davids và Makelele cũng không thể đạt tới được trình độ của anh. Không những cản phá tốt, anh còn tham gia tấn công và ghi nhiều bàn thắng quan trọng cho Milan và tuyển Hà Lan.
    Cũng như Gullit, Rijkaard sinh ra ở Suniam, một thuộc địa cũ của Hà Lan và như bao đứa trẻ da màu khác, bóng đá đường phố đã ăn vào máu và đã tôi luyện cho anh thành một người chiến binh vĩ đại sau này. Từ những trận bóng đá trên đường phố, CLB Ajax đã phát hiện ra tài năng trẻ này và đưa anh đến trường đạo tạo bóng đá của CLB và tài năng của anh đã phát triển từ nơi đây. Sau một thời gian ngắn chơi cho Ajax ở đội hình 1, Rijkaard đã trải qua những năm tháng lưu lạc tại những CLB nhỏ ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Nhưng với thành công cùng đội tuyển Hà Lan (đoạt cúp VĐ Euro 88 và sự xuất sắc của Van Basten, Gullit tại Milan, mùa bóng 1989-1990, Rijkaard đã gia nhập đội quân Rossoneri từ CLB nhỏ Real Zaragoza và từ đây anh đã bước ra từ bóng tối và đoạt được những thành công rực rỡ với Milan.
    Ngay từ mùa bóng đầu tiên, Rijkaard đã giúp Milan đoạt Cúp C1 lần thứ hai liên tiếp sau khi ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết hạ CLB sừng sỏ ĐKVĐ Bồ Đào Nha Benfica. Không ai có thể quên được pha ghi bàn dũng mãnh của anh, từ tuyến hai băng lên và ghi bàn vào lưới Benfica. Như vậy, với hai cúp C1 liên tiếp, bộ ba Hà Lan đã có những đóng góp to lớn vào thành công của Milan.
    Sau khi đăng quang Vô địch C1 với Milan mùa bóng 1989-1990, cùng với sự xuất sắc của bộ ba Gullit, Rijkaard và Van Basten, đội tuyển Hà Lan được dự báo như là một ứng cử viên nặng ký của chức vô địch World Cup 90 được tổ chức tại Italia. Tuy nhiên, Hà Lan đã thất bại tại giải này vì những bất ổn nội bộ, chấn thương và xuống phong độ của các trụ cột sau một mùa giải căng thẳng với các CLB của mình. Tại giải này cũng đánh dấu một sự kiện buồn cho cá nhân Rijkaard, anh bị thẻ đỏ đuổi ra sân trong trận Hà Lan gặp Đức tại vòng 1/16. Do không chịu nổi sự khiêu khích về màu da của tiền đạo ma mãnh Voller, sau một pha va chạm Rijkaard đã nhỏ nước bọt vào mặt tiền đạo này và cả hai cùng bị đuổi ra sân. Đây là một pha bóng đáng buồn nhất tại vòng chung kết khi truyền hình luôn trình chiếu cảnh quay chậm.
    Sau sự kiện này, trở về Milan, Rijkaard đã trở nên chín chắn và trầm tĩnh hơn. Sau khi thất bại của Milan trước OM vào mùa bóng 1990-1991 và bị cấm thi đấu 1 năm ở Cúp Châu Âu, Milan đã có những cải tổ mạnh mẻ về mặt nhân sự. HLV tài năng A. Sacchi ra đi và nhường chỗ cho HLV mới F.Capello, một cựu cầu thủ phòng ngự của Milan. Vì vậy lối chơi của Milan có một sự thay đổi nhỏ đó là đặt hiệu quả lên hàng đầu, cần chắn chắn ở hàng thủ sau đó mới triển khai tấn công nhưng vẫn không mất đi nét hoa mỹ, đẹp mắt dưới thời HLV Sacchi. Sự thay đổi chiến thuật của Milan dựa trên nền tảng chắc chắn của bộ tứ hậu vệ huyền thoại Baresi, Maldini, Costacurta và Tasotti cùng với phong độ xuất sắc của Rijkaard. Lối đá này đã mang lại 58 trận bất bại cho Milan trong các mùa bóng 1991-1993, phá vở kỷ lục tồn tại hơn 40 năm của Serie A. AC Milan đoạt chức vô địch Serie A mùa bóng 1991 ?" 1992 và bàn thắng mang lại chức vô địch cho Milan cũng chính là bàn thắng tuyệt đẹp của Rijkaard trong trận hòa 1-1 với Napoli. Milan đã trở lại đấu trường C1 ( mùa bóng này đã đổi tên thành Champions League) với những trận thắng áp đảo khi đi đến trận chung kết. Nhưng thất bại đau đớn 1-0 trước OM đã phá vở giấc mộng chinh phục Châu Âu của một Milan hùng mạnh và đầy kiêu hãnh. Thất bại này cũng đánh dấu chấm hết của bộ ba Hà Lan bay tại Milan. Mặc dù phong độ của Rijkaard vẫn còn rất tốt và có thể chơi bóng đỉnh cao tại Serie A vài năm nữa, nhưng anh đã kiên quyết trở về CLB cũ Ajax để chơi thêm một vài mùa bóng trước khi giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế của mình. Sự ra đi của anh đã để lại bao tiếc nuối cho các Rossoneri, cho những Fan của AC Milan trên khắp thế giới.
