1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

AC Milan - Hall of Fame

Chủ đề trong 'AC Milan (ACM)' bởi prehistory, 16/06/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Tập hợp những bài viết về AC Milan hiện rất nhiều, nhưng tương đối tản mát. Để thuận tiện cho các fan theo dõi, tìm hiểu về lịch sử và các danh thủ của đội bóng, chúng ta cùng cố gắng xây dựng một "Tàng Kinh Các" về Milan. Tạm thời ban đầu sẽ là tuyển chọn lại các bài viết cũ trên báo chí và website, đồng thời tiếp tục nhận các bài viết đóng góp từ các thành viên.

    Đề nghị các bạn không post những bài không liên quan đến nội dung để tránh làm loãng chủ đề, khó theo dõi.
    ( anh goodman chịu khó xoá hộ các bài spam, nếu có )

    AC Milan - Hall of Fame

    Phần 1: Milan - Ngược dòng lịch sử

    Bài viết của goodman

    AC Milan còn có tên là Milan Associazione Calcio s.p.a. Được thành lập vào năm 1899 (một trong số những CLB đầu tiên của nước Ý).
    Trụ sở CLB: Via Filippo Turati 3, 20121 Milano.
    Telephone: +39 0262281
    Fax: +39 026598876
    Sân vận động: Giuseppe Meazza, San Siro
    Chủ tịch hiện thời: Dott. Silvio Berlusconi
    Phó chủ tịch và giám đốc điều hành: Adriano Galliani
    Giám đốc thể thao: Ariedo Braida
    Giám đốc thương mại: Roberto Patrassi
    Giám đốc khu tập huấn Milanello: Antore Peloso
    Giám đốc Marketing: Laura Masi
    HLV trưởng: Carlo Ancelotti
    Được thành lập bởi một người Anh Alfred Edwards vào năm 1899, CLB Cricket và Football Milan là một trong số những CLB đầu tiên của Italia. Chỉ sau 2 năm thành lập, Milan đã có danh hiệu vô địch đầu tiên sau khi đánh bại Genoa ở trận chung kết.
    Vào năm 1938, Milan đổi tên CLB 3 lần và cuối cùng là cái tên quen thuộc mà chúng ta vẫn biết đến ngày hôm nay AC Milan (Associazione Calcio Milan). Cũng vào năm đó, Milan đã giành được vị trí thứ ba tại giải vô địch quốc gia với chỉ 3 điểm kém hơn đội vô địch Inter, đối thủ truyền kiếp của họ. Milan một lần nữa đứng sau Inter vào năm 1941 với một điểm kém hơn. Inter đứng thứ hai và vào năm đó Bologna dành chức vô địch. Năm tiếp sau đó, Milan lọt vào trận chung kết cúp quốc gia Italia (Coppa Italia) với Juventus và hòa 1-1. Sau đó thua 1-4 ở trận đá lại.
    Milan chiếm ưu thế tại Serie A trong những năm 1950, với 4 chức vô địch và một lần duy nhất đứng trong top 3 đội dẫn đầu. Cũng vào thời gian này, giải vô địch Italia đã là một giải đấu giầu có nhất thế giới và là sự hấp dẫn của các tài năng bóng đá khắp Châu Âu. Milan là một trong số ít CLB thành công nhờ những tài năng này với bộ ba người Thụy Điển: Gren, Nordahl và Liedholm. Họ đứng thứ 2 sau Juventus vào năm 1950, tuy nhiên đoạt được chức vô địch vào năm 1951, bỏ cách Inter 1 điểm. Sự thành công lại đến vào năm 1955 và 1957 và một lần đứng thứ 2 vào năm 1956 sau Fiorentina. Trong năm đó, Milan bị đánh bại ở bán kết European Cup bởi đội sau đó trở thành nhà vô địch, Real Madrid, và phong độ tồi tệ tại Serie A đã khiến Milan không giành được suất dự European Cup mùa sau đó. Chính nhờ lý do này mà vào năm 1959 Milan đoạt được Scudetto.
    Milan tiếp tục sự thời kỳ hoàng kim của mình vào những năm 60, tuy nhiên họ cần chinh phục được những mục tiêu mới tại giải trong nước và đấu trường Châu Âu. Họ tiến đến chức vô địch Cúp Châu Âu bằng trận thắng trước Olympiakos ở vòng đấu sơ bộ, nhưng sau đó lại để thua Barcelona trong cả 2 trận lượt đi và về. Tại giải đấu trong nước Milan cũng không có được phong độ tốt nhất với vị trí thứ 3 và 11 điểm kém hơn nhà vô địch Juventus. Milan cũng để Juventus giành chức vô địch vào năm 1961 với 4 điểm kém hơn, tuy nhiên vào năm 1962 CLB đã giành được chức vô địch thứ 5 của mình. Một lần nữa mục tiêu giành cúp Châu Âu đã khiến Milan phải nhường lại Scudetto cho đối thủ truyền kiếp Inter vào năm 1963. Bù lại họ đã có được chức vô địch cúp Châu Âu đầu tiên của mình. Trận chung kết diễn ra tại sân Wembley với CLB Benfica. Eusebia đưa Benfica vươn lên dẫn trước ở phút thứ 19 của trận đấu, nhưng Altafini đã trở thành người hùng của Milan trong trận đấu đó với hai bàn thắng được ghi ở hiệp 2 của trận đấu. Altafini cũng trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất vào năm đó với 14 bàn thắng.
    Chức vô địch Serie A không đến với các cầu thủ Milan trong vài năm, vị trí tốt nhất của họ là thứ hai vào năm 1965. Bốn năm sau thành công tại cúp Châu Âu, Milan giành chiến thắng đầu tiên ở Italia Cup sau khi đánh bại Padova 1-0 trong trận chung kết. Năm 1968 đánh dấu sự trở lại của Milan với chức vô địch Serie A và chiếc cúp C2 (Cup Winners Cup). Hamrin ghi hai bàn thắng chỉ trong 20 phút đem lại chiến thắng 2-0 cho Milan trước Hamburg trong trận chung kết cúp C2. Milan giành chức vô địch Serie A với 9 điểm bỏ xa đội đứng sau. Vào năm sau đó 1969, Milan chỉ đứng thứ 3, nhưng lại giành được Cúp Châu Âu với sự sáng tạo của huyền thoại Gianni Rivera (European Footballer of the Year) và một hat-trick của Prati trong trận chung kết với chiến thắng 4-1 trước Ajax tại sân Bernabeu, thủ đô Madrid.
    Trong vài năm sau đó, Milan thi đấu không thành công tại giải trong nước. Milan chỉ giành được vị trí thứ 2 vào năm 71 sau khi bị Inter giành chức vô địch, và năm 72, 73 về sau Juventus. Milan cũng để mất chiếc cúp Italia vào tay Torino trong năm 71, nhưng đã vô địch vào năm sau 1972. Ở mùa giải 1972-1973 Milan giành được chiếc cúp C2 thứ 2 của mình với bàn thắng duy nhất được ghi bởi Chiarugi. Milan cũng vào chung kết lần nữa trong năm 1974 nhưng bị đánh bại bởi 1.FC Magdeburg của Đông Đức. Vào năm 1979 Milan giành chức vô địch Serie A lần nữa với 3 điểm hơn so với Perugia.
    Thập kỷ 80 khởi đầu thật tồi tệ với Milan. Mục tiêu chinh phục cúp Châu Âu bị chấm dứt ở vòng 5 bởi FC Porto, và cho đến năm 1988 Milan không thể giành vị trí cao hơn thứ 3 tại Serie A. Có quá nhiều sự thất vọng diễn ra vào năm 1985, khi Sampdoria đoạt cúp Italia bằng việc đánh bại Milan. Cũng trong năm đó Ruud Gullit được bầu làm European Footballer of the Year. Sự can thiệp đúng lúc của Thủ tướng Italia Silvio Berlusconi và một khoản tiền khổng lồ đầu tư đã làm thay đổi vận mệnh CLB.
    Ba cầu thủ hàng đầu của bóng đá Châu Âu đều có mặt tại Milan vào những năm 88-89, Marco Van Basten với 2 lần được bầu. Thành công tại Serie A năm 1988 báo trước một thời hoàng kim của Milan. Vị trí thứ ba năm 1989 bị che mờ bởi thành công tại đấu trường Châu Âu, và vào năm 1990 Milan tiếp tục giành được cúp Châu Âu đồng thời về thứ hai tại Serie A. Chiến thắng 4-0 trước Steaua Bucharest trong trận chung kết cúp Châu Âu năm 1989 có sự đóng góp của Gullit và Van Basten. Một người Hà Lan khác, Frank Rijkaard, ghi bàn thắng duy nhất vào năm 1990 giúp Milan giành chiếc cúp danh giá của Châu Âu. Milan bắt đầu thống trị giải trong nước, giành Scudetto 3 lần từ năm 1992-1994. Với những chức vô địch này, Milan được đưa vào danh sách những CLB giành 10 chức vô địch của Italia. Cúp Châu Âu năm 1993 được thi đấu dưới một điều luật khác. Milan toàn thắng ở vòng đấu bảng, và chỉ chịu thua Olympique Marseille ở trận chung kết bởi bàn thắng duy nhất của Basile Boli. Điều luật tiếp tục được thay đổi vào những năm sau đó và Milan giành thắng lợi 4-0 trước Barcelona sau một chuối phong độ tuyệt vời ở mùa giải đó. Milan cũng lọt vào trận chung kết năm 1995 nhưng lại để thua Ajax với tỷ số 1-0 bằng bàn thắng ở phút 85 của Kluivert.
    Các kỷ lục của CLB:
    - Cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong mọi thời đại:210 Gunnar Nordahl
    - Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải:35 Gunnar Nordahl (49-50)
    - Cầu thủ có số lần khoác áo CLB nhiều nhất:531 Franco Baresi
    - Cầu thủ có số lần khoác áo ĐTQG nhiều nhất:126 Paolo Maldini
    - Hợp đồng mua lớn nhất:£27m Manuel Rui Costa (Fiorentina 01-02)
    - Hợp đồng bán lớn nhất:£8.3m Cristian Zenoni (Juventus 01- 02)
    - Thành tích ở Cúp Châu Âu:5 European Cups (63/69/89/90/94) 2 Cup-Winners?T Cups (68/73) 3 Super Cups (89/90/95) 3 Inter- Continental Cups (69/89/90) 2 Coppa Latin Cups (51/56) 1 Mitropa Cup (82)
    - Thành tích tại Serie A:Championships 16 (1901/06/07/51/55/57/59/62/68/ 79/88/92 /93/94 /96/99) Italian Cup:4 (67/72/73/77) Italian Super Cup:4 (88/92/93/94)
    - Điểm số nhiều nhất giành được trong một mùa giải:73 (95-96)
    - Điểm số thấp nhất giành được trong một mùa giải:27 (81-82)
    - Trận thắng đậm nhất trên sân nhà:9-0 v Palermo (50-51)
    - Trận thua đậm nhất trên sân nhà:1-6 v Juventus (96-97)
    - Trận thắng đậm nhất trên sân khách:8-0 v Genoa (54-55)
    - Trận thua đậm nhất trên sân khách:1-6 v Alessandria (35-36)
    - Số lần giành chiến thắng nhiều nhất trong một mùa giải:27 (49-50)
    - Số trận thắng ít nhất trong một mùa giải:5 (76-77)
    - Số trận thua nhiều nhất trong một mùa giải:15 (30-31)
    - Số trận thua ít nhất trong một mùa giải:0 (91-92)
    - Kỷ lục về bàn thắng trong một mùa giải:118 (49-50)
    - Kỷ lục thấp nhất về bàn thắng:21 (81-82)
    - Số lần để thủng lưới nhiều nhất:62 (32-33)
    - Số lần để thủng lưới ít nhất:12 (68-69)
  2. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Phần 2: San Siro - La Scala của bóng đá
    Tạp chí TTVH 3/2001
    Những mái vòm và những hàng cột dài của sân San Siro khiến người ta nhớ đến những hàng cột Hy Lạp cao vút bên bờ Địa Trung Hải hoặc trung tâm Georges Pompidou ở Paris. Nơi đây in đậm những năm tháng hào hùng của CLB vớI những kỉ niệm không thể nào quên? San Siro, cái tên gợi nên biết bao hoài nhớ trong trái tim của những ngườI hâm mộ Milan và cả những người hâm mộ bóng đá thế giới. Bởi vì đơn giản, nó là thánh điạ của Milan hùng mạnh và bất kể đó là sân chung vớI đội bóng không đội trời chung Inter Milan, sân bóng mà ngườI ta hay đọc một cách chính thức là Giuseppe Meazza, San Siro vẫn là cái tên người ta nhắc tới với lòng thành kính. Bởi nó không những gắn liền với AC Milan mà còn là biểu tượng của một thành phố Milano rộng lớn và có vị trí kinh tế hàn đầu của châu Âu, một biểu tượng của lòng tự hào, không khác gì vai trò của nhà hát opera La Scale hay nhà thờ Domo với thành phố. Đó là một SVĐ không chỉ nổi tiếng nhờ những kiến trúc mà còn ở những gì ngườI ta được chứng kiến trên sân cỏ. Về phương diện này, San Siro không thua kém gì Bernabeu ở Madrid, Nou Camp ở Barcelona hay Maracana ở Rio De Janeiro.
    75 năm về trước, đây là một trong những khu đất hoàn thuộc một vùng tồi tàn nhất của thành phố với tỉ lệ thất nghiệp, tội phạm và mù chữ thuộc loại cao nhất của Milano. Người ta đã có rất nhiều kế hoạch để phát triển khu vực này, nhưng cuối cùng do tệ quan liêu, các dự án vẫn chỉ tồn tại trên giấy tờ và có lẽ sẽ chẳng bao giờ trở thành hiện thực nếu một ngày kia không có một người có tên là Pirelli xuất hiện. ông là Chủ tịch của AC Milan từ năm 1909 đến năm 1929 và SVĐ được coi là một mòn quà của ông với thành phố Milano mà ông yêu mến. Cái tên San Siro xuất hiện từ tên của một nhà thờ nhỏ gần sân thờ thánh Siro. SVĐ đầu tiên được hoàn thành vào tháng 9 năm 1926 với sức chứa là 35 ngàn người. 9 năm sau, trước nhu cầu tăng lên của khán giảI, thành phố Milano đã quyết định cho xây dựng thêm 20 ngàn chỗ nữa mà tâng 2 của SVĐ xuất hiện. SVĐ mớI đã được khánh thành vào tháng 5 năm 1939, và trận đấu Quốc tế đầu tiên giữa Anh và Italia đã diễn ra tại nơi đây (2-2). Trong hai năm. 1954-1955, SVĐ có thêm 30 ngàn chỗ nữa và San Siro trở thành SVĐ lớn nhất Italia kể từ đó. Và taị Italia 90 khi nước này đăng cai World Cup, San Siro lại được tu bổ một lần nữa. Những kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Italia được vời đến và thế là 11 cột lớn, những mái che nặng hàng nghìn tấn được lắp đặt cho phép tất cả các khán giả theo dõi trận đấu đều được ngồi dưới mái che. SVĐ hiện đại nhất Italia này có thể cho phép tốI đa 85 ngàn khán giả có mặt tại sân, 2000 nhà báo và rất nhiều các trang thiết bị hiện đại bậc nhất.
