1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

AI thích sâu thì vào đây với tớ !!!!!!!!!!!!!!

Chủ đề trong 'Sở thích' bởi Khungchuot, 10/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Ruồi có thể phục vụ loài người như thế nào?
    Khi nghĩ về ruồi, chúng ta thường cho rằng chúng chỉ là những con vật có hại. Nhưng không hẳn vậy. Thực tế, có một số giống ruồi là phụ tá đắc lực cho con người trong các lĩnh vực: nghiên cứu gene, điều trị bệnh, chỉ báo môi trường và tội phạm học.
    Những đột biến của ruồi giấm như cánh phân đôi, mắt nằm trên chân... rất dễ đạt được, nên từ 80 năm nay, ruồi giấm là vật thí nghiệm được các nhà di truyền học ưa chuộng. Điều đáng chú ý nhất là ADN của ruồi giấm tuy có 4 nhiễm sắc thể, mang 13.600 gene, nhưng đa số lại gần giống như ở người. Loài côn trùng này sinh sản nhanh. Chỉ trong chu kỳ sống khoảng 15 ngày, ruồi giấm đã cho ra đời vài chục con ruồi con. Chính vì thế, mọi thử nghiệm y học trên ruồi giấm đều nhanh chóng cho kết quả. Gần đây nhất, người ta đã nhờ ruồi giấm để hiệu chỉnh thuốc viagra. Nếu như để theo dõi tác dụng của loại thuốc này ở người, các nhà khoa học cần nhiều tuần, nhưng ở ruồi giấm, người ta có thể rút ra kết quả tương tự trong vài giờ. Hiện nay ruồi giấm được dùng trong nhiều nghiên cứu về sinh học, y học, nhất là trong việc chữa các bệnh thần kinh thực vật, tìm hiểu cơ cấu truyền sinh hóa...
    Khi thuốc kháng sinh lên ngôi thì các liệu pháp khác có vẻ yếu thế. Tuy nhiên, ấu trùng ruồi lucilia sericata vẫn thường được sử dụng để làm sạch vết thương rất hiệu quả. Đầu tiên người ta chọn những ấu trùng khỏe mạnh, đưa chúng vào môi trường triệt khuẩn, sau đó đem đặt lên vết thương của bệnh nhân. Ấu trùng sẽ ăn các mô bị chết, làm sạch vết thương, đồng thời vẫn giữ nguyên các mô lành. Chúng được thay thế sau 4 hay 5 ngày, trước khi đến giai đoạn trưởng thành. Đây là cách trị liệu rẻ tiền, không gây tác dụng phụ như dùng khác sinh.
    Họ dolicopodidae gồm những giống ruồi mà chu kỳ sống cần 3 môi trường khác nhau để đẻ trứng, săn mồi và nuôi con non. Chúng gắn bó với những khu vực sinh thái có các yếu tố đặc thù như nước, gió, than bùn... Họ nhà ruồi này phản ứng rất nhanh trước mỗi biến động của môi trường. Nếu không khí, đất, nước bị ô nhiễm, chúng sẽ chốn chạy. Quan sát sự di chuyển của những đàn ruồi, người ta có thể đánh giá môi trường tự nhiên ở đâu đó là lành mạnh hay ô nhiễm.
    Trong điều tra tội phạm, một điều rất quan trọng là xác định nạn nhân chết khi nào. Trong trường hợp này, ruồi có thể là những kẻ trợ giúp đắc lực. Bình thường, trong vòng 48 giờ sau khi người chết, xác sẽ bốc mùi. Ruồi bâu trên xác và đẻ trứng ở đó. Phân tích trứng và tuổi của những ấu trùng non, cảnh sát có thể suy ra ngày, giờ chết của nạn nhân.
  2. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Ấu trùng ruồi giấm di chuyển không cần giác quan
    Bằng kỹ thuật biến đổi gene, các nhà khoa học Anh đã tạo ra những con ấu trùng của ruồi giấm không có giác quan. Tuy nhiên, chúng vẫn cử động và bò đi được. Điều đó cho thấy, trung tâm thần kinh có thể giúp động vật di chuyển mà không cần thông qua giác quan bên ngoài.
    Nhóm khoa học của Maximiliano Suster và Michael Bate, Đại học Cambridge đã chọn loại ấu trùng ruồi giấm vì chúng chưa phát triển các giác quan khác mà chỉ có xúc giác. Bằng cách biến đổi gene, các nhà khoa học đã khiến những ấu trùng này sản xuất ra chất tetanustoxin, ngăn cản những xung điện trong tế bào xúc giác, làm cho chúng không còn cảm giác nữa.
    Kết quả, ấu trùng vẫn cử động và bò được. Điều này khẳng định thêm giả thuyết cho rằng trung tâm thần kinh giúp động vật cử động mà không cần thông qua các giác quan. Có điều, chúng cử động không bình thường như những ấu trùng khác. Đáng ra tiến về phía trước một cách cân nhắc và có mục đích, chúng lại bò vòng tròn hoặc lùi về phía sau một cách vô cảm.
  3. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Vì sao trong bụng nhặng xanh có rất nhiều dòi?