    Dưới sự dẫn dắt của Rijkaard, người đội trưởng mới của CLB, Ajax đã đoạt chức VĐQG Hà Lan mùa bóng 1993-1994 và trở lại đấu trường Châu Âu với những trận thắng hào hùng trước Real Madrid, AC Milan, Bayern Munich?Kinh nghiệm của Rijkaard và sức trẻ của các tài năng Kluivert, Seedorf, Davids, Kanu, ? đã giúp Ajax lọt vào chung kết Champions League năm 1995. Thật trớ trêu, CLB trong trận chung kết chính là AC Milan, nơi anh đã thành danh và tình cảm ăn sâu vào trong máu. Nhưng với bản lĩnh của một cầu thủ nhà nghề, anh đã dẫn dắt Ajax đối đầu và hạ Milan 1-0 trong trận chung kết. Rijkaard cùng động đội đăng quang trong nước mắt của các Rossoneri, của những đồng đội cũ chảy dài trên sân vận động thành Vienie và sự đau đớn của hàng triệu các cổ động viên trên thế giới khi theo dõi trận đấu qua màn ảnh nhỏ. Milan đã gục ngã ở những giây phút cuối cùng của trận đấu bằng bàn thắng của cầu thủ trẻ Kluivert sau khi nhận đường chuyền đẹp như mơ của cựu cầu thủ Milan Rijkaard - định mệnh đã đưa anh đến Milan cùng với những thành công rực rỡ và cũng an bài cho Milan với nhát kiếm tại thành Vienie. Nhưng điều đó không làm giảm đi hình ảnh tốt đẹp của anh trong trái tim của các Rossoneri chân chính.
    Những vinh quang của cuộc đời cầu thủ Rijkaard đã khép lại với trận chung kết Champions League 1995, anh giả từ thi đấu và lao vào niềm đam mê mới đó là kinh doanh và thiết kế thời trang và cũng rất thành công. Nhưng số phận gắn liền anh gắn liền với trái bóng, anh đã trở lại sân đấu trên cương vị HLV tuyển Hà Lan tại vòng chung kết Euro 2000 được tổ chức tại quê hương anh. Tuyển Hà Lan được kỳ vọng sẽ đoạt chức vô địch với những trận thắng oanh liệt và đẹp mắt tại vòng loại. Nhưng tại bán kết, do không may mắn, tuyển Hà Lan đã bị loại sau những quả đá luân lưu 11 trước tuyển Italia, Rijkaard đã từ chức mặc dù ông không có lỗi trước sự thất bại của đội tuyển Hà Lan và nhận HLV cho một đội bóng nhỏ là Sparta Rotterdam, nhưng nhanh chóng bị thất bại. Dường như trên cương vị HLV, Rijkaard không được thành công và kém may mắn.
    ?oThất bại là mẹ thành công? đó là một châm ngôn bất hủ mà ai cũng thuộc, giờ đây Rijkaard đã trở thành HLV mới cho CLB khổng lồ Barcelona. Người dân xứ Catalan đang rất kỳ vọng vào ông thổi một luồng gió mới trong cuộc đại cách mạng của Barca, sau bao năm trời đau khổ dưới bóng của đại kình địch Real Madrid và Barca đã có thành công bước đầu khi trận giao hữu mới đây trước Juventus, Barca đã thắng 6-5 bằng loạt đá luân lưu 11m sau khi dẫn trước 2-0 với một lối chơi dũng mãnh và đẹp mắt, cũng nên nhớ rằng đây là trấn đấu đầu tiên của Barca dưới sự dẫn dắt của Rijkaard.
