1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ai Cập huyền bí_Paul Brunton

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi luuchivi, 16/02/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 11: Tôi gặp một vị Chân Sư
    Cách vài dặm phía tây bờ sông Nil ở Louqsor, một dãy đồi màu nâu sậm tách khỏi nền trời, ngăn cách vùng thung lũng phì nhiêu với vùng sa mạc Lybie. Dãy đồi này che khuất một truông núi khô khan dưới ánh nắng như thiêu đốt của mặt trời, không một ngọn cỏ mọc, toàn là đá tảng và cát nóng, không một sinh vật nào sống tại đó chỉ trừ loài rắn rết và bồ cạp. Đó là vùng nghĩa địa chôn xác chết của thành Thèbes thuở xưa, ngày nay đã biệt tích. Nhiều xác ướp hãy còn nguyên vẹn đã được bốc ra khỏi những hầm hố tối tăm trưng bày trước mắt công chúng tại những viện bảo tàng lớn ở Âu Mỹ.
    Tôi đang sưu tầm khảo cứu về nhiều vấn đề trong những ngôi lăng tẩm và những ngôi đền lộ thiên ở cách thung lũng này chừng vài dặm, và trong những dấu vết còn xót lại của thành Thèbes cổ xưa vừa mới được đào xới lên khỏi mặt đất ở ven miền sa mạc phía Tây. Để thực hiện chuyến đi thám hiểm đó từ Louqsor, không có phương tiện di chuyển nào tốt hơn là một con lừa, vì giống lừa có một bước đi vững chắc, biết tìm đường vạch lối đi xuyên qua những tảng đá lởm chởm, tránh những đá sỏi bén nhọn và những bờ vực thẳm.
    Đó là những cuộc du hành lý thú, do đó tôi có dịp thỏa mãn sự khao khát hiểu biết, tìm tòi những tài liệu cổ về những pháp môn bí truyền và những hoài bảo tâm linh của thành Thébes cổ xưa nay đã bị chôn vùi dưới mặt đất. Tôi cũng đã ghi nhận những dấu vết huyền linh còn xót lại trong bầu không khí của vài ngôi mộ cổ, hãy còn chưa xóa mờ cái ảnh hưởng của sự suy tàn và kiệt quệ tâm linh đã làm cho giòng dõi của một dân tộc kiêu hùng và cao cả của thời xưa rơi vào bàn tay ô uế của những kẻ thực hành khoa Bàng môn tả đạo.
    Trong chuyến du hành thám hiểm đó, tôi đã gặp một bậc dị nhân và có dịp đàm đạo với ngài. Trước hết, tôi đã do dự không muốn tường thuật lại câu chuyện giữa chúng tôi, bởi vì tôi không thể kiểm chứng bằng những cuộc sưu tầm riêng những điều mà ngài đã tuyên bố, và bởi vì những điều ấy có thể làm cho cài thế hệ hoài nghi của chúng ta ngạc nhiên, hoặc đem bậc dị nhân ấy làm một đề tài diễu cợt, và tất nhiên là có cả tôi vì tôi đã cho rằng những chuyện hoang đường như thế có thể đem tường thuật lại cho quý độc giả. Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc đắn đo hơn thiệt, và tôi thấy cần phải thuật lại. Hơn nữa, đó là ý muốn của bậc dị nhân ấy, ngài muốn tôi công bố điều mà hình như ngài cho là quan trọng cho thế hệ hiện đại.
    Tôi đã sưu tầm trong những ngôi mộ cổ trên thung lũng từ sáng sớm đến quá trưa. Để trở về nhà mau hơn, tôi noi theo con đường tắt vượt qua các ngọn đồi và tránh con đường vòng quanh xa lắc dưới đồi. Lên đến đỉnh đồi, tôi bước xuống đất để cho con lừa nghỉ mệt một lúc vì nó đã thở hổn hển. Thừa dịp đó, tôi ngắm cảnh hùng vĩ ngoạn mục ở xa xa, dài ra đến tận chân trời. Đỉnh ngọn đồi này cao hơn cả các ngọn đồi khác, và ngự tri khắp vùng đồng bằng ở chung quanh. Màu cát vàng của sa mạc tương phản rõ rệt với nền xanh tươi của đồng ruộng đã được tưới nước. Một sự yên tĩnh lạ thường bao trùm khắp cả, và thấm nhuần vào người tôi với một cảm hứng tâm linh dồi dào. Người ta có thể cảm thông với thiên nhiên một cách tuyệt diệu không đâu hơn chỗ này. Bốn bề hoàn toàn im lặng, tôi cảm thấy rằng hình như tôi đã cắt đứt mọi sợi dây liên lạc với thế giới bên ngoài.
