1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ai đọc bài thơ: Nam quốc sơn hà nam đế cư

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi danhaiphong, 31/10/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Bắt giò chú Sờ Bi Rởm: Ở HN có Phố Tông Đản nhưng ở HCMC cũng có đường Tôn Đản bên Quận 4 đó chú ạ.
  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Nghe bạn Sờ Bi kể chuyện hồi hộp, hấp dẫn quá! Kể tiếp đi bạn, hồi sau như thế nào?
  3. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Có cái sách nào quên tên nó lại nói thế này. Bộ quân Tống đến sông Như Nguyệt chờ thuỷ quân đến để trợ giúp vượt sông. Nhưng Thủy quân Tống đã bị quân ta chặn lại không bao giờ đến được! Quách Quỳ bèn lập cầu phao và đóng bè vượt sông. Nhưng quân ta có đội thuyền đã làm chủ mặt sông, đốt phá cầu phao và chặn bè của địch, nếu không đủ sức chặn bè lượt đi thì chặn bè lượt về khi bè địch không có nhiều lính!. Cho nên địch không bao giờ đổ bộ đủ 1 lực lượng đủ lớn phiá bờ Nam.
    Sau đó mặc dù sách Tàu không ghi nhưng tác giả cho rằng cuối cùng quân Lý đã tổ chức vượt sông đánh tập kích tan tành quân Tống khiến cho chúng phải chạy về. Không rõ có trận cuối cùng này không nhưng sự thật là bọn chúng đã phải rút!!
  4. despair

    despair Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2005
    Bài viết:
    6.956
    Đã được thích:
    1.641
    Tống-triều đươc. tin quân nhà Lý sang đánh-phá ở châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, lấy làm tức-giận lắm, bèn sai Quách Quì làm Chiêu-thảo-sứ, Triệu Tiết làm phó, đem 9 tướng quân cùng hội với nước Chiêm-thành và Chân-lạp chia đường sang đánh nước Nam ta.
    Tháng chạp năm bính-thìn (1076) quân nhà Tống vào địa-hạt nước ta. Lý-triều sai Lý thường Kiệt đem binh đi cự địch. Thường Kiệt đánh chặn quân nhà Tống ở sông Như-nguyệt (làng Như-nguyệt ở Bắc-ninh, tức là sông Cầu bây giờ). Quân nhà Tống đánh trận ấy chết hơn 1.000 người, Quách Quì tiến quân về phía tây, đến đóng ở bờ sông Phú-lương30.
    Lý thường Kiệt đem binh-thuyền lên đón đánh không cho quân nhà Tống sang sông. Quân Tống mới chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, thuyền của ta thủng nát mất nhiều, quân-sĩ chết hàng mấy nghìn người. Lúc bấy giờ quân nhà Tống đánh hăng lắm, Lý thường Kiệt hết sức chống giữ, nhưng sợ quân mình có ngã lòng chăng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu thơ :
    Nam-quốc sơn-hà Nam đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm -phạm
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
    Quân-lính nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức lòng đáng giặc, quân nhà Tống không tiến lên được. Hai bên cứ chống giữ nhau mãi. Lý- triều sợ đánh lâu không lợi, bèn sai sứ sang Tống xin hoãn binh.
    Vua Tống thấy quân mình không tiến lên được, mà lại đóng ở chỗ chướng địa, quân-sĩ trước sang hơn 8 vạn, sau chết đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoãn-binh lui về, chiếm-giữ châu Quảng-nguyên (bây giờ là châu Quảng-uyên, tỉnh Cao-bằng), châu Tư-lang (bây giờ là châu Thượng-lang và Hạ-lang, tỉnh Cao-bằng), châu Tô, châu Mậu (ở giáp-giới tỉnh Cao-bằng và tỉnh Lạng-sơn) và huyện Quảng-lang (Ôn-châu, tỉnh Lạng-sơn).
    Đến năm mậu-ngọ (1078) Lý nhân Tông sai Đào tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống và đòi lại những châu huyện ở mạn Quảng-nguyên. Vua Tống bắt phải trả những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung mà quân nhà Lý bắt về ngày trước, rồi mới trả châu huyện cho nhà Lý. Sang năm kỷ-mùi (1079) Nhân-tông cho những người Tàu về nước , tất cả chỉ có 221 người. Con trai thì thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi trở lên thì thích: Thiên-tử binh; 20 tuổi trở lên thì thích: Đầu Nam-triều; còn con gái thì thích vào tay trái hai chữ : Quan-khách.
    Đất Quảng-nguyên từ khi bọn Quách Quì lấy được, cải tên là Thuận- châu và có 3.000 quân Tống ở lại giữ, nhưng vì đất lam-chướng, mười phần chết đến năm sáu.
    Đến khi nhà Lý cho những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà Tống trả lại châu Quảng-nguyên. Nhưng vì có người nói rằng châu ấy có nhiều vàng, người Tống tiếc của, làm hai câu thơ rằng :
    Nhân tham Giao-chỉ tượng.
    Khước thất Quảng-nguyên kim.
    Đến mùa hạ năm giáp-tí (1084) Nhân-tông sai quan binh-bộ Thị-lang là Lê văn Thịnh sang nhà Tống bàn việc chia địa-giới. Lê văn Thịnh phân-giãi mọi lẽ, nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước còn giữ lại. Từ đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ.
  5. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Thực ra sau trận Kháo Túc, quân hai bên cũng kìm nhau chứ không còn ham đánh nữa. Quân Tống ngày càng mỏi mệt vì dịch bệnh và thiếu lương thảo. Bên ta có lẽ cũng không dám mạo hiểm.
    Quân Tống có tổ chức một hạm đội nhỏ do Dương Tùng Tiên và Hòa Mân chỉ huy, nhưng thuyền bè toàn thuyền câu, thuyền buôn của dân thì sao chống nổi thủy binh ta. Thủy quân Tống tính theo sông Bạch Đằng vào nước ta nhưng bị tướng Lý Kế Nguyên chặn ở hải phận châu Vĩnh An. Một toán thuyền chiến nhỏ do bọn Hoàng Tông Mẫn được phái đến Chiêm Thành xúi dục xứ này đem quân đánh ta, nhưng Chiêm Thành cẩn thận chỉ sai 7,000 binh đến biên giới chờ thời. Như vậy kế họach thủy quân Tống hoàn toàn phá sản. Thủy quân Tống nằm chờ ngoài cửa biển Tiên Yên cho đến hết cuộc chiến.
    Quách Quỳ tính rút quân nhưng không báo cho toàn quân biết, sợ ta đuổi đánh. Đang đêm bất ngờ thông báo rút, khiến cho bộ binh, kỵ binh xéo nhau mà đi. Quân Giao Châu bên kia rình biết, nhưng nghe nói có tướng Đào Bật chặn hậu nên không đuổi theo. Đào Bật là tướng văn võ kiêm toàn, ông bình tĩnh lệnh cho quân không được nhôn nhao, chờ đến sáng mới sắp hàng chỉnh tề, thong thả rút lui.
  6. hasinhat

    hasinhat Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/04/2005
    Bài viết:
    674
    Đã được thích:
    432
    Em nghĩ vẫn đọc là :
    Nam quốc sơn hà nam đế cư
    ....
    chứ đọc như thế nào nữa nhỉ? Vì dân ta phải viết bằng chữ Hán và phải đọc kiểu Hán Việt như trên chứ có dùng tiếng Tàu đâu.
    Vả lại bài này là đọc cho quân Lý nghe chứ phải có loa điện thì may ra cái đám bên kia sông nó mới nghe được.

Chia sẻ trang này