1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ai yêu Ấn Độ và người Ấn nào

Chủ đề trong 'Ấn Độ' bởi viethuong279, 26/05/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Thánh địa thứ tư: Kusinagara
    Kusinagara hay Kusinara (Câu Thi na) là nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thâu thần tịch diệt năm Ngài 80 tuổi dưới hai tàng cây Sa La. Địa danh này sau được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh.
    Giống như các thánh địa khác liên quan đến những biến cố lịch sử đời Đức Phật, Kusinagara đã trở thành một thánh địa quan trọng để các Phật tử đến chiêm bái đãnh lễ.
    Vào thời điểm đó, hàng ngàn tự viện và bảo tháp đã được xây dựng lên chung quanh thánh địa này. Tuy nhiên, không rõ vì lý do gì, có thể bị đạo quân Hồi giáo phá hủy hay do thời gian phai tàn xóa dấu mà thánh địa này đã bị hoang phế tàn rụi. Hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang, khi đến chiêm bái thánh địa này, cũng phải thốt lên lời ta thán bi thiết khi nhìn cảnh vật hoang liêu đổ nát của Kusinagara.
    Qua những cuộc khai quật để tìm lại dấu vết, người ta đào được một số những mảnh vỡ vụn của các tượng Phật, những cột trụ loang lỗ. Tuy nhiên, căn cứ trên những dấu hiệu của các di tích còn sót lại đó và những bia ký thì chắc chắn nơi đây là thánh địa nhập Niết bàn của Đức Phật. Ngôi tháp Đại Bát Niết Bàn mà vua A Dục xây cất cũng không có thể tìm thấy được nữa và có thể ngôi tháp này đã bị chôn vùi dưới nền tinh xá Niết bàn xây dựng ở triều đại Gupta.
    [​IMG]
    Trong số những di tích đó, người ta tìm được một bức tượng Đức Phật trong tư thế nhập Niết bàn. Bức tượng này cũng bị vỡ vụn và đã được nhà điêu khắc Carlleyle khéo léo hàn gắn chạm trỗ lại. Ngôi đại bảo tháp Ramabhar được dựng ngay tại địa điểm làm lễ trà tỳ kim thân Đức Phật và xá lợi Ngài được phân chia ra làm tám phần đồng nhau cho tám vương quốc lớn mạnh nhất thời đó.
    [​IMG]
    Hiện nay các nhà khảo cổ vẫn còn tiếp tục công cuộc khai quật thánh địa Kusinagara, mong sẽ tìm thêm tài liệu chứng cứ hơn nữa để làm sáng tỏ thêm một địa danh linh thiêng đã được đón nhận kim thân Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

    Thánh địa thứ năm: Sravasti
    Sravasti, thủ phủ của vương quốc Kosala ngày xưa, được các Phật tử tôn sùng vì nơi đây hơn 2540 năm trước, Đức Phật đã thi triển thần thông giáo hóa các đạo sư thờ thần lửa.
    Theo các sử liệu ghi chép lại, Đức Phật đã thi triển các phép lạ như trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước, hay mặt trời mặt trăng chiếu sáng cùng một lúc trên bầu trời, và nhiều hóa thân của Đức Phật. Những phép lạ đó đã là đề tài cho nhiều tác phẩm nghệ thuật Ấn từ các thời đại cổ xưa cho đến nay.
    Ngay trong thời Đức Phật, Sravasti đã là một trung tâm Phật giáo sầm uất phồn thịnh. Chính nơi đây, trưởng giả Cấp Cô Độc đã rãi vàng mua hết đất vườn hoa của Thái Tử Kỳ Đà để xây dựng tinh xá cúng dường Đức Phật và chư tăng. Câu chuyện rãi vàng mua đất của ông Cấp Cô Độc đã khích động mãnh liệt đến các tầng lớp quí tộc vua chúa, khanh hầu, trưởng giả và đó cũng là đầu đề về lòng sùng bái tuyệt đối của ông Cấp Cô Độc cũng như các tác phẩm nghệ thuật Ấn sau này. Càng về sau, nhiều tinh xá, bảo tháp xây cất rải rác chung quanh địa danh này khiến Sravasti thêm nổi tiếng và phồn vinh.
