1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ai yêu Ấn Độ và người Ấn nào (tầng 2 - nhà mới)

Chủ đề trong 'Ấn Độ' bởi summer_snow, 12/01/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngongoz

    ngongoz Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/03/2005
    Bài viết:
    198
    Đã được thích:
    0
    Gru gru.Đến là điên với Trang mất thôi.Trang biết hôm 1/4 ngó ngó bị lừa bao nhiêu lấn rồi không hả.Bực quá.Đã thế mình còn tung tẩy đi khoe với Hương.Thôi được rồi.Nghỉ chơi với Trang luôn.
    Được lilysblue sửa chữa / chuyển vào 11:12 ngày 23/09/2007
  2. summer_snow

    summer_snow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    Bình tĩnh, bình tõm ngó ngó . Điều đó chỉ chứng tỏ là ngó ngó ngây thơ dễ thương thôi mà. Thôi nào, hạ hoả nào
    Hôm đó SS suýt nữa cũng bị Trang lừa. May mà suy nghĩ lại, tự nhủ bảo đợi qua ngày Cá xem sao. hi hi
    Được lilysblue sửa chữa / chuyển vào 11:12 ngày 23/09/2007
  3. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Gru gru.Đến là điên với Trang mất thôi.Trang biết hôm 1/4 ngó ngó bị lừa bao nhiêu lấn rồi không hả.Bực quá.Đã thế mình còn tung tẩy đi khoe với Hương.Thôi được rồi.Nghỉ chơi với Trang luôn.
    Xí, có luật bất thành văn là ngày đó "được phép nói dối " mà... Ngó ơi, cả năm phải nói dối bất hợp pháp, mỗi năm có mỗi 1 ngày được làm việc này hợp pháp nên Ngó đừng giận Trang nhé. Bữa đó Trang tuy rằng đã cảnh giác rồi mà cũng bị lừa 1 cú đấy chứ. Cười một cái cho đời thêm tươi trẻ nào... ừ cười như thế đấy...,ừ... duyên không không chịu nỗi... hihi.
    To SS: Hôm đó thả mồi xong, thấy SS ở trong diễn đàn, định bụng rằng " chà, con cá này to phết!" Thế mà ngồi đợi mãi, cá SS vẫn lượn lờ thế mà chẳng chịu cắn câu gì cả
  4. summer_snow

    summer_snow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/04/2004
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    Cô dâu Ấn Độ đắt giá
    Những bộ ria mép kiểu cách dài và cong cùng dao găm nạm đá quý không còn đủ để giúp các anh chàng ở bang Rajasthan Ấn Độ lọt vào mắt xanh các nàng nữa. Muốn đi hỏi vợ được, họ phải ''dắt lưng'' một cô em hoặc chị gái.
    Tỷ lệ bất cân đối giữa nam và nữ trong dân số của bang này khiến các bậc cha mẹ có con gái giờ đây "kiêu". Họ chỉ muốn hứa gả con mình cho chàng rể nào có thể mang lại cho họ một đám cưới thứ hai - cho cậu con trai là anh hoặc em của cô dâu, tờ Sunday Express của Ấn Độ cho hay.
    "Khoảng 30% số đám cưới trong năm ngoái ở vùng Shekhawati thuộc bang Rajasthan là theo kiểu trao đổi như thế", một nhà lập pháp địa phương nói.
    Tỷ lệ nam nữ ở khu vực này hiện là 922 nữ so với 1000 nam. Có làng, chỉ có 500 nữ so với 1000 nam.
    Tổ chức đám cưới kiểu "có đi có lại" này xuất hiện từ khi các nữ thanh niên thấy rằng số lượng lời cầu hôn tăng mạnh. Điều này trái hẳn với tình hình chung ở Ấn Độ, nơi mà cha mẹ của các cô dâu thường phải đau đầu vì chuyện làm hài lòng nhà trai cùng chú rể bằng đống của hồi môn.
    Giờ thì ở nhiều bang của Ấn Độ, tình hình đã khác.
    "Chẳng có con gái. Nếu nhà nào có một thiếu nữ, bố của cô ta sẽ như ông vua. Ông ta có thể đòi hỏi đủ thứ", trưởng một ngôi làng ở Rajasthan bình luận. Giờ đây nhiều gai đình chú rể lại đề nghị được trang trải các chi phí cho việc tìm cô dâu và làm đám cưới, đòi hỏi của hồi môn hầu như biến mất.
    Hiện tượng chênh lệch cân bằng giới tính trầm trọng hơn ở Ấn Độ kể từ khi công nghệ siêu âm thai trở nên phổ biến. Siêu âm chọn lọc giới tính là bất hợp pháp, nhưng nó vẫn diễn ra do mong muốn của nhiều người sinh con trai. Một nghiên cứu mới đây cho hay nửa triệu bào thai gái đã bị bỏ mỗi năm.
    Nguồn: http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2006/04/3B9E8522/
  5. tuongcuopsaudoi

    tuongcuopsaudoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2002
    Bài viết:
    19
    Đã được thích:
    0

    tớ thì chẳng phải 1/4 cũng bị lừa. Mà lại bị bạn VH lừa mới chết chứ. Buồn quá ! Cứ tưởng là kiếm được mấy em Ấn Độ xinh đẹp. Nào ngờ ....[/hl]
    ==========
    ....Và anh biết 1 điều thật giản dị, càng xa em anh càng thấy yêu em....
    Được tuongcuopsaudoi sửa chữa / chuyển vào 22:37 ngày 03/04/2006
    Được lilysblue sửa chữa / chuyển vào 11:13 ngày 23/09/2007
  6. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    Tớ tìm được bài này khá hay, post mọi người cùng đọc nhé
     

