1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Age of iron (tuổi sắt đá) - J.M.Coetzee

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi nut_chai, 05/10/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    Age of iron (tuổi sắt đá) - J.M.Coetzee

    Hiện trong tay tôi có một số tác phẩm văn học đoạt giải Nobel, tôi muốn post lên cho mọi người cùng đọc (hoặc đọc lại). Bắt đầu là Age of iron (tuổi sắt đá) của J.M.Coetzee. Đây là tác phẩm tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần, mỗi lần đọc cảm xúc lại được đánh thức.

    Age of iron-một tác phẩm đơn giản- một tác phẩm tuyệt vời. Tôi sẽ post dần dần tác phẩm này thành nhiều đoạn. Nếu thấy nó hay, làm bạn xúc động, hãy cảm ơn J.M.Coetzee. Nếu nó làm bạn phải chờ đợi để đọc tiếp, hãy vote cho tôi. (hehe... không giấu giếm ý định câu sao)
  2. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    Age of iron
    J.M. Coetzee
    (Giải thưởng Nobel văn học 2003)
    Dịch giả: Anh Thư
    Phía sau nhà để xe có một lối đi nhỏ, chắc con còn nhớ, con và các bạn thỉnh thoảng vẫn đến đó chơi. Bây giờ chỗ ấy hoang vắng, không dùng làm gì, chỉ có gió thổi lá rụng thành đống mục nát.
    Hôm qua đi đến cuối đường mẹ chợt thấy một túp nhà bằng hộp giấy, bên ngoài che tấm vải nhựa, trong có người nằm co, một người mẹ nhận ra đã từng gặp anh ta trên đường phố. Anh ta cao lớn, gầy guộc, da sần sùi, răng khấp khểnh, mặc bộ đồ màu xám rộng lùng thùng với chiếc mũ đã tuột vành. Anh ta nằm nhưng vẫn đội mũ, vành gấp lại để gối đầu. Một kẻ vô gia cư. Cũng như nhiều kẻ vô gia cư khác, anh ta lang thang ở những nơi đỗ xe trên phố Mill, xin tiền những khách mua hàng, uống nước ở chân cầu, ăn những thứ người ta vứt trong đồ hộp. Cứ đến tháng Tám thì những người vô gia cư như anh ta rất khổ, vì đó là tháng mưa. Nằm trong hộp giấy, anh ta duỗi thẳng chân như con rối, miệng há hốc. Quanh anh ta xông lên một mùi kinh tởm, mùi nước đái, rượu ngọt, quần áo ẩm mốc, và mùi gì nữa chẳng biết. Tóm lại là không sạch.
    Mẹ đứng nhìn anh ta một lúc, vừa nhìn vừa ngửi. Chính anh ta đích thân tìm đến chỗ mẹ những ngày này đây.
    Hôm ấy mẹ được tin của bác sĩ Syfret. Tin không tốt, nhưng là tin gửi cho mẹ và chỉ riêng mẹ thôi, không thể từ chối được. Mẹ phải nhận và đem về, không dám lắc đầu hay khóc lóc. Mẹ nói: "Cám ơn bác sĩ đã thành thật." Bác sĩ bảo: "Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau giải quyết việc này." Nói thế những sau vẻ bề ngoài thân thiện ấy, mẹ biết ông ta đã thoái thác. Việc ai nấy lo. ông ta chỉ hết lòng với người còn sống thôi, với người sắp chết thì không.
    Bước ra khỏi xe, mẹ đã bắt đầu sợ. Đóng cửa nhà xe rồi, mẹ run khắp người, phải cắn răng nắm chặt túi xách để cố giữ bình tĩnh. Cũng chỉ đến lúc ấy mẹ mới nhìn ra đám hộp giấy và anh ta.
    - Anh làm gì ở đây thế?- Mẹ hỏi giọng hơi gắt - Không ở đây được đâu, anh phải đi đi.
    Anh ta không động đậy, vẫn nằm nguyên trong hộp, giương mắt nhìn không hiểu sao ở đây lại có đôi tất rét, áo choàng xanh, váy lòa xòa, mớ tóc điểm bạc xén thành vệt đỏ hỏn ở da đầu một bà già, trông như trẻ con vậy.
    Anh ta rụt chân lại, từ từ ngồi dậy. Không nói nửa lời, anh ta quay lưng về phía mẹ, rũ miếng vải nhựa đen rồi gập đôi, gập bốn, gập tám. Anh ta lấy ra chiếc túi (in hàng chữ HÀNG KHÔNG CANADA) và kéo khóa đóng lại. Mẹ đứng sang bên. Anh ta đứng dậy, đi qua mặt mẹ, bỏ lại đống hộp giấy, cái chai không, và mùi nước đái. Quần trễ xuống, anh ta xắn lên. Mẹ chờ cho anh ta đi hẳn, còn nghe anh ta bỏ miếng vải nhựa bên kia hàng rào.