    Tôi vừa quay lại, và đi vài bước thì chính lúc đó, tôi nhìn thấy người lạ mặt. Người ngồi xếp bằng hai chân tréo, trên một tảng đá mà người đả cẩn thận trải lên đó một mảnh vải lót. Đầu bịt khăn trắng, hai bên mép tai để lộ mái tóc huyền có điểm bạc. Người ngồi yên bất động, và dường như đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên diễn ra dưới tận chân đồi. Tác người hơi nhỏ, với đôi bàn chân nhỏ, người mặc một chiếc áo xám đen rộng, dưới cằm có một chòm râu ngắn. Người có vẻ trạc độ tứ tuần. Tôi không kịp nhìn thấy mắt người trước khi người day mặt về phía tôi. Khi tầm nhãn quang của người phóng về cặp mắt tôi, tôi cảm thấy một cách khó tả rằng tôi đang đứng trước một người phi thường. Sự gặp gỡ này chắc chắn sẽ in sâu mãi vào ký ức tôi.

  2. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Trên gương mặt đặc biệt ấy, trước hết đôi mắt đã làm cho tôi bị lôi cuốn một cách lạ lùng. Đó là một đôi mắt lớn, hình bầu dục cân đối hoàn toàn, đẹp và trong sáng. Tròng trắng tinh anh tương phản rõ rệt với tròng đen như huyền làm cho đôi mắt có một nét thâm trầm thoát tục.
    Chúng tôi im lặng nhìn nhau suốt hai phút đồng hồ. Cái phong độ Oai nghi và trang trọng trên nét mặt của người này làm cho tôi cảm thấy rằng tôi nên giữ lễ mà không nên mở lời trước. Tiếc thay, tôi không thể nhớ những gì người đã nói trước tiên, vì trí óc của tôi hình như bị bao phủ trong một lớp sương mờ trước khi người bắt đầu cất tiếng. Một bộ phận nào bí mật thình lình hoạt động trong người tôi, khiến cho tôi nhìn thấy một linh ảnh đặc biệt. Tôi thấy quay tít trước mắt một cái luân xa chiếu ánh sáng rạng ngời, những sự trói buộc của thể xác hình như tách rời khỏi nơi tôi và tôi đã rơi vào một trạng thái tâm thức siêu việt, phi phàm.
    Khi cái linh ảnh đó chấm dứt, thì người lạ mặt đang nói chuyện với tôi. Tôi định tĩnh tinh thần, thì mới hiểu rằng lúc ấy tôi vẫn đang đứng đó, trên đỉnh ngọn đồi cao nhất vùng Thèbes và một cảnh tượng hoang vắng cô liêu đang diễn ra trước mắt và ở chung quanh tôi.
    Tôi bèn cất tiếng chào dị nhân bằng một tiếng thổ ngữ Ả Rập. Người đáp lại bằng tiếng Anh với một giọng rất đúng. Nếu lúc ấy tôi nhắm mắt lại, có lẽ tôi đã tưởng đó là của một người Anh tốt nghiệp đại học Oxford hay Cambridge, chớ không phải là một người phương Dông mặc áo rộng. Trước khi tôi định nói câu gì để vào đề, thì như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong, tôi cất tiếng nói:
    - Thưa ngài, tôi chắc ngài đã biết rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm khác thường khi tôi vùa đứng đây, ở bên cạnh ngài.
    Và tôi bèn diễn tả cái linh ảnh lạ lùng khi nảy. Dị nhân nhìn tôi một cách mơ màng, rồi hơi nghiêng đầu rồi nói một cách thản nhiên:
    - Phải tôi hiểu.
    Tôi rất thụ cảm đối với những ảnh hưởng huyền linh, tôi nói tiếp, vì điều ấy đến với tôi trong khi tôi được tiếp xúc với ngài, nên nó làm cho tôi tin rằng ngài có những huyền năng lạ lùng.
    Đôi mắt của dị nhân lại nhìn tôi một cách chăm chú. Sau một lúc ngài nói:
    - Chính tôi đã có ý gây cho ông cái kinh nghiệm đó. Tôi muốn rằng nó đem cho ông một thông điệp không lời. Thật đúng như vậy.
    - Ngài muốn nói chi...
    - Tôi muốn cho ông nhận ra cái pháp vị của tôi trước đã.
    Thật đúng như tôi nghĩ. Tôi đã nhận thấy nơi dị nhân tất cả những ấn chứng rõ rệt về cái quả vị cao cả của một đạo gia siêu thoát. Dầu cho tôi có cái kinh nghiệm lạ lùng vừa rồi, tôi chỉ nhìn vào đôi mắt của người, cũng đủ cho cái cảm tưởng của tôi được xác nhận bằng trực giác.
    Đôi mắt huy hoàng cao cả ấy bắt buộc người ta phải chú ý và khâm phục. Đôi mắt lớn, sáng ngời phóng những tia điện lực mạnh mẽ oai hùng, và khi người nhìn tôi, thì đôi mắt ấy đứng yên một chỗ rất lâu. Khi tôi nói chuyện với người, tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa có cái quyền năng soi thấu mọi sự đều có mảnh lực thôi miên. Đôi mắt ấy thấu suốt và ngự trị linh hồn tôi. Dôi mắt ấy vạch trần những điều bí ẩn trong tâm hồn tôi và làm cho tôi trở nên thụ động trước mảnh lực của chúng. Tôi nói:
    - Thật là một diễm phúc bất ngờ cho tôi, người duy nhất mà tôi được gặp ở nơi thanh vắng này lại là một đấng cao cả ở quả vị của ngài.
