1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

AI thích sâu thì vào đây với tớ !!!!!!!!!!!!!!

Chủ đề trong 'Sở thích' bởi Khungchuot, 10/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    RED-BACK SPIDER (Lactrodectus hasselti):
  2. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Một link hay tuyệt về nhện:
    http://www.rochedalss.eq.edu.au/spiderphotos.htm
    =============================================
    Sau đây là một vài hình đặc sắc gọi là hàng giới thiệu:
    -------------------------------------------------------------------------------
    Một mạng nhện dạng hình ống:
    ---------------------------------------------------------------------------------
    Một chú nhện lạ:
    ---------------------------------------------------------------------------------
    Nhện câu ếch:
    ----------------------------------------------------------------------------------
    Nhện mình bạc:
    -----------------------------------------------------------------------------------
    --------------------------------------------------------------------------------------
    --------------------------------------------------------------------------------------
    ^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^
    Các bác xem xong nhớ vote cho em nhé
  3. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Con **** đêm đang say sưa hút mật hoa vào rạng sáng ngày 3/8 ở Archer, Florida. Loài **** này thường bị nhầm với chim ruồi bởi chúng có hành vi giống nhau và cùng kiếm ăn trên một khu vực. **** đêm xuất hiện nhiều tại vùng này từ tháng 5 đến tháng 9.


  4. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Nhện sói không quên ngày "hẹn hò" đầu tiên

    Nếu một con nhện đực trông quen mắt với cô ******** thì nó sẽ có ít cơ hội bị ăn thịt hơn trong thời gian giao phối. Các nhà khoa học đã tìm thấy nhện sói cái (schizocosa uetzi) thích quan hệ với những anh chàng trông giống với những con chúng đã gặp gỡ trước khi trưởng thành.
    Trong tự nhiên, nhện sói đực trưởng thành nhanh hơn nhiều so với con cái. Điều này có nghĩa là trong khi bản thân chưa thể giao phối thì con cái đã gặp gỡ rất nhiều những con đực đã trưởng thành về mặt ********. Những gì cô nàng nhìn thấy vào thời điểm quan trọng này sẽ quyết định sở thích ******** về sau.
    Thông thường, nhện sói đực quyến rũ đối phương bằng cách vẫy vẫy đôi chân trước. Những chiếc chân lông lá này có màu sắc khác nhau, từ nâu sẫm sang đen tuyền, tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Đó chính là đặc điểm để nhện cái phân biệt những anh chàng theo đuổi. Chúng sẽ chọn những con đực có đôi chân có màu tương tự với những anh chàng mà chúng nhìn thấy khi ở tuổi dậy thì. Kẻ không đạt tiêu chuẩn không những bị loại bỏ mà còn có thể trở thành bữa trưa cho các cô nàng kiêu kỳ. Nói theo cách khác, nhện cái không ưa gì những anh chàng lạ mắt.
    Kết quả này cho thấy động vật không xương sống có khả năng nhận biết xã hội, một điều chưa từng được tìm thấy trước đó. Tiến sĩ Eileen Hebets tại Đại học Cornell ở New York (Mỹ), đứng đầu nghiên cứu, phát biểu: "Kinh nghiệm xã hội đã ảnh hưởng tới sự lựa chọn ******** của nhện. Điều này cho thấy động vật không xương sống biết nhận thức về mặt xã hội và có khả năng ghi nhớ sự kiện qua các giai đoạn trưởng thành".
    Hành vi này có thể có lợi ích về mặt tiến hóa, bởi những con nhện khỏe mạnh thường trưởng thành sớm hơn, do vậy mà con cái chọn lựa những anh chàng đã được kiểm chứng trước đó, để cho ra những đứa con khỏe mạnh, Herbets giải thích. Ngoài ra, nhện sói sống giữa nhiều bầy đàn khác nhau, nên chọn bạn đời quen mắt cũng là một cách đảm bảo chúng chọn đúng giống nòi.
    Ở động vật có vú thì lại ngược lại, chúng chọn bạn đời không giống mình để tránh giao phối phải những con cùng dòng họ.
  5. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Ong sửa gene theo ''nghề nghiệp''