    Tất cả các fan hâm mộ Milan đều cầu chúc cho anh thành công với Barca như những gì anh đã thành công với Milan. Nhưng liệu định mệnh có tiếp tục giành cho Milan khi Barca sẽ gặp Milan tại trận chung kết Champions League vào mùa bóng 2004 ?" 2005?, lúc đó trái tim của các Rossoneri lại nhói đau khi nghĩ đến những giây phút định mệnh năm 1995 tại thành Vienne?
    chipheo
    P.H.T
  7. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    "Hai anh em" đến từ Balkan
    Năm 1992, Nam Tư, nội chiến nổ ra. Tình hình chiến sự khốc liệt đã khiến nền bóng đá đầy rẫy nhân tài của Nam Tư bỗng chốc trở nên tan tác. Hàng loạt danh thủ rời khỏi quê hương sang lánh nạn tại Tây và Nam Âu. Hai trong số những cánh chim tha hương đó đã đậu lại thành Milano. Và câu chuyện bắt đầu.
    Sinh ra tại 2 nước cộng hoà "anh em" thuộc liên bang Nam Tư, đến Milan gần như cùng lúc, lại có vị trí thi đấu khá giống nhau, có thể coi Zvonimir Boban và Dejan Savicevic cũng như 2 anh em. Tuy nhiên, họ đến Milan với tư thế hoàn toàn khác nhau. Trong khi Savicevic vừa mới là nhà vô địch cúp C1 Châu Âu cách đó không lâu( cùng với Sao Đỏ Belgrade năm 91) thì Boban lại đến Milan sau khi chịu án treo giò 2 năm do dính vào 1 vụ chống người thi hành công vụ. Vụ án đó xảy ra trong 1 trận đấu thuộc giải vô địch Nam Tư năm 89, khi xảy ra hỗn loạn trên sân, 1 số cảnh sát Serbie đã tràn xuống sân đàn áp. Tận mắt chứng kiến 1 đồng bào Croatia của mình bị cảnh sát ngược đãi, anh chàng Boban nóng nảy đã tung 1 cú song phi đúng kiêủ con nhà võ. Kết cục là án treo giò. Sự kiện đó cũng là 1 trong những giọt nước cuối cùng làm tràn ly, xung đột giữa các dân tộc trong liên bang Nam Tư nổ ra, trong đó có xung đột giữa Serbie-Montenegro của Savicevic với Croatia của Boban. Nhưng lạ thay, giữa 2 cầu thủ đến từ 2 chiến tuyến này, lại chỉ có tình bạn, tình anh em keo sơn. Họ gia nhập Milan khi đội bóng này đang ở thời kỳ đỉnh cao, với bộ 3 Hà Lan bay. Ngoài 3 pháo thủ Hà Lan và 2 người bọn họ, còn có 1 người ngoại quốc khác là Jean Pierre Papin. Trong khi quy định lúc đó chỉ cho phép có tối đa 3 cầu thủ nước ngoài được ra sân. Vậy là họ phải cạnh tranh để có được vị trí chính thức. Và ban đầu, họ không thành công. Không ít cổ động viên Milan khi đó đã thắc mắc tại sao ban lãnh đạo lại đưa về mấy anh "nhà quê Balkan" này, và ai cũng cho rằng chẳng sớm thì muộn, 2 anh chàng này sẽ phải cuốn gói khỏi Milan. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều đã lầm. Mùa giải 92-93 kết thúc cũng là thời điểm ở Milan diễn ra 1 cuộc thay máu ồ ạt. Hàng loạt tên tuổi ra đi, đáng ngạc nhiên thay, những cái tên rời khỏi Milan lại là Gullit và Rijkard. Hai anh nhà quê vẫn ở lại. Cùng với chấn thương dai dẳng của Van Basten, 2 chàng trai đã tìm thấy cơ hội của mình, và từ đây sự nghiệp của họ tại Milan rẽ theo những bước ngoặt lớn. Có điều, đó lại là 2 con đường riêng rẽ và không giống nhau.