    - Thật vậy sao... Dị nhân đáp. Riêng tôi, tôi không ngạc nhiên. Thời giờ đã điểm cho cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay, giữa ông và tôi. Không phải là do sự tình cờ mà ông vừa nói chuyện với tôi. Tôi nói cho ông biết, một quyền năng cao cả hơn sự ngẫu nhiên tình cờ, trước hết đã ra lệnh, và sau đó sắp đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta.
    Tôi lắng nghe, mà trong lòng hồi hộp trông chờ những gì sẽ đến. Những tư tưởng xẹt đảo xáo trộn. Tôi đã phải làm một cố gắng để tự trấn tĩnh và nắm vững tình hình. Tâm hồn tôi lúc ấy thấm nhuần một sự tôn kính tự nhiên đối với một người co mộtù trình độ tâm linh cao cả như thế.
    Dị nhân mới nói cho tôi biết bằng cách nào định mệnh con người khiến cho người nọ gặp gỡ người kia trên bước đường đời dưới sự thúc đẩy của những mãnh lực vô hình, bằng cách nào những sự trùng hợp ngẫu nhiên bề ngoài thật ra là kết quả sự diễn biến của một sợi dây nhân duyên nối liền nhiều khoen đã kết hợp nhau từ trước và có tác dụng gây nên vài hậu quả. Người còn nói với tôi nhiều điều khác nữa, và thản nhiên đề cập đến mình, người tự giới thiệu một cách khách quan và không chút tự hào rằng người là một vị chân sư. Người nói:
    - Đó là danh từ mà tôi thích dùng hơn mọi danh từ khác, nó thích hợp với người xưa, kể cả người cổ Ai Cập, nó cũng thích hợp với tôi. Ngày xưa, một chân sư được mọi người biết và quả vị của người được thế gian nhìn nhận. Ngày nay, người ta không biết đến nữa, và sự hiện diện của người là một đề tài gây nên những sự châm biếm mỉa mai. Nhưng bánh xe tiến hóa vẫn quay luôn, thế kỷ này phải nhìn nhận rằng luật tiến hóa tâm linh vẫn hoạt động không ngừng, và không khỏi tạo nên những người có thể hoạt động tự do trong thể chất tâm linh tuy họ vẫn mang thể xác phàm.
    Tôi cảm thấy dị nhân nói có lý. Đúng vậy, đó là một trong những bậc siêu nhân mà truyền thống Đông phương vẫn thường nói đến, một trong những vị chân sư đã từng tham dự trong đại đoàn Chưởng giáo và biết rõ những điều huyền diệu của cõi giới tâm linh mà người trần gian không hề được biết.
    Thay vì để cho bị phiền nhiễu bởi thế gian ô trược, các ngài âm thầm hoạt động trong vòng im lặng và bí mật. Khi nào thấy cần tiếp xúc với người đời, các ngài thường dùng các đại tử làm trung gian, những vị này đôi khi cũng phải chịu đựng những sự chỉ trích cùng tiếng thị phi của kẻ phàm phu tục tử.
    Vị Chân sư này cho biết rằng người ta có thể trao đổi tư tưởng với những vị Chân sư khác tùy theo ý muốn và dầu ở cách xa bao nhiêu trong không gian. Người nói thêm rằng một vị Chân sư có thể tạm thời xử dụng thể xác của một người khác, thường là thể xác của một vị đệ tử, bằng một phương pháp gọi là nhập xác, nghĩa là linh hồn vị Chân sư nhập vào thể xác của đệ tử, vị này sẵn sàng hiến dâng thể xác mình một cách thụ động.
    Chân sư nói với tôi với một nụ cười nhỏ nhẹ:
    - Tôi đến đợi ông ở đây. Ông là văn sĩ, mà tôi thì có một thông điệp để nhắn nhủ với người đời. Ông sẽ ghi chép thông điệp ấy do tôi nói cho ông viết, vì đó là việc quan trọng. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay chỉ là phần đầu thôi đấy, ông Paul Brunton.
    Tôi thụt lùi vì ngạc nhiên. Làm sao ngài biết được tên tôi... Thật đúng là các Chân sư có quyền năng đọc được tư tưởng người khác dầu rằng ở cách rất xa. Tôi mạo muội hỏi ngài:
    - Tôi có thể được biết quý danh của ngài chăng...
    Chân sư im lặng một lúc và nhìn phong cảnh ở đằng xa. Tôi nhìn gương mặt cao quý của ngài và đợi câu trả lời. Sau cùng ngài nói:
    - Được, chỉ để ông biết riêng mà thôi, chứ không phải để ông viết sách. Tôi không muốn tiết lộ tên thật của tôi. Ông hãy gọi tôi là Ramak Hotep. Đó là một tên Ai Cập thời cổ và tôi ngờ rằng các nhà Ai Cập học hiện đại có thể hiểu rõ ý nghĩa của nó. Theo tôi nó nghĩa là Bằng An. Xứ Ai Cập không phải là quê hương của tôi. Hiện nay, quê hương của tôi là toàn thể thế giới. Tôi đã từng châu du khắp cả năm châu bốn bể. Tôi chỉ có thể xác của người phương Đông, còn về tinh thần thì tôi không tùy thuộc mộ xứ nào nhất định. Tâm hồn tôi chỉ thuộc về bằng an.