    Các nhà khảo cổ tin rằng Sravasti thuộc địa phương Saheth - Maheth nằm sát biên giới quận Gonda và Bahraich của xứ Utta - Pradesh. Nơi đây họ đã tìm thấy vài bia ký liên quan đến tinh xá Kỳ Viên ở Sravasti.
    [​IMG]
    Địa danh Saheth - Maheth gồm có hai vùng riêng biệt. Vùng lớn nhất, Maheth, rộng 400 mẫu, ngày xưa là một tỉnh lỵ trù phú. Saheth thì chỉ rộng có 32 mẫu, nằm độ 0.25 dặm phía Tây Nam của Kỳ Viên tinh xá. Những cuộc khai quật tại vùng Maheth đã cho chúng ta biết được rằng xưa kia Maheth là một thành phố rất giàu có đông đúc. Saheth, tuy nhỏ hơn, nhưng lại nổi tiếng hơn vì nơi đây Đức Phật đã dừng chân để giáo hóa và còn sót lại nhiều nền nhà của tinh xá, tự viện, bảo tháp; cho nên đa số các tăng sĩ, du khách đều ghé tới Saheth để chiêm bái tham quan.
    Những di tích trưng bày đó mang dấu hiệu thời đại Mauryan cho đến những năm đạo Phật bắt đầu suy tàn tại Ấn Độ thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên. Tại đây, người ta thấy một ngôi tháp cổ nhất được xây cất từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, chứa đựng xá lợi Phật và một tượng đầu Đức Phật tạc ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên thuộc triều đại Bala. Tượng đầu Đức Phật này giờ được trưng bày tại bảo tàng Ấn Độ ở Calcutta. Hòang hậu Kumaradevi, vợ vua Govinda-Chandra là người cuối cùng bảo trợ tài chánh kinh phí xây dựng trùng tu lại Kỳ Viên tinh xá năm 1128-29.
    Đạo Phật bây giờ đã suy tàn nhiều tại Ấn Độ và địa danh Sravasti, một thời nổi tiếng huy hòang trong lịch sử Phật giáo Ấn, đã bị gót giầy đạo quân Hồi giáo tàn phá thiêu hủy thành bình địa.

    Thánh địa thứ sáu:Sankasya
    Một địa danh thiêng liêng khác có liên quan đến cuộc đời Đức Phật là Sankasya, nơi Đức Phật thi triển thần thông lên cung trời Đao Lợi thứ 33 thuyết pháp giáo hóa thân mẫu của Ngài là Hòang hậu Ma Gia và chư Thiên. Đức Phật đã giảng A Tỳ Đạt Ma Luận trên cung trời Phạm Thiên. Sự kiện này đã xảy ra sau khi Đức Phật thi thố phép lạ ở Sravasti.
    Sankasya, còn được gọi là Sankisa hay Sanisa Basantapur, thuộc quận Farrukhabad của Utta Pradesh. Địa phương này được biết xác thực là nhờ vào bia ký của vua A Dục khắc trên tượng một con voi đánh dấu thánh địa này.
    Không riêng chỉ có hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đến chiêm bái thánh địa Sankasya, mà có nhiều tăng sĩ Trung Hoa khác cũng đến viếng thăm thánh địa này -- nhưng những tài liệu do họ để lại cũng không còn đầy đủ chứng cứ để xác minh rõ hơn về địa danh này. Ngôi làng hiện giờ ở thánh địa này nằm trên một ngọn đồi, cao độ 41 bộ và rộng cỡ 1,500 mét vuông. Cách đó về hướng Nam độ 0.25 dặm là một ngôi tháp do hòang hậu Devi ra lệnh xây cất. Rải rác chung quanh ngọn đồi này là những đống gạch đá vỡ vụn và những di tích sót lại của cổng thành, đòn ngang, xà nhà, v.v. Những tàn tích này không đủ dữ kiện để chúng ta xác định lịch sử của thánh địa Sankasya.