    TạI SVĐ này cũng đã diễn ra khá nhiếu sự kiện thể thao và âm nhạc khác. Tháng 9 năm 1960, tạI đây đã diễn ra trận tái đấu tranh chức vô địch hạng ruồi thế giới giữa hai võ sĩ Carlos Ortiz và Duilio Loi trước sự chứng kiến của hơn 50 ngàn khán giả. Ca sĩ nhạc Reggae nổi tiếng thế giớI Bob Marley cũng đã dừng chân ở đây và có một buổi trình diễn vớI số lượng khán giả lên tới con số kỉ lục là 9 vạn người. Một số lượng khán giả tương tự cũng đã có mặt để chứng kiến Bruce Springsteen biểu diễn vào năm 1985.
    Nhưng nhắc đến San Siro là nhắc đến bóng đá và Milan. Đội bóng có một bảo tàng các chiến tích ở khán đài phía Nam, nơi lưu giữ tất cả những chiến tích của CLB trong suốt 100 năm qua. Cả Milan và Inter đều tự hào về SVĐ này. Nhưng chính AC Milan là đội bóng có nhiều dấu ấn hơn cả tại San Siro bởi vì mãi đến năm 1945, Inter mới dọn nhà về thi đấu tại đây. Trận đấu khai trương sân diễn ra vào ngày 19/9/1926 giữa Milan và Inter. Inter đã thắng Milan với tỉ số áp đảo 6-3 trước một biển người. Những năm 60, một huyền thoại và là huyền thoại lớn đầu tiên xuất hiện. Đó là Nereo Rocco, người đã mở ra một thời kì vàng son đầu tiên trong lịch sử CLB vào những năm 60. Ngay trong trận đấu đầu tiên dưới cương vị làm HLV của CLB, ông đã thốt lên một câu nói bất hủ và sau này những ngườI hâm mộ Milan còn nhớ mãi: ?oĐây là La Scala của Milano, nơi bắt đầu những giấc mơ. Một Milan hùng mạnh sẽ sinh ra tại nơi đây?. Rocco mất năm 1979 sau khi cùng Milan giành rất nhiều chiến thắng. Nhưng các CĐV thì không hề quên ông và thậm chí đã có thời kì ở San Siro có một khán đài mang tên ông. Chính Rocco là ngườI đã đem về Milan Gianni Rivera, lúc đó chỉ là một chàng trai vô danh ở Alessandria ít tên tuổi. Trong cai ngày mà Rivera lần đầu tiên đặt chân lên thảm cỏ của San Siro, anh đã suýt khóc khi các CĐV của Milan nhìn anh với một sự hoài nghi lớn lao. ?oĐó là động lực lớn thôi thúc tôi làm tất cả vì CLB ấy. Nó như một cái gì đấy khiên tôi bị tổn thương. Chưa bao giờ tôi phảI chơi trước một lượng khán giả lớn như thế. Họ luôn luôn đòi hỏi và tỏ ra giận hờn nếu không được đáp ứng?, về sau Rivera kể lại với lòng xúc động như thế.
    Chiến công lớn nhất của Milan trong lịch sử ở San Siro là một cuộc chinh phục khủng khiếp trước Real Madrid hùng mạnh trên đường vào trận chung kết Cúp C1 năm 1989. 85 ngàn cổ động viên trên sân San Siro đã gần như hoá điên sau 5 bàn thắng ngoạn mục của bộ 3 Hà Lan Rijkaard, Gullit, Van Basten và 2 ngôi sao nộI địa Ancelotti và Donadoni. Một màn pháo hoa chưa từng có nở bùng trên SVĐ và kéo dài đến nửa tiến trong khi bản thân các cầu thủ và CĐV gần như ngạt thở vì khói pháo. Đó là lễ ăn mừng lớn nhất của Milan trong lịch sử tại San Siro. ?oTôi không thể nào quên được những giây phút huy hoàng ấy?, về sau Van Basten kể lại, ?oChính các CĐV trên sân San Siro đã tiếp cho chúng tôi một sức mạnh khủng khiếp như thế để nghiền nát Real. Và ngay từ đấy, chúng tôi đã nghĩ rằng, chúng tôi sẽ trở thành những nhà vô địch của châu Âu?. Còn Arrigo Sacchi, người đã mang đến cho Milan những cuộc chinh phục đầy bi tráng ở châu Âu vào cuối những năm 80- đầu thập niên 90 cũng có lẽ sẽ không bao giờ quên được San Siro vì những lý do khác, cay đắng hơn. Sau thất bạI trước Rosenborg ngay trên sân nhà trong một trận đâu ảm đạm tháng 12 năm 1996 khiến CLB bị loại khỏi vòng đấu bảng, Sacchi đã mô tả San Siro như một ngọn núi lửa chỉ chực nuôt lấy ông. ?oQuang cảnh sân lúc ấy như một quan tái lớn nuốt gọn tất cả?, Sacchi kể lại, ?oTôi không thể chịu nổi cảm giác tủi hổ lúc ấy mà tôi quyết định ra đi ngay sau trận thua?.
    Kể từ năm 1980, San Siro được mang tên mới. Hội đồng thành phố cũng như cả hai CLB đều đồng ý đổi tên sân thành Giuseppe Meazza, tên của cầu thủ tiền đạo nổI tiếng đã từng khoác áo cho cả hai CLB trong những năm 30 của thế kỉ XX. Ông mãi mãi được ghi nhớ vì đã lập một kỷ lục ghi nhiều bàn thắng trong một trận đấu vào năm 1931 trên sân vận động này với 5 bàn thắng. Nhưng có lẽ đốI vớI những ngườI hâm mộ Milan, cái tên San Siro sẽ còn mãi và sẽ được ghi nhớ bởI vì chính tại sân này, những huyền thoại đã được sinh ra, những chiến thắng hào hùng xuất hiện và những giấc mơ đã trở thành hiện thực. Bởi San Siro là Milan.
    San Siro
    Địa chỉ: Stadio Giuseppe Meazza, Via Piccolomini 5. Đường dễ nhất đến SVĐ là theo tuyến tàu điện ngầm M1 tới Lotto, nơi có tuyến xe buýt đầu tiên đến SVĐ. Ban ngày, bạn có thể đi bộ khoảng 10 phút vòng quanh sân. Đây la nơi có địa điểm đẹp, thoáng đãng và nhất là môi trường rất trong lành, khác xa vớI bầu không khí ô nhiễm ở trung tâm Milano. San Siro có 2 quầy bán vé chính, một đặt ở phía bắc SVĐ, gần các cửa số 36,37 và quầy thứ hai ở phía nam, gần các cửa 26, 27. Rất khó kiếm vé nếu bạn muốn xem một trận gặp Juventus hay Inter Milan. Những người mua vé xem cả năm bao giờ cũng được ưu tiên và các vé lẻ chỉ thực sự dễ kiếm trog các trận đấu thường. Những năm còn bộ 3 Hà Lan, số người mua vé cả năm không khi nào dướI 75 ngàn ngườI còn giờ đây, con số ấy cũng vào khoảng 58 ngàn. Các trận đấu vớI Inter và Juventus thì bao giờ cũng có khoảng 8 vạn khán giả .
    Vé xem các trận đấu tại San Siro có 4 màu khác nhau: rosso (màu đỏ, bên khán đài chính vơi những ghế ngồi đắt tiền nhất, các khu VIP và báo chí), arancio (da cam, khán đài B), Blu (xanh nước biển, khung thành phía nam dành cho các CĐV Milan) và verde (xanh lá cây, khung thành phía Bắc, cho các CĐV Inter). Giá vé: rẻ nhất là ở tầng 3, tăng dần khi xuống tầng 2 và 1.
    Các CĐV trung thành của Milan thường vào sân bằng các cửa từ 17-22, còn các CĐV Inter vào bằng cửa từ 41 đến 46. Để tránh va chạm giữa các nhóm CĐV, người ta cô lập họ bằng các cửa 13 và 14.
  3. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Phần 3: Herbert Kilpin - Người cha của các Rossoneri
    Tạp chí TTVH 3/2001
    Chắc chắn sẽ không có AC Milan nếu không có một người có tên Herbert Kilpin ông là người đã sáng lập ra CLB nổi tiếng và cũng là người đội trưởng đầu tiên của CLB này, một điều gần như không có sự lặp lại ở bất cứ đâu. Là con trai của một doanh nhân người anh đến Milano lập nghiệp từ những năm 40 của thế kỷ 19, Kilpin không có những say mê kiếm tiền như bô và anh mình mà ông chỉ có một niềm say mê duy nhất là trái bóng. ở ltalia những năm cuối của thế kỷ 19, bóng đá vẫn chỉ là một môn thể thao xa lạ. Mặc dù LÐBÐ ltalia đã được thành lập ở dạng sơ khai không được ham chuộng như polo, đua xe đạp hay tennis. Thậm chí các sân bóng cũng chưa xuất hiện. Người ta chỉ có thể chơi bóng trên những khu đất trống, trong những bộ quần áo kỳ dị trông như pijama: quần dài đến tận đầu gối, áo phông rộng thừng thinh có cổ và đi những đôi giày cao cổ nặng trịch. Milan Cricket and Football Club (tiền thân của AC Milan hôm nay) đã ra đời trong một bối cảnh như thế vào một ngày mùa đông lạnh giá tháng 12/1899, trong một quán cà phê lụp xụp. ở trung tâm thành phố. Ban đầu đội bóng có 15 người, với Kilpin làm đội trưởng kiêm luôn chức Chủ tịch, Giám đốc điều hành và cũng là thủ quỹ Người ta nói rằng ông đã phải bân đi một nửa tài sản của mình để nuôi đội bóng trong nhưng năm đáu tiên khô khăn, trước sự ghẻ lạnh của hội đóng thành phố vốn luôn coi bóng đá chỉ là một trò chơi nhảm nhí và là nguồn gốc của những vụ mất trật tự công cộng. Chính Kipin là người đã tạo ra màu áo đỏ đen nổi tiếng với câu nói bất hủ: "Tôi thấy màu đỏ- đen như một cơn giận dữ giữa bầu trời bão tố". Và màu áo ấy đã đi cùng Milan trong suốt hơn 100 năm qua. Nhờ những thành tích đầu tiên và cả tài vận động của Kilpin, LÐBÐ ltalia đã chính thức công nhận sự tồn tại của CLB và cho phép CLB tham gia vào giải VÐQG ltalia sơ khai vào tháng 1/1900, đúng 1 tháng sau khi CLB thành lập. Kilpin là người năng nổ nhất trong đội bông ông không bao giờ ngại phải chơi những vị trí mà mình không ưa thích. Lúc đầu Kilpin đá ở vị trí tiền vệ, sau đó là tiền đạo. Những tư liệu cách đây gần 100 năm cho thấy những con số rất thứ vị ông đã ghi 10 bàn thắng cho Milan trong một trận đấu ở Cúp Lombardia với CLB nhỏ Castele, trận đầu mà Milan đã thắng tới 20-0 vào năm 1906.
    Có rất nhiều chuyện thú vị về Kilpin mà những người Rossoneri không bao giờ quên. Năm 1907, ở tuổi 39, ông rời Milan, từ bỏ chức vị chủ tịch và đội trưởng sau những tranh cãi với các thành viên còn lại (sau đó dẫn đến sự kiện đội bóng tách làm đôi để lnter Milan ra đời) và đến thi đấu cho Torino. Một trong số những cầu thủ mà ông thân nhất lúc bấy giở là Pozzo , người sau này trở thành HLV ÐT Italia và đưa dội tuyển đến 2 chiến thắng ở World Cup 1934 và 1938. Có một giai thoại kỳ cục về ông: mỗi lần bóng bay qua khung thành, Kilpin chạy ngay ra sau gôn, vớ lấy một chai rượu whisky và uống lấy uống để, rồi đưa 1 ly cho Pozzo. Ngay cả thủ môn của Milan thời ấy, Hoode, một người Anh. cũng tự tưởng thưởng cho mình một ngụm rượu mỗi khi chặn được một cú sút của đối phương. Chính rượu và những cơn say đã không cho phép Kilpin tiếp tục đá bóng. Trong những năm cuối đời ông sống trong cảnh bần hàn và chết trong cô đơn vào năm 1916, ở tuổi 48. Lúc ấy, ông đang là người tìm kiếm nhân tài cho Milan.
    Rất nhiều những sự kiện trong cuộc đời của Kilpin cho tới bây giờ vẫn là những điều bí ẩn. Nhưng điều quan trọng nhất là ông chính là người khai sinh ra một Milan hùng mạnh, đặt nền móng cho sự ra đời của 2 đội bóng thuộc loại mạnh nhất thế giới ở thành phố Milano . Tại bảo tàng của Milan hiện có một vị trí rất trang trọng dành cho Kilpin để ghi nhớ những gl mà ông đã làm cho CLB. Và trong trái tim những người Rossoneri, ông sẽ vẫn còn mãi.
    Phần 4: Renzo De Vecchi ?" ?oFiglio De Dio?
    TTVH 3/2001
    ?oNgày xửa ngày xưa ở Milano, có một cậu bé ham mê bóng đá cực độ có tên là Renzo De Vecchi...?. Những câu chuyện về hậu vệ nổi tiếng có biệt hiệu là ?oFiglio De Dio? (Con Trời) của AC Milan có thể được bắt đầu như thế. Câu chuyện đầu tiên và sẽ được các CĐV của Milan nhớ mãi chính là một cậu bé cao nhưng gầy nhẳng và có một đôi mắt rất sáng. Cậu bé học sinh ấy thường xuyên có mặt trong buổi tập của CLB trên một cái sân gồ ghề ở ngoại ô Milano, nhưng không ở trên sân mà ở trên một bờ tường, nơi cậu bé hằng ngày quan sát những thần tượng Kilpin, Trere và Widmer của mình tập luyện cần mẫn. Những giai thoại từ buổi đầu sơ khai của AC Milan về ?o Con trời? vẫn còn được nhắc lại mãi và đọng lại trong kí ức của những người hâm mộ. Cậu bé mê AC Milan đến nỗi một hôm trèo tường vào và thậm chí còn tranh bóng với Herbert Kilpin, đội trưởng lúc ấy của đội bóng và là một người cực kì nóng tính. Kilpin đã gần như phát điên lên khi bị cậu bé gầy gò lừa bóng qua tới 3 lần và ông đuổi theo đá đít cậu bé mấy lần mà không được.
    Rất bực mình nhưng nhận ra đây là một tài năng lớn trong tương lai, Kilpin chấp nhận cho De Vecchi vào đội bóng và ngay lập tức ?oCon Trời? trở thành một cầu thủ rất gíỏi và thậm chí được gọi vào đội hình 1 của Milan lúc mới 15 tuổi, và chỉ một năm sau, De Vecchi khoác chiếc áo màu xanh sẫm của Squadra Azzurra, qua đó trở thành cầu thủ ít tuổi nhất thi đấu cho ĐTQG cũng như AC Milan.
    Tuy không dành được nhiều chiến tích với AC Milan nhưng những dấu ấn mà ông để lại cho Milan là không thể chối cãi được. De Vecchi là ngôi sao đầu tiên của AC Milan đồng thời cũng là một người đem đến cho Milan những ảnh hưởng lớn của một chế độ luyện tập và thi đấu nhà nghề cho CLB. Renzo De Vecchi mất năm 1967, thọ 73 tuổi.