    Khi bạn dùng vỉ đập chết một con ruồi nhà, trong bụng nó không có gì. Nhưng khi đánh một con nhặng xanh thì từ bụng nó thường chui ra rất nhiều dòi. Có người nói rằng vì nhặng xanh ăn phân, bụng thối rữa nên mới sinh ra nhiều dòi như vậy...
    Có người lại bảo nhặng xanh ăn phải trứng ruồi, và trứng này nở thành dòi trong bụng chúng. Thực ra, cả hai cách nói này đều sai.
    Ruồi nhà và nhặng xanh khác nhau ở chỗ: Ruồi nhà đẻ trứng còn nhặng xanh "đẻ con". Nói đúng ra, nhặng xanh không đẻ trứng mà đẻ ra ấu trùng: dòi. Bởi thế, trong bụng một con nhặng mẹ thường có rất nhiều dòi.
    Trong thế giới côn trùng, hiện tượng "đẻ con" như nhặng xanh không phải hiếm. Ví dụ, loài rệp cây ký sinh trên các cây lương thực cũng đẻ ra ấu trùng. Tuy nhiên, hiện tượng "mang thai" của côn trùng khác hẳn với các loài động vật có vú. Trứng của động vật có vú rất nhỏ, nhỏ đến mức mắt thường khó nhìn thấy. Nhưng khi được thụ tinh, trứng này sẽ phát triển thành phôi, và phôi ngày một lớn dần thành thai non. Còn trứng của côn trùng lớn hơn rất nhiều, chất dinh dưỡng bên trong đủ nuôi để con non phát triển, không cần mẹ. Thực tế, hiện tượng "đẻ con" của côn trùng chỉ là giả, và về bản chất, nó không khác gì đẻ trứng, chỉ khác chăng một đằng là con non nở trong bụng mẹ, một đằng là nở ở ngoài mà thôi.
  4. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Xác định 160 gene chi phối chu kỳ ngủ của ruồi giấm
    Các gene này liên tục thay đổi hoạt động theo chu kỳ 12 tiếng đồng hồ giữa ngày và đêm. Chúng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh lượng protein cho các giác quan của ruồi.
    Nhóm khoa học, dưới sự chỉ đạo của Michael Young, Đại học Rockefeller, New York, đã triển khai một phương pháp mới để quan sát hoạt động của các gene thông qua những tín hiệu trong đầu ruồi dấm. Họ phát hiện có ít nhất 160 gene luôn thay đổi theo chu kỳ, giống như một cầu dao điện tự động đóng vào ban ngày và ngắt vào ban đêm.
    Trong 160 gene này có một số gene quen thuộc, chịu trách nhiệm sản xuất protein cho những giác quan và hệ thống chuyển động của ruồi như chân, cánh. Tuy nhiên, phần lớn các gene tham gia vào chu kỳ thức-ngủ của ruồi giấm vẫn còn là điều bí ẩn đối với các nhà khoa học.
    Con người cũng thích nghi với chu kỳ ngày-đêm giống như ruồi giấm. Vì vậy, kết quả nghiên cứu này có thể mở ra khả năng tìm hiểu phản ứng sinh lý của con người trước những thay đổi của chu kỳ tự nhiên, ví dụ như vào các đợt chuyển mùa trong năm, khi du lịch qua những miền địa lý khác nhau, hoặc khi bay vào không gian.
  5. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Phát hiện bọ vô địch nhảy cao mới