    Ngài nói khá mau với một giọng hùng hồn mạnh mẽ, nhưng rõ ràng là ngài hoàn toàn tự chủ lấy những xúc cảm của mình. Trong khoảng trên một tiếng đồng hồ, chúng tôi nói chuyện về các vấn đề tâm linh, ngồi trên đỉnh đồi dưới ánh nắng mặt trời nóng gay gắt, nhưng tôi không thấy khó chịu vì chân sư và câu chuyện của ngài chiếm cả tâm hồn tôi. Ngài nói những vấn đề liên quan đến thế giới bên ngoài và những vấn đề khác chỉ có liên hệ đến một mình tôi. Ngài đưa cho tôi những chỉ thị rõ ràng, và dạy tôi những pháp môn đặc biệt về sự tu luyện cá nhân của tôi để đạt tới một trình độ tâm linh và giác ngộ cao hơn trình độ của tôi hoện giờ. Ngài nói một cách thành thật, vả thậm chi cũng nghiên khắc vhỉ trích những sự lầm lạc cá nhân đã gây một vài chướng ngại trên bước đường tu luyện của tôi. Sau cùng, ngài hẹn gặp lại tôi vào ngày hôm sau, gần một nơi thánh điện bên bờ sông Nil, trong đền thờ Louqsor.
    Kế đó, vẫn không rời khỏi chỗ ngồi trên tảng đá, ngài từ biệt tôi và lấy làm hối tiếc rằng ngài không thể kéo dài cuộc đàm luận với tôi vì ngài đang rất bận rộn và có nhiều việc phải làm trong lúc ấy.
    Tôi lấy làm tiếc mà phải đứng dậy ra về và tạm biệt chân sư, vì cuộc đàm đạo với ngài vô cùng thú vị và hấp dẫn, nó có phong vị gây nguồn cảm hứng và nâng cao tâm hồn.
    Đường đi xuống chân đồi rất dốc và trơn trợt, tôi phải đi bộ xuyên qua những tảng đá lớn, một tay tôi cầm dây cương dắt con lừa. Xuống đồng bằng, tôi liền cỡi lên lưng lừa và quay lại một lần cuối để nhìn lên đỉnh đồi hùng vĩ.
    Chân sư Ramak Hotep vẫn chưa đứng dậy ra về mà vẫn ngồi yên trên đỉnh đồi hoang vắng. Ngài có thể làm gì ở đó, tuy "Rất bận rộn, " nhưng vẫn ngồi yên như pho tượng... Ngài sẽ còn ngồi ở đó chăng, khi màng đêm rơi xuống bao phủ lấy trọn dãy đồi Lybie...

  3. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 12: Thông điệp của Chân Sư
    Như đã hẹn, cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa chúng tôi diễn ra giữa những cảnh hoang tàn của đền Louqsor. Tôi ngồi trên một tảng đá dài có khắc đầy chữ ám tự bên cạnh chân sư, ngài cũng ngồi xếp bằng hai chân và nhìn tôi.
    Quyển sổ tay của tôi đã mở sẳn, tôi cầm bút ngồi đợi, sẵn sàng ghi chép thông điệp của chân sư bằng tốc ký. Chân sư Ramak Hotep không phí thời giờ với những lời khách sáo rườm rà, ngài vào đề một cách đột ngột:
  4. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    - "Những người khai quật các mồ mả của xứ cổ Ai Cập để giải tỏa những sức mạnh nguy hiểm cho thế gian. Những nhà khảo cổ cũng như những kẻ đào mồ để cướp của, đã vô tình khai quật mồ mả của những kẻ ngày xưa thực hành khoa tả đạo bàng môn. Trong thời kỳ cuối cùng của lịch sử Ai Cập, những người thuộc thành phần trí thức và tăng lữ đã sa đọa rất nhiều, người ta thực hành công khai những tà thuật ma giáo và pháp môn phù thủy. Khi ánh sáng chân lý, đầu tiên được phổ biến trong nền tôn giáo chân chính cổ Ai Cập, bắt đầu lưu mờ, và những tà thuyết dị đoan, duy vật càng ngày càng lộng hành, người ta thấy xuất hiện việc tẩm xác ướp với tất cả nghi lễ phiền phức kèm theo đó. Tuy nhiên, đàng sau những tà giáo là bày ra sự thực hành việc tẩm xác người với những mục đích ám muội, đen tối và tà vạy, còn có một chi phái chủ trương việc ướp xác để duy trì một sự liên lạc lâu bền với cõi hồng trần.
    "Lúc khởi thủy thì khoa ướp xác chỉ áp dụng cho những vị thánh vương cùng hoàng kim thời đại, của thời kỳ tiền sử Ai Cập và cho những vị Đạo Trưởng đã tiến hóa cao về phương diện tâm linh, là những sứ giả chân chính của Thượng Đế, để cho thể xác đã thấm nhuần thần lực thiêng liêng của các ngài vẫn còn tồn tại lâu bền và làm cái trung gian ban rải thần lực cho thế gian.