    Tượng con voi do vua A Dục sai đúc là di tích quan trọng nhất đánh dấu địa danh Sankasya và những cuộc khai quật trong tương lai hy vọng sẽ đem lại cho chúng ta nhiều điều lý thú hơn về Sankasya.
    [​IMG]

    Thánh địa thứ bảy: Rajagriha
    Rajagriha, thủ phủ của vương quốc Ma Kiệt Đà hùng mạnh, có thể nói rất nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo vì nhiều nguyên do. Không những Rajagriha là nơi Đức Phật đã dừng chân lại nhiều lần trong cuộc đời hành đạo của Ngài, mà nơi đây cũng chính là nơi Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), em họ của Đức Phật, đã âm mưu nhiều lần để giết Ngài. Hơn nữa, tại thủ phủ này, ở động Sattapanni trên ngọn đồi Vaibhara, Đại Hội Kiết tập lần thứ I đã được tổ chức tại đây dưới sự chủ tọa của ngài Ưu Bà Li (Upali) và ngài A Nan (Ananda). Những điểm chính yếu của giáo lý và giới luật của Phật giáo đều nêu lên trong kỳ Đại Hội Kiết Tập này. Vì thế, Rajagriha đã trở thành một địa danh nổi tiếng và quan trọng trong sự thành lập và phát triển Tăng đòan Phật giáo.
    Là một thành phố nổi tiếng ngày xưa, Rajagriha bây giờ là một phố thị trong quận Patna của xứ Bihar, bao bọc chung quanh là những ngọn đồi núi chập chùng. Rajagriha còn được gọi là Vaibhara, Vipula, Ratna, Chatha, Udayagiri và Sonagiri. Dưới chân ngọn đồi về phía Bắc của phố thị Rajagriha ngày xưa là vương quốc của vua A Xà Thế (Ajatasatru), con vua Bình Sa vương (Bimbisara). Sau đời vua A Xà Thế, thái tử Udayin kế vị ngai vàng và dời kinh đô Kusumapura đi nơi khác và đời vị vua kế tiếp là Kalasola lại dời kinh đô về Pataliputra, do đó Rajagriha dần dần đã mất đi vai trò quan trọng của nó trong vương quốc. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều biến đổi thăng trầm trong chính trường và tôn giáo, Rajagriha vẫn luôn được nhắc đến trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ và lịch sử các đạo giáo khác.
    Những di tích của thành phố cổ xưa Rajagriha còn sót lại rất ít. Qua những di tích và bia ký vỡ vụn, các nhà khảo cổ tin rằng thánh địa này đã từng là địa điểm sinh họat của nhiều tôn giáo khác nhau. Ngay cả động Sattapanni, nơi kiết tập Đại Hội Phật giáo lần thứ I, cũng mờ dấu vết. Theo kinh điển và sử liệu, động Sattapanni, nằm về phía Bắc sườn đồi Baibhara và nhà bác học Stein có lý khi ông cho rằng vị trí động đá này tọa lạc phía Bắc trên một mảnh đất rất rộng có nhiều hang động nhỏ. Một kiến trúc đặc biệt đáng kể, Jarasandha Ki Baithak, trên sườn đồi Vaibhara phía Đông, có những hầm nhà lớn nhỏ không đồng đều nhau, được mô tả là nơi ẩn cư của Đức Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa), vị chủ tọa kỳ Đại Hội Kiết Tập lần thứ I. Về sau, các hang động này đều là chỗ ở của các đạo sĩ Kỳ Na giáo (Jainism) một thời.
    Ngọn núi Gridhrakutta một thời là nơi ẩn cư tu hành của Đức Phật, nằm gần sát bên thành phố Rajagriha và theo một số dữ kiện lịch sử cũng như các dân địa phương cư ngụ tại vùng này, thì động Sonbhandar phía Đông đồi Vaibhara có mỏ vàng chưa khai phá tại đây.