    Khi trưởng thành, một con ong mật cái có thể bật và tắt 40% số gene của mình để chuyển từ vai trò ?ocô bảo mẫu? thành ong thợ đi kiếm ăn. Phát hiện của các nhà nghiên cứu Mỹ chứng tỏ gene và hành vi có mối quan hệ mật thiết hơn nhiều so với những quan niệm phổ biến trước đây.
    ?oMột số trong những thay đổi trên là kết quả của quá trình lớn lên?, Gene Robinson, giáo sư về côn trùng học và là giám đốc của chương trình khoa học thần kinh tại Đại học Illinois ở Urbana-Champaign, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết. ?oNhững thay đổi này bất biến qua các cá thể tới mức một chương trình máy tính có thể căn cứ vào hành vi thể hiện để xác định cá thể đó là ong bảo mẫu hay ong kiếm mồi", ông nói.
    Robinson và cộng sự đã phân tích 5.500 gene hoạt động của ong mật trong nghiên cứu của mình. Họ tạo ra những chip gene - một chiếc đĩa trên đó các hóa chất phản ứng với các sản phẩm của gene hoạt động, khiến chúng phát quang khi tiếp xúc với một loại ánh sáng nào đó. Nhờ đó, họ có thể lần theo sự phát triển của 60 con ong khác nhau khi một số gene bật và số khác tắt.
    ?oTốc độ tăng trưởng của một con ong dựa trên nhu cầu của nó và bầy đàn?, Robinson thông báo.
    Ong mật vốn sống trong những bầy đàn mà con cái chiếm ưu thế và con đực chỉ làm mỗi một nhiệm vụ là truyền giống cho nữ hoàng. Một con ong mật điển hình có tuổi thọ khoảng 6 tuần. Trong 2-3 tuần đầu tiên, ong bảo mẫu sẽ chăm sóc lũ ong non, sau đó chuyển sang vai trò mới là đi tìm kiếm mật và phấn hoa. Song, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu đàn ong thiếu thành viên đi kiếm ăn, một số ong bảo mẫu sẽ trưởng thành nhanh hơn. Và để thực hiện việc đó, chúng bắt buộc phải bật, tắt một số gene nhất định. Tuy vậy, ?oviệc chuyển thành ong kiếm ăn sẽ thúc đẩy chúng tiến nhanh hơn cái chết?, Robinson cũng cho biết.
  6. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Cuộc chiến bất tận giữa thực vật và bọ ăn lá
    Cuộc đấu tranh tiến hoá độc đáo và vô cùng thú vị giữa bọ ăn lá và thực vật đã diễn ra không dưới 112 triệu năm. Cả hai bên tham chiến đều không ngừng phát triển các chiêu thức phòng thủ và tấn công nhằm đáp trả lại nhau.
    Trong số các chiến thuật do thực vật sáng tạo có khả năng phun ra những tia độc có áp suất cao nhằm đẩy lùi kẻ thù khi bị xâm hại. Để đáp trả, những con bọ khôn ngoan lại học cách cắt rời gân lá thành từng mảnh trước khi ung dung xơi bữa.
    "Mối tương tác khăng khít giữa 2 nhóm này tồn tại lâu đời nhất trong bất cứ sự liên hệ giữa thực vật và loài ăn thực vật nào", Ju***h X. Becerra, tại Đại học Arizona ở Mỹ, phát biểu.
    Becerra đã dựa trên cây tiến hoá để phát triển sơ đồ thời gian về sự tiến hoá thích nghi của cả 2 nhóm. Bà tập trung vào hơn 70 loài côn trùng thuộc họ Blepharida, một nửa sống ở châu Phi, số còn lại nằm ở các vùng nhiệt đới ở châu Mỹ, đặc biệt là Mexico. Còn thực vật là những loài hoa thuộc họ Bursera cũng có sự phân bố tương tự.
    Do bọ Blepharida ở cả hai châu lục đều ăn cùng một họ thực vật nên Becerra cho rằng sự tương tác giữa hai loài đã diễn ra trước khi châu Phi và Nam Mỹ tách rời từ siêu lục địa Gondwana, tức là cách đây hơn 100 triệu năm. Tuy vậy, hầu hết sự phân tách của cả hai họ thành những loài nhỏ hơn xảy ra vào khoảng 30 triệu năm trở lại đây, nhằm thích nghi với sự thay đổi môi trường và để phản ứng trước những chiến thuật sống còn của đôi bên.
    Becerra tìm thấy sự phòng vệ của thực vật cùng với biện pháp chống trả của côn trùng xuất hiện hầu như cùng một lúc. Nhiều loài thuộc họ Bursera đã tiến hoá để cho ra những loại vũ khí hoá học đa dạng. Những cây có khả năng phun độc thì cấu giấu chất nhựa độc trong thân và lá dưới áp suất cao và thải ra khi có nguy hiểm. Bên cạnh đặc tính độc và ghê tởm, loại chất nhựa này còn đông cứng lại khi tiếp xúc với không khí và trở thành mồ chôn những con côn trùng bé nhỏ.
    Phản ứng lại, một số loài bọ đã tìm cách hoá giải vũ khí của "chủ nhà" bằng cách gặm mòn các mấu trên gân lá để cắt dòng chảy. Một số con phải mất một tiếng để xử lý một chiếc lá và sau đó mất 10-20 phút để tiêu thụ nó.
    Những loài thực vật không phun độc thì lại có một chiêu bài khác. Chúng phủ lên thân mình một loại hỗn hợp hoá chất khiến kẻ tấn công không tài nào xơi nổi, mà nếu có xơi thì cũng sẽ bị ngộ độc. Khi đó một loài côn trùng gan lì lập tức xuất hiện, có khả năng tiêu hoá hỗn hợp đó mà không bị tổn hại. Becerra đã tìm thấy loài thực vật này cùng loài bọ chuyên ăn nó đã tiến hoá tương ứng cùng nhau trong vòng 5-12 triệu năm.
  7. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Hóa thạch ruồi viết lại lịch sử cảnh quan Nam cực