    Vài nét về huyền thoại Ấn ĐộFriday, January 20, 2006    Nguyễn Hoài Vân





    Khi bước vào Viện Bảo Tàng Sài Gòn, những cổ vật đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy chính là những tượng thần của huyền thoại Ấn Độ như Thần Vishnu, Nữ Thần Lakshmi và vị Thần đầu voi Ganesh. Rồi khi cách đây vài tuần, Viện Bảo Tàng Á Châu Guimet ở Paris làm một cuộc triển lãm tranh tượng cổ Việt Nam, thì một phần quan trọng của các hình tượng được trưng bày cũng lại liên hệ đến huyền thoại Ấn Độ...
    Thật ra, huyền thoại Ấn Độ cũng như Ấn Giáo ảnh hưởng sâu xa vào văn hóa của một phần lớn nhân loại. Ai cũng biết Phật Giáo mang nhiều dấu tích của Ấn Giáo không những trên mặt biểu tượng, nghệ thuật, mà cả trên khía cạnh giáo lý. Nhiều tượng Quan Thế Âm Bồ Tát mang biểu tượng của Thần Shiva (như da hổ quấn quanh người...) trong khi Đức Phật Thích Ca được coi như hóa thân thứ chín của Thần Vishnu!
    Quay về phương Tây, người ta tìm thấy những dấu tích của Ấn Giáo trong các huyền thoại Hy Lạp, La Mã, Germanique, Celte v. v... Một học trò của Dumezil tìm ra trong một «liệt truyện» (chanson de gestes) được truyền tụng từ thời xa xưa trong vùng Narbone ở miền Nam nước Pháp những điểm tương đồng rõ rệt với huyền thoại Mahabharata của Ấn Độ mặc dù Narbone cách Ấn Độ hơn bảy ngàn cây số! Trên khía cạnh ngôn ngữ, có rất nhiều yếu tố tương đồng dễ nhận ra giữa các tiếng Anh, Đức, Pháp..., cổ ngữ La Tinh, Hy Lạp, và tiếng Sanskrit. Ngày nay, sự kiện văn hóa của toàn Âu Châu, trừ vài khu vực hạn chế, bắt nguồn từ Trung Á và Ấn Độ, đã được thừa nhận. Người ta gọi đó là văn hóa Ấn Âu.
    Mặt khác, tại vùng Trung Đông, Ấn Giáo đã qua Ba Tư ảnh hưởng sang Babylone, để đưa nhiều yếu tố thâm nhập vào Do Thái Giáo, đặc biệt khi người Do Thái bị lưu đày ở Babylone, và khi nước họ bị Babylone, rồi Ba Tư, đô hộ. Ảnh hưởng ấy truyền sang các hậu thân của Do Thái Giáo là Ky Tô Giáo và Hồi Giáo. Thí dụ điển hình nhất của ảnh hưởng này là giá trị biểu tượng gán cho con số 7 (xem loạt bài «Sáng Thế Ký đọc bởi một người Việt Nam» trong Thế Kỷ 21 các số 177-178, 179 và 189-190). Tầm quan trọng của số 7 được nhận thấy từ Ấn Độ cho đến khắp các lục địa Âu, Mỹ, Úc Châu, toàn vùng Trung Đông và Phi Châu, rồi sang đến phương Đông khắp từ Tây Tạng cho đến Nhật Bản, xuống vùng Đông Nam Á, tức các vùng đất mang ảnh hưởng Hồi Giáo, Ky Tô Giáo hay Phật Giáo... Một biểu tượng khác dễ nhận ra là việc sử dụng Tứ Đại : đất, nước, gió, lửa, có khi thêm Không Đại để thành Ngũ Đại (hay giữ nguyên Tứ Đại với quan niệm «Tứ Đại giai Không»). Hệ thống biểu tượng này xuất phát từ văn hóa Aryen và thông dụng trong khắp các vùng địa cầu vừa kể trên. Khi kiếm sư Myamoto Musashi của Nhật viết Ngũ Hành Thư (Go Rin No Sho) vào thế kỷ 16, ông không dùng Ngũ Hành: kim mộc thủy hỏa thổ, của Trung Hoa (như tên sách có thể khiến ta lầm lẫn), mà lấy Ngũ Đại của Ấn Độ để làm căn bản cho tác phẩm lừng danh của mình. Ở thời chúng ta, khi mở một quyển chương trình TV hay một tạp chí Âu Mỹ vớ vẩn nào, ta cũng nhận thấy trang tử vi lý số. Trong lãnh vực này, cũng như trong khoa học Âu Tây trước thế kỷ 18, Tứ Đại cũng lại là nền tảng, mặc dù trong đa số trường hợp, người ta không còn ý thức được lý thuyết ấy từ đâu đến.
    Tóm lại, ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ thâm nhập từ kiếm sư Musashi «thập bộ sát nhất nhân» của xứ Phù Tang cổ thời, cho đến bà thày bói ở đầu đường ngày nay, từ vị Lạt Ma Tây Tạng vẽ bùa niệm chú trên Hy mã Lạp Sơn cho đến chú Mẽo nhóc tì ở ngoại thành Los Angeles đọc Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn, Đôi Hia Bảy Dặm, xem phim hoạt họa Lion King với chàng Simba, chữ có nghĩa là sư tử trong tiếng Sanskrit, hay phim Tarzan với khỉ Chitta, trong Sanskrit có nghĩa là «Tâm» («tâm khỉ vượn» đấy mà!). Thậm chí từ người nhạc trưởng giàn nhạc Đại Hòa Tấu thành Vienna, thả hồn theo âm giai bảy nốt, cho đến chị bán hàng xứ Senegal nghèo túng, nai lưng quần quật suốt cả tuần bảy ngày không nghỉ, cũng không thoát khỏi con số bảy của truyền thống Ấn Độ!
    Đó là chưa kể đến những «thảo trình» tâm lý chìm sâu trong tiềm thức của mỗi người chúng ta, mà các huyền thoại cũng như cổ tích, trong đó huyền thoại Ấn Độ phải được xếp vào hàng quan trọng nhất, là những cách diễn đạt. Chúng ta hiểu được vì sao nhiều nhà Tôn Giáo, kể cả một số Đạo Sĩ Hồi Giáo từ sau Al Biruni (973-1050), đã gọi Ấn Giáo là «Tôn Giáo Nguyên Thủy,» là «Đạo của Tổ Phụ Adam,» là «Mẹ của các Tôn Giáo»...
    Trong loạt bài này chúng ta sẽ lướt qua vài khía cạnh lý thú của Ấn Giáo, qua câu chuyện của một số vị Thần quan trọng cũng như hai huyền thoại nền tảng : Mahabharata và Ramayana.
  7. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    BRAHMA, VỊ THẦN SÁNG THẾ :
    Ấn Giáo không đặt nặng vấn đề «Sáng thế» như trong truyền thống Do Thái ?" Ky Tô - Hồi Giáo. Khi Brahma thở ra thì một vũ trụ nảy sinh, Brahma thở vào thì vũ trụ ấy hoại diệt. Cũng có khi người ta cho rằng Shiva mở mắt thì một vũ trụ sinh ra, và nhắm mắt lại thì một vũ trụ tiêu diệt. Thuyết khác cho rằng vũ trụ vạn vật chỉ là giấc mơ của Vishnu. Bộ ba: Brahma, Shiva và Vishnu là một loại Chúa Ba Ngôi, một mà ba, ba mà một, gọi là Trimurti. Ba Ngôi Vị này có thể được tập hợp trong một thực thể duy nhất, nhưng để dễ truyền đạt thông điệp giáo hóa, lại thường được phân ra làm ba nhân vật, mỗi vị có một «đời sống» biệt lập.
    Brahma là vị Thần sáng tạo, đem sự vật từ trạng thái hỗn nguyên vô định sang trạng thái cá thể phân biệt. Brahma sanh ra từ một quả trứng vàng kết tinh trong lòng biển «Vô Xứ,» hay, theo một truyền thống khác, nảy sanh trong một đóa sen nở ra từ cái rốn của Vishnu, trong khi Vị này nằm ngủ trên mặt biển. Phải chăng cuộc sống cũng như vũ trụ phân biệt trong bản chất chỉ là một giấc mơ (Vishnu ngủ mơ thấy vũ trụ), nảy sanh từ tính chấp ngã, từ sự chiêm ngưỡng cái rốn của mình (hoa sen nở từ rốn của Vishnu cho ra Brahma). Mơ ngủ cũng là VÔ MINH, nên sự vật trong căn bản không có thực tánh, mà chỉ là hệ quả của vô minh, một quan niệm sau này được lập lại trong Phật Giáo.