    Phần 5: Gianni Rivera - Cậu bé vàng của bóng đá Italia
    Nguyễn Thị Minh Thịnh
    Việc Gianni Rivera đến Việt Nam tháng 11/2001 vừa rồi chắc chắn sẽ trở thành một sự kiện thể thao lớn nếu ?oQuả bóng Vàng châu Âu năm 1969? đến đây không phải với một tư cách một Thứ trưởng Bộ quốc phòng. Nhưng những nhà báo Việt Nam đã được gặp ông, dù chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi cũng cảm nhận được sự thanh nhã, điềm tĩnh và độ lượng của người đàn ông tóc vàng, từng được coi là cầu thủ đẹp trai nhất bóng đá Italia những năm 60.
    ?oĐây là lần đầu tiên tôi đến Việt Nam, một đất nước rất xa Italia mà tôi chỉ biết được qua báo chí và truyền hình ở nước tôi?, Rivera nói trong một cuộc phỏng vấn hết sức ngắn ngủi với các nhà báo, ?oĐất nước các bạn rất đẹp, khá đông dân và còn rất trẻ?. Không có nhiều người Việt Nam được xem ông thi đấu trong màu áo của Milan và Squadra Azzurra cách đây 3 thập kỉ nhưng chắc chắn sẽ rất ấn tượng nếu được biết về những gì ông đã cống hiến cho Milan và cho bóng đá Italia, và là một trong những thần tượng lớn nhất ở San Siro. Gianni Rivera được HLV nổi tiếng của Milan, Gipo Vani phát hiện trong một trận đấu của đội trẻ vào năm 17 tuổi. Dáng cao, thanh nhã, kĩ thuật khá điêu luyện, và đặc biệt là một nhãn quan chiến thuật rất tinh tường, mặc dù ông hơi gầy gò, là những phẩm chất lớn lao của Rivera. Trong 12 năm thi đấu cho Milan, gần như mọi đường bóng của CLB đều qua chân ông. Không những thế, Rivera còn có khả năng dứt điểm hết sức tinh tế và một sự chín chắn hơn người đã đem đến cho ông chiếc băng đội trưởng của người thủ lĩnh. Nổi tiếng khi còn rất trẻ, Rivera đã trở thành nhà vô địch châu Âu ở tuổi 20; ở tuổi 25, là đội trưởng của Milan giành Cúp C2 châu Âu; ở tuổi 26, là một Cúp C1, một Cúp Liên lục địa và một Quả bóng Vàng châu Âu. ?oĐó là những năm tháng đẹp nhất của đời tôi, những gì mà tôi gặt hái được trong sự nghiệp thì tôi không bao giờ quên?, Rivera nhớ lại.
    Nhiều người cho rằng Rivera không hoàn thiện và xuất sắc như người ta vẫn tôn vinh ông. Quả thật, tốc độ là nhược điểm lớn nhất của Rivera. Ông thiếu tốc độ, không có khả năng hỗ trợ phòng ngự và hơi ngại va chạm. Chính vì thế mà một nhà báo Italia đã đặt cho ông biệt danh ?oAbatino?, (nghĩa là ?othầy tu? hoặc ?oyếm thế?). Rivera cũng không thành công ở Squadra Azzurra. Ông luôn va chạm với HLV đội tuyển Valcareggi và không thường xuyên được đá đúng vị trí hộ công sở trường, vốn phải chia sẻ cho ngôi sao Sandro Mazzola của Inter Milan. Rivera cũng nổi tiếng với những pha va chạm với các trọng tài trong các trận đầu quan trọng. Nhưng các CĐV yêu mến ông vì ông luôn làm tất cả những gì có thể được cho CLB bằng tất cả tình yêu của mình. Và không phải là điều đương nhiên khi các CĐV Milan bầu ông là ?oCầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại của Milan?. Rivera được coi là người đại diện cho thời kì ?oĐại Milan? thứ nhất thống trị thế giới trong những năm 1960.
    Năm 1979, Rivera giã từ bóng đá và số phận đưa ông đến con đường chính trị, để đến bây giờ trở thành Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. ?oVì bận nhiều công việc, tôi không còn nhiều thời gian quan tâm đến bóng đá và AC Milan nữa, nhưng CLB vẫn luôn trong tim tôi?, ông nói. Con đường chính trị có lẽ sẽ còn mở ra nữa đối với Rivera và ông được coi là một trong số những gương mặt sáng giá nhất cho chức Chủ tịch LĐBĐ Italia. Nhưng dù ở cương vị nào đi chăng nữa, những người yêu mến Milan vẫn còn in đậm trong tim mình hình ảnh của một người đội trưởng gương mẫu, lịch lãm và hết mình vì Milan.
  4. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Thành tích trên đấu trường Châu Âu
    I. Từ những cuộc lật đổ đế chế Real Madrid
    Năm 1958 trở thành năm bản lề cho những chiến thắng trên chiến trường châu Âu của một ?oĐại Milan? mà sức mạnh của họ sẽ được khẳng định trong những năm tiếp theo. Milan trở thành đội bóng đầu tiên của Italia có mặt trong một trận chung kết Cúp C1 để rồi sau đó, trở thành đội bóng Italia giàu thành tích nhất trên mặt trận này. Tháng 5/1958, các chàng trai Đỏ-Đen có mặt trong trận đối đầu với Real Madrid hùng mạnh trên sân Heysel ở Bruxelles. Đó là một trận đấu với sự đối đầu của những cầu thủ tầm cỡ như Liedholm, Schiaffino và Grillo với Di Stefano, Kopa và Gento. Lúc ấy, Real Madrid đã 3 lần giành Cúp C1 liên tiếp và đã thực sự chứng tỏ được sức mạnh của mình trước một thế lực trẻ trung đang lên từ Italia. Bất chấp việc các cầu thủ Italia đã 2 lần dẫn điểm trước do công của Schiaffino và Grillo, Real không hề nao núng và gỡ lại 2 bàn do công của Di Stefano và Rial. Bàn quyết định của Real do công của Gento khi trog những giây đá hiệp phụ. Các cầu thủ Milan không cảm thấy buồn lắm sau trận đấu, bởi vì thất bại này không phải là một thảm hoạ. Chỉ có một mình Schiafino là cảm thấy buồn đến rơi lệ. Anh luôn luôn ganh đua với Di Stefano trên tất cả các phương diện, nhưng bao giờ cũng thất bại. Schiaffino đã rời CLB 2 mùa bóng sau đó, và không kịp chứng kiến thắng lợi đầu tiên của CLB trên chiến trường châu Âu vao năm 1963. Và những nỗi đau buồn của anh đã được một tên tuổi lớn khác san lấp: Đó là chân sút người Brazil Jose Altafini.
    Thật vậy, những người hâm mộ lớn tuổi của Milan có lẽ sẽ không bao giờ quên được những khoảnh khắc vinh quang tột đỉnh sau chiến thắng đầu tiên của CLB trên SVĐ Wembley vào một chiều tháng 5 năm 1963. Real Madrid đã không còn là mối đe doạ đối với Milan mà đối thủ của họ trong trận CK năm đó là Benfica, đội bóng vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá BĐN với những tên tuổi lớn như Torres, Coluna và nhất là ?oviên ngọc đen? Eusebio. Hàng hậu vệ 4 người của Milan do HLV huyền thoại Nereo Rocco lập ra đã đứng vững trong suốt trận đấu bất chấp sức ép khủng khiếp của các cầu thủ Benfica. Dù bị dẫn trước sau bàn thắng của Eusebio ở phút thứ 18, nhưng Milan không đầu hàng. 2 đường chuyền đẹp như mơ của Gianni Rivera, lúc đó chưa được 20 tuổi, đã tạo điều kiện cho Altafini chọc thủng lưới đối phương 2 lần, giúp Milan giành thắng lợi chung cuộc 2-1. Cũng năm đó, Altafini trở thành cầu thủ dội bom xuất sắc nhất của Cúp C1 với 14 bàn, một kỉ lục mà sau này chưa ai vượt qua.
    Đội hình ra sân của hai đội:
    Benfica: Costa Pereira, ****m, Cruz, Humberto, Rani, Coluna, Augusto, Santana, Torres, Eusebio, Simoes ?" HLV: Riera
    Milan: Ghezzi, Trebbi, David, Benitez, C. Maldini, G. Trapattoni, Sani, Pivatelli, Altafini, Rivera, Mora ?" HLV: Nereo Rocco.
    Các cầu thủ ghi bàn: Altafini (60, 81)- Benfica: Eusebio (18).
    6 năm sau cái ngày trọng đại ấy, lịch sử đã được lặp lại, nhưng la ở trên thánh địa Bernabeu và đối thủ của họ là đội bóng Hà Lan Ajax Amsterdam, lúc đó đã có Johan Cruyff và Keizer trong đội hình, nhưng họ vẫn không đủ sức hăm doạ Milan vì Milan quá mạnh. Quả thật năm đó là năm của Milan. Họ đã gạt đổ cả Celtic và Manchester United trên đường vào CK. Cú hat-trick của Pirati và bàn ấn định tỉ số của Sormani đã nhấn chìm Ajax. Đó là chiến tích thứ 2 của HLV huyền thoài Rocco ở Cúp C1.
    Đội hình ra sân của hai đội :
    Milan: Cudicini, Malatrasi, Anquilletti, Schnellinger, Rosato, Trapattoni, Lodetti, Rivera, Hamrin, Sormani, Prati ?" HLV: Rocco.
    Ajax: Bals, Suurbier (Muller), Hulshoff, Vasovic, Van Duivendode, Pronk, Groot (Nuninga), Swart, Cruyff, Danielson, Keizer ?" HLV: Rinus Michels.
    Các cầu thủ ghi bàn: Milan: Prati (7, 40, 75); Sormani (67) ?" Ajax: Vasovic (60).
    II. Tới phút huy hoàng của những ?oHà Lan bay?
    20 năm sau chiến thắng ở năm 1969, Milan lại có cơ hội để nâng cao chiếc Cúp C1 một lần nữa. Chiến thắng hào hùng của họ trong cuộc đua ở Serie A năm 1988 với sự góp mặt của những ngôi sao Hà Lan Gullit và Van Basten đã khiến người hâm mộ hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi của họ, dù co đường vào đến CK của họ không phải là không có khó khăn, nhưng càng vào sâu, Milan càng chứng tỏ bản lĩnh của các nhà vô địch. Họ đã gạt đổ Real Madrid ngạo mạn đến 5-0 trên sân nhà San Siro sau khi cầm chân đối phương 1-1 tại Madrid nhờ một cú bay người đánh đầu song song mặt cỏ của Van Basten. Ngày 24 tháng 5 năm 1989 là một ngày không thể quên với những người Rossoneri. Bằng một lối chơi đầy quyến rũ, Milan không phải chờ đến hết trận đầu mới phân định được thắng thua. Những Lacactus, Hagi, Petrescu đã hoàn toàn sụp đổ ngay trong hiệp 1 sau những bàn thắng của cặp bài trùng Hà Lan. Thời kì ?oĐại Milan? làm mưa làm gió trên đấu trường châu Âu và thế giới bắt đầu.
    Đội hình ra sân của hai đội:
    Milan: G. Galli, Tassotti, Costacurta (F. Galli), Baresi, Maldini, Colombo, Rijkaard, Ancelotti, Donadoni, Gullit (Virdis), Van Basten ?" HLV: Arrigo Sacchi.
    Steaua Bucarest: Lung, Iovan, Petrescu, Bumbescu, Ungureanu, Hagi, Stoic, Minea, Rotariu (Balaci), Lacatus, Piturca ?" HLV: Iordanescu.
    Các cầu thủ ghi bàn: Gullit (17, 38). Van Basten (26,46).
    Đúng một năm sau chiến thắng ở Barcelona, ngày 23 tháng 5 năm 1990 AC Milan lần thứ 2 liên tiếp đăng quang sau khi đánh gục Benfica trên sân Prater tại Vienna. Con đường vào CK của Milan lần này gian nan hơn trước dù không có những trận thắng vang dội như ở mùa bóng trước, nhưng Milan vẫn đủ bản lĩnh để vượt qua những đối thủ mạnh nhất của họ. 27 năm sau lần gặp mặt đầu tiên ở Wembley, Milan tiếp tục là kẻ chinh phục. Rijkaard, người đến sau cùng trong bộ 3 Hà Lan huyền thoại, đã ghi bàn thắng duy nhất của trận đầu trong một đường cản bóng thông minh của Van Basten. Milano trở thành thủ đô của bóng đá châu Âu. Một chiến thắng quá ngọt ngào đã đưa Milan lên ngôi vị số 1 thế giới và Sacchi trở thành HLV xuất sắc nhất thế giới năm đó.
    Đội hình ra sân của hai đội:
    Milan: G.Galli, Tassotti, Costacurta, Baresi, Maldini, Colombo (F.Galli), Rijkaard, Ancelotti (Massaro), Evani, Gullit, Van Basten. ?" HLV: A. Sacchi.
    Benfica: Silvino, Jose Carlos, Aldair, Ricardo, Samuel, Vitor Paneira (Brito). ?" HLV: Eriksson.
    Cầu thủ ghi bàn: Rijkaard (67)
    Trên thực tế, đó cũng là chiến thắng lớn cuối cùng trên chiến trường châu Âu của Arrigo Sacchi. Thất bại tại giải Serie A năm 1991 cũng như những bất đồng với Chủ tịch Berlusconi đã khiến Sacchi phải rũ áo ra đi. Nhưng nhiều nhà chuyên môn tin rằng chính thất bại của Milan trong chiến dịch bảo vệ danh hiệu vô địch Cúp C1 trước O.Marseille đã khiến ông mất chức. Trước thế lực mới lên ở châu Âu là đội bóng Pháp trẻ trung, Milan đã không thể chiến thắng được họ trên sân nhà (hoà 1-1) và thất bại (0-1) tại Velodrome vào tháng 3 năm đó đã đẩy Milan xuống vực sâu của sự tủi nhục. Không những không ghi được bàn thắng vào lưới đối phương, họ còn bị cầu thủ ưa làm trò người Anh Waddle chọc thủng lưới ở phút thứ 75. Milan bắt đầu mất bình tĩnh. Một cú va chạm đầy ác ý của Ancelotti khiến Waddle phải rời sân trong trạng thái bất tỉnh. Chưa hết, 3 phút trước khi kết thúc trận đấu, đèn trên sân vụt tắt. Quá thất vọng, Phó Chủ tịch Galliani xua tất cả các cầu thủ vào phòng và từ chối thi đầu tiếp khi đèn đã sáng trở lại. Hành động trẻ con ấy đã khiến cho Milan phải chịu một năm treo giò ở các Cúp Châu Âu và sau đó, thời kì của Capello bắt đầu.
    Nhưng O. Marseille tiếp tục là con ngáo ộp của Milan 2 năm sau đó, khi họ gặp nhat trong trận CK Cúp C1 ngày 26 tháng 5 năm 1993 tại Munich. Milan đã toàn thắng 10 trận trước đó, họ cũng vừa giành Scudetto trước đó một tuần và đầy niềm tin chiến thắng. Nhưng cú dội đầu của trung vệ Basile Boli đã nhấn chìm Milan một lần nữa. Đau đớn hơn cả, đó cũng là lần cuối cùng người ta được nhìn thấy Van Basten khoác chiếc áo Đỏ-đen trong một trận đấu chính thức của Milan. Đó cũng chính là trận đấu kết thúc huyền thoại về những người Hà Lan bay. Một kỷ nguyên của Milan đã chấm dứt như thế đấy. Capello gần như oà khóc sau thất bại.