    Hoá thạch tí hon của một con ruồi, được phát hiện cách điểm cực Nam trái đất khoảng 480 km, có thể giúp các nhà khoa học làm sáng tỏ chân dung của sự sống trên Nam cực hàng triệu năm trước.
    Allan Ashworth, một giáo sư địa chất tại Đại học bang Bắc Dakota ở Fargo (Mỹ), đã phát hiện ra hoá thạch nhộng ruồi này khi nghiên cứu các mẫu đá, thu thập được từ sông băng Beardmore ở Nam cực. Nó dài 5-7,5 mm, thuộc họ Cyclorrhapha, trong đó có những con ruồi nhà. Giai đoạn nhộng đối với ruồi tương tự như giai đoạn làm kén đối với một con ****, là sự chuyển tiếp giữa dạng ấu trùng và dạng trưởng thành của côn trùng.
    ?oDưới kính hiển vi, các vân đá chứa rất nhiều cấu trúc trông như cát, các hạt giống, và đôi khi là đầu hoặc chân của một con mọt ngũ cốc?, Ashworth nói. Nhưng đặc biệt nhất là một cấu trúc vòng bất thường. Nó dường như là phần đuôi của một con ruồi trong giai đoạn nhộng.
    Tuy nhiên, chỉ nhìn thoáng qua, nhà nghiên cứu Christian Thompson thuộc Bảo tàng lịch sử tự nhiên của Viện Smithsonian đã nhận ngay ra rằng cấu trúc vòng tròn này là một lỗ thở của nhộng ruồi. Quan sát kỹ các phần còn lại trên hoá thạch, với các xoáy nhỏ, ông thậm chí còn có thể mô tả quá trình xoay trở của sinh vật này trong đất khi nó lớn lên.
    Theo các nhà nghiên cứu, ruồi có thể đã tồn tại ở Nam cực trong một thời kỳ ấm áp cách đây vài triệu năm và là một phần của hệ sinh thái trên siêu lục địa Gondawana (mà sau đó đã tách thành các châu lục như ngày nay). Cho đến nay, các nhà khoa học không hề nghĩ rằng lục địa lạnh lẽo nhất thế giới này lại từng nuôi dưỡng các dạng sống giống như ruồi.
    Thompson cho biết phát hiện trên còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều: Nó buộc chúng ta phải xem xét lại tốc độ và khả năng phát tán của những con ruồi trên lục địa Gondawana và về những biến động của khí hậu trong 40 triệu năm qua.
    Trên Nam cực ngày nay, với nhiệt độ mùa hè khoảng âm 20 độ C và nhiệt độ mùa đông có thể xuống tới 80 độ dưới không, chỉ có một vài loại côn trùng có thể sống sót, chẳng hạn những con muỗi không biết cắn, tồn tại thưa thớt ở vài vùng trên lục địa này.
    ?oVào thời điểm loài ruồi trên phát sinh cách đây 3-17 triệu năm, cảnh quan Nam cực gần giống như vùng bờ biển phía tây của Greenland ngày nay?, Ashworth suy luận. Ở đó có một cái hồ với những tảng băng nhỏ hơn nhiều so với bây giờ, và một vài đám thực vật giống như ở đồng rêu mọc loang lổ. Cùng với ruồi, còn có những con ong, ốc sên, tảo, động vật thân mềm và một vài loài cá khác sống ở đó.
    Các tác giả cho rằng có hai khả năng đưa những con ruồi đến cư trú trên lục địa này. Thứ nhất, có thể chúng đã di cư tới và chiếm lĩnh cực Nam trong một thời kỳ ấm áp được gọi là thế Neogene, từ 3 đến 17 triệu năm trước. Hoặc cũng có thể chúng là những sinh vật bản địa của lục địa Gondawana. Nếu giả thuyết này là đúng, thì chúng đã tồn tại trên Nam cực trong hàng chục triệu năm trước khi tuyệt chủng.
    Ashworth cho biết bước tiếp theo của nghiên cứu là tìm kiếm thêm nhiều hoá thạch côn trùng mới. Theo ông, phát hiện này có thể dẫn đến việc xem xét lại toàn bộ lịch sử của ruồi bậc cao. Và hơn nữa, chúng ta có thể biết thêm về hiện tượng ấm lên toàn cầu từ một vài dấu vết cổ đại.
  8. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Ruồi cũng chết vì già