    Từ trán của Brahma, sanh ra một nữ thần, Sarasvati, con gái của ngài. Huyền thoại Hy Lạp cũng có chuyện tương tự với Athena sanh ra từ đỉnh đầu của Zeus. Địa vị của Zeus và Brahma có thể được coi như tương đương.
    Sarasvati nhảy múa quanh Brahma. Và Brahma động lòng thèm muốn con gái mình. Sarasvati uốn éo trước mặt Brahma, rồi sang bên trái, sang phía sau, sang bên phải của Ngài. Mỗi lần như vậy Brahma lại mọc thêm một cái đầu. Tổng cộng bốn cái, mỗi cái nhìn về một hướng. Phải chăng vị Thần sáng thế cũng đã sáng tạo ra cái quy luật luân lý lên án sự loạn luân, khiến Ngài không thể tự cho phép mình quay đầu nhìn theo người đẹp như mỗi người chúng ta ? Chưa hết, Brahma ý thức sự ham muốn loạn luân của mình, nên mọc thêm một cái đầu thứ năm, lần này không nhìn Sarasvati nữa mà nhìn lên trời, như tìm một sự thăng hoa, giải thoát. Cái đầu thứ năm này mang búi tóc, biểu tượng của sự tu hành, của người Đạo Sĩ. Vấn đề loạn luân đặt ra ở đây phù hợp với quan điểm của Claude Lévi Strauss, cho rằng ranh giới giữa thuần phác tự nhiên (nature) và văn hóa văn minh (culture), tức cái ranh giới gữa con người và súc vật, nằm ở những quy luật về loạn luân. Cũng cần nói Sarasvati là Nữ Thần của nghệ thuật, của hiểu biết, văn hóa, văn minh. Chữ Sanskrit, một biểu tượng văn hóa, được coi như một phát minh của Bà. Tựu trung, trong tiến trình sáng tạo thế giới, và đồng thời tự tạo, Brahma thoát khỏi trạng thái «thiên nhiên» và bước vào «văn hóa,» «văn minh» với ý thức... loạn luân! Có thể nói là chính vào lúc ấy, Brahma đã trở thành «người»...
    Huyền thoại Hy Lạp cũng có ý tưởng tương tự trong chuyện «mê hồn trận» (labyrinthe) của Minos, trong đó có con quỷ đầu trâu Minotaure. Mê Hồn Trận với Minotaure tượng trưng cho vật tính. Lọt vào là quanh quẩn không thể nào ra được, để rồi bị Minotaure đớp mất. Muốn thoát ra khỏi trận đồ của vật tính thì phải bay lên cao, phải thăng hoa, như Dédale và Icare đã làm khi sáng chế ra đôi cánh, và như Brahma khi mọc thêm cái đầu thứ năm nhìn lên trời. Thật ra còn một cách khác, là dụ khị một người đẹp dùng sợi chỉ dắt mình thoát ra ngoài trận đồ của ham muốn súc vật, như Thésée với Ariane. Sợi chỉ ở đây tượng trưng cho liên hệ tình yêu chứ không đơn thuần vật tính.
    Brahma cũng có khi được coi như vị Thần chủ trì sự luân hồi, dựa trên các hành vi xấu tốt của mỗi chúng sanh. Người ta cắt nghĩa sự hiện diện của bốn cái đầu nhìn ra bốn phía như để thấy rõ mọi việc xấu tốt trên khắp thế giới hầu quyết định việc luân hồi.
    Thế còn cái đầu thứ năm? Nó đã bị Shiva dùng móng tay cắt đứt. Có thể đây là một phản ứng trước sự đạo đức giả của giai cấp Đạo Sĩ, vì thật ra Brahma đã sa ngã, đã «ăn gian.» Xin nhắc lại là cái đầu thứ năm của Brahma nhìn lên trời thay vì nhìn người đẹp, mang búi tóc của giới Đạo Sĩ. Tuy nhiên, cũng cần nhận xét là sứ mạng Sáng Tạo trong mỗi người chúng ta, chứ không phải riêng gì đối với Brahma, hiểu theo nghĩa sanh con đẻ cái, thường phải thông qua thôi thúc ********. Một cách rộng rãi hơn, Freud cho rằng các sáng tạo nghệ thuật khoa học triết học v.v... cũng chỉ là sự thăng hoa của thôi thúc ******** cơ bản. Vấn đề là nhiều khi thôi thúc dục tình ấy vượt qua lằn ranh luân lý...
    Sau khi bị chặt đứt, cái đầu thứ năm của Brahma dính trong lòng bàn tay Shiva dưới dạng sọ người hay cái bát của người hành khất. Các nhà sư Phật Giáo Tây Tạng từng có lúc dùng bát ăn xin bằng sọ người!
    Brahma sáng tạo vũ trụ xong thì có vẻ mệt mỏi , cần nghỉ ngơi, không khác gì Thiên Chúa trong Thánh Kinh ở ngày thứ bảy. Mặt khác, Brahma rất ít can thiệp vào việc nhân gian (như Thiên Chúa kể từ sau truyện Job, cho đến... bây giờ), và cũng ít được cúng bái thờ phượng (như Thiên Chúa, ngoại trừ lễ nghi hình thức).
    Con vật được gán cho Brahma là con Thiên Nga, biểu tượng cho khả năng phân biệt thiện ác. Người Ấn tin rằng nếu pha sữa và nước đem cho thiên nga, thì thiên nga có thể phân ra phần sữa và phần nước. Biểu tượng này làm sáng tỏ hơn nữa những gì chúng ta vừa nói về ý thức tội lỗi trong việc loạn luân... Có khi người ta trình bày Brahma đang cúi chào con Thiên Nga của Ngài. Phải chăng đó là một sự tạ lỗi, một mặc cảm trước biểu tượng của thiện ác phân minh?
    Tựu trung, ?osáng tạo? thế giới chẳng qua chỉ là đem vào trong thế giới hằng hữu ấy cái ý thức phân biệt (cái này với cái kia). Brahma cưỡi Thiên Nga, con vật tượng trưng cho phân biệt nói chung, được biểu tượng bằng phân biệt thiện ác, thì quả là thuận lý lắm vậy. Nhắc lại Thánh Kinh cũng gắn liền việc phân biệt thiện ác với tình yêu xác thịt, qua chuyện Adam và Eva ăn trái cấm tức trái của ?ocây phân biệt thiện ác? đồng thời cũng tượng trưng cho ********. Thêm vào đấy, Eva cũng nảy sinh từ thân thể của Adam như Sarasvati từ thân thể Brahma.
    Nếu hiểu rộng ra, thì ý thức loạn luân có thể tượng trưng cho ý thức cấm đoán nói chung, tức ý thức luân lý đè nặng không những trên tình yêu xác thịt mà cả trên mọi hành vi của chúng ta. Trên mặt tâm lý, câu chuyện Brahma, chẳng khác gì chuyện một em bé chào đời với cái nhìn vô phân biệt, phải tự sáng tạo cái thế giới của mình bằng ý thức ?ocái này, cái kia,? khởi đầu bằng ?ota? và ?okhông ta.? Cái ?okhông ta? đầu tiên mà em bé ý thức là người mẹ. Liên hệ với mẹ mang những yếu tố dục tình và những cấm đoán mà đứa trẻ sẽ phải đối diện, khi nó từ từ rời bỏ vật tính để trở thành con người, với văn hóa, văn minh...
  8. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    VISHNU, ĐẤNG NHẬP THẾ, VỊ THẦN BẢO HỘ, DƯỠNG NUÔI:
    Ngôi thứ hai của Chúa Ba Ngôi trong huyền thoại Ấn Độ là Vishnu. Có thuyết cho rằng tất cả các vũ trụ khi chưa thị hiện ra đều được chứa trong bụng của Vishnu, trong lúc Ngài nằm ngủ trên mình con rắn ngàn đầu Ananta (chữ có nghĩa là vô tận), bập bềnh trên Biển Sữa nguyên thủy. Chính năng lượng nảy sinh từ rốn của Vishnu làm nở đóa sen trên đó Brahma hiện ra và tác thành vạn vật. Nếu Brahma là ý chí sáng tạo, thì Vishnu là năng lực bảo hộ, duy trì, dưỡng nuôi. Trong khi Brahma làm công việc sáng tạo xong bèn lè phè, đứng ngoài thế sự, thì Vishnu không ngần ngại nhảy vào cuộc sống nhân sinh mỗi khi cần thiết. Ngài là Đấng Nhập Thế, với rất nhiều hóa thân, được tôn thờ rộng rãi trong dân gian.