    Spittlebug dường như biến mất trước mặt kẻ thù khi nó nhảy đi.
    Thế giới tự nhiên đã có nhà vô địch nhảy cao mới - loài bọ spittlebug có thể nhảy cao gấp 100 lần chiều dài cơ thể nó, vượt xa kỷ lục đương thời của bọ chét. Kỳ tích này tương đương với việc một người nhảy quá toà nhà cao 70 tầng.
    Spittlebug (Philaenus spumarius), còn gọi là froghopper, dài 6 mm, có thể nhảy cao tới 700 mm. Nó phóng lên với tốc độ 3,1 m/giây, gấp 3 lần bọ nhảy. Do vậy, cơ thể con bọ chịu một lực gấp 400 lần trọng lực.
    "Khả năng nhảy cao của spittlebug thật là phi thường. Hầu như không gì có thể bắt được nó. Tôi không thể tin rằng lại chưa có ai đo đạc khả năng này", Malcolm Burrows tại Đại học Cambridge (Anh), đứng đầu nghiên cứu, nói. Ông cho rằng khả năng điền kinh nổi trội của spittlebug có thể giúp chúng thoát khỏi sự tấn công của chim và nhiều loài côn trùng khác.
    Thông thường, những động vật như ếch và kanguru có chân dài để tạo đòn bẩy, cho phép chúng vượt qua các quãng đường dài giống động vật chân ngắn, nhưng cần ít lực hơn. Ngược lại, những động vật chân ngắn lại giải phóng năng lượng dự trữ trong bắp chân để có thể phóng vọt lên.
    Spittlebug có chân ngắn, nhưng lại đạt được khả năng phi thường của mình bằng cách sử dụng một cơ cấu khoá chân đặc biệt. Bình thường lực cần thiết để có thể nhảy cao như vậy không thể tạo ra trực tiếp từ cơ trong một thời gian ngắn. Thay vào đó, lực phải được tạo ra và lưu trữ trước khi nhảy. Spittlebug làm được điều này bằng cách gấp chân sau vào dưới ngực và khoá lại bằng một móc ở chân nhét vào một lỗ dưới bụng.
    Khi cơ bắp tạo ra đủ lực, spittlebug thả chân ra và phóng lên trời. Lượng cơ ngực tiếp sức cho cú nhảy chiếm 11% trọng lượng cơ thể chúng. Chân bọ mỏng và nhẹ, có thể dễ dàng tăng tốc và nâng cao cú nhảy.
    Spittlebug có rất nhiều trong các khu vườn ở Anh. Nó có khả năng tạo ra thứ bọt, còn được gọi là cuckoo spit, bao quanh mình để tự bảo vệ khỏi những kẻ ăn thịt.
  6. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Bọ chét - nhà cựu vô địch nhảy cao