    III. Chiến thắng vĩ đại trước Barcelona
    Capello không phải buồn lâu, bởi vì một năm sau, Milan đã trở lại huy hoàng hơn bao giờ hết. Với sự góp sức của Marcel Desailly, ngườI đã đoạt cúp C1 trong đội hình O.M một năm trước đó, Milan đã hoàn toàn đè bẹp đối thủ sừng sỏ Barcelona của Cruyff kiêu ngạo vào ngày 18/5/1994 tạI Athens vớI tỉ số không tưởng tượng nổI 4-0. Milan không phải là ứng cử viên của chức vô địch. Họ đã mất hai hậu vệ lão luyện Costacurta và Baresi do bị treo giò và lại phải đối mặt với những chân sút lừng danh Stoichkov và Romario của Barca. Nhưng Milan đã đứng vững, họ đã chơi một trong những trận đấu quyến rũ nhất trong lịch sử của mình. Trong trang phục màu trắng, Milan đã xuất hiện như những bóng ma, họ không cho Barca lấy một cơ hội. Đó là thắng lợi đẹp nhất của Capello. Còn đối với Berlusconi, không có gì quý giá hơn thế. Chiên thắng này đã góp phần đưa ông lên chức Thủ tướng Italia vào đầu năm 1995 và là Chủ tịch một CLB bóng đá đầu tiên trở thành một vị thủ tướng trong lịch sử thế giới.
    Đội hình ra sân của hai đội:
    Milan : Rossi, Tassotti, Galli, Maldini (Nava), Panucci, Albertini, Desailly, Donadoni, Boban, Savicevic, Massaro ?" HLV: Capello
    Barcelona: Zubizarreta, Ferrer, Nadal, R.Koeman, Sergi (Enrique), Amor, Bakero, Guardiola, Eusebio, Romario, Stoichkov ?" HLV: Johan Cruyff Các cầu thủ ghi bàn: Massaro (22,45). Savicevic (47), Desailly (58)
    IV. Sự trở lại của "đế chế" đỏ đen
    Kể từ sau trận chung kết thất bại trước Ajax năm 95, Milan thực sự rơi vào khủng hoảng, không còn dành được những danh hiệu, hàng loạt cầu thủ đến rồi lại đi, thay HLV như thay áo, những Capello, Sacchi, Cesare Maldini, Terim ... đến rồi lại đi. Chỉ khi Carlo Ancelotti từ Juventus sang với đội thì Milan mới thực sự lột xác, tuy không còn giữ được lối đá đẹp mắt như trước nhưng những thắng lợi liên tiếp của Milan đã phần nào làm yên tâm người hâm mộ. Năm 2002 là một năm đặc biệt của AC Milan, sau khi vượt qua vô vàn khó khăn ở Cup C1, các bại tướng dưới tay của Milan có thể kể ra các "đại gia" của châu âu : Real Madrid, Bayern Muchen, Ajax Amsterdam, Deportivo Lacoruna... Trận chung kết châu âu của Milan năm này là trận chung kết khó khăn nhất trong lịch sử của AC Milan bởi đối thủ chính là Juventus, đội mà Milan đã thua trong chiến dịch dành Scudetto năm rồi, và tại Serie A Milan thường thua nhiều hơn là thắng. Vẫn trang phục màu trắng may mắn, AC Milan và Juventus trình diễn một trận chung kết mang đậm phong cách Italia, đến nỗi mà báo chí ngày hôm sau đều bình luận đây là trận chung kết nhàm chán nhất trong lịch sử Châu Âu. Hai đội bước vào vòng thi đấu luân lưu 11m, và may mắn cộng với sự tài năng của Dida đã giúp Milan dành chiếc cup C1 thứ 6 trong lịch sử... Không ai có thể quên được vẻ mặt "lơ láo" của Shevchenko ở cú sút quyết định.
    Đội hình ra sân của hai đội
    Milan : Dida, Kaladze, P.Maldini, Nesta, A.Costacurta (R.Junior), Seedorf, Pirlo (Serginho), I.Gattuso, Rui Costa (Ambrosini), F.Inzaghi, A.Shevchenko
    Juventus : Buffon, ,L.Thuram, A.Ferara, I.Tudor (Brillinderi), Montero, Camoranesi (Conte), Tarchinadi, E.David (Zalayeta), Zambrota, D.Trezeguet, A.DelPiero
    Cũng năm này, AC Milan cũng đem về sân San Siro chiếc siêu cúp châu âu sau khi đánh bại Porto 1 - 0 tại sân của công quốc Monaco. Đế chế đỏ đen đã trở lại và Real Madird hãy coi chừng.
    Tạp chí TTVH tháng 3/2001 + acmilanvn tháng 7/2003
    Được prehistory sửa chữa / chuyển vào 13:38 ngày 16/06/2004
  5. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Phần 7: Các HLV huyền thoại ở Milan
    TTVH 3/2001
    Nereo Rocco - Vị thánh ở San Siro
    Nereo Rocco là một trong số những HLV để lại ấn tượng nhất trong lịch sử của CLB không phải chỉ ở những danh hiệu lớn mà ông đem đến cho độI bóng mà còn vì cá tính hơi lập dị, sự chăm chỉ, tính hay pha trò nhưng đôi khi đến mức kì dị. Điều đặc biệt nhất chính là ở chỗ ông là ngườI đầu tiên nhận ra tài năng của Gianni Rivera và đưa cầu thủ này về với Milan khi Rivera mới có 16 tuổi để sau đó trở thành một ngôi sao sáng trong lịch sử CLB. Biệt danh của ông là ?oÔng thánh?, Rocco làm HLV tại Milan trong 3 thời kỳ khác nhau từ 1961-1963, 1967-1973 và 1975-1977. Nhiều người chỉ trích lối chơi của Milan dưới thời Rocco là nhàm chán và thiên về phòng ngự nhưng chính lối đá ấy đã đưa Milan tới chức vô địch Cúp C1 năm 1963. Hơn thế nữa, Jose Altafini, cầu thủ người Brazil được ông đưa về cách đấy 2 năm cũng là vua phá lưới trong năm ấy với 14 bàn thắng. Trong suốt những năm tháng dưới tay Rocco, Milan đã có những ngày tháng huy hoàng nhất và những cầu thủ vĩ đại nhất. Đó cũng là thời kì đầu tiên của một ?oĐại Milan? thống trị thế giới trong những năm 60. Milan đã giành được 2 Cúp C1, 2 Scudetto, 1 Cúp C2 và 1 Cúp Liên lục địa dưới triều đại của ông.
    Không chỉ là một HLV giỏI, Rocco cũng là một nhân cách lớn. Ông thường yêu các cầu thủ như con và các cầu thủ cũng coi ông như một người cha. Cesare Maldini, một trong số những cầu thủ được Rocco ưa thích nhất, kể lại rằng, mỗI khi đội bóng chơi không tốt thì mình là người đầu tiên bị chỉ trích bởi Rocco. ?oLúc ấy, ông ấy quay sang tôi, nháy mắt như muốn nói. ?oThế nào, con trai của bố mà lại chơi tệ thế à? ?o. Năm 1973, Milan thất bại trước Verona trong trận đấu cuối cùng ở Serie A và mất luôn chức vô địch vào tay đối thủ truyền kiếp Juventus, khi Rivera cãi nhau với trọng tài Lo Bello, người đã xử ép Milan rất nhiều trong trận đấu ấy, Rocco đã xông vào và nện cho ông này một trận tơi bời. Hậu quả là cả Rivera và Rocco bị cấm thi đấu và chỉ đạo 3 tháng. Nhưng Rocco thú nhận: ?o Tôi rất hả lòng hả dạ?. Rivera là người được ông cưng chiều nhất, trong một buổi tập của CLB, một thành viên của đội trẻ có một cú tắc vào Rivera đang ở tuổi xế chiều, Rocco nhảy dựng lên và gào thét ầm ỹ:? Sao mày dám làm trò đểu giả ấy?. Người ta còn nói rằng, Rocco cấm tất cả các cầu thủ đọc báo, truyện, thậm chí cả truyện tranh trong trại huấn luyện của CLB. Người ta sẽ còn nhớ mãi Rocco vì những điều ấy. Ông không mất nhiều thời gian để đi vào trái tim những người hâm mộ Milan. Rocco mất năm 1979 ở tuổI 67. Xin cám ơn ông , ?oÔng thánh? !
    Arrigo Sacchi ?" Một người hói thiên tài
    Sẽ không có ai dám khẳng định điều ấy nếu bây giờ là năm 1987, năm mà một Sacchi vô danh và rụt rè đặt chân lên thảm cỏ xanh mượt của San Siro hào nhoáng. Chính Berlusconi, người lúc ấy vừa ngôi lên ghế chủ tịch CLB một thời gian đã phát hiện ra ông, đưa ông về Milan, lúc ấy đang cần tìm một HLV thay thế Liedholm tài ba và tin cậy ông rất nhiều trong những năm ông ở đây. Sacchi không có một lý lịch ?ođẹp?. Ông chỉ là con của một người thợ đóng giày và có một sự nghiệp cầu thủ chẳng có gì đáng tự hào. Ông có một thời gian ngắn làm HLV cho Parma, lúc đó chỉ là một CLB vô danh chơi ở hạng Serie C1. Sacchi đã đưa CLB lên hạng Serie B trong vòng một năm, giúp họ đứng thứ 7 trong bảng xếp hạng và thế cũng đủ để lọt vào mắt xanh của Berlusconi, ngườI rất thích phong cách huấn luyện của Sacchi.
    Sacchi không được lòng các cầu thủ vốn được cưng chiều ở Milan. Ông đem về CLB hai cầu thủ mà về sau sẽ trở thành những chân sút lớn của CLB: Paolo Virdis và Daniela Massaro, lúc đó còn vô danh. Báo chí Italia mỉa mai gọi Sacchi là ?o Lão hói? và còn đặt cược xem ông sẽ ở lại với Milan trong bao nhiêu ngày. Thậm chí Franco Baresi còn cảm thấy tự ái khi Sacchi cho anh xem cuốn băng về hậu vệ Signorini của Parma và bắt anh phải chơi hệt như cầu thủ này. Các cầu thủ còn cảm thấy bất mãn hơn nữa khi Sacchi đưa vào áp dụng một chế độ luyện tập khổ sai, không cho phép các cầu thủ ngủ trưa mà thay vào đó là một tiếng đồng hồ liệu pháp tâm lý và thể lực. Chính chế độ tập luyện hà khắc ấy đã khiến các cầu thủ gọi ông là ?ocái búa tạ?. Một trong những chiến thuật lớn nhất đã được hoàn thiện dưới thời Sacchi là chiến thuật phòng thủ khu vực, vốn đã được áp dụng đầu tiên dưới thời của người tiền nhiệm Liedholm. Từ đây, Milan bắt đầu chơi với một hàng hậu vệ chuỗi mắt xích 4 ngườI phòng ngự theo chiều nghiêng với Baresi chơi ở vị trí libero, bẫy việt vị được áp dụng được áp dụng một cách liên tục tạo ra một sức ép lên đối phương. Sacchi cũng yêu cầu các cầu thủ phải chơi nhanh, tăng cường tấn công mạnh ở 2 cánh và sử dụng các tiền đạo và tiền vệ trung tâm trong một thế trận pressing liên tục trong suốt thời gian thi đấu. Đó chính là hệ thống thi đấu nổi tiếng thế giới mang tên Sacchi, và được coi là phát kiến lớn lao về chiến thuật cuối cùng của thế kỉ 20.
    Sacchi đã có công đưa về Milan bộ 3 huyền thoại Van Basten-Gullit-Rijkaard, cùng với một dàn cầu thủ nội địa đẳng cấp thế giới: Maldini, Costacurta, Donadoni, Baresi, Virdis, Colombo, Ancelotti, Evani?mở ra thời kì huy hoàng thứ 2 của AC Milan trên chiến trường bóng đá ngoài biên giới Italia. Trong 4 năm tại vị, Sacchi đã cùng Milan giành 1 Scudetto, 2 Cúp C1, 2 Cúp Liên lục địa và 2 Siêu Cúp châu Âu nhờ sức mạnh về nhân lực và chiến thuật đúng đắn của mình. Thời kì của Sacchi kết thúc năm 1991, sau một mùa giải trắng tay cùng CLB. Nhưng rất nhiều người cho rằng, ông phải ra đi vì không hoà hợp được với các cầu thủ của mình, trong đó có Van Basten, người luôn yêu cầu ông cho phép anh được chơi tự do hơn.
    Sau Milan, Sacchi cũng đã có 6 năm làm HLV cho Squadra Azzurra, và mặc dù các số liệu thống kê cho thấy, ông là HLV giàu thành tích hàng đầu của đội tuyển, nhưng Sacchi không được người dân Italia ưa thích do tính thích thử nghiệm của ông. Sacchi rời đội tuyển năm 1996 sau thất bại ở EURO. Sacchi cũng quay trở lại Milan trong những ngày khốn khó của CLB, nhưng cũng chỉ ở lại được vài tháng trước khi lại ra đi khi không cứu được CLB thoát khỏi những thất bại nhục nhã ở Champions League và Serie A. Sacchi cũng có thời kì làm HLV ở Aletico Madrid nhưng cũng không thành công. Hiện nay, sau khi đến rồi đi khỏi Parma, ông đang là một BLV bóng đá khá nổi tiếng và vẫn đang mong chờ một ngày nào đấy được trở lại với bóng đá đỉnh cao, bởi vì ?o Tôi được sinh ra là cho bóng đá và tất cả những gì trải qua vẫn là chưa đủ với tôi?. Dù thế nào đi chăng nữa, xin chúc Arrigo may mắn!
    Fabio Capello ?" Đi lên từ sự khiêm tốn
    Khuôn mặt hay nhăn nhó, nụ cười gần như không bao giờ thấy trên môi và một thái độ khá kín đáo khi tiếp xúc với báo chí, Capello là người đem đến cho người khác, những ấn tượng xấu nhiều hơn là sự yêu thích ban đầu. Nhưng có một điều đơn giản, ông thích nói ở trên sân nhiều hơn bởi bản tính giản dị và không thích màu mè. Capello đã từng có thời được coi là một tài năng trẻ. Chơi ở vị trí tiền vệ trong đội hình Roma rồi Juventus những năm 70, Capello được nhớ đến như một cầu thủ có lối chơi khiêm tốn, cần cù và năng động. Người ta sẽ còn nhớ mãi ông trong tư cách cầu thủ với bàn thắng duy nhất vào lướI đội tuyển Anh năm 1973 trong một trận đấu giao hữu ngay trên sân Wembley. Capello đến với Milan trong những năm cuối cùng của sự nghiệp nhưng cũng để kịp giành một Scudetto vớI CLB năm 1979 trước khi giải nghệ vào năm sau đó.