    "Từ đó mới nảy sinh ra sự thờ phượng tổ tiên, những thi hài được tẩm chất thơm chỉ là để theo một nghi lễ chánh thức nhằm mục đích để cho con cháu biết mặt những tổ tiên đã qua đời. Thật ra đó là cách bắt chước sai lạc cách thực hành khoa ướp xác thời cổ Ai Cập để giữ gìn những di tích thánh thiện của các vị Thánh vương và tăng lữ chân tu. Vì trong thời gian tàn tạ suy vong trở về sau, khi xứ này mất đi nguồn ánh sáng tâm linh chân chính, và người ta dùng tà thuật để kêu gọi những sức mạnh hắc ám của cõi âm ty, những người trí thức trong giới tăng lữ và giai cấp cầm quyền chỉ định rằng người ta phải ướp xác của họ sau khi chết. Người ta thực hành việc ướp xác này, hoặc vì mục đích dùng tà thuật hắc ám, hoặc vì sợ mất linh hồn trong cõi địa ngục mà họ sẽ bước vào sau khi chết, hoặc chỉ biết làm theo tập tục của phần đông. Trong hầu hết mọi trường hợp, trước khi chết mỗi người đều lo sắp đặt mọi việc và đã chuẩn bị sẵn ngôi mộ của mình từ khi còn sống. Khi đã sắp đặt xong thì đương sự hoặc một vị tăng lữ rành về khoa pháp môn mới kêu gọi một âm binh hay quỷthần, có khi là một vị thần tốt lành nhưng thường thì là thần hung ác, để bảo vệ trông nom cái xác ướp của y và làm thần canh gác giữ mồ.
    "Để bảo vệ những xác ướp đó, lúc đầu những ngôi mộ được che dấu mộ cách kỹ lưỡng và sau đó người ta tuyên bố với công chúng rằng người nào động chạm đến các mồ mả sẽ bị các thần linh trừng phạt một cách nặng nề kinh khủng. Dân chúng tin theo lời cảnh cáo đó và những mồ mả được tôn trọng suốt một thời gian rất lâu. Nhưng vì các tăng lữ và giới cầm quyền càng ngày càng sa đọa nhiều hơn gấp đôi lần nên dân chúng dần dần không còn tin tưởng nữa. Từ đó việc khai quật mồ mả diễn ra một cách công khai để cướp klấy vàng ngọc châu báu được chôn theo những xác ướp của những nhân vật quyền quý thời xưa.
    "Trong trường hợp xác ướp là của một người có ít nhiều hiểu biết về khoa pháp môn hoặc đặt dưới sự trông nom của các nhà phù thủy, thì những vị thần linh được kêu gọi để giữ gìn mồ mả và trừng phạt những kẻ đào mồ. Những phù phép bí mật đó thường vô cùng nguy hiểm nhưng rất hiệu nghiệm. Những mảnh lực thần bí của nó vẫn có trong những ngôi mộ khép chặt và có thể tiếp tục tồn tại ở trong suốt nhiều ngàn năm. Bởi vậy những nhà khảo cổ vô tình khai quật những mồ mả đó sẽ chuốt lấy những điều tai họa hiểm nghèo.
    "Nhưng nếu cơ nguy đó chỉ hăm dọa sự an toàn tính mạng của các nhà khảo cổ và gia đình họ mà thôi, thì điều mà tôi muốn nói đây không có quan trọng lắm. Trái lại, vấn đề này có liên hệ đến sự an toàn của toàn thể thế giới.
    "Đó là vì trong số những ngôi mộ của các nhân vật quyền quý và tăng lữ mà người ta khai quật lên, có những mồ mả được đặt dưới sự giữ gìn và bảo vệ nói trên. Từ trong các ngôi mộ đó, hằng hà sa số những âm binh ác quỷ bị giam hãm trong ấy từ lâu, bèn kéo ra tràn đầy khắp nơi ở cõi hạ giới. Mỗi xác ướp được bốc ra và chở vào những viện bảo tàng bên âu Mỹ có mang theo các vị thần linh cùng với cái ảnh hưởng khốc hại của nó. Điều đó chỉ có thể đem đến cho thế giới những hậu quả tai hại, hậu quả với những tính chất khác nhau, thậm chí có thể gây một ảnh hưởng phá hoại đối với các vận mệnh các quốc gia. Những người Tây phương vì không có phương pháp tự vệ chống lại nên đành chịu bất lực trước những kẻ vô hình đó.
    "Khi thế giới chúng ta hiểu rằng có nhiều thần linh hung ác bị nhốt trong những ngôi mộ cổ, thì chừng đó có thể là quá trễ. Vì lúc đó tất cả các mồ mả đều đã bị khai quật và những hung thần ác quỷthoát ra khỏi mồ. Chúng có thể gây nhiều điều tác hại cho thế gian, và ngoài ra chúng ta còn gây nên những vụ phản bội trên lĩnh vực quốc tế. Sự mù quáng của con người đối với những luật thiên nhiên không vì thế mà không đem lại sự đau khổ cho những kẻ vi phạm. Không biết gì về những mảnh lực khốc hại của khoa pháp môn phù thủy, không phải là một lý do để tránh cho thế kỷ này tránh khỏi cái hậu quả trừng phhạt dành vho những kẻ đột nhập vào những chốn thâm nghiêm, một hành động tòmò không cần thiết chút nào cho họ.