    Vậy là chỉ trong một giờ đã có hai chuyện, cái tin mẹ đã sợ từ lâu, và anh ta đến để do thám, chả biết sẽ báo trước điều gì. Tin đám cú vọ ăn xác thối đến rất nhanh. Mẹ không biết có thể tránh mặt chúng bao lâu nữa. Bọn chuyên sục sạo ở Cape Town không hề bớt một tên nào. Chúng đi chân đất mà không lạnh, ngủ ngoài trời không đau ốm, đói khát mà không hao mòn. Chúng được rượu hâm nóng từ bên trong. Lửa rượu thiêu cháy những gì là truyền nhiễm lây lan trong máu chúng. Sau bữa tiệc chúng vét sạch. Bọn ruồi nhặng bay tứ tung. Những kẻ thừa kế đấy.
    Mẹ đi rất chậm vào ngôi nhà trống. Mọi âm hưởng trong nhà dã tan biến hết. Bước chân mẹ trên sàn nghe nhạt nhẽo, buồn tẻ. Mẹ thèm khát được thấy con ở đây biết chừng nào, để con ôm mẹ, an ủi mẹ! Mẹ đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa thật sự của ôm ấp. Ôm ấp để được ôm ấp. Ôm ấp để con cháu nằm trong vòng tay của tương lai, để được sống sau khi chết, để có được niềm vui. Mỗi khi ôm con mẹ đều nghĩ thế. Con trẻ sinh ra để có mẹ. Sự thật là từ nay đến khi kết thúc cuộc đời, mẹ chỉ biết nói với con thế thôi. Mẹ mong con biết chừng nào! MẸ đi lên gác, đến chỗ con, ngồi ở giường con, vuốt tóc con, thầm nói vào tai con như vẫn nói mỗi sáng con đi học, "Đến giờ rồi, dậy đi con!". Con sẽ quay lại, người con nóng hổi, hơi thở thơm mùi sữa, mẹ bế con và bảo "Hãy ôm chặt mẹ đi nào!". Đó là câu nói thầm kín mẹ chẳng bap giờ nói ra. Nó chỉ ý nghĩa là mẹ mong con đáp lại bằng câu "Mẹ không được buồn, mẹ sẽ không chết, mẹ vẫn sống mãi trong lòng con."
    Sống! Con là cuộc sống của mẹ, mẹ yêu con như yêu bản thân cuộc sống. Mỗi sáng bước ra khỏi nhà, mẹ nhấp nước lên đầu ngón tay giơ cao trước gió. Nghe gió lạnh từ tay bắc thổi đến, từ chỗ con đang ở, mẹ đứng lâu, hít thở, tập trung suy nghĩ, hy vọng qua hàng vạn dặm núi sống có hơi thở của con đến với mẹ, đem theo cả mùi sữa còn đọng trên đầu, trên cổ.
    Từ nay trở đi, bổn phận của mẹ là phải cưỡng lại ý nghĩ về cái chết. Yêu con, yêu cuộc sống, tha thứ cho cuộc sống, mẹ sẽ ra đi không chút nào ân hận. Mẹ sẽ ôm lấy cái chết của riêng mẹ thôi.
    Được nut_chai sửa chữa / chuyển vào 13:04 ngày 05/10/2005
  3. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    Mẹ viết những dòng này làm gì nhỉ? Trả lời: mẹ viết cho con nhưng không phải cho con; mà viết cho mẹ, cho con trong lòng mẹ.
    Cả buổi chiều mẹ bận rộn dọn dẹp các ngăn kéo, vứt bỏ những giấy tờ không cần thiết. Chập tối, mẹ ra ngoài. Túp lều giấy sau nhà để xe đã dựng lại như trước, bên ngoài trùm miếng vải nhựa đen. Người đó vẫn nằm còng queo bên trong, cạnh anh ta là con chó đang vểnh tai, vẫy đuôi. Con chó lông đen, đốm trắng, chỉ to hơn con chuột một ít.
    Mẹ nói: "Này, không được đốt lửa ở đây, nghe chưa? Tôi không muốn ai đốt lửa ở đây, cũng không muốn có chuyện rắc rối!"
    Anh ta ngồi dậy, xoa chân, mắt nhìn lơ láo như không biết mình đang ở đâu. Mặt anh ta dài như mặt ngựa, da dẻ sần sùi, mắt quầng thâm, rõ ràng là đôi mắt của người nghiện rượu. Mắt anh ta xanh kỳ lạ, có vẻ như đang đau ốm thật.
    Mẹ nói: "Anh muốn ăn gì không?"
    Anh ta theo mẹ vào bếp. Con chó theo sau. Mẹ cắt cho anh ta miếng bánh kẹp thịt. Anh ta cắn bánh nhưng hình như quên nhai, đứng ựa lưng vào bậu cửa. Ánh đèn chiếu vào cặp mắt xanh ngơ ngác. Con chó kêu ư ử. Lát sau mẹ sốt ruột nói: "Tôi phải dọn dẹp đây" và đóng cửa. Anh ta không nói gì, lẳng lặng bỏ đi. Ra đến góc đường, mẹ thấy anh ta quẳng miếng bánh. Con chó nhảy đến đớp.