    Capello học được nhiều trong những tháng năm làm trợ lý cho HLV Liedholm trong những năm 80. Ông còn là cánh tay phải của Berlusconi ở tập đoàn Finivest trong khi vẫn là HLV của đội trẻ. Khi Capello lên nắm quyền thay cho Sacchi năm 1991, nhiều người cho rằng ông chỉ là bù nhìn của Berlusconi và thậm chí còn bi quan cho rằng, sau Sacchi sẽ không còn một Milan vĩ đại nữa. Nhưng họ đã nhầm, chuỗi thắng lợi của Milan, không dừng lại ở đấy. Các cầu thủ mệt nhoài bởi những buổi tập nặng nề dưới thời Sacchi nay có thể thở phào nhẹ nhõm vì những buổi tập đã nhẹ hơn và Capello cũng thành công trong việc đem lại một sự tự tin và sinh khí mới cho các cầu thủ. Kế tục những gì mà Sacchi đã để lại, Capello xây dựng một phong cách thi đấu mới, tập thể hơn, sắc sảo hơn nhưng cũng chặt chẽ hơn và chắc chắn hơn trong phòng ngự. VớI những chiến thắng trong 5 năm dưới quyền Capello, Milan tiến lên một đỉnh cao mới: 4 Scudetto, trong đó có 3 lần liên tiếp từ 1992 đến 1994, 1 Cúp C1, 1 Siêu Cúp châu Âu và 2 lần vào Chung kết Cúp C1 châu Âu. Đó là những năm tháng của một Milan hơi khắc khổ, ít sáng tạo hơn, nhưng đầy tính thực dụng và rất chặt chẽ. Nhưng cuộc hôn nhân của Capello với Milan đã kết thúc vào mùa xuân 1996. Sau khi đem về cho Milan một Scudetto nữa, Capello cũng trở lại một lần nữa vào năm 1997, nhưng không thành công.
    Capello cũng có một năm thành công với Real Madrid, đem lại một chức vô địch cho CLB ?oHoàng gia?. Giờ đây, đang là HLV của AS Roma, Capello đang hy vọng sẽ đưa CLB cũ của mình lên một đỉnh cao mới. 18 năm sau khi CLB này đoạt Scudetto lần cuối cùng. Nhưng các CĐV Milan không bao giờ quên ông. Bằng chứng là trong trận đấu của Roma trên sân San Siro với Milan, trên khán đài của SVĐ phấp phớI một băng rôn với dòng chữ: ?oGrazie Capello!? (?oXin cảm ơn Capello!?).
  6. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Phần 8: Milanello - Niềm tự hào của các cầu thủ Milan
    Nguyễn Thị Minh Thịnh
    Nhắc đến AC Milan, không thể không đề cập đến Milanello ?" khu tập luyện của đội bóng và hơn hết, đây là nơi ươm mầm những tài năng. Baresi, Maldini, Costacurta? đã trưởng thành từ đây và chắc chắn trong tương lai sẽ còn nhiều ngôi sao khác gắn bó và tỏa sáng cùng Milan.
    Trung tâm được thành lập năm 1962, là trung tâm thứ nhì được xây dựng sau trung tâm huấn luyện của đội tuyển quốc gia Italia. Công cuộc xây dựng rất hoàn hảo nên từ đó chưa phải thực hiện những tu chỉnh lớn. Khi ngài Berlusconi đến với AC Milan, trung tâm chỉ cần phải tăng thêm những tiện nghi cho cầu thủ.
    Các cầu thủ của trung tâm đến từ khắp nước Ý. Mỗi chủ nhật có 80 quan sát viên có mặt tại các sân đấu để tìm kiếm những tài năng trẻ. Họ phải báo cáo thường xuyên cho Ariedo Braida ?" giám đốc thể thao. Và muốn vào trung tâm, các cầu thủ trẻ này, dĩ nhiên phải hay hơn các cầu thủ đang theo học và tập luyện tại đây. Hàng năm trung tâm tiến hành thử nghiệm hơn 500 cầu thủ, nhưng không phải tất cả trong số này đều được giữ lại trung tâm. Milanello tổ chức những cuộc thực tập để phát hiện tài năng ở rất nhiều nơi trên toàn nước Ý: Roma, Verona, Florence và trong những năm gần đây trung tâm đã mở rộng đối tượng tìm kiếm của mình ra khỏi lãnh thổ Italia, sang châu Phi. Trung tâm đứng ra tổ chức các cuộc thi đấu nhỏ, nhất là vào mùa xuân để thử nghiệm các cầu thủ trẻ. Các cầu thủ này được cho đấu với các đội bóng của Milan trong dịp lễ phục sinh để trải qua những thử thách phụ. Những cầu thủ thể hiện được mình sẽ có cơ may gia nhập trung tâm.
    Các học viên của Milanello đều tiếp tục con đường học vấn cho dù họ có trình độ nào đi nữa. Theo mong muốn của ngài chủ tịch Berlusconi thì Milan phải đào tạo không chỉ những cầu thủ bóng đá mà còn đào tạo họ như những con người. Điều này lý giải vì sao đa số các cầu thủ Milan đều có thái độ rất đúng mực, rất lịch lãm và rất thành công trong các lĩnh vực ngoài sân cỏ. Không ít trong số họ tiếp tục ở lại đội bóng trên các cương vị khác nhau và thậm chí họ là những nhà quản lý không tồi, đó là Baresi, Tassotti, Leonardo? Việc trang bị kiến thức cho các học viên ở Milanello là rất nhân đạo vì không phải tất cả trong số họ có thể tiếp tục theo đuổi sự nghiệp cầu thủ, họ cần được chuẩn bị tất cả cho tương lai. Gần giống như ở các trường học, mùa tập huấn ở đây bắt đầu vào tháng 8. Đúng vào học kỳ, ngày làm việc sẽ rất dài. Các học viên sẽ thức dậy vào lúc 6h45; dùng điểm tâm lúc 7h10; lên xe bus và đến trường lúc 7h30; trở lại trung tâm lúc 13h30; dùng bữa ăn nhẹ trước khi tập luyện lúc 15h; tập luyện đến 18h; 18h30 dùng bữa tối. Sau đó các học viên phải học thêm với các giáo sư được mời đến để giúp họ vượt qua sự trậm trễ trong học vấn. Họ sẽ đi ngủ lúc 10h.
    Về tổ chức giải trí cho học viên, người ta thường gọi trung tâm này là ?ochiếc ***g mạ vàng? vì học viên được hưởng nhiều sự tự do. Họ cần biết đời sống bên ngoài diễn ra như thế nào, đó không đơn thuần là để giải trí, nó giúp các cầu thủ trẻ có được sự thăng bằng. Ở Milan hầu như không có trường hợp các cầu thủ sa ngã, nghiện ngập vì họ được giáo dục tốt và được đặt trong một môi trường mà cha mẹ họ hoàn toàn có thể yên tâm. Đôi khi sau các trận đấu, một vài học viên ở không xa trung tâm có thể về thăm gia đình, số khác thì cơ hội đó có thể ít hơn. Những người có trách nhiệm ở trung tâm cho rằng việc các học viên có thể thường xuyên trở về với gia đình là rất quan trọng, điều này giúp cho việc giáo dục học viên toàn diện hơn và học viên sẽ ít bị căng thẳng hơn. Các cầu thủ trẻ phần lớn sẽ được đem đi cho mượn khi chưa thực sự chứng tỏ được mình. Điểm đến của họ thường là Monza ở Serie C, cũng thuộc sở hữu của ngài Berlusconi, đây cũng là một trung tâm tập luyện rất tốt và đặc biệt là rất gần trường đua Công Thức I nổi tiếng ?" trường đua Monza. Họ cũng có thể sẽ được cho các CLB hạng thấp mượn hoặc được đưa đi nước ngoài theo các chương trình hợp tác quốc tế của CLB AC Milan.
    Khi 18 tuổi, họ được ký hợp đồng với thời hạn 1 năm. Họ được hưởng 4000 franc do Milan trả kể cả với các cầu thủ đang đá cho CLB khác, điều quan trọng nhất là họ được giữ ở trạng thái hoạt động ?" được chơi bóng. Kế tiếp họ ký hợp đồng với một CLB khác với mức lương 17.250 franc mỗi tháng, nhưng trung tâm vẫn giữ quyền ưu tiên với các cầu thủ này. Trong một hay hai năm, họ vẫn thuộc tài sản của AC Milan. Ngày nay, điều này rất phổ biến tại các đội bóng lớn ở Ý, Juventus là CLB thường xuyên sử dụng và sử dụng rất thành công hình thức ?ođồng sở hữu cầu thủ?.
    Tất cả quy trình trên đây thể hiện tính chọn lọc rất tàn nhẫn của bóng đá chuyên nghiệp nói riêng và cuộc sống nói chung: hoặc là sống sót để trở thành ngôi sao, hoặc không là gì cả. Theo những người quản lý Milanello, họ luôn nhắc nhở các học viên về điều này. Khi các học viên bắt đầu nhập học, người ta nói ngay: ?oCc cậu đang ở Milan, nhưng không phải đã đến đích, tất cả mới chỉ bắt đầu mà thôi?. Chỉ có khoảng 1% học viên có thể trở thành cầu thủ hay (tức là có thể thi đấu và trụ vững tại Serie A). Nếu cứ hai năm có một cầu thủ được một đội bóng nhà nghề tuyển dụng thì các nhà quản lý trung tâm đã có thể coi đó là một con số chấp nhận được. Và rất ít trong số này sẽ trở thành cầu thủ ở đội I Milan, nhất là kể từ khi điều luật Bosman có hiệu lực. Trong đội hình hiện tại của Milan, cầu thủ gần đây nhất trưởng thành từ Milanello là Marco Borriello, hy vọng anh sẽ thể hiện được tài năng và gắn bó lâu dài với Milan. Tất nhiên, đối với mọi học viên luôn hiện hữu một ?otinh thần Milan?. Họ đá bóng cùng một cách như đội I của Milan. Ông Berlusconi yêu cầu các đội bóng phải thi đấu cùng với một tinh thần như nhau: cống hiến và quyết tâm; không bao giờ lùi bước. Họ cũng được truyền lại phong thái của đội bóng nằm tại kinh đô thời trang; luôn mặc áo sơ mi, thắt cà vạt khi phải di chuyển tới đâu đó. Hẳn là với bất cứ cầu thủ nào từng có cơ hội tập luyện tại trung tâm, họ không chỉ biết cách phải xử lý ra sao với trái bóng trên sân mà còn biết cách làm thế nào để trở thành một người đàn ông đứng đắn và hào hoa.
  7. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Phần 9: Van Basten - Con thiên nga trắng trên sân cỏ xanh
    TTVH 3/2001
    Tài năng có một không hai ấy nở rộ khi mới 17 tuổi và đã là một chân sút được sủng ái ở Ajax. Trận đấu đầu tiên của anh trong màu áo đỏ-trắng của Ajax là lúc anh được vào sân thay cho thần tượng Cruyff của mình. Một hành động đầy ý nghĩa cho phép một tài năng trẻ đi theo bước chân của một thiên tài. Đó cũng chính là sự kết thúc của kỉ nguyên Cruyff và mở ra một kỉ nguyên mang tên Van Basten.
    Rất mạnh trong không chiến, sút bóng hai chân đều hiệu quả, khả năng thăng bằng tuyệt hảo và kỹ thuật rất khéo léo dù có một thể hình cao lớn, anh là cơn ác mộng của tất cả những hàng hậu vệ. Chính những phẩm chất hàng đầu ấy đã đưa anh đến Milan, không phải là để tiếp thị cho những kế hoạch chính trị của ông Berlusconi mà là để chiến thắng. Tỷ phú truyền thông đầy tham vọng đang xây dựng một Dream Team để chinh phục thế giới. Van Basten cùng với những người đồng hương Ruud Gullit và Frank Rijkaard, anh là nòng cốt của một trong số những CLB mạnh nhất trong lịch sử bóng đá thế giới.
    Nhưng tất cả không phải là suôn sẻ với chàng trai đến từ Hà Lan. Một chấn thương năng nơi đầu gối phải suýt nữa đã huỷ hoại cả một mùa giải của anh ở đây. Không ai cảm thấy lạc quan về một ngôi sao chưa đá trận nào đã ngồi ngoài sân đến 6 tháng trong một đội hình giàu tham vọng như AC Milan. Nhưng Arrigo Sacchi là người rất kiên nhẫn, Van Basten đã góp phần cùng Milan giành tất cả những danh hiệu cao quý nhất trong cuộc đời cầu thủ: 3 Scudetto, 2 cúp C1, 2 Cúp Liên lục địa, 2 Siêu cúp Châu Âu và 3 lần được vinh dự giơ cao quả bóng vàng Châu Âu trong vòng có 6 năm ngắn ngủi. Hiếm ai có thể mơ thấy những chiến tích lẫy lừng như thế. Trong số 3 cầu thủ người Hà Lan, Van Basten là người được các CĐV yêu thích nhất. Họ đặt cho anh biệt danh ?oCon thiên nga trắng? do những cú chạy và những động tác hệt như của Rudolf Nureyev trong ballet. Rất khó có thể kể hết ra đây những bàn thắng kì diệu mà anh đã ghi được trong sự nghiệp nhưng có lẽ không ai có thể quên bàn thắng tuyệt diệu mà anh đã ghi được vào lưới ĐT Liên Xô (cũ) tại EURO 88. Trong 6 mùa giải ở Serie A, anh đã ghi tổng cộng 90 bàn thắng cho CLB và một lần trở thành Vua phá lưới vào năm 1992 với 25 bàn thắng.
    Nhưng bóng đá thật oan nghiệt. Nó đã cho anh tất cả nhưng cũng để lại cho anh nhiều nỗi đau. Những chấn thương liên tiếp đã buộc anh phải giã từ bóng đá khi mới 31 tuổi, độ tuổi vẫn còn khả năng thăng tiến trong đời cầu thủ, sau 3 năm vật vã với những chấn thương. Bóng đá thế giới đã bị cướp đi một trong số những viên ngọc sáng giá nhất của mình. Anh không khóc trong cuộc họp báo tuyên bố đầu hàng số phận của mình vào một ngày Hè 1995 nhưng cơn xúc động nghẹn ngào trào dâng trong lòng người có mặt. Họ hiểu rằng sẽ không bao giờ được chứng kiến chân sút vĩ đại nhất của bóng đá thế giới trổ tài ở những đầu trường nữa. ?oTôi đã cố gắng hết sức, tôi đã làm tất cả những gì có thể, với những bác sĩ danh tiếng nhất. Nhưng không hiệu quả. Tôi đã có những năm tháng tuyệt diệu nhất với Milan, nhưng tất cả đã chấm dứt rồi. Biết thế nào được. Đó chính là cuộc sống?, anh cay đắng phát biểu. Đối với Van Basten, những giây phút đáng nhớ nhất không phải là lúc anh cùng đội tuyển Hà Lan giở cao chiếc cúp vô địch châu Âu năm 1988 mà là ?otrước trận CK với Steatua Bucarest ở Barcelona năm 1989. Khi xe ô tô chở chúng tôi đến SVĐ Nou Camp, chúng tôi gần như không thể nhích lên nổi, hơn 90 ngàn CĐV của chúng tôi đang ào ra khắp các phố chính. Đó là một cảm giác không thể nào quên?.