    Trong thiên nhiên, côn trùng thường chấm dứt cuộc đời vì bệnh tật hay bị con khác ăn thịt, chứ hầu như không chết vì già. Tuy nhiên, lần đầu tiên các nhà khoa học Canada đã quan sát được hiện tượng lão hóa của giống ruồi tí hon protopiophila litigata.
    Trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8/2002, nhóm nghiên cứu của Russell Bonduriansky, Đại học Toronto (Canada), đã quan sát được hơn 600 cái chết vì già của ruồi p. litigata trong thiên nhiên. Trung bình sau khoảng 4 tuần từ khi sinh ra, giống ruồi này bắt đầu bước vào giai đoạn lão hóa nhanh chóng: mất khả năng giao phối, trọng lượng và độ nhanh nhẹn giảm sút. Giai đoạn này kéo dài khoảng 1 tuần và chúng chết rất tự nhiên trên một cành cây nào đó.
    Theo các nhà khoa học, sở dĩ giống ruồi này được chết nhẹ nhàng như vậy là vì điều kiện sống của chúng ở các cánh rừng phía nam Canada khá lý tưởng. Chúng không bị đe dọa bởi các loài chim và bò sát chuyên săn côn trùng. Ngoài ra, môi trường ở đây cũng khá trong lành, khiến chúng không bị chết sớm bởi bệnh tật gây ra bởi các loại virus và ký sinh trùng.
  9. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Nhặng săn nhện - sự đổi vai kỳ lạ trong tự nhiên

    Một con nhặng xanh lao vù vù vào bầy nhện đông đặc. Nó đã mắc vào một chiếc lưới, nằm yên ở đó và chờ chết. Nhưng,... màn kịch vờ tự sát mới chỉ bắt đầu. Thì ra, đây chỉ là trò xảo trá của con nhặng Arachnidomyia lindae, khi nó muốn đẻ con vào tổ trứng của loài nhện Metepeira incrassata.
    Đó là phát hiện của nhà khoa học George Uetz, Đại học Cincinnati (bang Ohio, Mỹ). Nhện Metepeira (Mexico) chăng lưới theo bầy, thành những chiếc mạng có thể dài tới 160 mét. Tuy nhiên, nhặng Arachnidomyia chỉ coi những chiếc lưới này là "vườn trẻ", nơi nó gửi nhờ lũ con của mình, thay vì là một cái bẫy chết người.
    Khi đã yên vị ở trung tâm của mạng nhện (nơi các sợi tơ không dính), con nhặng xanh rung rung lưới như thể đã có con côn trùng mắc bẫy. Bằng cách này, nó đã dụ được nhện mẹ bò ra xa khỏi tổ trứng của mình. Rất nhanh sau đó, nhặng bay đến tổ trứng và đẻ lên đó một con giòi. Ấu trùng này cần khoảng 15 phút để cắn qua vỏ trứng nhện. Sau khi vượt qua được cửa ải đó, nó sẽ tha hồ mà ăn các chất bổ dưỡng bên trong. Tuy nhiên, nếu bị nhện mẹ phát giác ra trước khi chui được vào trong trứng, con giòi sẽ bị hất ra ngay.
    George Uetz cũng phát hiện thấy nhện Metepeira có thể nhanh chóng nhận ra kẻ thù nhờ những tiếng vo vo đang bay tới gần. Nó bèn lượn xung quanh tổ trứng và cố gắng lấy thân mình che khuất trứng đi. Khi bị nhặng đánh lạc hướng, nhện mẹ rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, nó hoặc phải bò đi điều tra chiếc lưới, hoặc đứng yên ở đó để bảo vệ trứng. "Sau vài lần chạy tới lui vô ích, con nhện bèn cắt đứt liên kết giữa các sợi tơ với tổ trứng, nhằm tránh nhận thêm các thông tin giả. Khi mối nguy hiểm đã qua, nó sẽ đan lại chiếc lưới của mình", Uetz nói. Nhà côn trùng học Linda Rayor, Đại học Cornell (Mỹ), nhận xét: "Tuy khả năng bắt chước con mồi của nhặng xanh rất đáng nể, nhưng khả năng phán đoán của nhện cũng ấn tượng không kém".
    Để kiểm tra hệ thống cảnh báo sớm của nhện, nhóm của Uetz đã treo những con nhặng bay vo ve ở gần chỗ lũ nhện. Trong một thí nghiệm khác, họ phát tiếng vỗ cánh của nhặng qua một cái loa nhỏ. Nhóm nghiên cứu phát hiện thấy, tiếng vỗ cánh của nhặng đặt nhện trong tình trạng cảnh giác cao độ, còn ruồi nhà lại không hề gây ra hiệu ứng này. Như vậy, chỉ qua âm thanh, nhện Metepeira đã có thể phân biệt đâu là mối đe dọa với tổ trứng của nó.
  10. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Bí mật trước giờ lâm chung của ruồi giấm