    "Những hung thần ác quỷđó, được tạo nên bằng phương pháp phù thủy, đã được giải tỏa trong thế kỷ hiện tại một số khá đông để gây nên sự khủng hoảng cho thế giới. Chúng hành động từ cõi giới vô hình, nhưng cũng rất gần với cõi hạ giới để ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống trực tiếp của người trần gian. Chúng tôi là những người chăm lo săn sóc cho sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, có thể triệt hạ những mảnh lực hắc ám đó trên địa hạt của chúng, nhưng luật thiên nhiên không cho phép chúng tôi tiêu diệt chúng, cũng như chúng tôi không thể trừ khử những người trong nhân loại mà chúng tôi biết là tối nguy hiểm cho kẻ khác. Quyền năng của chuýng tôi chỉ giới hạn trong việc che chở những người hoặc những cơ quan tốt lành dưới sự bảo vệ đặc biệt của họ.
    "Những vật gì mà người ta lấy ra từ trong các ngôi mộ cổ cùng với những xác ướp, vàng ngọc, bùa chú, y phục... đều có thấm nhuần cái ảnh hưởng thần bí của ngôi mộ. Nếu ảnh hưởng đó không phải do người ta đã dùng phù phép trấn ếm quỷthần thì việc khai quật mồ mả không có hậu quả gì, còn nếu ngôi mộ có thần linh giữ gìn thì việc đào mồ cướp của sẽ gây nên tai họa hiểm nghèo. Những nhà khảo cổ và Ai Cập học trái lại, thường không biết rõ điều đó và không biết phân biệt những ngôi mộ nào là có phù phép trấn ếm và ngôi mộ nào là không, nên họ khai quật luôn cả thứ nọ cũng như thứ kia. Dầu người ta có biết hay không, tôi cũng đưa ra cho thế giới cái thông điệp này là "Chớ nên động chạm đến các ngôi mộ cổ mà người ta không hiểu tính chất hiển linh huyền bí của nó. " Người đời phải dừng tay lại không nên khai quật mồ mả, cho đến khi nào họ có được sự hiểu biết đầy đủ để nhận định những hậu quả khốc hại của điều mà họ định làm.
    "Phần nhiều các vị vua chúa Ai Cập đều có ít nhiều quyền pháp thần thông, với những ý đồ tốt hoặc xấu, vì họ được các vị tăng lữ pháp sư truyền dạy cho họ.
    "Lúc đầu, người ta chỉ dùng một những phép thuật thần thông để tự vệ hoặc để trừ gian và bênh vực kẻ yếu, nhưng khi xứ Ai Cập đã mất đi những lý tưởng cao thượng của nó, thì người ta bắt đầu lạm dụng những pháp thuật này. Chẳng hạn nhà phù thủy dùng tà thuật để ám hại kẻ thù ở cách xa, hoặc chế nhự, khuất phục người khác để thực hiện những tham vọng cá nhân của mình, hoặc để giúp cho thân chủ của y. Người ta đã dùng những pháp thuật thần thông đó để sai khiến âm binh canh gác và giữ mồ.
    "Việc khai quật những ngôi mộ cổ ở Ai Cập có thể đặt kẻ vi phạm dưới những ảnh hưởng khốc hại của những mảnh lực huyền bí vô hình. Dẫu cho đó là ngôi mộ của một vị hiền minh và có pháp thuật thần thông cao cường, thì thế gian cũng có thể bị ảnh hưởng lây và chịu sự trừng phạt đau khổ vì đã làm động mồ mả của một linh hồn tiến hóa. Tuy nhiên, những đồ bảo vật bị lấy trộm ở ngôi mộ đó sẽ không gây hậu quả tai hại, mà trái lại có một ảnh hưởng tốt lành. Nhưng nếu người sở hữu bảo vật ấy có một tâm địa bất hảo, thì họ sẽ không thừa hưởng được một ân huệ tốt lành nào cả, mà ân huệ này dành cho những người hiền lành và có tâm địa thanh cao. Đó là do ảnh hưởng tâm linh trường cửu lâu bền của một vị vua đạo đức có một tâm hồn cao quý hồi thuở sinh tiền. Vua Toutankhamon là một trường hợp tiêu biểu cho những vị vua đó. Người có một sự hiểu biết thâm sâu về khoa huyền môn và một tâm hồn đạo đức. Sự khai quật ngôi mộ của vị vua này đã gây tai họa cho những người đào mồ và bằng một cách khó hiểu, cho cả thế giới bên ngoài. Trong những năm tới đây, thế giới còn phải đau khổ nhiều và phải chịu hậu quả của những sự xúc phạm mồ mả của những bậc tiền nhân thời cổ Ai Cập. Tuy nhiên, những sự khó khăn về vật chất sẽ đưa đến một sự lợi ích về tinh thần.