    CON NGƯỜI ĐẦU TIÊN MANU VÀ TRẬN ĐẠI HỒNG THỦY:
    Hóa thân đầu tiên của Vishnu là con cá có sừng Matsya.
    Một ngày nọ, Manu, con người đầu tiên, cứu một con cá bị mắc cạn (chữ ?oman,? trong các tiếng Anh, Đức, có thể đến từ tên ông Manu này, và có lẽ cả các chữ ?omán,? ?omường? ?" trại chữ ?ohmong? gần với ?ohuman? ?" trong tiếng Việt mình). Cá cho Manu biết Đại Hồng Thủy sắp xảy ra, và khuyên Manu đóng một chiếc tàu lớn, đem vào trong đó súc vật, cây cỏ, để tránh lụt. Con cá ấy là Matsya, cứu tinh của nhân loại, và Manu chính là ?otiền thân? của Noah (Noẳ) trong Thánh Kinh Do Thái. Có chuyện kể rằng Matsya hóa thành một con cá vĩ đại đưa tàu của Manu đến một vùng đất cao trên Hy Mã Lạp Sơn, nơi gọi là Manali, để thoát nạn Đại Hồng Thủy. Con người đầu tiên Manu sau này để lại một bộ luật, được coi như bộ luật đầu tiên của Ấn Độ, gồm 5370 câu, hiện vẫn còn được lưu giữ.
    Trong trận Đại Hồng Thủy, Matsya cũng có công lặn xuống lòng đại dương nhặt lên được bốn quyển Kinh Vệ Đà bị mất, và giao chúng cho Brahma. Kinh Vệ Đà mang những nguyên lý sáng tạo, nên Matsya cũng được coi như đã cứu sự Sáng Tạo.

    QUẬY BIỂN SỮA
    Hóa thân thứ hai của Vishnu là con rùa Kurma.
    Số là sau trận Đại Hồng Thủy, một số bảo vật bị chìm trong lòng Biển Sữa. Brahma khuyên các vị Thần nên liên kết với đám Quỷ Ma để thu hồi các bảo vật ấy, đặc biệt là thuốc trường sinh Amrita. Thần và Quỷ mới dựng một ngọn núi (tên là Mandara) giữa Biển Sữa. Kế đó thâu dụng một con rắn vĩ đại (Vasuki) quấn quanh ngọn núi ấy, rồi hè nhau nắm đầu nắm đuôi rắn mà làm quay quả núi để quậy Biển Sữa! Tuy nhiên, không thể thiếu một điểm tựa để núi Mandara khỏi chìm xuống biển sâu. Thế là Vishnu hóa thành rùa Kurma, lặn xuống nước sâu, chịu núi Mandara trên lưng mình, cho các anh Thần chị Quỷ... quậy! Quậy mãi không được gì, Thần cũng như Quỷ đều mệt mỏi chán nản, thì thình lình nổi lên một mảng độc chất vô cùng mãnh liệt, có khả năng hủy diệt mọi sự vật mà nó đụng vào, khiến cả vũ trụ lâm vào nguy khốn. Thần và Quỷ hướng về Shiva xin giúp đỡ. Shiva liền vận dụng thần thông nuốt trọn độc chất nọ, nhưng giữ không cho nó xuống bụng. Từ đó cổ họng Shiva mang màu xanh.
    Màn quậy biển sữa tiếp diễn và đem đến những kết quả khả quan hơn: một con bò, nguồn sữa vô tận (?), Cây Như Ý (muốn gì được nấy), mặt trăng, mặt trời, Nữ Thần Lakshmi, đẹp tuyệt vời, được Vishnu lấy ngay làm vợ, một con voi, một ngựa trắng v.v... Sau cùng, Dhanvantri, một đồng nghiệp Y Sĩ, hiện lên với chén thuốc trường sinh. Sự hợp tác giữa Thần và Quỷ lúc đó chấm dứt, và một màn tranh dành thuốc trường sinh diễn ra...
    Có thuyết cho rằng màn «quậy Biển Sữa» xảy ra ở lúc Tạo Thiên Lập Địa, với Mandara là cột trụ của thế giới, Brahma làm vị chủ trì, Vishnu là điểm tựa và Shiva, năng lực khai thông bế tắc. Từ đó nổi lên những biểu tượng như sự sống (thuốc trường sinh cho chư Thần, bò sữa cho con người), thời gian (mặt trăng), ánh sáng (mặt trời), sự chết (độc chất), cái đẹp (Lakshmi), ước vọng (cây như ý), sức mạnh (ngựa), sự thông thái (voi) v.v...