    Hầu hết tuổi trẻ của mình, giáo sư James Carey, Đại học California (Mỹ) dồn tâm trí để nghiên cứu tập tính giao phối và tìm thức ăn của côn trùng. Nhưng nay, một khám phá tình cờ đã lái ông theo một sự nghiệp hoàn toàn khác. Carey đã tìm ra tình trạng của ruồi giấm trước khi chết.
    Theo truyền thống, các nhà sinh học chỉ tập trung vào nghiên cứu những cá thể còn non và giai đoạn đầu đời của chúng, mà bỏ qua quãng xế chiều của các sinh vật này. James Carey cũng không phải là ngoại lệ. Cùng với một cộng sự - nghiên cứu sinh Nikos Papadopoulos, người Hy Lạp, Carey say sưa tìm hiểu tập tính giao phối của vài trăm cặp ruồi giấm Địa Trung Hải. Loài ruồi này có vòng đời khoảng 60 ngày, đủ ngắn để các nhà nghiên cứu có thể theo dõi qua nhiều thế hệ. Và cũng vì tuổi thọ rất ngắn của ruồi giấm, nên Carey đã tiện thể theo dõi luôn kết cục của chúng.
    Khoảng 30 ngày sau, Nikos quan sát thấy một vài con ruồi giấm nằm ngửa, trong trạng thái giảm trương lực, chân giương cao lên trời. Nhưng chúng vẫn chưa chết. ?oNếu bạn chọc vào, chúng sẽ thức dậy, chạy và bay quanh?, Carey cho biết. Tuy nhiên, tình trạng này trở nên ngày một trầm trọng hơn, và ruồi giấm bắt đầu uể oải, lờ đờ dần. Sau một vài tuần, chúng chết hẳn. Không phải chỉ có vài con, mà gần như tất cả số ruồi giấm thí nghiệm đều trải qua trạng thái hấp hối tương tự, điều mà Carey chưa hề thấy trước đây.
    Theo nhận định của ông, động tác ngả lưng là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Ở mỗi con khác nhau, động tác này xảy ra ở những thời điểm khác nhau, nhưng luôn dẫn đến kết tục tử vong trong vòng 14 ngày. Chẳng hạn, nếu ruồi bắt đầu ngả lưng sau ngày thứ 30, thì chúng sẽ ra đi vào ngày 44. Những con sống dai hơn, đến 60 ngày tuổi, thì sẽ chết vào khoảng ngày 74.
    ?oĐây tuyệt nhiên không phải do điều kiện của phòng thí nghiệm, mà chỉ là vì sự sống của chúng đã chấm dứt?, Carey nói. Điều đáng kể nhất là hầu như tất cả số ruồi giấm đều có kịch bản chết giống nhau, như vậy ắt hẳn phải có nhân tố nào đó chi phối đến đoạn kết này. Và ở người, có lẽ cũng diễn ra một kịch bản tương tự, chỉ có điều chúng ta thọ hơn nhiều so với ruồi giấm, nên rất khó phát hiện ra.
    Carey ví đoạn kết của ruồi giấm với tình trạng của một người già như sau: Đầu tiên, người đó sử dụng một chiếc gậy, sau nữa là một chiếc khung tập đi, rồi một chiếc xe lăn, và cuối cùng sẽ là cái chết. Trong giai đoạn tiếp theo của nghiên cứu, Carey sẽ xác định nguyên nhân dẫn đến cái chết của rồi giấm. Ông tin rằng phát hiện trên sẽ là nhân tố cực kỳ quan trọng trong những nghiên cứu về tuổi thọ, thậm chí cả tuổi thọ của con người.

Chia sẻ trang này