    "Bởi đó, tôi lập lại, những người muốn tìm kho tàng ẩn dấu, hoặc do một sự thúc đẩy của tò mò quá đáng hơn là một tinh thần khảo cứu khoa học thật sự, mà muốn thám hiểm vào tận những nơi cổ kính phù phép trấn ếm linh thiêng, sẽ không tránh khỏi tai họa hiểm nghèo. Ở bên Tây Tạng là nơi có những ngôi mộ ẩn dấu của những vị Lạt Ma thời xưa, người ta hiểu tại sao dân chúng không chịu để cho người ngoại chủng đột nhập vào xứ của họ. Nhưng ngày nào mà người ta được phép đến gần đế viếng thăm hay để chiêm ngưỡng những ngôi mộ đó, thì những kẻ nào làm kinh động đến mồ mả sẽ mắc phải những tai họa khôn lường.
    "Hồi thời thượng cổ, trung tâm chánh yếu của khoa pháp môn phù thủy vẫn là Ai Cập. Xứ ấy vượt hẳn cả Ấn Độ về chánh đạo lẫn bàng môn, nghĩa là những pháp môn chân chánh giúp đời hay những tà thuật hại người. Ngày nay những sức mạnh thần bí đã được phát động trong quá khứ, hãy còn ảnh hưởng đến dân tộc và xứ sở Ai Cập, và hậu quả có khi lành khi dữ. Hậu quả đó có thể là những bệnh tật, chẳng hạn như bệnh ung nhọt lở loét, một hậu quả của những mảnh lực phù phép tà vạy luôn luôn hành động trong xứ và ảnh hưởng đến những người dân Ai Cập thời bấy giờ.
    "Vậy ông hãy ghi chép và truyền bá những lời cảnh cáo này. Bây giờ ông đã hiểu lý do của sự gặp gỡ của chúng ta. Dẫu cho chúng ta có bị sự chống đối, khinh bị do sự dốt nát vô minh của người đời, ta cũng làm xong bổn phận của mình, bổn phận của tôi, và nếu ông muốn, cả bổn phận của ông. Định luật thiên nhiên vốn không tha thứ sự vô minh, dốt nát, nhưng trong vấn đề này, thậm chí đến cái lý lẽ đó người ta cũng không được viện ra để tự bào chữa cho mình. "
  5. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Thông điệp của chân sư Ramak Hotep đã chấm dứt. Tôi đã ghi chép lại đúng nguyên văn và trình bày nơi quyển sách này.
    Chân sư còn gặp tôi nhiều lần khác, kế đó tôi tiếp tục cuộc hành trình xa hơn về phía Nam. Trong mỗi lần gặp gỡ như thế, Chân sư đều có cho tôi biết thêm những tài liệu liên quan đến cái cơ quan huyền bí mà ngài có dự phần. Một ngày nọ, tôi có dịp đề cập đến vài kinh nghiệm của tôi ở Ấn Độ mà tôi có dịp nghe một đạo sĩ trẻ nói rằng thầy y đã có hơn bốn trăm tuổi. Chân sư Ramak Hotep trịnh trọng đưa ra một lời quả quyết lạ lùng và khó tin: Vài vị Chân sư đã từng sống từ thời cổ Ai Cập cho đến nay!
    Tôi vẫn không quên những tiếng kêu ngạc nhiên mà tôi đã thốt ra khi tôi nghe ngài nói như vậy. Dị nhân quả quyết rằng thể xác của vị Chân sư nói trên nằm yên trong trạng thái xuất thần ở tận dưới đáy các ngôi mộ chưa được khám phá, và khoa khảo cổ của thế gian không bao giờ phát hiện được. Ngài giải thích cho tôi nghe rằng:
    - "Những ngôi mộ của đấng Chân sư cao cả được giữ gìn vô cùng bí mật đến nỗi những kẻ đào mồ không bao giờ tìm thấy được. Đó không phải là mồ mả của những người chết mà là của người sống. Những mồ mả đó không chứa đựng những xác ướp, mà chứa đựng thể xác của các vị Chân sư nằm trong một trạng thái đặc biệt mà danh từ xuất thần cũng chỉ diễn tả một cách gần đúng mà thôi. Ông đã nhận thấy rằng bên Ấn Độ các nhà thuật sĩ fakir tự để cho người ta chôn sống trong một thời gian, trong khi đó thể xác của họ nằm trong trạng thái hôn mê, xuất thần.
    "Sự hoạt động của bộ máy hô hấp đã hoàn toàn ngưng hẳn trong khi đem chôn sống. Trạng thái của các vị Chân sư Ai Cập cũng giống như vậy một phần nào, nhưng bản lĩnh của các ngài còn cao xa hơn nhiều, vì các ngài vẫn giữ cho thể xác còn sống trong khi xuất thần, và kéo dài đến nhiều ngàn năm.