    Vào thời của con làm gì có nhiều người vô gia cư thế đâu. Bây giờ họ là một phần đời sống ở đây rồi. Họ có làm gì cho mẹ sợ phải không? Không. Họ chỉ thỉnh thoảng ăn xin, trộm cắp, vứt bẩn, làm ồn, và say rượu, chẳng có gì ghê gớm. Có sợ là mẹ sợ bọn trẻ miệng còn hơi sữa mà tham lam như cá mập. Có lẽ cánh cửa nhà tù đang đợi chúng. Còn trẻ măng mà sao chúng coi rẻ tuổi niên thiếu, coi rẻ thời buổi kỳ diệu, coi rẻ thời tâm hồn chúng đang độ lớn. Tâm hồn và các bộ phận trong cơ thể chúng như đã tàn tạ, không phát triển. Còn những anh em da trắng của chúng bên kia ranh giới chia cắt cũng thế, mỗi ngày càng chiu rúc, ngủ kỹ trong kén. Đâu còn những buổi học bơi, cưỡi ngựa, tập múa balê, đánh cầu trên sân cỏ. Cuộc sống của chúng lặng lẽ trôi sau những bức tường rào có chó dữ canh gác bên ngoài. Đâu còn những đứa trẻ đáng yêu, tóc vàng, ngây thơ, mặt mày rạng rỡ dịu dàng như các thiên thần. Những gì chưa ra đời cũng bị lãng quên ở ngay nơi chúng sống. Chúng ngây thơ như những ấu trùng, béo trắng, ngâm trong mật để hút ngọt qua làn da mỏng manh. Tâm hồn chúng chết lịm trong thứ hạnh phúc trừu tượng.
    Tại sao mẹ cho người đó ăn? Nếu con chó đói (có lẽ anh ta ăn cắp con chó ở đâu đó), mẹ cũng cho như thế. Như mẹ thường cho con bú vậy. Có để mà cho và cho tất cả những gì mình có, đó chẳng phải là điều vẫn thôi thúc ta hay sao? Từ thân hình tàn héo như của mẹ, người già cũng muốn vắt cạn cho đến giọt sữa cuối cùng. Muốn cho đi. Muốn bồi bổ. Giả thử lúc này anh ta muốn bầu vú của mẹ để đổi lấy cái chết, mẹ cũng sẵn sàng cho được.
    Sáng nay lúc đem cà phê đến, mẹ thấy anh ta đái xuống cống. Nhưng anh ta không tỏ ra ngượng ngập. Mẹ hỏi: "Anh đâu còn trẻ con nữa? Anh sống như vậy sao được? Sao anh có thể lang thang suốt ngày mà không làm gì hết? Tôi không thể nào hiểu được."
    Đúng là mẹ không thể nào hiểu được. Mẹ rất ghét cái thói ươn hèn, gặp sao hay vậy, để mình dần dần tan rã.
    Anh ta làm cho mẹ rất khó chịu. Lần đầu tiên anh ta nhìn thẳng vào mẹ rồi nhổ xuống đất, ngay cạnh chân mẹ, một bãi đặc quánh vàng khè lẫn nâu của cà phê. Rồi anh ta vứt chiếc cốc vào chỗ mẹ và bỏ đi.
    Thế đấy. Anh ta không nhổ vào người mẹ, mà nhổ truớc mặt để mẹ trông thấy mà suy nghĩ. Cách nói của anh ta thế đấy. Một thứ ngôn ngữ đi trước ngôn ngữ. Nhìn mẹ, rồi nhổ. Cái nhìn gì lạ thế nhỉ? Cái nhìn đối với người đàn bà ở vào tuổi có thể làm mẹ anh ta. Đây, cà phê của bà đây!
    Đêm qua không thấy anh ta ngủ chỗ cũ. Đống hộp giấy cũng không còn. Mẹ đi quanh đó bỗng nhìn thấy cái túi Hàng không Canada ở lán củi, và một chỗ anh ta đã dọn về ngủ. Mẹ biết chắc thế nào anh ta cũng quay lại.