    ĐỨC PHẬT, HÓA THÂN THỨ CHÍN CỦA VISHNU, ĐỨC KY TÔ, HÓA THÂN THỨ MƯỜI !
    Các hóa thân khác thường được nhắc đến của Vishnu là :
    Heo rừng Vahara, chiến đấu suốt một ngàn năm để hàng phục quỷ Hiranyaksha, cứu Trái Đất (một Nữ Thần) bị chú quỷ này nhận chìm xuống biển (một loại Đại Hồng Thủy).
    Người sư tử Narasimha có công tiêu diệt một Ma Vương có quyền năng đặc biệt. Số là Brahma nhận quà cáp của Ma Vương này nên ban cho ông ta một sự che chở khiến ông không thể bị giết bởi một con người, cũng không thể bị giết bởi một con vật. Vishnu, dưới dạng nửa người nửa vật, thẳng tay hạ sát vị Ma Vương nọ mà không phạm vào những cấm kỵ của Brahma. Câu chuyện cho thấy Brahma không ngần ngại trao cảm tình của mình cho Ma Quỷ, một loại bình đẳng tâm. Đức Ky Tô, trong Marc 5:1;13, cũng tỏ ý thương hại một bầy ác quỷ và chấp nhận sự yêu cầu của chúng.
    Người lùn Vamana, một cứu tinh khác của thế giới. Vào lúc ấy, một Ma Vương tên là Bali chinh phục được cả mặt đất, thiên đàng và địa ngục (như Tề Thiên Đại Thánh ở phần đầu Tây Du Ký). Vamana đến trình diện Bali và xin Bali nhượng cho mình một mảnh đất trong phạm vi ba bước chân của ông. Bali buồn cười anh lùn Vamana nên ưng thuận. Vamana vận dụng thần thông bước một bước trải hết mặt đất, bước thứ hai hết thiên đường, nhưng ngừng lại nhường cho Quỷ Vương Bali và địa ngục. Trong Tây Du Ký cũng có một màn tranh đua nhảy xa, giữa Tề Thiên và Đức Phật, có thể cùng nguồn gốc với câu chuyện này.
    Parasuram, một nhân vật đã hàng phục tầng lớp chiến sĩ (Kshatrya), để bảo vệ giai cấp Đạo Sĩ (Brahmane).
    Krishna, rất được dân gian tôn thờ, chúng ta sẽ gặp lại Vị này trong chuyện Mahabharata.
    Rama, một đấng anh hùng được ngưỡng mộ bởi mọi người Ấn, chúng ta cũng sẽ có dịp làm quen với Ngài khi bàn đến chuyện Ramayana.
    Đức Phật, được tôn thờ trong Ấn Giáo như hóa thân thứ chín của Vishnu, tinh hoa của sự tu tập theo pháp môn của Vị Thần này.
     
  9. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    SHIVA, ĐỘNG LỰC CÁCH MẠNG
    Ngày nọ Indra, Vua của các vị Thần (nhưng lại là đệ tử của Phật trong hệ thống biểu tượng Phật Giáo), gặp một người đàn bà khóc lóc thảm thiết. Hỏi : «có chuyện chi?» Bà nọ dắt Indra lên Hy Mã Lạp Sơn. Nơi đây Indra thấy một người trẻ tuổi, trông có vẻ giang hồ lãng tử, ngồi chơi súc sắc giữa chốn hoang vu. Thấy lạ, Indra gọi chàng trai trẻ. Không trả lời. Indra tuyên bố: «Ta là Vua các vị Thần.» Chàng trai tiếp tục chơi. Lập lại: «Ta là Indra, Vua của chư Thần, Chúa Tể Vũ Trụ!» Tỉnh bơ. Indra lập lại vài lần nữa, có vẻ nạt nộ. Chàng trai quay lại, nở một nụ cười: nụ cười của Shiva. Không ổn! Thoáng một cái, Indra bị thộp cổ quẳng vào một hang động. Nơi đó đã có sẵn bốn Indra khác, cũng bị Shiva trừng trị vì tội ngạo mạn...
    Shiva, ngôi thứ ba của Chúa Ba Ngôi trong huyền thoại Ấn Độ là một vị Thần rất đặc biệt. Trong khi Brahma mang phong thái Quân Vương, Vishnu tác phong Đạo Sĩ, thì Shiva, với thân mình phủ tro tàn của giàn hỏa thiêu, với rắn hổ hay chuỗi sọ người quấn quanh cổ, da cọp quấn quanh người hoặc phủ trên tòa ngồi, chưa kể con mắt thứ ba giữa trán và nước da màu xanh dương, có một vẻ gì bí hiểm, đe dọa.
    Shiva thường được biết đến qua hình ảnh một vị khổ tu, một Yogi sống trong rừng núi, một người ăn mày (vô sản !), một kẻ lãng tử... Thật ra, hình ảnh nổi tiếng nhất của Shiva là ảnh tượng Ngài nhảy múa giữa một vòng tròn lửa, mái tóc rậm rạp tung ra hai bên, chân trái giơ lên bên phải, một trong bốn bàn tay cầm trống nhỏ (damaru) đánh nhịp sanh thành và hoại diệt của vũ trụ, bàn tay khác cầm lửa hoại diệt samhara, bàn tay thứ ba bắt «vô úy ấn» abhaya mudra (trong Phật Giáo, đó là thủ ấn của Amoghasiddi, Bất Không Thành Tựu Như Lai), bàn tay thứ tư chỉ xuống chân trái, chân phải đạp lên Quỷ Vô Minh. Với sự nhảy múa của Shiva, vũ trụ sự vật bị tiêu diệt để được tái tạo.
    Như thế, Shiva là Thần của sự hoại diệt, nhưng cũng là điều kiện của tạo sanh (cách mạng đấy!). Cần nói là một trong những biểu tượng của Ngài là Lingam, *********. Sự hoại diệt đem đến bởi Shiva chính là động lực của đổi thay. Mỗi khi có bế tắc cần một sự khai thông tái tạo nền tảng, thì Shiva xuất hiện. Cũng như Thánh Thần trong Tân Ước, hiện xuống mỗi khi có sự thay đổi quan trọng. Thật vậy, Thánh Thần xuất hiện khi Đức Ky Tô chịu phép rửa để từ một người ẩn danh trở thành một Thày Giảng nổi tiếng rồi một Đấng Cứu Thế, và khi các Tông Đồ từ tình trạng thu rút sợ sệt trở thành những con người dũng cảm đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng ấy bằng chính cái chết của mình. Lửa thường được chọn làm biểu tượng của Thánh Thần (ngọn lửa hiện xuống trên đầu các Tông Đồ trước khi họ bắt đầu đi giảng). Lửa cũng là một trong những biểu tượng của Shiva.
    Trong các hình tượng của Shiva, mắt Ngài thường nhắm nửa chừng, như người thiền định. Con mắt thứ ba của Ngài thì có năng lực đốt cháy mọi sự vật mà nó chiếu tới. Vì thế sự hủy diệt chủ trì bởi Shiva cũng là ý thức Tính Không, phá tan vọng kiến về tự tánh của mọi sự vật, sau này được hệ thống hóa bởi các trường phái Đại Thừa. Bàn tay Shiva có khi cầm bát ăn xin bằng sọ người, đến từ cái đầu của Brahma mà Ngài đã chặt đứt (một loại đấu tranh giai cấp, như việc bắt nhốt Indra?).
    Trong búi tóc của Shiva có mặt trăng, biểu tượng cho sự tuần hoàn của thời gian, nhắc cho chúng ta nhớ là thời gian cũng chính là hủy diệt... Trên búi tóc ấy có đầu của Nữ Thần Ganga, Nữ Thần sông Hằng (Gange), nhổ ra một vòi nước. Giòng sông chảy, cuốn lôi tất cả, phải chăng cũng là một biểu tượng của thời gian trôi?
    Người ta nói rằng trước khi Vũ Trụ sanh thành, vạn pháp còn ở trong trạng thái hỗn nguyên, thì Shiva nhảy múa, đánh cái trống nhỏ, tạo nên tiếng AUM làm rung động cái Nguyên Khí vô phân biệt kia, như hòn sỏi ném xuống mặt hồ. Từ đó nảy sinh một điểm, rồi từ một điểm nổi lên những gợn sóng quanh điểm ấy, và vạn pháp sanh thành. Mỗi sự mỗi vật, mỗi người chúng ta, chẳng qua chỉ là những gợn sóng trên mặt một đại dương duy nhất, khởi sinh từ một niệm, một rung động của phân biệt trí.
    Shiva là vị Thần của nội tâm, nơi không có Quân Vương, không có Anh Hùng, không có Đạo Sĩ, không có giai cấp, không có giàu sang hay nghèo hèn, nơi mà sự nhảy múa quay cuồng không ngừng nghỉ tạo nên những gợn sóng cấu thành vũ trụ, vũ trụ nội tâm, cái vũ trụ duy nhất mà chúng ta có thể biết được. Con mắt thứ ba của Shiva chiếu vào vũ trụ ấy, tiêu diệt tất cả, đem tất cả vào tĩnh lặng, trong sự giác ngộ Tính Không của vạn pháp. Năng lực hoại diệt của Shiva cũng là khả năng diệt Ngã, phá chấp, loại trừ vô minh.
     