    Một con bọ chét dài chưa đầy 1,5 mm, nhưng chỉ bằng một cú nhảy, nó có thể tiến xa hơn 30 cm, hoặc nhảy cao tới 19 cm. Hãy tưởng tượng: Nếu là bạn, độ cao mà bạn phải vượt qua là tòa nhà chọc trời... 65 tầng!
    Sức mạnh phi thường của bọ chét tập trung trong các chân sau. Chúng có thể nhảy cao gấp 100 lần chiều cao cơ thể, rất có lợi trong việc di chuyển từ "chủ" này sang "chủ" khác.
    Bọ chét thường sống trong bộ lông của các động vật hoặc trên da người. Cơ thể của chúng dẹt nên luồn lách một cách dễ dàng qua các sợi lông. Lớp da của chúng rất cứng, không dễ gì đè bẹp được. Chúng không có cánh, song các chân sau rất lớn, là bộ phận đóng vai trò tạo lực nhảy.
    Cần phải nói rằng các cơ và gân chân của bọ chét rất khỏe. Hơn nữa, ở đó còn có một chất dạng cao su. Khi bị nén lại rồi đột ngột thả ra, chất này đã giúp cho bọ chét nhảy lên với một lực rất mạnh.
  7. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Vì sao ong chúa sống lâu gấp 10 lần ong thường?
    Có thể bạn sẽ nói rằng, ong chúa sống lâu bởi nó to gấp 3, gấp 4 lần những con ong thợ khác. Hoặc vì nó có nhiệm vụ đẻ trứng và duy trì nòi giống cho cả đàn, nên không được phép chết non... Tuy nhiên, không hẳn đúng như vậy.
    Trong đàn thường có 3 loại ong: Thứ nhất là ong thợ. Đó là những con cái không có khả năng sinh đẻ. Chúng chiếm số lượng đông nhất trong đàn, và chuyên đảm nhận những công việc nặng nhọc như xây tổ, kiếm mồi, chăm sóc ong con, chống kẻ thù. Loại thứ hai là ong đực. Chúng cũng phải kiếm ăn và xây tổ, nhưng ít nặng nhọc hơn ong thợ. Và thứ ba là ong chúa.
    Trong đàn chỉ có ong chúa là có quyền đẻ trứng. Vì thế, nó được nâng niu và bảo vệ rất cẩn thận. Trong khi các con khác phải bươn trải bên ngoài để kiếm thức ăn, thì ong chúa chỉ nằm trong tổ, "mưa không tới mặt, nắng không tới đầu". Nó được cung phụng loại mật hoa ngon nhất. Cho dù cả đàn ong phải nhịn đói thì ong chúa vẫn no đủ. Cả cuộc đời, ong chúa hầu như không phải chạm trán với kẻ thù. Có lẽ vì vậy mà ong chúa có thể sống hết tuổi thọ của nó (5-6 năm), trong khi các con ong khác chỉ sống được 6 tháng đến một năm mà thôi.
  8. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Khủng long ?onằm? trong bọ chét ?

    Trong một miếng hổ phách ở bang New Jersey, Mỹ, người ta đã tìm thấy một hoá thạch bọ chét 90 triệu năm tuổi, cùng thời với giai đoạn hưng thịnh nhất của khủng long - đầu kỷ Creta. Rất có thể con bọ này đã hút máu những sinh vật khổng lồ và lưu lại ADN của chúng trong hổ phách.
    Tuy nhiên, các nhà khoa học không có ý định biến bộ phim Công viên khủng long thành hiện thực, bằng cách cố gắng trích ra ADN từ miếng hổ phách. Thay vào đó, họ muốn bảo quản mẫu vật vì đây là phiên bản duy nhất của một sinh vật chưa từng được biết đến trong giới bọ chét hiện đại ngày nay.
    Theo Hans Klompen, Giáo sư côn trùng học tại Đại học bang Ohio, Mỹ, mẫu vật này là một con bọ chét thân mềm, có tuổi khoảng 90-94 triệu năm, được đặt tên là Carios jerseyi. Đây là hoá thạch cổ nhất thuộc bộ Parasitiformes. Nhờ phát hiện này, tuổi thọ của bộ đã tăng thêm 50 triệu năm.
    Nếu Carios jerseyi thực sự đạt đến tuổi ấy, nó có thể đã từng hút máu khủng long, cũng như rất nhiều vật chủ khác. Tuy nhiên cho đến nay, thói quen ăn uống chính xác của con bọ chét cổ đại vẫn còn là điều bí ẩn, vì các nhà khoa học muốn bảo tồn mẫu vật thay vì bẻ gẫy nó ra để mổ xẻ, phân tích.
    Con bọ này được tìm thấy vài năm trước đây trong tấm hổ phách lộ thiên ở miền trung New Jersey. Nó dài 0,52 mm, rộng 0,445 mm. Điều lạ là trên lưng nó có hơn ba chục chiếc lông cứng xếp thành hai hàng, trong khi bọ chét thân mềm thường có rất ít lông trên cơ thể. Klompen cho rằng đây là các thụ quan tiếp xúc của nó.
    Mặt khác, hoá thạch này có những đặc điểm tương tự với một nhóm bọ chét chuyên sống ký sinh trên các loài chim. Đồng thời trong tấm hổ phách, người ta cũng tìm thấy một chiếc lông vũ nhỏ (dài 7,5 mm) của một con chim chưa xác định. Từ đó, Klompen giả định, rất có thể ?ocon Carios jerseyi đã đi chu du tới Bắc Mỹ trên một con chim biển?.
  9. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Bọ xít châu Phi ''nghỉ mát'' ở châu Âu