    Xin đừng hỏi tại sao,
    Được nut_chai sửa chữa / chuyển vào 12:58 ngày 05/10/2005
  4. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    Viết được sáu trang rồi. Toàn viết về một người mẹ chưa gặp bao giờ và sẽ chẳng bao giờ gặp. Tại sao mẹ viết về anh ta? Vì anh ta là mẹ mà không phải là mẹ. Vì mẹ thấy mẹ trong cái nhìn của anh ta mà không thể nào viết ra được. Nếu không như vậy, những dòng mẹ viết ra đây chẳng là thế nào, chỉ là tiếng kêu rên trầm bổng. Viết về con chó của anh ta cũng là viết về mẹ. Anh ta, ngôi nhà, con chó, dù viết như thế nào mẹ cũng chỉ muốn những lời này giúp cho mẹ với được tay đến chỗ con. Nếu là ở thế giới khác, mẹ chả cần đến những lời đó. Mẹ chỉ việc xuất hiện ở cửa nhà con và bảo "mẹ đến thăm con đây", thế là đủ. Mẹ sẽ ôm con và được con ôm mẹ. Nhưng ở thế giới này, lúc này, mẹ phải đến với con bằng những lời như vậy. Ngày ngày mẹ biến thành lời và gói nó vào trang giấy như gói kẹo, những chiếc kẹo vẫn dành cho con gái mẹ, cho ngày sinh của con, ngày con ra đời. Đó là những lời ngoài thân thể mẹ, để khi mở ra con sẽ nhận lấy, bú lấy, hấp thụ. Người ta bảo đó là những giọt sữa đã quá cũ, của người già, được gói lại bằng tình yêu, thứ tình yêu chỉ cảm thấy đối với người ta hiến dâng để được ngấu nghiến hoặc vứt bỏ.
    Mưa tầm tã suốt buổi chiều. Tối đến mới nghe tiếng lạch cạch ngoài cổng, và một phút sau có tiếng chân con chó chạy trên hiên.
    Mẹ đang coi ti vi. Một vị mục sư hay phó mục sư nào đó đang thông báo cho cả nước. Mẹ đứng nghe. Mỗi khi họ nói, mẹ đều đứng nghe để tỏ ra tự trọng (trước một tiểu đội hành quyết, ai mà dám ngồi?) Ons buig nie voor dreigmente nie, ý ông ta nói "Chúng ta không khuất phục sự đe dọa." Trước sau các bài diễn văn của họ chỉ có thế.
    Cánh màn sau lưng mở ra. Mẹ biết đó là anh ta, một người mẹ không biết tên. Anh ta nhìn thấy mẹ qua tấm gương. Mẹ vặn nhỏ tiếng chỉ đủ nghe, dù không nghe rõ lời cũng nghe được những tiết tấu Phi châu nện huỳnh huỵch xuống đất như tiếng búa. Anh ta với mẹ cùng nghe. Nỗi nhục của cuộc sống ở đây, dưới quyền họ, là mỗi khi mở tờ báo hay mở ti vi chẳng khác nào như quỳ xuống để họ đái lên mình. Sống dưới quyền họ là sống dưới bụng phệ, những bọng đái của họ. Đã có lúc mẹ nhủ thầm: "Các người sắp đến ngày tận số rồi". Vậy mà đến tận bây giờ họ vẫn còn sống nhăn, sống lâu hơn mẹ.
    Mẹ chuẩn bị đi mua hàng. Vừ mở cửa nhà xe thì mẹ lên cơn đau. Cơn đau như con chó nhảy lên cắn vào lưng. Mẹ kêu lên, không cử động được nữa. Anh ta ở đâu xuất hiện và đưa mẹ vào nhà.
    Mẹ nằm nghiêng trên ghế dài. Phải nằm nghiêng như thế mới đỡ đau. Anh ta đã đứng chờ. Mẹ bảo: "Anh ngồi xuống đi". Anh ta ngồi xuống. Cơn đau bắt đầu giảm. Mẹ nói: "Tôi bị ung thư, bệnh đã ăn vào xương tủy nên mới đau thế."
    Không chắc anh ta hiểu mẹ nói gì.
    Im lặng một lúc, rồi anh ta lên tiếng: "Nhà này rộng lắm. Bà có thể cho trọ được đấy."
    Mẹ làm ra vẻ mệt mỏi.
    Anh ta nói tiếp: "Bà có thể cho sinh viên thuê phòng."
    Mẹ ngáp, tưởng như răng sắp rụng hết, phải đưa tay che miệng. Nếu là trước kia thì mẹ đã thấy ngượng. Bây giờ không ngượng nữa.
    Mẹ nói: "Tôi có một cô giúp việc. Cô ta đi thăm bà con, đến cuối tháng mới về. Anh có bà con gì không?
    Nói lạ! Có bà con là thế nào? Tôi có bà con không? Anh có phải bà con của tôi không? Không đâu. Có lẽ chỉ Florence mới đủ tư cách để nói cô ta có bà con.
    Anh ta không đáp. Có vẻ như anh ta không có con, không có con ở đời này, mà cũng không có cả tuổi trẻ trong quá khứ nữa. Mặt anh ta xương xẩu, da sần sùi. Nếu nhìn vào đầu con rắn không thể hình dung nó già hay trẻ, thì cũng không thể thấy được bóng dáng một đứa trẻ đằng sau khuôn mặt anh ta. Mắt anh ta xanh lè như mắt động vật, đâu có thể nìn vào đôi mắt ấy mà thấy được đứa trẻ?