    SHIVA CƯỚI VỢ :
    Rồi Shiva cưới vợ. Cô dâu tên là Sati, con của một vị Thần nảy sanh từ mồ hôi của Brahma khi vị Thần Vương Giả này thèm muốn Sarasvati, con gái Ngài. Ông Thần «mồ hôi» tự cho mình là giòng dõi quân vương nên không chịu cho con gái lấy Shiva, một kẻ ăn mày. Tuy thế Sati và Shiva vẫn kết hợp trong hạnh phúc lứa đôi. Cho đến một hôm, ông thần cha vợ tổ chức một bữa tiệc mời mọi vị Thần, nhưng không thèm mời chàng rể Shiva. Sati phẫn uất, ngồi tập trung thần khí rồi vận dụng công phu tự phát hỏa thiêu cháy mình! Đây chẳng qua là một chuyện thường thấy trong đời sống hàng ngày: con gái lấy chồng Tây, Mỹ, thay vì người Việt, lấy kẻ thất nghiệp, nghệ sĩ, thay vì bác sĩ, kỹ sư... có khi đưa đến thảm kịch. Trong bối cảnh xã hội Ấn, việc này gắn liền với việc những người phụ nữ tự thiêu khi chồng qua đời. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong huyền thoại Ramayana.
    Shiva đau khổ điên cuồng, ôm xác Sati nhảy múa dẫm nát thế giới, làm vũ trụ rung chuyển, Trời Đất náo động. Vishnu thấy thế bèn ném đĩa Giác Luân chặt thân thể Sati ra thành 108 khúc rơi xuống 108 nơi trên đất Ấn (mỗi nơi hiện vẫn còn điện thờ). Con số 108 khiến ta liên tưởng đến 36 vì sao Thiên Cang, 72 vì sao Địa Sát của khoa Tử Vi Trung Quốc, có lúc nhập thế sanh ra 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc !
    Nhục thân Sati không còn, Shiva cũng ngừng nhảy múa, ngồi tĩnh lự, trở thành như thảo mộc. Thế giới lại lâm nguy vì thiếu «năng lực cách mạng» của Shiva. Vishnu tìm cách lôi Shiva ra khỏi cái trạng thái mà nhà Phật gọi «si định» này. Ngài cho em gái mình là Parvati đến chinh phục Shiva. Cũng có thuỵết cho rằng Parvati là con gái Vua Núi Parvata Raja («raja» là «vua», «rex» trong tiếng la tinh).
    Shiva không thèm màng đến Parvati. Nàng buồn khổ lùi vào rừng sâu ẩn tu. Shiva động lòng giả trang làm một Đạo Sĩ đến hỏi Parvati: vì sao một người diễm lệ, giòng dõi quân vương như nàng mà lại tìm theo một tên ăn mày dị hợm, có ba con mắt, chuỗi sọ người quanh cổ, tro phủ đầy người, ngồi trong bãi hỏa thiêu xác chết? Parvati trả lời rằng chỉ có bậc Đại Giác mới không cần màng đến địa vị giàu sang, vì biết mình đã sẵn có tất cả, chỉ có bậc Đại Lực mới không cần ẩn nấp sau phong thái bên ngoài, và nàng yêu con người thực của Shiva, con người nội tâm cao quý và dũng mãnh của Ngài.
  10. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    Ba ngôi trong huyền thoại Ấn Độ được trình bày dưới dạng một hình tượng duy nhất, gọi là Tri Murti, nhấn mạnh ý niệm không có sự phân biệt giữa Brahma, Vishnu, và Shiva, mà cả ba đều chỉ là những thị hiện khác nhau của một nguyên lý, kiểu như một Chúa, Ba Ngôi. Riêng Vishnu và Shiva cũng có khi được gộp chung trong một vị Thần gọi là Hari Hara. Hari là phần tương ứng với Vishnu, Hara tương ứng với Shiva, hai mặt của một thực thể, «nhất âm nhất dương chi vị Đạo»!