    Cuộc sống đối với Van Basten bây giờ thật đơn giản. Anh giành nhiều thời gian trong ngày rỗi rãi để chơi golf, môn thể thao anh yêu thích nhất sau bóng đá và chăm sóc cho vợ và 2 con, những người đã ở bên anh trong những giờ phút huy hoàng và cay đắng nhất. Gần đây nhất, Van Basten đã có mặt trong nhóm ?oTask Force? của FIFA với những dự thảo thay đổi về luật. Những ý kiến mà anh đưa ra hết sức thú vị: ?oĐề nghị của tôi là : Khi một cầu thủ phạm lỗi 5 lần, anh ta sẽ được thay thế bởi một cầu thủ dự bị. Nếu thành viên thứ 3 của đội bị ra sân thì sẽ hết người thay và khi đó họ sẽ phải chơi với 10 người. Tôi làm như thế rút ra từ kinh nghiệm của bản thân mình. Tôi luôn luôn bị chơi xấu trong suốt sự nghiệp và là một ví dụ điển hình về chuyện một sự nghiệp đang phát triển thuận lợi bỗng nhiên kết thúc trong bi kịch?.
    Bây giờ, bóng đá không còn chiếm trọn tâm trí của anh nữa. Van Basten cung không thích làm HLV bởi những áp lực lớn lao mà công việc đó đem lại. Anh đang tận hưởng tất cả những gì tốt đẹp nhất mà cuộc đời đem lại. ?oTôi cần được nghỉ ngơi. Khi chấn thương tôi nhận ra rằng trong cuộc đời này có những điều còn quan trọng hơn cả bóng đá. Thay vì cứ phải gò mình vào những thời khoá biểu luyện tập và thi đấu, tôi có thể sống một cách tốt hơn. Bây giờ tôi mới hiểu cuộc sống còn có bao nhiêu điều đẹp đẽ khác?.
    Dù sự nghiệp phải kết thúc trong bi kịch như thế, nhưng Van Basten đã có gần như tất cả những gì mà một cầu thủ nhà nghề mơ ước. Có thể anh sẽ không quay trở lại với bóng đá dù anh hoàn toàn có khả năng. Nhưng nếu anh trở lại, Milan sẵn sàng giang rộng cánh tay đón người con trở về.
    Một sự nghiệp lẫy lừng
    Sinh ngày: 30/10/1964 ở Utretch, Hà Lan
    Cao: 1m87
    Sự nghiệp ở AC Milan (1987-1995), 147 trận, 90 bàn thắng, Vua phá lưới Serie A 1990 và 1992
    Các danh hiệu: 3 lần vô địch Hà Lan: 1982, 1983, 1985; 3 lần Cúp Hà Lan: 1983, 1986, 1987; 1 Cúp C2 châu Âu với Ajax: 1987; 1 chức vô địch châu Âu với ĐT Hà Lan: 1988; 3 Scudetto: 1988,1992,1993; 2 Cúp C1 châu Âu:1989, 1990; 2 siêu Cúp Italia: 1989,1993; 2 lần Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFA: 1988,1992; 3 lần ?oQuả bóng vàng châu Âu?: 1988, 1989, 1992; 4 lần Vua phá lưới Hà Lan: 1984, 1985, 1986, 1987; 1 lần Chiếc giày vàng châu Âu năm 1986 (33 bàn thắng)
    Phần 10: Ruud Gullit ?" Chuyện về anh là thế !
    Bài viết của all4milan
    Con người anh là một sự pha trộn hoàn hảo của tạo hoá: các sắc tộc, các màu da, các vị trí trên sân cỏ. Anh còn là một người anh hùng, một đại sứ bóng đá luôn luôn đi đầu trong các phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho cầu thủ da màu. Một con người thật lạ lùng, một tài năng hiếm có mà chỉ những chấn thương liên tiếp mới ngăn anh không thẳng tiến mạnh mẽ vào đội ngũ hiếm hoi những cầu thủ huyền thoại của thế kỉ.
    Đầu tiên là màu sắc. Màu sắc của khu vực bình dân ở Joordan, một dạng Babel hiện đại của thủ đô Amsterdam, nơi có một chàng trai lai mang trong mình hai dòng máu : Hà Lan và Surinam. Đó là khu phố mà sự pha trộn về thành phần cư dân phức tạp đến nỗi, chỉ có duy nhất quả bóng tròn là có thể khiến những đứa trẻ không nói cùng một thứ tiếng gắn bó lại với nhau. Chính những khoảng sân sau, ngoài đường phố, trên bãi đất trống đầy cỏ hoang, mà Gullit học chơi bóng. Và anh đã rất nhanh chóng chứng tỏ mình sinh ra là để làm cầu thủ bóng đá huyền thoại. Anh nhớ lại: "Năm tôi 16 tuổi, các vị trong ban lãnh đạo Ajax đến nhà mời tôi chơi cho họ.Lời đề nghị quá hấp dẫn. Nhưng tôi tự nhủ rằng, sẽ là khôn ngoan hơn nếu bắt đầu từ một CLB khiêm tốn". 17 tuổi, anh kí hợp đồng với CLB nhỏ Haarlem. Anh chỉ muốn được chơi bóng và vui vẻ. "Trong bóng đá, tôi luôn chỉ tìm kiếm niềm vui". Sau một thời gian ngắn ở Haarlem, Gullit nhanh chóng được các CLB lớn của Hà Lan liên tục đến gõ cửa. Năm 20 tuổi, anh quyết định : khoác áo Feyenoord. Vậy là rời Amsterdam để đến Rotterdam! Đối với anh, sự đối nghịch lâu đời giữa hai thành phố này chẳng có ý nghĩa gì cả. Do có thể hình lực lưỡng, anh được bố trí chơi ở vị trí hậu vệ quét. Tuy không thật sự hài lòng về điều đó nhưng anh vẫn thấy thật hạnh phúc ở đây vì được làm người đồng đội với ?oThánh? Johan Cruff trong mùa bóng cuối cùng của ông, mùa bóng 1983-1984. Đó cũng là năm Feyenoord đoạt cú đúp với chức VĐQG và cúp QG.
    Hè năm 1985, Gullit chuyển sang chơi cho PSV Eindhoven. Lúc này tài năng tiềm ẩn của anh mới được giải phóng. Từ hậu vệ trở thành một tiền đạo kì tài. 27 bàn thắng được ghi ngay trong mùa bóng đầu tiên ở PSV. Lúc bấy giờ, anh là một gương mặt quen thuộc của ĐT Hà Lan. Dù ĐT thi đấu không thành công ở World Cup 86 và PSV chật vật ở Cúp Châu Âu, song danh tiếng của Gullit thì đã lan rộng ra khắp nơi. Mùa xuân năm 1987, một người đàn ông giàu có xuất hiện, chuẩn bị làm thay đổi cả cuộc đời anh. Đó là Silvio Berlusconi, ông trùm truyền thông, người vừa tiếp quản chiếc ghế chủ tịch của AC Milan. 50 triệu quan Pháp( tương đương 6,5 triệu bảng ) đã được rót ra để có Gullit -1 KLTG thời bấy giờ. Món tiền ấy đã được đầu tư đúng chỗ. Trong vai trò cầu thủ dẫn dắt, anh đã làm bừng sáng lối chơi của Milan sau 9 năm chìm vào bóng tối. CLB đoạt Scudetto danh giá, còn bản thân anh nhận được đồng thời cả danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất thế giới do World Soccer và QBV châu Âu do France Football trao tặng.Cả hai phần thưởng cao quý này đã được Gullit tặng lại cho tổng thống Nam Phi Nelson Mandela, một người da màu vĩ đại chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc apartheid.
    Tuy đã tìm được CLB của đời mình, nhưng đường thăng tiến của Gullit trong những năm sau đó không phải được phủ lên bởi một tấm thảm rải đầy hoa. Từ 1988 đến 1992, sự nghiệp của anh dao động qua lại giữa những thời điểm suy sụp trầm trọng do chấn thương liên miên với những khoảnh khắc vui mừng tột đỉnh cùng những trận đấu vang dội mà anh đã chơi với phong độ tuyệt vời nhất. Bảng tổng kết những lần chấn thương của anh thật kinh khủng : từ chấn thương ở đầu gối vào mùa thu năm 88 khiến anh phải ngừng mọi hoạt động, rồi phải lên bàn mổ giữa năm 89, suýt nữa không thể tham dự trận chung kết C1 trong một năm hầu như phải nằm giường từ cuối tháng 6/1989 đến tháng 4/1990. ?oTôi đã trải qua những thời điểm thật ghê gớm. Những thời điểm khiến cuối cùng tôi đã nhận ra rằng bóng đá là cả cuộc đời tôi?. Đúng như vậy, giống như câu chuyện trong bản Concept Album ?oGoes to Hell? của Alice Cooper, Gullit thật đã có một chuyến đi đến địa ngục, rồi lại an toàn trở về. Hết những ngày tháng dài khổ sai là đến những ngày hội lớn sôi động không thể nào quên. Như trận chung kết Euro 88 ở Đức, như trận chung kết cúp C1 ngày 24/5/1989, hay đơn giản như những trận đấu chiều chủ nhật mỗi tuần ở Serie A mà cuối cùng anh lại được là chính mình. Hạnh phúc, vui sướng tràn ngập....
    Kể về những thời điểm đó của anh, không thể không nhắc tới hai cầu thủ Hà Lan khác là Frank Rijkaard và Marco Van Basten. Sự nghiệp của họ ở Milan gắn bó với nhau chặt chẽ đến mức chẳng bao giờ có thể nói về một người trong số họ mà lại bỏ qua hai người kia. Như trong trận chung kết Euro 88 hôm 25/6 ở Munich, cơn lốc màu da cam gặp các chú ngựa ô Liên Xô. Hà Lan vừa thắng Đức, còn Liên Xô vừa loại Ý ở Bán kết. Nổi bật nhất trong đội hình Hà Lan là Rijkaard, một hậu vệ dũng mãnh, là Basten, một chân sút phi thường với những cú sút kì diệu. Và là Gullit, một ngôi sao luôn phải xoay sở để thoát khỏi 2 hay 3 hậu vệ đối phương luôn bám sát. Vào trận, anh toả sáng. Có mặt ở khắp mọi nơi trên sân. Cuốn phăng tất cả. Từ quả chuyền của Koeman và Basten đánh đầu cho bóng bay chệch hướng, bóng đến đúng đầu Gullit. Cách khung thành 10 mét, trái bóng bay sát xà ngang, ngoài tầm với của thủ môn nổi tiếng Rinat Dassaev. 1-0 cho Hà Lan. Sau đó là một bàn thắng tuyệt vời của Basten. Một cú vô lê từ góc sút hầu như không thể ghi bàn. Dassaev lại phải vào lưới nhặt bóng. Và Hà Lan trở thành những nhà VĐCÂ.
    11 tháng sau, 3 chàng Hà Lan Bay sẽ lại trở thành những nhà VĐCÂ với CLB của họ ở cúp C1. Ở vòng bán kết, Milan phải đụng độ với Real. Sau trận hoà 1-1 ở lượt đi tại Madrid, ngày 19/4, Milan đã đè bẹp Real với tỉ số 5-0 trên sân nhà San Siro với mỗi chàng trai Hà Lan ghi 1 bàn, như một biểu dương sức mạnh tập thể của họ. Ngày 29/5, chung kết ở Nou Camp, Milan gặp Steaua Bucarest. Gullit và Basten đã có một màn trình diễn tuyệt vời. Phút 17, Gullit ghi bàn mở tỉ số. 10 phút sau, Tassoti chuyền bóng vào giữa, Basten đánh đầu đưa bóng bay sát cột dọc. 2-0 cho Milan. Bàn thắng thứ 3 là một kiệt tác. Phút 39, từ đường chuyền vào giữa của Donadoni, Gullit dùng ngực chặn bóng, bắt vô lê vào góc chết ?"1cú sút tử thần. Cơn ác mộng của thủ môn Lung chưa chấm dứt ở đó. Ngay đầu hiệp hai, một cú chọc bóng hiểm hóc của Rijkaard, Basten xoay người tại chỗ, ghi bàn ấn định tỉ số bằng chân trái. Sau trận đấu, Gullit nói: ?oKhi mới bắt đầu được 5 phút, tôi hiểu rằng chúng tôi sẽ thắng. Chúng tôi rất tự tin, tràn đầy hứng khởi. Thật ngoài sức tưởng tượng?. La Gazzetta dello Sport chạy tít lớn: ?oChỉ có trên thiên đường người ta mới chơi bóng đá như thế?. Đúng vậy, Gullit và các đồng đội Milan xứng đáng được ở trên thiên đường!
    Rồi Gullit lại chấn thương nặng. Anh chỉ kịp có mặt trong trận CK C1 năm sau đó thắng chật vật Benfica. Mondial 1990, anh thi đấu trên một chân trong một đội hình Hà Lan đã hoàn toàn kiệt sức. Rồi bình phục, rồi lại lao vào tập luyện để phục hồi phong độ. Anh kết thúc cuộc phiêu lưu thật đẹp với Milan bằng 2 chức VĐQG năm 92 và 93. Sau đó, anh sang Sampdoria, giã từ sự nghiệp cầu thủ đầy vinh quang năm 95 ở Chelsea và chuyển sang làm HLVcho đội bóng này. Lập tức anh lại đăng quang bằng chiếc cúp FA năm 97....
    Giờ đây, Gullit đang có một cuộc sống mới, không bóng đá, không lo bị hành hạ bởi chấn thương, không sợ bị sức ép hay sự chỉ trích... Thật thanh thản, nhàn hạ! Nhưng biết đâu đấy, người bạn thân của anh , Rijkaard, hiện đang là HLV Barcelona. Gullit mới ngoài 40 tuổi, có thể vào một ngày đẹp trời, anh sẽ trở lại với bóng đá, làm HLV cho các CLB danh tiếng, đạt được những vinh quang mới, như Cruff, như Beckenbauer, như Zagallo thủa nào.... Có thể lắm chứ !
    Ruud Gullit, một người luôn gây bất ngờ , một huyền thoại mà hẳn là không thể xếp hạng được cho đến cuối cùng. Chuyện về anh là thế. Và tất nhiên ,vẫn chưa có hồi kết ...
    Được prehistory sửa chữa / chuyển vào 13:14 ngày 16/06/2004
  8. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Part 11: Frank Rijkaard - Người chiến binh thầm lặng
    chipheo
    Trong bộ ba người Hà Lan bay tạo dựng nên đế chế Milan trong thập niên 90, Rijkaard không nổi bật như 2 người bạn của mình là Ruud Gullit và Van Basten, bởi vì vị trí của anh là một tiền vệ thủ. Một vị trí ít được chú ý như tiền vệ dẫn dắt hay tiền đạo, nhưng nó vô cùng quan trọng trong sơ đồ chiến thuật của các đội bóng, đặc biệt là Milan thời bấy giờ, lấy phòng ngự chắc chắn, sau đó tấn công liên tục gây sức ép toàn bộ mặt sân (pressing) làm đối thủ hoảng loạn. Điều này cần thiết phải có một tiền vệ thủ cực kỳ cơ động, cản phá các đợt lên bóng của đối phương, phát động tấn công ngay từ sân nhà và có thể trực tiếp ghi bàn?nhiệm vụ này được giao cho Rijkaard và anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, tạo nên một dấu ấn rỏ nét trong thành công của Milan. Với vị trí của mình, tên tuổi Rijkaard bay xa và nhắc đến vị trí tiền vệ thủ, các HLV, Bình luận viên và người hâm mộ thường đem anh ra để so sánh.