    Mẹ nói: "Chồng tôi với tôi chia tay nhau từ lâu. Ông ấy mất. Tôi có đứa con gái ở Mỹ. Nó ra đi năm 1976, đến nay chưa về. Nó lấy một anh chồng Mỹ. Sinh được hai cháu."
    Con gái mẹ. Con là da thịt mẹ. Chính con đấy.
    Anh ta rút bao thuốc lá. Mẹ nói: "Xin đừng hút thuốc trong nhà."
    Mẹ lại nói: "Anh tàn tật thế nào? Anh bảo là có phụ cấp tàn tật hả?"
    Anh ta giơ bàn tay phải. Ngón cái và ngón trỏ duỗi ra, ba ngón kia cụp trong lòng bàn tay. Anh ta nói: "Mấy ngón này không cử động được."
    Mẹ nhì ba ngón cụp, móng tay đầy những ghét bẩn, bàn tay sần sùi, rõ ràng không phải do lao động.
    - Có phải do tai nạn không?
    Anh ta gật. Cái gật chẳng nói lên điều gì.
    Mẹ nói: "Tôi sẽ thuê anh cắt cỏ".
    Suốt một giờ, anh ta thẫn thờ đem kéo ra cắt lá ở hàng rào và mấy đám cỏ đã mọc ngang đầu gối. Rồi anh ta bỏ đó. Anh ta nói: "Loại việc này không phải của tôi". Mẹ trả tiền một giờ làm cho anh ta. Lúc bỏ đi, anh ta vấp chân vào khay thức ăn của mèo, làm vung vãi khắp nơi.
    Nói chung, anh ta chẳng được việc gì, chỉ làm phiền. Nhưng mẹ có chọn anh ta đâu. Anh ta tự đến thôi. Hoặc giả anh ta chọn nhà nào không có chó. Nhà này chỉ có mèo.
    Có người lạ nên đám mèo nhốn nháo. Chúng vừa thò ra đã bị chó nhảy đến vồ, phải trốn sau cửa. Hôm nay mèo không chịu ăn. Mẹ đoán chúng không ưa thức ăn để tủ lạnh. Mẹ pha ít nước nóng vào thịt (chả biết thịt gì, hải cẩu hay cá voi?). Chúng vẫn chê, chỉ lượn quanh, quệt đuôi vào đĩa. Mẹ bảo: "Ăn đi!" và đẩy đĩa thức ăn đến. Con to giơ chân, không thèm đụng vào đĩa. Mẹ bực mình quát: "Không ăn thì cút đi! Mệt với chúng mày lắm!" rồi mẹ ném cây dĩa vào chúng. Có điều lạ là tiếng quát vừa rồi khiến mẹ thấy thú vị. Tốt với người như thế đủ rồi! Tốt với mèo như thế cũng đủ rồi! Mẹ lại hét: "Chúng mày chết hết cả đi!" Đám mèo bỏ chạy. Móng chân chúng còa rách cả thảm nhựa.
    Ai cần gì chứ? Khi có tâm trạng ấy, mẹ chỉ muốn để tay lên bàn và láy dao chặt đứt, không thèm suy nghĩ. Mẹ cần gì cái thân thể đã phản bội mình? Nhìn bàn tay, nhìn quanh tìm dụng cụ, nhưng mẹ chỉ nhìn thấy cái móc để khều đồ vật. Cả đôi chân này, cả đôi nạng xấu xa này nữa, việc gì phải mang chúng đi khắp nơi? Việc gì phải đem chúng vào giường, để dưới chăn, ôm lấy nằm mà không ngủ giữa bao thứ bộn bề chung quanh? Rồi cái bụng này nữa, sao cứ sôi ùng ục? Rồi con tim này nữa, sao cứ đập hoài? Chúng còn liên quan gì đến mẹ nữa.
    Trước khi chết, ốm đau là để cho cơ thể thích ứng dần với sự héo hắt. Dòng sữa nuôi sống ta cạn dần, chua loét, xa rời bộ ngực, và ta bắt đầu lắng chìm trong cuộc sống khác. Nhưng cuộc sống ban đầu này, cuộc sống trên cơ thể trái đất này, liệu có thể tốt hơn được không? Mặc dầu bao nhiêu tăm tối, thất vọng, điên khùng, mẹ vẫn không thể nào từ bỏ tình yêu đối với cuộc sống.
    Được nut_chai sửa chữa / chuyển vào 13:39 ngày 05/10/2005
  5. uidzza

    uidzza Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/04/2004
    Bài viết:
    31
    Đã được thích:
    0
  6. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    Mình sẽ tìm hiểu và nếu có thể, sẽ giới thiệu về dịch giả Anh Thư với uidazza và mọi người.
    Cám ơn uidzza đã vote cho mình. Bạn vào đọc thường xuyên nhé.
  7. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    Lúc đau mẹ uống hai viên thuốc của bác sĩ Syfret, rồi nằm trên ghế dài. Vài giờ sau mẹ tỉnh dậy, ngơ ngác, người lạnh toát, mẹ lần mò lên gác rồi để nguyên quần áo chui vào giường.