    "Hơn nữa, giữa các ngài và những nhà thuật sĩ Ấn Độ có một sự khác biệt rất lớn. Những nhà thuật sĩ đó rơi vào một trạng thái hoàn toàn vô ý thức trong khi bị chôn sống, họ không nhớ gì cả cho đến khi thức tỉnh. Trái lại những vị Chân sư Ai Cập vẫn hoàn toàn có ý thức khi ngồi trong ngôi mộ, thể xác của các ngài nằn trong cơn mê thiếp nhưng tinh thần thì vẫn tự do hoạt động. Ở Ấn Độ, ông đã đến viếng "Người tu sĩ suốt đời không nói" ở gần Madras. Lần đầu tiên, ông thấy y trong cơn đại định xuất thần, thân mình không cử động, xem dường như một xác chết. Nhưng trong khi đótinh thần y vẫn tỉnh táo vì khi ông đến lần thứ hai, không những y biết rõ những gì xảy ra trong lần viếng thăm đầu tiên, mà còn phản đối việc ông đã định chụp ảnh y. Trong cơn xuất thần, người tu sĩ ấy vẫn hoạt động trên lĩnh vực tâm linh và ngay trên cả địa hạt hồng trần bằng cách sử dụng một thể tinh anh như chất dĩ thái. Các vị Chân sư Ai Cập được đem chôn sống cũng ở trong một tình trạng tương tự, thể xác của các ngài nằm trong một trạng thái đại định còn thâm sân hơn nhiều. Trong khi đó, tinh thần các ngài vẫn tự do di chuyển, ngao du các cõi, và tư tưởng, cảm nghĩ một cách hoàn toàn ý thức. Các ngài có cái đặc quyền đi lại và hoạt dộng trong cả hai cõi giới, cõi giới vật chất và cõi giới tâm linh.
    "Thể xác của ngài được ẩn dấu trong các ngôi mộ bất khả xâm phạm, trongkhi chờ đợi linh hồn các ngài trở về. Thật vậy một ngày kia, linh hồn các ngài sẽ trở về nhập vào thể xác nằm yên bất động, và sẽ xuất hiện trở lại ở cõi thế gian. Phương pháp làm cho các ngài hồi sinh trở lại phải được thực hiện bởi những người có đầy đủ bản lĩnh và thấu triệt những pháp môn cần thiết. Một trong những phương pháp đó là đọc những câu chân ngôn bí mật. Có điều lạ là thể xác các ngài chỉ ướp ở bề ngoài cho có lệ mà thôi, sau khi đã được bọc vải trắng và đặt trong hòm đựng xác ướp. Tuy nhiên, những thể xác đó khác hẳn với những xác ướp khác ở chỗ còn nguyên vẹn và quả tim chưa lấy ra. Tất cả những bộ phận trong ngũ tạng còn y nguyên, chỉ từ cái bao tử đã xẹp xuống, vì các ngài không còn ăn uống gì kể từ lúc xuất thần đại định. Một điểm khác nữa là các vị Chân sư đều có bao phủ gương mặt và toàn thân với một lớp sáp khi cơn đại định bắt đầu.
    "Những ngôi mộ của các ngài được giữ kín, che dấu cẩn mật và chỉ có rất ít. Đó là vì những đấng chân sư ở cấp đẳng rất cao mới có thể bước vào trạng thái đó và không phải vị chân sư nào cũng chịu làm như vậy. Trạng thái xuất thần đại định của các ngài khác hẳn với trạng thái của những người đồng tử (medium) và những người chịu phép thôi miên. Thật ra có những trình độ đại định thâm sâu đến nổi những nhà khảo cứu hiện đại không thể thăm dò đến chỗ rốt ráo cùng tận. Những kết quả mà họ thâu thập được hãy còn rất nông cạn, so với trạng thái xuất thần đại định thâm sâu độc đáo của những vị Chân sư Ai Cập trong khi chôn sống. Những vị Chân sư này trong khi yên nghĩ dưới mồ, thật ra vẫn luôn luôn hoạt động ráo riết không ngừng.
    "Một vị Chân Sư đã bị chôn sống từ năm 260 trước Thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác được hạ nguyệt từ trên 3, 000 năm trước thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác nữa từ trên 10, 000 năm nay! Tất cả những vị này đều vẫn hoạt động rất tích cực và trong vòng bí mật cho sự hạnh phúc và tiến hóa tâm linh của nhân loại. Các ngài vẫn biết rõ những việc gì xảy ra trên thế giới, tuy rằngthể xác các ngài vẫn nằm yên dưới mồ. Đó là những người Toàn Thiện. Thể xác của các ngài đã trở nên bất khả xâm phạm, không một loài côn trùng sâu bọ nào có thể động đến, do bởi những nguồn thần lực mạnh kinh khủng toát ra từ toàn thân của các ngài.
    Ngoài ra các ngài còn luôn luôn tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vi Chân sư khác đang sống hiện nay, chính những vị này cũng có một phần thể xác sinh hoạt như người thường. Những kho tàng tâm linh quý báu do các vị Chân sư Ai Cập gìn giữ từ thời cổ xưa sẽ được lưu truyền lại cho hậu thế, khi nào có một vị Chân sư của thời buổi hiện đại biết phép hành lễ để kêu gọi những vị tiền bối thức tĩnh và hồi sinh trở lại, khi ngày giờ đã điểm.

Chia sẻ trang này