    Lối đá của anh rất chắc chắn, dũng mãnh và đầy uy lực. Đó là tố chất cần có của một tiền vệ thủ, một mẫu cầu thủ mà các tiền vệ thủ nổi tiếng thế hệ sau anh như: Desailly, Viera, Roy Kean, Davids và Makelele cũng không thể đạt tới được trình độ của anh. Không những cản phá tốt, anh còn tham gia tấn công và ghi nhiều bàn thắng quan trọng cho Milan và tuyển Hà Lan.
    Cũng như Gullit, Rijkaard sinh ra ở Suniam, một thuộc địa cũ của Hà Lan và như bao đứa trẻ da màu khác, bóng đá đường phố đã ăn vào máu và đã tôi luyện cho anh thành một người chiến binh vĩ đại sau này. Từ những trận bóng đá trên đường phố, CLB Ajax đã phát hiện ra tài năng trẻ này và đưa anh đến trường đạo tạo bóng đá của CLB và tài năng của anh đã phát triển từ nơi đây. Sau một thời gian ngắn chơi cho Ajax ở đội hình 1, Rijkaard đã trải qua những năm tháng lưu lạc tại những CLB nhỏ ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Nhưng với thành công cùng đội tuyển Hà Lan (đoạt cúp VĐ Euro 88 và sự xuất sắc của Van Basten, Gullit tại Milan, mùa bóng 1989-1990, Rijkaard đã gia nhập đội quân Rossoneri từ CLB nhỏ Real Zaragoza và từ đây anh đã bước ra từ bóng tối và đoạt được những thành công rực rỡ với Milan.
    Ngay từ mùa bóng đầu tiên, Rijkaard đã giúp Milan đoạt Cúp C1 lần thứ hai liên tiếp sau khi ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết hạ CLB sừng sỏ ĐKVĐ Bồ Đào Nha Benfica. Không ai có thể quên được pha ghi bàn dũng mãnh của anh, từ tuyến hai băng lên và ghi bàn vào lưới Benfica. Như vậy, với hai cúp C1 liên tiếp, bộ ba Hà Lan đã có những đóng góp to lớn vào thành công của Milan.
    Sau khi đăng quang Vô địch C1 với Milan mùa bóng 1989-1990, cùng với sự xuất sắc của bộ ba Gullit, Rijkaard và Van Basten, đội tuyển Hà Lan được dự báo như là một ứng cử viên nặng ký của chức vô địch World Cup 90 được tổ chức tại Italia. Tuy nhiên, Hà Lan đã thất bại tại giải này vì những bất ổn nội bộ, chấn thương và xuống phong độ của các trụ cột sau một mùa giải căng thẳng với các CLB của mình. Tại giải này cũng đánh dấu một sự kiện buồn cho cá nhân Rijkaard, anh bị thẻ đỏ đuổi ra sân trong trận Hà Lan gặp Đức tại vòng 1/16. Do không chịu nổi sự khiêu khích về màu da của tiền đạo ma mãnh Voller, sau một pha va chạm Rijkaard đã nhỏ nước bọt vào mặt tiền đạo này và cả hai cùng bị đuổi ra sân. Đây là một pha bóng đáng buồn nhất tại vòng chung kết khi truyền hình luôn trình chiếu cảnh quay chậm.
    Sau sự kiện này, trở về Milan, Rijkaard đã trở nên chín chắn và trầm tĩnh hơn. Sau khi thất bại của Milan trước OM vào mùa bóng 1990-1991 và bị cấm thi đấu 1 năm ở Cúp Châu Âu, Milan đã có những cải tổ mạnh mẻ về mặt nhân sự. HLV tài năng A. Sacchi ra đi và nhường chỗ cho HLV mới F.Capello, một cựu cầu thủ phòng ngự của Milan. Vì vậy lối chơi của Milan có một sự thay đổi nhỏ đó là đặt hiệu quả lên hàng đầu, cần chắn chắn ở hàng thủ sau đó mới triển khai tấn công nhưng vẫn không mất đi nét hoa mỹ, đẹp mắt dưới thời HLV Sacchi. Sự thay đổi chiến thuật của Milan dựa trên nền tảng chắc chắn của bộ tứ hậu vệ huyền thoại Baresi, Maldini, Costacurta và Tasotti cùng với phong độ xuất sắc của Rijkaard. Lối đá này đã mang lại 58 trận bất bại cho Milan trong các mùa bóng 1991-1993, phá vở kỷ lục tồn tại hơn 40 năm của Serie A. AC Milan đoạt chức vô địch Serie A mùa bóng 1991 ?" 1992 và bàn thắng mang lại chức vô địch cho Milan cũng chính là bàn thắng tuyệt đẹp của Rijkaard trong trận hòa 1-1 với Napoli. Milan đã trở lại đấu trường C1 ( mùa bóng này đã đổi tên thành Champions League) với những trận thắng áp đảo khi đi đến trận chung kết. Nhưng thất bại đau đớn 1-0 trước OM đã phá vở giấc mộng chinh phục Châu Âu của một Milan hùng mạnh và đầy kiêu hãnh. Thất bại này cũng đánh dấu chấm hết của bộ ba Hà Lan bay tại Milan. Mặc dù phong độ của Rijkaard vẫn còn rất tốt và có thể chơi bóng đỉnh cao tại Serie A vài năm nữa, nhưng anh đã kiên quyết trở về CLB cũ Ajax để chơi thêm một vài mùa bóng trước khi giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế của mình. Sự ra đi của anh đã để lại bao tiếc nuối cho các Rossoneri, cho những Fan của AC Milan trên khắp thế giới.
    Dưới sự dẫn dắt của Rijkaard, người đội trưởng mới của CLB, Ajax đã đoạt chức VĐQG Hà Lan mùa bóng 1993-1994 và trở lại đấu trường Châu Âu với những trận thắng hào hùng trước Real Madrid, AC Milan, Bayern Munich?Kinh nghiệm của Rijkaard và sức trẻ của các tài năng Kluivert, Seedorf, Davids, Kanu, ? đã giúp Ajax lọt vào chung kết Champions League năm 1995. Thật trớ trêu, CLB trong trận chung kết chính là AC Milan, nơi anh đã thành danh và tình cảm ăn sâu vào trong máu. Nhưng với bản lĩnh của một cầu thủ nhà nghề, anh đã dẫn dắt Ajax đối đầu và hạ Milan 1-0 trong trận chung kết. Rijkaard cùng động đội đăng quang trong nước mắt của các Rossoneri, của những đồng đội cũ chảy dài trên sân vận động thành Vienie và sự đau đớn của hàng triệu các cổ động viên trên thế giới khi theo dõi trận đấu qua màn ảnh nhỏ. Milan đã gục ngã ở những giây phút cuối cùng của trận đấu bằng bàn thắng của cầu thủ trẻ Kluivert sau khi nhận đường chuyền đẹp như mơ của cựu cầu thủ Milan Rijkaard - định mệnh đã đưa anh đến Milan cùng với những thành công rực rỡ và cũng an bài cho Milan với nhát kiếm tại thành Vienie. Nhưng điều đó không làm giảm đi hình ảnh tốt đẹp của anh trong trái tim của các Rossoneri chân chính.
    Những vinh quang của cuộc đời cầu thủ Rijkaard đã khép lại với trận chung kết Champions League 1995, anh giả từ thi đấu và lao vào niềm đam mê mới đó là kinh doanh và thiết kế thời trang và cũng rất thành công. Nhưng số phận gắn liền anh gắn liền với trái bóng, anh đã trở lại sân đấu trên cương vị HLV tuyển Hà Lan tại vòng chung kết Euro 2000 được tổ chức tại quê hương anh. Tuyển Hà Lan được kỳ vọng sẽ đoạt chức vô địch với những trận thắng oanh liệt và đẹp mắt tại vòng loại. Nhưng tại bán kết, do không may mắn, tuyển Hà Lan đã bị loại sau những quả đá luân lưu 11 trước tuyển Italia, Rijkaard đã từ chức mặc dù ông không có lỗi trước sự thất bại của đội tuyển Hà Lan và nhận HLV cho một đội bóng nhỏ là Sparta Rotterdam, nhưng nhanh chóng bị thất bại. Dường như trên cương vị HLV, Rijkaard không được thành công và kém may mắn.
    ?oThất bại là mẹ thành công? đó là một châm ngôn bất hủ mà ai cũng thuộc, giờ đây Rijkaard đã trở thành HLV mới cho CLB khổng lồ Barcelona. Người dân xứ Catalan đang rất kỳ vọng vào ông thổi một luồng gió mới trong cuộc đại cách mạng của Barca, sau bao năm trời đau khổ dưới bóng của đại kình địch Real Madrid và Barca đã có thành công bước đầu khi trận giao hữu mới đây trước Juventus, Barca đã thắng 6-5 bằng loạt đá luân lưu 11m sau khi dẫn trước 2-0 với một lối chơi dũng mãnh và đẹp mắt, cũng nên nhớ rằng đây là trấn đấu đầu tiên của Barca dưới sự dẫn dắt của Rijkaard.
    Tất cả các fan hâm mộ Milan đều cầu chúc cho anh thành công với Barca như những gì anh đã thành công với Milan. Nhưng liệu định mệnh có tiếp tục giành cho Milan khi Barca sẽ gặp Milan tại trận chung kết Champions League vào mùa bóng 2004 ?" 2005?, lúc đó trái tim của các Rossoneri lại nhói đau khi nghĩ đến những giây phút định mệnh năm 1995 tại thành Vienne?
    to be continued ...
  9. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Part 12: Cảm ơn Gre - No - Li
    TTVH 3/2001
    Những con người làm nên huyền thoại ấy có lẽ sẽ chẳng bao giờ có mặt ở Italia nếu không có những lý do khác ngoài bóng đá: đó là Chiến tranh thế giới thứ 2 và sự nhàm chán của giải vô địch Thuỵ Điển đã khiến họ phải đi tìm chiến công ở những vùng đất mới. Lúc đó, giải Serie A mới trở lại sau khi bị gián đoạn do những năm tháng chiến tranh và Torino đang là người thống trị giải vô địch trong khi đã gần 50 năm trôi qua, Milan chưa giành được một danh hiệu nào ở giải VĐQG. Nils Liedholm, Gunnar Gren và Gunnar Nordahl đến với Milan gần như cùng một lúc, người này cách người kia một vài tháng và họ gần như không biết gì về nhau ngoài những lần đối đầu với nhau trước đó ở Allsvenska (Giải vô địch Thụy Điển).
    Nils Liedholm là người đầu tiên đến với Milan vào năm 1949 và từ đó coi Italia là quê hương thứ hai của mình. Cao to, chăm chỉ và rất giàu kĩ thuật, thời kì đầu Liedholm chơi ở vị trí tiền đạo, sau đó chuyển xuống chơi ở vị trí libero. Ngay trong tuần đầu tiên ở CLB, ông đã làm HLV và các đồng đội ngạc nhiên vì sự cần cù của mình. Ông thường luyện tập thêm 2 tiếng đồng hồ nữa sau kh buổi tập chính thức kết thúc trước khi về nhà. Chính điều ấy đã khích lệ tinh thần của các đồng đội mới và họ cũng cùng ông tập thêm. Chiến công đầu tiên của Liiedholm có lẽ sẽ còn được nhớ mãi, nhưng là bởi các CĐV Juventus trong giải Serie A vào năm 1950, Liedholm đã ghi một trong số những bàn thắng khó tin nhất đời mình. Nhận được đường chuyền từ đồng đội, ?oNgôi sao phương Bắc? đã ghi bàn thắng tù gần giữa sân bằng một cú sút chân trái trời giáng.
    Gunnar Nordahl là người đầu tiên liên hệ với Milan vào cuối năm 1948 khi CLB đang thiếu những chân sút xuất sắc. Việc mở cửa thị trường đối với những cầu thủ người nước ngoài đã giúp CLB có một hành động đúng. Đó là xây dựng nên một bộ ba khét tiếng trong những năm 50. Nordahl chính là người đã giới thiệu 2 cầu thủ mà anh biết khi còn ở Thụy Điển là Gren và Liedholm cho chủ tịch lúc đó của Milan là Umberto Trabattoni, nhưng mãi cả năm sau đó Nordahl mới đến được Milan do những trục trặc về mặt giấy tờ. Trong 4 mùa bóng ngắn ngủi ở Milan, Nordahl đã ghi được tổng cộng 210 bàn thắng, một con số kỉ lục mà cho tới nay chưa một ai có thể phá được. Hơn thế nữa, năm 1950, bộ ba GRE-NO-LI cũng là nỗi khiếp sợ của mọi hàng phòng ngự tại giải Serie A khi họ ?okhủng bố? các khung thành với con số 118 bàn thắng, một kỉ lục nữa chưa bị phá của Serie A.
    Gunnar Gren là người đến muộn nhất trong bộ ba này. Ông có mặt tại Milan sau khi những người đến trước đã ở đây được gần một năm. Chơi ở vị trí tiền vệ, cầu thủ có biệt danh là ?oIl Professore? (Giáo sư) do mái đầu hói này, đã ghi được 34 bàn thắng cho Milan trong 4 năm thi đấu ở CLB và trở thành một biểu tượng của một Milan hồi xuân trong những năm 50. ?oĐối với tôi, Milan như là một gia đình lớn, đó là những tháng năm đẹp nhất của đời tôi. Cuối năm 1949, tôi đến Milan khi đã 29 tuổi. Nhưng chính CLB này đã cho tôi tuổi trẻ và lòng nhiệt huyết không bao giờ cạn?, sau này Gren hồi tưởng lại.
    Bộ ba GRE-NO-LI tan rã vào năm 1953 sau khi Gren chuyển tới Genoa và Nordahl đi tìm những thách thức mới 2 năm sau đó ở Roma. Người trung thành nhất với Milan chính là Liedholm. Ông còn thi đấu cho Milan cho tới tận năm 1961 và trở thành HLV của Milan trong 3 thời kì khác nhau: 1964-1966, 1978-1979, 1984-1986 và giữa những thời kì đó là những năm làm HLV ở nhiều CLB khác nhau, trong đó có Roma, CLB mà ông đã đem về cho họ một Scudetto năm 1983.
    Liedholm là một trong số những cầu thủ lập dị và ương bướng nhất trong lịch sử CLB. Bị bắt buộc phải chơi ở vị trí libero thuần tuý, chỉ nhăm nhăm cản phá đối phương nếu họ xuất hiện ở vòng cấm và không được di chuyển nhiều, Liedholm đã phản ứng gay gắt và thậm chí chơi hư một cầu thủ tự do như ông mong muốn. ?oTrên sân, tôi là người quyết định tất cả. Tôi sẽ làm những gì mà tôi muốn?, Liedholm đã thẳng thừng tuyên bố như vậy với HLV Giuseppe Viani. Đó cũng là một trong những thời kỳ kì lạ nhất của Milan, với những cầu thủ nổi loạn trong đội hình. Đó là Liedholm, Schiaffino và C. Maldini, những người nhất định không chịu chơi theo vị trí mà HLV đã phân công. Năm 1958, Liedholm có mặt trong trận chung kết World Cup với đội tuyển Brazil hùng mạnh của Pele và chính ông là người đã ghi bàn thắng mở tý số của trận đấu ấy. Nhưng Thụy Điển đã chịu thất bại 2-5. Dù vậy, bàn thắng của Liedholm cũng đã đi vào lịch sử bóng đá nước này.