    Chỉ có Savicevic tận dụng được cơ hội. Mùa giải 93-94 chứng kiến sự bùng nổ của Dejan. Hợp cùng lão tướng Massaro, Savicevic đã tạo nên cặp tấn công đáng sợ. Không ghi hàng loạt bàn thắng, nhưng bộ đôi này luôn toả sáng trong những trận đấu quan trọng. Phong độ tuyệt vời của Savicevic và Massaro trong nửa cuối mùa giải đã góp phần quan trọng giúp Milan dễ dàng giành scudetto và lọt vào trận chung kết cúp C1 gặp "Dream team" Barcelona của huyền thoại Cruyff và bộ đôi Stoichikov-Romario. Và chính ở đây, trên sân vận động Athens, Savicevic đã đi vào lịch sử của Milan. Người hùng của trận chung kết đã thể hiện đầy đủ tất cả những gì tinh tuý nhất của 1 cầu thủ bóng đá: những pha đi bóng lắt léo, những đường chuyền thông minh. Sau 2 bàn thắng của Massaro ở hiệp 1(có công sức không nhỏ của Savicevic), ngay đầu hiệp 2, Savicevic đã giáng cho Barca và Cruyff 1 đòn choáng váng: từ khoảng 35 met, anh đã thực hiện 1 cú lốp bóng thiên tài qua tầm với của Zubizaretta, nâng tỷ số lên 3-0. Chính bàn thắng này đã dập tan ý chí cuối cùng của Barca, và có lẽ nó trở thành khoảnh khắc đẹp nhất trong chiến thắng 4-0 huy hoàng năm đó. Dejan chính thức bước ra sân khấu lớn, và ghi tên mình vào cuốn biên niên sử của Milan.
    Chỉ có 1 con người yên lặng trong chiến thắng - Boban.
    Mùa giải tiếp theo mang đến bao khó khăn cho Milan, các lão tướng cao tuổi không còn duy trì được phong độ. Đội bóng lâm vào khủng hoảng chưa từng có trong nhiều năm trước. Chỉ có 1 cánh én nhỏ nhoi vẫn cố gắng thể hiện tất cả tài năng để vực dậy đội bóng - đó là Dejan Savicevic. Đến lúc này thì anh đã nổi lên như 1 thủ lĩnh của AC Milan. Một tờ báo khi đó đã gọi Dejan là thầy phù thuỷ, với cây đũa thần đang cố dùng phép thuật nhiệm màu của mình để dẫn dắt con tàu Milan chòng chành vượt qua bão tố. Và rồi thầy phù thuỷ đã thành công, đã mang lại phép màu cho đội bóng. Cùng với mùa xuân về, sức chiến đấu của Milan cũng hồi sinh. Nhưng đến lúc này thì Dejan không còn đơn độc nữa. Hàng loạt danh thủ của MIlan đều tìm lại được phong độ cao nhất: Maldini, Baresi, Panucci và........... Boban. Lần đầu tiên các cổ động viên Milan chứng kiến tài nghệ thật sự của Zvonnimir, và họ đã buộc phải thay đổi cách nhìn về anh. Bọ đôi Balkan tìm được tiếng nói chung-----&gt;không còn gì có thể ngăn cản được họ. Bán kết lượt đi cúp C1 gặp PSG, suốt 89 phút bị ép sân, đến đúng phút 90, Dejan dẫn bóng phản công thần tốc, vượt qua 2,3 cầu thủ đối phương, và 1 đường chuyền thiên tài cho Boban để Zvon lạnh lùng dứt điểm. Bàn thắng này về sau đã đi vào sách giáo khoa bóng đá như là mẫu mực của phong cách phòng ngự phản công bậc thầy. Đó là kết tinh của tài nghệ, sự ăn ý giữa 2 anh em đến từ Balkan. Rất đáng tiếc là chấn thương đã buộc Savicevic vắng mặt trong trận chung kết gặp Ajax, Boban và các đồng đội không thể bù đắp được sự thiếu thốn này, đành ngậm ngùi nhìn cúp C1 bay về Amsterdam.