    Nửa đêm mẹ chợt thấy như có ai trong phòng, mẹ đoán chỉ có thể là anh ta. Anh ta, hoặc mùi của anh ta. Xuất hiện rồi biến mất.
    Có tiếng cạch ở cầu thang. Mẹ đoán anh ta vào phòng đọc sách, bật đèn. Mẹ cố nghĩ xem trên bàn có giấy tờ gì phải giấu di không, nhưng đầu óc lơ mơ không nhớ được. Anh ta xem kệ sách, mẹ đoán anh ta xếp lại cho gọn với đống báo cũ. Rồi anh ta ta ngắm những bức tranh trên tường. Tranh Sophie Schliemann ở kho tàng Agamemnon, tranh Demeter lấy cắp ở Bảo tàng Anh. Rồi anh ta khẽ rút ngăn kéo bàn. Ngăn trên toàn những thư từ, biên lai, tem cũ và ảnh. Anh ta không quan tâm. Ngăn dưới có hộp xì gà đựng tiền xu các loại. Anh ta thò ngón tay còng queo lấy hai đồng peseta, đủ để đổi sang tiền rand, nhét vào túi.
    Anh ta không phải thiên thần. Chỉ như loại côn trùng nấp trong khe tường, chờ lúc tối đèn bò ra sục sạo.
    Nghe anh ta ra đầu cầu thang, khẽ mở hai lần khóa. Mẹ muốn nói thầm cho anh ta nghe: anh chỉ là đồ rác rưởi, chỉ là ký ức đã chết yểu, nhưng lúc ấy đầu óc mẹ đã mụ đi, chẳng còn biết gì nữa.
    Mẹ nằm cả ngày trên giường. Chẳng muốn làm gì, chẳng muốn ăn gì. Mẹ đọc Tolstoy, không phải đọc chuyện nổi tiếng về ung thư dâu, vì mẹ quá biết rồi, nhưng đọc chuyện về một thiên thần đến ở chung với anh thợ giày. Giả thử có cơ hội, mẹ sẽ đi bộ xuống phố Mill tìm thiên thần riêng đem về nhà giúp mẹ được đấy. Nhưng không có đâu. May ra vùng ngoại ô còn thiên thần nào đó đang hong nắng ngủ gật trên cây cột số, chờ cơ hội. Có lẽ ở trang trại những người thất nghiệp chứ những người ở phố Mill hay ngoại ô đều không có. Các thiên thàn đã bỏ vùng ngoại ô mà đi cả rồi. Mỗi khi có người lạ ăn mặc rách rưới đến gõ cửa thì đó là kẻ vô gia cư, một anh nghiện rượu, hay một tâm hồn lảng vảng nào thôi. Thế mà lòng ta vẫn thèm muốn được thấy ngôi nhà yên tĩnh rung lên cùng tiếng hát thiên thần như trong truyện cổ tích vậy.
    Ngôi nhà này đã mệt mỏi vì chờ đợi, đã chán không muốn gắn vào nhau nữa. Ván sàn đã không còn rung rinh. Dây điện cáchly đã khô cứng, dễ gẫy, các ống nước đã han rỉ. Ốc vít ở ống máng đã rời ra, tuột khỏi gỗ mục. Mái ngói đầy rêu. Ngôi nhà xây tử tế nhưng không có tình yêu, bây giờ lạnh lẽo, chây ì, sắp chết. Những bức tường tuy đã được mặt trời châu Phi chiếu đến nhưng không bao giờ ấm lên được, dù những viên gạch được bàn tay các phạm nhân xây nên đã luôn tỏa sáng.
    Hè năm ngoái khi đám thợ đến lắp cống, mẹ thấy họ lôi ra những ống cũ. Họ chui xuống hai thước, nhặt những gạch vỡ và sắt rỉ, cả móng ngựa nữa, nhưng không thấy có xương người. Công trường này chưa hề có bóng nguời, chỉ là chỗ của hồn ma và các thiên thần, chẳng có gì thú vị.
    Mẹ viết thư này không phải để bộc lộ những gì trong lòng mẹ. Nó bộc lộ điều gì đó, nhưng không phải từ trái tim của mẹ.
    Xin đừng hỏi tại sao,
    Được nut_chai sửa chữa / chuyển vào 19:00 ngày 09/10/2005
  8. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    TextTextText
  9. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    Sáng nay xe không nổ máy, mẹ phải yêu cầu anh ta, người đến ở nhờ, ra đẩy giúp. Mẹ ngồi trong, anh ta đẩy xe ra lối đi. Rồi anh ta đập tay vào mui xe hét to: "Đi được rồi!" Máy nổ. Mẹ quay xe ra đường cái. Được một quãng, mẹ dừng lại nói với anh ta qua làn khói: "Tôi phải đi Fish Hoek. Anh muốn đi không?"