    NGƯỜI MẸ HIỀN TỪ DURGA VÀ NGƯỜI MẸ DỮ TỢN KALI
    Bên phía các Nữ Thần thì sự kiện một nguyên lý duy nhất thị hiện qua hai mặt đối nghịch nhau được thấy trong cặp Durga và Kali.
    Vào một thời xa xưa, Quỷ Vương Mahisha và bộ hạ nổi lên chinh phục các tầng Trời và tàn sát chư vị Thiên Thần. Họ đến cầu cứu «Chúa Ba Ngôi» Trimurti. Ba Ngôi phóng linh quang như những lằn chớp sáng rực bầu Trời. Ở nơi hội tụ của ba luồng hào quang chói lửa đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa nảy sanh ra một Nữ Thần, đó là Durga. Mỗi vị Thần trên Thiên Quốc đều tặng Durga một vũ khí hay một bảo vật để hàng phục quỷ vương. Shiva tặng cây đinh ba, Vishnu tặng đĩa Kim Luân và dây Quyên Sách, Surya, thần Mặt Trời, tặng cung tên, Chandra, thần mặt trăng, tặng cây búa rìu, Sơn Thần Himalaya tặng con sư tử, Thần Chết Yama tặng chày Kim Cương, Thần gió Vayu tặng ống loa, Hỏa Thần Agni tặng hỏa tiễn, v.v... Durga tượng trưng cho sự đón nhận của nữ tính, nên hội tụ mọi quyền năng của chư Thần. Các quyền năng ấy cũng biểu tượng cho các đức tính rất đa dạng nhưng cần thiết để hàng phục những khuynh hướng xấu trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Để có được những đức tính ấy, chúng ta phải có thái độ sẵn sàng đón nhận, một thái độ gắn liền với nữ tính của Durga.
    Trong huyền thoại Hy Lạp, các vị thần cũng thường tặng cho những nhân vật được mình che chở hay giao phó cho trách niệm nào đó, những bảo vật cần thiết, như trong chuyện Persée, vị anh hùng đã đánh bại Nữ Ác Thần Meduse.
    Điểm đặc biệt là mặc dù Durga là một chiến tướng rất dũng mãnh quyết liệt, nhưng trong dân gian, Ngài lại được tôn thờ như một người mẹ tươi cười, từ ái, hiền hòa.
    Trong trận chiến chống lại ác quỷ, Durga chỉ huy một đội ngũ bảy nữ thần (sanh ra từ Durga, mỗi Vị mang đặc tính của một Nam Thần đã «đầu tư» vào Durga), gọi là bảy bà mẹ (Sapta Matrika). Các Bà anh dũng thắng thế tiêu diệt đối phương. Tuy nhiên, khi quỷ bị giết hay bị thương, thì mỗi giọt máu của nó rơi xuống đất lại liền nảy sanh ra một con quỷ khác, cứ như thế, liên tu bất tận (như quái vật Hydre trong huyền thoại Hy Lạp, có nhiều đầu, mỗi đầu bị chặt, liền mọc thêm hai đầu khác). Cuối cùng Durga ra lệnh cho một Nữ Thần há to miệng nuốt hết những giọt máu từ ác quỷ tuôn ra, khiến quỷ không thể tái tạo được nữa, đem lại chiến thắng toàn diện. Vị Nữ Thần uống máu ấy là Kali, bà mẹ dữ tợn.
    Trong tiềm thức đến từ tuổi thơ của chúng ta, những nỗi sợ sệt của cuộc sống thường được kết tinh dưới dạng ma quỷ, và kẻ che chở chúng ta khỏi các nỗi sợ ấy không ai khác hơn là người mẹ. Ngay cả khi đã lớn, đã già, người ta vẫn kêu mẹ, «thấy mẹ,» trong các tình huống hiểm nguy, tai họa, đớn đau... Câu chuyện các bà mẹ chiến thắng ác quỷ, với hai nhân vật nổi bật là Durga và Kali bắt nguồn từ tâm lý này.
    Mặt khác người mẹ cũng mang hai sắc thái: hiền từ, nhưng cũng có khi dữ tợn. Kali biểu tượng cho khía cạnh dữ tợn, đáng sợ, của người mẹ. Một mặt, có thể lý luận là nếu Kali giết được ma quỷ, thì Ngài cũng phải dữ dằn đáng sợ như ma quỷ. Mặt khác, người mẹ với trách nhiệm giáo huấn con cái, có thể trở thành nghiêm khắc, gắt gao, đáng sợ. Ngay cả khi đã trưởng thành người ta vẫn sợ sự phán xét của người mẹ, và mỗi khi làm chuyện gì người ta cũng thường lo lắng xem mẹ mình sẽ «nghĩ gì» về việc ấy. Điều này cũng đúng với người cha, nhưng liên hệ với người cha thường có tính cách gián tiếp, qua trung gian người mẹ, như ở đây Chư Thần hành động qua trung gian các vị Thần Mẫu.
    Việc tách rời hai sắc thái đối nghịch: hiền từ và dữ tợn của người mẹ thành hai nhân vật, là một phương pháp thông dụng, thường thấy trong truyện cổ tích. Thật vậy, vì trong đầu chúng ta có một «thảo trình» tuyệt đối ngăn cấm chúng ta oán ghét mẹ mình nên trong truyện cổ tích mỗi khi có bà mẹ nào khắc nghiệt, đáng ghét (theo quan điểm của trẻ con), thì người ta liền «chuyển dịch» bà mẹ ấy thành... mẹ ghẻ! Các truyện Tấm Cám, Cendrillon, Bạch Tuyết, v.v... đều áp dụng phương pháp này. Thêm vào đó bà mẹ ghẻ lại có thể trở thành phù thủy, tức ác quỷ ghê rợn, như trong truyện Bạch Tuyết...
    Một chi tiết ngộ nghĩnh là ở Calcutta, có một lễ hội dành cho cặp Durga và Kali, kéo dài trong nhiều ngày, kết thúc bằng một màn lột quần áo của tượng các Thần Mẫu, trước khi liệng các Ngài xuống sông. Chưa hết người ta dùng gậy đập các bức tượng bằng đất ấy cho đến khi chúng tan biến trong giòng nước. Một fantasme, ám ảnh thầm kín nào đó, cần được đập tan?
     