    Quãng thời gian sau này là 1 thời kỳ bể dâu, sóng gió dồn dập đến với Milan. Và 2 anh em Balkan cũng không thoát khỏi vòng xoáy. Mặc dù cả 2 đã rất nỗ lực, cống hiến tất cả tài năng, ma thuật với trái bóng của họ, nhưng cũng chỉ đủ làm các cổ động viên trầm trồ tán thưởng, mà không đủ để vực dậy 1 Milan đang rệu rã. Một lần nữa, sự nghiệp của họ lại rẽ theo 2 hướng khác nhau. Nhưng lần này, Boban lại là người may mắn hơn. Không thành công với Milan, 2 cầu thủ đều hướng tới những thành công ở cấp độ đội tuyển. Croatia dưới sự dẫn dắt của Boban đã gây không ít bất ngờ tại EURO 96, đặc biệt vai trò thủ lĩnh của Boban được anh thể hiện vô cùng hoàn hảo. Trong khi đó Nam Tư của Savicevic vẫn chưa thoát khỏi lệnh cấm vận toàn diện, và Dejan của chúng ta đành nhìn những năm tháng đỉnh cao trong sự nghiệp trôi qua mà không được khoác lên mình chiếc áo Nam Tư. Cho đến khi Nam Tư quay trở lại với bóng đá quốc tế thì hỡi ôi, Dejan đã ở sườn dốc bên kia của sự nghiệp. "Thầy phù thuỷ" sớm bước qua đỉnh cao, đột ngột! Vòng chung kết cúp thế giới năm 98 chỉ được chứng kiến 1 Savicevic già cỗi, vật lộn với chấn thương, không còn 1 chút dấu ấn nào của những phép màu năm trước. Một tài năng lớn đã tắt, ở ngay tại sân đấu lớn nhất của cuộc đời. Trong khi đó, Boban tiếp tục là thủ lĩnh tuyệt vời của Croatia, và tài năng của anh đã góp phần không nhỏ vào chiếc huy chương đồng mà đội bóng này đoạt được tại Pháp năm 98.
    Kết thúc cúp thế giới 98, cũng là thời điểm tại Milan diến ra 1 cuộc cách mạng về nhân sự. Boban trở thành hạt nhân trong quá trình tái thiết đội bóng. Chính phong độ chói sáng,với những màn solo ngoạn mục vào giai đoạn cuối của mùa giải 98-99 đã mang lại cho Milan chức vô địch Serie A đầu tiên sau thời gian dài chìm trong khủng hoảng. Chỉ có điều, trong chiến thắng đó không có mặt Dejan. Anh rời khỏi Milan vào giữa mùa, ra đi mà không kịp chứng kiến sự phục hưng của đội bóng thân yêu. Boban tiếp tục ở lại Milan thêm 2 mùa giải nữa, nhưng những chấn thương và gánh nặng tuổi tác cũng bắt đầu đến với anh. Vẫn còn đó những pha đi bóng lắt léo, những cú xỏ kim rất đặc trưng mang nhãn hiệu Boban, nhưng trên từng bước chạy của anh đã có dấu hiệu mỏi mệt. Giữ vị trí hộ công trong sơ đồ 3-4-1-2 của hlv Zaccheroni, mang trên lưng chiếc áo số 10 đầy quang vinh, Boban vẫn ghi lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng các cổ động viên. Nhưng ai cũng hiểu, thời kỳ của anh tại Milan đã đến hồi kết.
    Mùa hè năm 2001, hơn 2 năm sau sự ra đi của Dejan, người Balkan thứ 2 ở Milan - Zvonimir Boban, cũng nói lời tạm biệt. Anh rời khỏi San Siro trong sự nuối tiếc vô bờ của bao cổ động viên, để lại sau lưng một bảng thành tích đáng tự hào.
    Sự nghiệp và nhân cách của "2 anh em" đã lưu lại trong lòng các cổ động viên bóng đá những tình cảm tốt đẹp. Savicevic lặng lẽ mà tài hoa, còn Boban gai góc và mạnh mẽ. Cả 2 cùng có điểm chung là lòng yêu nước vô bờ: Cú song phi nổi tiếng của Boban đã trở thành biểu tượng cho tinh thần dân tộc quật cường. Và "2 anh em" cũng có 1 điểm chung khác: tình yêu dành cho AC Milan. Họ đã cống hiến những năm tháng đỉnh cao của sự nghiệp cho Milan, góp phần không nhỏ cho những thành tích của đội bóng trong thập kỷ 90, cùng trải qua tất cả ving quang và cay đắng với câu lạc bộ. Chính vì vậy, họ đã trở thành 1 phần trong lịch sử Milan.
    Đôi nét tiểu sử:
    +Dejan Savicevic: Sinh ngày 15-9-1966 tại Montenegro. Các clb đã khoác áo: Sao Đỏ Belgrade, AC Milan, Austria Vienna.
    +Zvonimir Boban: Sinh ngày 8-10-1968 tại Croatia. Các clb đã khoác áo: Dinamo Zagreb, AC Milan, Celta Vigo.
    prehistory
    P.H.T

Chia sẻ trang này