    Chính Liedholm. ở vai trò HLV, là người đã đem đến cho Milan danh hiệu vô địch Italia lần thứ 10 vào năm 1979 với một lối chơi cần cù, nhẫn nại và rất hiệu quả mặc dù trong đội bóng không có một tiền đạo giỏi (người ghi nhiều bàn thắng nhất đội lại là một hậu vệ, Aldo Maldiera). Trước đó, cũng chính Liedholm đã đưa vào đội hình một trung vệ trẻ mang dáng dấp của một vị thủ lĩnh như chính mình, đó là Franco Baresi. Hai tên tuổi lớn ấy đã cùng Milan đoạt 10 trên 16 Scudetto và rất nhiều những chiến thắng khác nữa. Không chỉ được ghi nhớ bởi những chiến công ấy, Liedholm cũng là người đầu tiên đưa ra chiến thuật phòng thủ khu vực mà sau này, người kế nhiệm Arrigo Sacchi đã hoàn thiện và nâng lên thành một nghệ thuật. Cả 3 cầu thủ Thụy Điển lúc này đang sống ở quê hương mình nhưng không bao giờ quên được những ngày tháng vinh quang trên đất I Ta Li A, Mi Lan cũng sẽ không bao giờ quên được những huyền thoại ấy. Bởi họ là những người đặt nền móng cho MiLan hôm nay. TackSaa Mycket (tiếng Thuỵ Điển nghĩa là ?o cám ơn?).
  10. prehistory

    prehistory Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    13: AC Milan vs Inter Milan - Mối thù trong gia tộc
    TTVH
    Những trận đấu giữa AS Roma và Lazio có thể biến ?othành Rome bất diệt? chia làm 2 phe, những cuộc chạm chán giữa Juventus và Torino có thể khiến các CĐV 2 đội mất ngủ hàng tuần... Nhưng trong quá khứ cũng như hiện tại, chẳng có cuộc đọ sức nào giữa các ?ovõ sĩ giác đấu? thành Rome hay những ?ongười khổng lồ? thành Turin có thể đạt đến độ nóng trên sân cỏ như cuộc nội chiến thành Milano. Vì vậy mà khi nói đến trận ?o Derby lớn?, các CĐV Italia hiểu ngay rằng đó là cuộc chạm chán kinh điển trên sân San Siro.
    Chỉ ngay cái tít tưởng chừng như rất đơn giản ?oMilan gặp Inter? đã đủ để gợi lên những ánh lửa, niềm đam mê và bao cảm xúc: sung sướng, hân hoan, và cả đắng cay, thống khổ.... Đó là trận đấu lớn giữa những HLV lừng danh của thế giới, giữa những cầu thủ đắt giá và nổi tiếng, giữa những vị chủ tịch giàu có đầy quyền uy, giữa những biển người trong 2 màu Đỏ - Đen với những cơn sóng mang 2 màu Xanh ?" Đen.
    Một lần cùng nhau
    Ngày nay, có thể họ bị chia rẽ, nhưng những người yêu bóng đá thành Milan đã từng chỉ cổ vũ cho một đội bóng. Đó là Milan Cricket and Football Club, do một người Anh là Alfred Edwards sáng lập năm 1899. Ngày 9/3/1908, sau một cuộc họp ở nhà hàng Orologio gần Piazza del Doumo, một nhóm CĐV nổi loạn người Ý và Thụy Sĩ quyết định li khai và lập ra Inter Milan, CLB của riêng họ. 7 tháng sau, ngày 18/10/1908, Inter gặp Milan trong trận derby đầu tiên ở bên kia dãy Alpine, tại Chiazzo, Thụy Sĩ. Sự kình định giữa 2 CLB ra đời từ kể từ đó.Phải đến hơn 60 năm sau, ngày 29/6/1969 mới lại có một trận derby khác diễn ra ngoài Italy. Hai đội gặp nhau tại sân Yankee ở New York trong một giải đấu giao hữu.
    Những người anh em thù hận
    Trong cuốn sách ?oTất cả những cuộc chiến truớc đây của chúng tôi?, nhà văn Javier Marca, là một CĐV cuồng nhiệt của Real Madrid, đã viết: ?oSự thù hận không phải là điều dễ dàng mà có?. Ông lập luận rằng: ?oTrong bóng đá, cần phải có nhiều năm chiến thắng, bất kể chiến thắng đó có xứng đáng hay không, phải có những bàn thắng ngoạn mục và kiêu kì, phải có những cầu thủ vĩ đại và kì tài, phải thỉnh thoảng xúc phạm đối phương và khiến hàng nghìn CĐV của họ phải thất vọng. Như thế mới tạo nên sự căm hận. Sự căm hận tột cùng nhất được khơi dậy bởi một phong độ ổn định, bởi những kết quả tuyệt vời, và sau đó nó sẽ được tán dương như thể Antonio Salieri coi thường Mozart vậy.?.
    Tuy nhiên, sự thù hận giữa các CĐV của Milan và Inter có ngay từ trận derby đầu tiên. Chỉ có điều nó hơi khác so với những nơi khác. ?oChúng tôi giống như những người anh em thù hận hơn là những kẻ thù của nhau?. Luca, một CĐV cực hữu của Inter , ngồi ngoài quán Bar Stadio chỉ cách sân San Siro vài chục mét vừa ăn chiếc bánh sandwich kẹp pho-mát vừa nói về trận derby thành Milan. Ở các trận derby khác trên khắp Italia, đặc biệt như tại Rome và Turin, sự kình địch gay gắt giữa các đối thủ thường dẫn tới bạo lực giữa 2 nhóm CĐV quá khích của 2 phe. Nhưng chuyện đó rất ít khi xảy ra ở San Siro, sân nhà chung của Milan và Inter. Luca lí giải: ?oChúng tôi tuy chẳng ưa gì nhau, nhưng có lẽ cả hai đều ghét Juventus hơn. Tuy có xúc phạm và chế nhạo nhau nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó thôi. Thực ra, chúng tôi sống cùng nhau trên một đường phố, làm việc ở cùng một nhà máy và cùng nhau đi lại trên một chiếc xe điện ngầm. Đúng là đôi lúc có một số chuyện vượt ngoài tầm kiểm soát, nhưng rất ít ?.
    Những người đã quen với các trận derby căng thẳng hơn có thể sẽ lấy làm lạ khi thấy các CĐV của Milan và Inter thường ngồi uống bia và tán gẫu với nhau trong quán bar trước mỗi trận đấu. Việc các thành viên trong một gia đình ở Milan là CĐV của cả AC và Inter cũng chẳng phải là chuyện hiếm. Trận derby thành Milan mang vấn đề uy tín nhiều hơn là một cuộc nội chiến. Nó thiếu sự chia rẽ về tôn giáo hay chính trị vốn luôn tiềm ẩn đằng sau những trận derby ở Madrid, Rome, hay Glasgow Thực ra sự mâu thuẫn gay gắt về chính trị giữa 2 CLB đã từng tồn tại trong lịch sử nhưng nó đã nhạt đi trong thập kỉ gần đây. Inter vẫn được cho là CLB thuộc phái cánh hữu, bảo thủ, thu hút được các CĐV từ những khu phố giàu có của Milan Tuy nhiên, mặc dù là ông trùm dầu lửa của Italia, nhưng ngài Chủ tịch Massimo Morratti lại được coi là nhà chính trị theo đường lối cánh tả, thậm chí đã từng được phe trung tả đề cử tranh chức thị trưởng Milan. Ngược lại, AC Milan đã có thời được coi là đội bóng của tầng lớp lao động. Đội bóng nhận được sự ủng hộ của nhiều nghiệp đoàn và các nhà hoạt động cánh tả. Ấy vậy mà những thành công trong khoảng 15 năm trở lại đây của CLB phần lớn nhờ đồng tiền ông trùm truyền thông Silvio Berlusconi, đương kim thủ tướng Ý và thủ lĩnh đảng Forza Italy theo đường lối trung hữu!
    Ngày nay, sự khác biệt giữa 2 CLB chỉ còn là lối chơi và cách tìm kiếm vinh quang.
    Ánh sáng, màu sắc và âm thanh
    ?oTiến gần đến San Siro vào buổi chiều tối trước trận đấu, bạn phải nín thở bởi những ánh sáng rực rỡ chói lòa?, một CĐV khác của Inter tên là Giuseppe cho biết, ?oĐứng ngoài SVĐ, bạn có cảm tưởng thế giới xung quanh như ngừng trôi bởi trái tim các CĐV đã tìm thấy tổ ấm, tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống?.
    Khi đã vào bên trong SVĐ, những giác quan của bạn sẽ bị tấn công tới tấp bởi những ánh đèn, âm thanh, màu sắc của các CĐV. Các khán đài sân San Siro được bố trí dốc và các CĐV ở tầng trên có thể bị chóng mặt khi cổ vũ cho những người hùng của họ. Chẳng thế mà cách đây 2 năm, một CĐV Inter đã rơi từ tầng 2 xuống tầng 1 do do ăn mừng bàn thắng đội nhà trong trận gặp AEK Athens ở cúp UEFA. Những tràng pháo hoa đủ màu sắc liên tục được bắn lên. Bầu không khí trở nên đặc sệt bởi khói và âm thanh náo loạn, quay cuồng. Thật là những cảnh tượng độc đáo và khó quên.
    Sau trận derby ngày 11/5/2000 kết thúc với thắng lợi kỉ lục 6-0 nghiêng về Milan, báo chí địa phương đã không tiếc lời ca ngợi về một chiến thắng lịch sử và một kỉ lục mới được nêu trong những lần đọ sức giữa 2 đội. 2 bàn của Shevchenko, 2 bàn của Comandini, và 2 bàn còn lại do công của Giunti, Serginho đã làm huỷ hoại những thứ ?ođồ chơi đắt tiền? của ông Moratti. Đó cũng là trận đấu đưa ngài Chủ tịch Milan Berlusconi lên chín tầng mây. Người ta đồ rằng chiến thắng của ông tại cuộc tổng tuyển cử Italia 2 ngày sau đó có đóng góp rất lớn từ trận đại thắng của Milan. Sau trận đấu, Inter đã buộc phải rời sân trong sự hộ tống nghiêm ngặt của cả 1 phái đoàn cảnh sát do các CĐV của họ cố gắng tràn xuống sân để trừng phạt Vieri và các đồng đội. Họ trút nỗi tức giận bằng cách liệng các đồng xu và ném vỏ lon bia vào chiếc xe bus chở các cầu thủ Inter đang muốn thoát thật nhanh khỏi sân.
    Sau đó, HLV Marco Tardelli của Inter đã phải thú nhận rằng đó là ?onhững cảnh tượng tồi tệ nhất mà ông từng được chứng kiến trong cuộc đời?. Còn đội trưởng Milan Paolo Mandini khẳng định rằng anh không muốn chơi tại San Siro trong bầu không khí sục sôi căm hận như vậy nữa.
    Những nhân vật thuộc về lịch sử
    HLV Achentina Helenio Herrera, được biết đến với biệt danh ?othầy phù thuỷ?, đã dẫn dắt Inter Milan đến những thành công vĩ đại nhất trong lịch sử CLB này ở thập niên 60 của thế kỉ trước với 3 Scudetto, 2 cúp C1 và 2 cúp Liên lục địa. ?oNgay cả khi bạn đã cống hiến tất cả những gì mình có, thế vẫn là chưa đủ?- câu nói ưu thích ấy của Herrera đã phần nào nói lên phong cách của ông. Đối với người phát minh ra chiến thuật ?oCatenaccio? này, quyết tâm thi đấu hết mình của mỗi cầu thủ quan trọng hơn những đường chuyền công phu; việc xây dựng một bức tường phòng ngự không thể xuyên thủng được coi trọng hơn việc tạo ra những phương án tiến công lắt léo.
    Mặc dù vậy, đội bóng của HLV Herrera vẫn có chỗ cho những cầu thủ lịch lãm. Tuy đã ngoài 60 tuổi, nhưng Giacinto Facchetti, nguyên đội trưởng Inter, lúc nào trông cũng như vừa bước ra từ cửa hiệu thời trang của nhà thiết kế Armani vậy. Hồi còn thi đấu, Facchetti cũng có một phong cách hào hoa và lịch lãm như thế. Sandro Mazzola, Mario Corso, Tarcisio Burgnich - những cầu thủ vĩ đại khác của Inter vừa có thể chạy hùng hục như những chiếc xe tăng, lại vừa có thể chơi bóng như những nghệ sĩ.
    Thập kỉ 60 đánh dấu sự thăng hoa của 2 đội bóng thành Milan. Cũng trong những năm này, HLV Rocco của AC đã đưa đội giành 2 cúp C1 và 1 Scudetto. Đội trưỏng của Milan khi đó là Cesare Maldini, cha của Paolo Maldini - đội trưởng Milan hiện tại. Khác với Herrera, quan điểm của Rocco là: ?oNếu đối xử với các cầu thủ như những người đàn ông, họ sẽ chơi như những người đàn ông. Còn nếu đối xử với họ như những người phụ nữ, họ sẽ phản ứng như những phụ nữ vậy?. 30 năm sau, HLV Fabio Capello đã vận dụng lại những phương pháp đó và giúp AC giành 4 Scudetto, 1 cúp C1 cùng 3 chàng Hà Lan Bay huyền thoại : Ruud Gullit, Van Basten và Frank Rijkaard.
    Đến nay, hai đội đã gặp nhau tổng cộng 254 lần, trong đó Milan thắng 96 lần, Inter thắng 87 và hoà nhau 71 lần. Rõ ràng nhìn vào những con số trên thì Milan là đội thắng nhiều hơn, song các Nerazzurri vẫn luôn cười nhạo các Rossoneri bởi họ chưa từng bao giờ phải xuống Serie B. Hai từ ?oSerie B? luôn làm các CĐV áo Đỏ-Đen nhức nhối vì nó gợi lại vụ Scandal dàn xếp tỉ số năm 1979 và mùa giải thất bát sau đó 2 năm.
    Nhưng hiện nay Milan thành công hơn Inter rất nhiều. Danh hiệu gần đây nhất của Inter chỉ là chiếc cúp C3 từ 5 năm trước, còn Milan đang là nhà vua của cả châu Âu sau khi chiến thắng đại kình địch Juventus trong trận CK C1 hôm 28/5 vừa qua. Với 6 chiếc cúp C1, giờ đây chỉ mình Milan là có nhiều khả năng nhất đuổi kịp thành tích 9 lần vô địch của Real Madrid. Giống như cái thời còn đặt dưới sự chỉ đạo của A.Sacchi và F.Capello, nay dường như Milan lại ?oxứng đáng? với tất cả sự căm ghét và ghen tị mà người anh em Inter trút lên họ.
    Giờ thì trận derby thành Milan không còn là chuyện riêng của người Milan nữa. Cả 2 CLB đã không tiếc tiền tuyển mộ hàng loạt ngôi sao quốc tế. Trận đấu giữa họ được hàng triệu người trên khắp thế giới háo hức đón xem trực tiếp qua truyền hình. Thế nhưng nó sẽ chẳng là gì nếu không có sự đóng góp của những chiến binh thành Milan, nếu không có nguồn cảm hứng, sự hóm hỉnh, và khả năng của họ biết biến một trận đấu tại một SVĐ hiện đại bậc nhất thành một lễ hội đầy màu sắc và âm thanh, mỗi năm ít nhất 2 lần.
    Được prehistory sửa chữa / chuyển vào 14:49 ngày 18/06/2004

Chia sẻ trang này