    KALI, SỰ PHÁ CHẤP TUYỆT ĐỐI
    Kali là một nữ thần đặc biệt ghê rợn. Nước da Ngài màu đen, tượng trưng cho sự tan biến của mọi màu sắc. Khuôn mặt Ngài, với mái tóc dựng đứng, con mắt thứ ba nằm giữa trán (như Shiva), miệng mở to, lưỡi đẫm máu thò dài ra ngoài, gợi cho chúng ta hình ảnh Nữ Ác Thần Meduse trong huyền thoại Hy Lạp. Vả lại Kali cũng có khả năng hủy diệt đối thủ của mình bằng tia nhìn nảy lửa từ con mắt thứ ba của Bà, y hệt như Meduse. Vươn lưỡi ra thật xa cũng là một kỹ thuật Yoga. Thông thường trong thiền định người ta uốn lưỡi đặt lên hàm trên sau hàng răng cửa, nhưng cũng có Yogi cuộn hẳn lưỡi về phía sau, chặn đường hô hấp để đưa đến những cảm giác đặc biệt, hay đến... chết.
    Kali thường trần truồng, một khía cạnh của phá chấp, hay của «sống thật» không che đậy giả dối. Ngài mang một sâu chuỗi gồm năm mươi sọ người, mỗi sọ ứng với một chữ trong vần Sanskrit, chứng tỏ sự thông thái, hay sự phù phiếm của «danh sắc» (nama ruppa ?" trong thập nhị nhân duyên). Kali cũng nhảy múa điên cuồng như Shiva, tương truyền do chất độc chứa trong máu của ác quỷ mà Ngài đã phải uống trọn như đã kể ở trên. Nhắc lại là Shiva cũng đã từng phải uống chất độc khi chư Thần và Ma Quỷ cùng hè nhau quậy «Biển Sữa.» Vũ điệu của Kali cũng tàn phá mọi sự vật (như Shiva), và cũng cần được ngăn chặn. Vị Thần ngăn được điệu vũ hoại diệt của Kali không phải là Vishnu như thường khi có hiểm nguy cho vạn hữu, mà đặc biệt lần này lại là Shiva. Shiva nằm xuống dưới chân Kali, và vị Nữ Thần ngừng dẫm tan thế giới. Hình tượng Shiva nằm trong tư thế này tựa hồ như người chết. Người ta cũng nói Kali là chữ «i» trong tên Shiva. Mất chữ «i» ấy thì Shiva trở thành «shv» (đọc là shuw), nghĩa là thân xác không còn sinh khí. Có thể hiểu rằng: Shiva trút bỏ sự sống cá biệt của mình, chết đi, để Kali, sự sống thật, sự sống của Toàn Hữu, nổi lên đạp trên sự chết. Chiến thắng sự chết là một đề tài thường thấy trong Phật và Ky Tô Giáo, cũng như trong triết học Hy Lạp (phái Stoycien và Epicurien).
    Shiva được coi như cha của Kali. Thật ra, như đã nói ở trên, mọi Nữ Thần đều đến từ nữ tính của Shiva. Một hình ảnh của Kali hình dung Bà quỳ trên người Shiva, ********* của Shiva trong âm hộ của Bà. Một tay Kali cầm lưỡi liềm đẫm máu, tay kia cầm một cái mâm trên đó có đặt thủ cấp của chính Bà. Một tia máu phun từ thủ cấp trên mâm vào miệng của Kali. Trong một hình ảnh khác, Kali cũng với hai cái đầu, đầu nọ uống máu phun ra từ đầu kia, ngồi trên một cặp trai gái đang ********. Người đàn bà, Ratti, nghĩa là lạc thú, ở trên người đàn ông, Kama, là «dục,» hay Thần Ái Tình. Một hình ảnh khác nữa hình dung Kali nhảy múa đạp trên Ratti và Kama (vẫn đang ********), có thể được hiểu là Kali chà đạp lạc thú và ái tình, tức mang đức tánh tu hành khổ hạnh. Nhiều nhà khổ hạnh hay Đạo Sĩ tự cho mình là «tình nhân» của Kali, điển hình là Rama Krishna (1836-1886).
    Kali, người mẹ uống máu, biểu tượng cho một khía cạnh ghê rợn của người nữ trong trí tưởng tượng của... đàn ông. Sử gia Tacite kể rằng khi La Mã xâm chiếm các bộ lạc Germanique, Đức, thì các bà mẹ Đức, thấy phe mình thất thế, có khi cầm chính các đứa con nhỏ của mình ném vào hàng quân La Mã để gây rối loạn! Người ta cũng thường thuật chuyện các người đàn bà Scythe tự cắt vú bên phải để khỏi bị vướng víu trong lúc... bắn cung! Chuyện thật hay đồn đãi phóng đại?
    Hình ảnh người mẹ (khát máu) cũng là biểu tượng của nhiều phong trào ái quốc bạo loạn. Người ta chiến đấu cho «đất mẹ,» «gia tài của mẹ,» cho «mẹ Việt Nam,» «mẹ Ấn Độ» v.v... để rồi chết cho mẹ, và không ngần ngại tàn sát kẻ khác nhân danh tình yêu mẹ! Bài ca ái quốc Ấn Độ «Bande Mataram,» có nghĩa là «Chào mẹ,» đương nhiên là mẹ Kali, một thời suýt trở thành quốc ca của liên bang Ấn, nếu không bị gạt bỏ bởi Ghandi.
    Thật ra, trong quan niệm của Ấn Giáo, thì Kali cũng chính là Durga, người mẹ hiền hòa, là Parvati, biểu tượng của tình yêu không ranh giới, là Lakshmi đẹp tuyệt vời, và rốt ráo thì Kali là mọi Nữ Thần. Mặt khác, Kali đến từ Shiva, nhưng Shiva cũng là Vishnu và Brahma. Xuất phát từ «tổng thể» ấy, vai trò của Kali là đem lại sự hiểu biết chân thật sau khi đã phá tan mọi thành kiến, tức sự hiểu biết của «bờ bên kia,» nơi không còn xấu tốt, dơ sạch, sống chết, đạo đức hay tội lỗi... Kali dạy cho mọi người nguồn gốc của khổ đau khi chà đạp lên Ratti và Kama, lạc thú và tham dục. Và khi Ngài sẵn sàng uống máu độc của ác quỷ để Sự Ác (vô minh) khỏi tiếp tục tự nảy sinh ra một cách vô tận, Kali cho thấy lòng quả cảm trong việc diệt trừ những mầm mống của mê mờ, kể cả bằng cách tự tiêu diệt chính mình. Việc tự cắt đầu mình đặt trên mâm cũng mang ý nghĩa tương tự. Kali là vị thần chủ yếu trong Mật Tông (Tantra) Ấn Độ, vị Thần của diệt Ngã, của Giải Thoát
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này