    Một loài côn trùng cánh cứng chỉ cư trú ở các vùng ấm áp nay đang sống và sinh sôi tại Anh. Sự xuất hiện của những con bọ xít quê tận... châu Phi này trên xứ sở sương mù là dấu hiệu rõ ràng cho thấy trái đất đã nóng lên.
    Bọ xít Nezara viridula (có khả năng tiết ra thứ mùi hôi rất đặc trưng khi bị đe dọa) là loài côn trùng gây hại, tấn công nhiều loại rau cỏ mùa màng, phân bố ở Địa Trung Hải, Trung Đông, Australia, Bắc Mỹ và châu Phi. Chúng thường đi vào nước Anh theo rau quả nhập, và không sống sót được bao lâu do thời tiết lạnh ở đây.
    Nhưng nay, người ta đã tìm thấy 3 đàn khoẻ mạnh của loài này ở London. ?oTôi luôn luôn do dự trong việc đưa ra các dẫn chứng về sự biến đổi khí hâu, nhưng đây là lời giải thích duy nhất?, chuyên gia về bọ cánh cứng, Max Barclay nói.
    ?oBan đầu khi có người đưa mẫu vật đến tôi đã không tin, cho rằng đó là do ai đó nghịch trong kỳ nghỉ. Nhưng quả thực chúng đang ăn khoai tây ở London. Và tất nhiên, nếu đã có 3 đàn tìm thấy, thì con số thực tế cao hơn thế nhiều".
    Đây không phải là lần đầu tiên một con côn trùng ưa khí hậu ấm được tìm thấy ở Anh. Nhưng điều thú vị là người ta từng biết loài bọ xít xanh này không thể sống ở đây trong quá khứ.
  10. Velociraptor

    Velociraptor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/07/2004
    Bài viết:
    1.169
    Đã được thích:
    0
    Chuồn chuồn ngụy trang bằng cách chuyển động

    Nếu như đa số động vật dùng kế sách án binh bất động để tránh sự nghi ngờ của kẻ thù, thì trái lại, những con chuồn chuồn sẽ bay khớp nhịp điệu với đối phương để con kia lầm tưởng rằng nó là vật thể cố định.
    Nằm bất động và dùng màu sắc là cách nguỵ trang phổ biến nhất trong thế giới động vật: chẳng hạn kỳ nhông đổi màu cơ thể cho trùng với màu môi trường. Hay khi đi săn mồi, những con báo đốm sẽ phô tấm thảm hoa trên lưng chúng cho giống nền đất xung quanh. Khi đó, bất kỳ cử động nào của kẻ đi săn cũng là hành động tự tố giác nó với con mồi, bởi những hình ảnh động này sẽ đập vào các tế bào nhạy cảm trên võng mạc, và ngay lập tức, truyền tín hiệu báo động lên não con mồi.
    Tuy nhiên, chuồn chuồn có cách nguỵ trang khá đặc biệt: chuyển động nhanh. Các nhà nghiên cứu của Trung tâm khoa học thị giác tại Đại học quốc gia Australia ở Canberra đã sử dụng các camera lập thể để theo dõi cảnh tranh chấp lãnh thổ của những con chuồn chuồn đực. Họ phát hiện thấy những con đi "thám thính" thường điều chỉnh đường bay của mình sao cho nó trở nên bất động trong mắt đối phương.
    Thủ thuật này được thực hiện chính xác đến mức, chuồn chuồn "thám thính" luôn luôn xuất hiện như một điểm bất động trên võng mạc của kẻ địch. Kết quả là kẻ địch không cảm nhận được sự thay đổi hình ảnh thị giác nào, cũng như không một lời cảnh báo nào được kích hoạt trong não nó. Đối với nó, kẻ thám thính kia đã trở thành tĩnh, và không còn là mối đe dọa nữa.
    ?oKỹ thuật này cũng được các phi công chiến đấu thực hiện rất tốt. Họ có thể tìm được vị trí phù hợp mà không bị phát hiện?, Javaan Chahl, một thành viên của nhóm nghiên cứu, nói. Tuy nhiên, bằng cách nào những con chuồn chuồn thực hiện được động tác đánh lừa điêu luyện này vẫn còn là một bí ẩn.

Chia sẻ trang này