    Thế là hai người cùng đi, con chó ngồi ghế sau, ngồi chiếc xe Hillman màu xanh từ thời con còn nhỏ. Đi một lúc lâu mà hai người không nói câu nào. Xe qua bệnh viện, trường Đại học, tòa giám mục. Con chó gối đầu lên vai mẹ hứng gió thổi vào mặt. Xe leo lên đồi Wynberg. Bên kia đồi là một con dốc dài, mẹ tắt máy cho xe tự lăn dọc bờ biển. Càng lăn nhanh, tay lái càng rung bần bật, con chó khoái chí rên ư ử. Hình như lúc đó mẹ cũng mỉm cười, có lẽ nhắm mắt nữa.
    Xuống đến chân đồi, xe chậm dần. Mẹ liếc nhìn anh ta. Anh ta vẫn ngồi im, thản nhiên. Khá đấy! Mẹ nghĩ bụng.
    Mẹ nói: "Hồi nhỏ, tôi thường nhảy xe đạp không phanh xuống cái dốc này. Xe đạp của ông anh tôi. Ông ấy hay đố tôi làm thế. Tôi chả biết sợ là gì. Trẻ con không có quan niệm chết là thế nào. Chẳng bao giờ chúng nghĩ rằng có lẽ mình không chết.
    "Tôi thường nhảy xe của ông anh xuống những dốc cao hơn thế này. Càng nhanh càng thấy khoái, cảm thấy sự sống bung ra ngoài da thịt. Con **** khi mới ra đời chắc cũng cảm thấy như vậy.
    Với chiếc xe cũ kỹ này, ta có thể thoải mái cho tự lăn dọc bờ biển. Nếu là xe mới, hễ tắt máy thì tay lái tự khóa lại. Hẳn anh cũng biết thế. Nhưng đôi khi người ta sai lầm hoặc quên đi, không để xe bám đường, thế là xe quay ngang và lao xuống biển.
    Lao xuống biển. Vật lộn sau tay lái bị hóa chặt trong khi ta cố ngoi lên nhìn bong bóng lấp lánh ánh mặt trời. Điều đó có xảy ra không? Có nhiều người làm thế không? Nếu ta đứng trên đỉnh Chapman vào buổi chiều thứ Bảy có thể thấy cảnh người ta lao xe xuống biển như thế được không?"
    Mẹ nói tiếp: "Có một chuyện tôi muốn kể anh nghe. Hồi còn nhỏ, vào những năm đầu của thế kỷ, giâ đình tôi thường ra biển vào ngày lễ Giáng sinh. Đó là thời của xe bò. Người ta đi xe bò suốt từ Uniondale ở Mũi Đông đến vịnh Plettenberg ở cử sông Piesangs, đi hàng trăm dặm mà không biết phải mất bao nhiêu ngày. Người ta cắm lều nghỉ lại bên đường.
    Một trong những chỗ dừng chân là đỉnh đèo. Ông bà tôi ngủ trong xe, mẹ tôi và các con nằm gầm xe. Chuyện là thế này: trong đêm vắng trên đỉnh đèo, mẹ tôi chui vào chăn cùng các anh chị tôi, ngắm nhìn các ngôi sao trên trời qua khe bánh xe bò. Lúc ngắm nhìn, mẹ tôi tưởng các ngôi sao di chuyển. Không biết là các ngôi sao di chuyển hay bánh xe di chuyển, từ từ, rất chậm. Mẹ tôi nghĩ: làm thế nào bây giờ? Nếu xe di chuyển thì sao đây? Có nên bảo cho mọi người biết không? Nếu cứ nằm yên, để xe lăn xuống chân núi, mà ông bà lại nằm trong đó thi sao? Nhưng nếu chỉ là tưởng tượng thế thôi, thì sao?
    Mẹ tôi sợ hãi, tim đập thình thình, nhìn sao di chuyển, nghĩ bụng không biết nên gọi ai không? Nghe tiếng xe cọt kẹt, mẹ tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, trong giấc ngủ toàn mơ tháy chết. Đến sáng, mẹ tôi tỉnh dậy vẫn thấy mọi thứ bình thường. Xe vẫn còn đó, ông bà vẫn còn đó, ai nấy khỏe mạnh chẳng có chuyện gì hết."
    Đã đến lúc anh ta phải nói gì đi chứ, hoặc nói về đồi núi, về xe đạp, về bản thân hoặc tuổi nhỏ. Nhưng anh ta vẫn lầm lì, im lặng.
    Mẹ lại nói tiếp: "Mẹ tôi không nói lại cho ai biết về những gì bà đã nghĩ đêm trước. Có lẽ mẹ tôi chờ đến khi đẻ tôi mới nói chăng. Tôi nghe bà kể lại nhiều lần bằng nhiều cách. Gia đình vẫn đi tiếp đến sông Piesangs. Ôi cái tên sao mà rự rỡ và đáng yêu đến thế! Tôi chắc đó phải là nơi đẹp nhất trần gian. Mấy năm sau khi mẹ tôi qua đời, tôi đến thăm vịnh Plettenberg và lần đầu trông thấy sông Piesangs. Không phải là sông, chỉ là một lạch nước dầy rong rêu, tối đến đầy muỗi, một nơi để các đoàn người dừng chân, để trẻ con hò hét, để những người lớn đi chân đất, mặc quần cụt đem bếp ga nướng xúc xich. Chẳng phải Thiên đường một tí nào. Cũng chẳng phải chỗ để hàng năm người ta đến chơi sau bao ngày trèo đèo, lội suối."
    .
  10. nut_chai

    nut_chai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/04/2004
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    0
    Lúc này xe leo lên đường Boyes. Thật y như nhân vật Rocinante trong truyện, muốn cũng không làm được vì già yếu. Mẹ nắm chặt tay lái, cố thúc cho xe đi tới.
    Lên đến Muizenberg, nhìn xuống vịnh Giả Tạo, mẹ dừng xe, tắt máy. Con chó lại rên ư ử. Mẹ cho nó ra ngoài. Nó ngửi đống đá, bụi cây, rồi co chân đái. Mẹ và anh ta đứng nhìn, không nói gì.
    Anh ta đã lên tiếng. Anh ta nói: "Bà đi nhầm đường đấy. Lẽ ra phải xuống chân đồi."
    Mẹ cố tỏ ra không buồn nản. Xưa nay mẹ chỉ mong mọi người cho mẹ là tài giỏi. Bây giờ mới thấy mình bất tài hơn bao giờ hết.
    Mẹ hỏi: "Anh từ vùng Mũi đến đây hả?"
    - Phải.
    - Anh sống cả đời ở đó ư? Anh ta có vẻ khó chịu. Mẹ hỏi hai câu thế là quá nhiều.
    Một con sóng to, dài hơn trăm thước, đang cuộn vào bờ. Một người lom khom lướt ván trên ngọn sóng. Bên kia vịnh, dãy núi Hottentót Hà Lan đứng sừng sững trên nền trời xanh trong. Có lẽ mắt mẹ thèm khát cảnh vật nên thấy thế. Biển. Núi. Mẹ muốn những hình ảnh biển và núi chôn sâu trong lòng để đi đâu cũng thấy. Sao mẹ có thể thèm khát tình yêu cuộc sống này đến thế.
    Đàn chim sẻ đến đậu trên bụi cây gần chỗ mẹ đứng. Chúng rỉa lông rồi bay đi. Người lướt ván khi nãy đã vào bờ, đi trên bãi cát.
    Bỗng mẹ rớm lệ. Mẹ tự hỏi hay do mình chớp mắt. Sự thật là mẹ khóc. Mẹ gục đầu vào tay lái, chỉ hơi nức nở, rồi òa lên khóc như muốn trút hết mọi thứ trong tim trong phổi. "Xin lỗi", rồi mẹ bình tĩnh nói tiếp: "Xin lỗi, tôi chả hiểu tại sao mình lại thế".
    Lẽ ra mẹ không cần xin lỗi. Anh ta đâu có để ý chuyện đó. Mẹ lau mắt, khịt mũi, rồi bảo: "Ta di chứ?"
    Anh ta mở cửa xe huýt một tiếng sáo. COn chó nhảy vào xe. Con chó biết nghe lời. Chắc anh ta lấy cắp con chó ở một gia đình tử tế.
    Đúng là xe đi nhầm đường.
    Anh ta bảo: "Quay ngược lại"
    Mẹ thả phanh tay, lùi một quãng rồi rú ga. Xe rung lên rồi đứng lại. Mẹ bảo: "Xe này chưa bao giờ đi lùi".
    Anh ta chỉ tay, lên giọng như anh chồng dạy vợ lái xe: "Quay sang bên kia đường."
    Mẹ cho xe chỵ một quãng xuống chân đồi, rồi sang bên kia đường. Bỗng một tiếng còi réo lên, chiếc xe Mercedes màu trắng vụt qua bên cạnh. Mẹ há hốc miệng: "Tôi không trông thấy"
    - Đi đi, -anh ta quát.
    Mẹ ngạc nhiên nhìn anh chàng người lại quát tháo. Anh ta vẫn nhìn mẹ quát nữa: "Đi đi".
    Máy nổ. Mẹ im lặng quay xe lại. Đến góc phố Mill, anh ta đòi xuống.
    Giày và chân anh ta bốc lên mùi hôi thối. Phải có bít tất mới, phải có giày mới cho anh ta. Phải cho anh ta tắm rửa nữa. Mỗi ngỳa anh ta phải tắm, phải thay đồ lót, phải có giường nằm, phải có một mái nhà, phải ăn ba bữa và phải có tiền ở ngân hàng nữa. Phải cho anh ta quá nhiều. Như thế là quá nhiều đối với người đang thèm chui vào lòng mẹ để tìm an ủi.
    .

Chia sẻ trang này