    [​IMG]
    Rajagriha, bây giờ là một thắng cảnh hấp dẫn các du khách trong và ngòai nước đến viếng, không những là địa điểm nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo mà còn là một địa danh có nhiều ngọn suối nóng chữa bệnh và an dưỡng.

    Thánh địa thứ tám: Vaisali (Vệ Xá Ly)
    Trong thời Phật giáo hưng thịnh, Vaisali, thành phố của vương quốc Lichchhavi hùng cường, là cái nôi của nền văn hóa triết thuyết Phật học.
    Đức Phật đã từng dừng chân du thuyết của Ngài 3 lần nơi thành phố này. Nơi đây Đức Phật đã thọ nhận bát mật ong do đàn khỉ dâng cúng và nơi đây cũng là địa phận Đức Phật tuyên bố 3 tháng nữa Ngài sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Hơn nữa, Vaisali cũng là nơi kiết tập Đại Hội Phật Giáo lần II hơn 100 năm sau ngày Thế Tôn nhập diệt. Đối với tín đồ Kỳ Na giáo, Vaisali cũng là một thánh địa vì Đức Mahavira, vị đạo sư đời thứ 14 của Kỳ Na giáo ra đời.
    Vaisali là một thành phố thuộc quận Muzaffarpur của Bihar. Vào triều đại Gupta, Vaisali là một thủ phủ phồn vinh náo nhiệt. Khách thương, tàu bè, hải cảng buôn bán tấp nập. Các cửa tiệm, nhà băng, công sở, mở cửa suốt ngày đêm. Các kho chứa thóc gạo, lụa là, v.v. của hòang cung đều đầy ngập. Vaisali, thời đó, đã gíup cho triều đại Gupta một thế đứng vững vàng trên vũ đài chính trị cho đến triều đại Mauryan, Vaisali vẫn còn là một thủ đô quan trọng.
    Hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đã đến chiêm bái thánh địa này. Theo lời của ngài Huyền Trang, Vaisali chỉ rộng cỡ 10, 12 dặm vuông. Chung quanh Vaisali có vô số những tháp, bia đá không biết cơ man nào mà kể. Nhưng thời gian đã tàn nhẫn xóa sạch những di tích ấy và chỉ còn sót lại ở khu Kolhua, cách 2 dặm về phía Tây Bắc thành phố Raja Bisal Ka Garh, một trụ đá tạc tượng sư tử cao hơn mặt đất 22 bộ.
    Trụ đá sư tử này có vẻ giống các trụ đá vua A Dục sai xây đắp nhưng không có một bút tích hay bia ký nào cho chúng ta xác định rõ trụ đá này thuộc thời đại vua A Dục cả. Gần trụ đá này, về phía Nam, có một hồ nước nhỏ, mà tương truyền rằng đó là vũng nước mà hàng 2000 năm xưa, đàn khỉ đã đào để lấy nước dâng Đức Phật uống mỗi ngày. Vì thế, hồ nước này có tên gọi là Rama-Kund hay là Markata-Hraka, có nghĩa là "hồ nước của lòai khỉ." Về phía Tây Bắc, một nền đất của một ngôi đền còn sót lại. Ngôi đền này ngày xưa được vua A Dục sai xây cất bằng gạch nung và một ngôi tháp có dấu hiệu vua A Dục xây còn sót lại trên mảnh đất hoang sơ một thời trù phú và quan trọng này.
    Thời gian đã làm phai mờ và rụi tàn bao nhiêu đền đài, bảo tháp, nhưng những thánh địa Phật Giáo vẫn luôn luôn là quê hương tìm về của những người con Phật.

  2. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Những Địa Danh Quan Trọng
    Trong thời kỳ Phật giáo phát triển và hưng thịnh, ngoài những thánh địa linh thiêng liên quan đến cuộc đời Đức Phật, những địa danh quan trọng trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ như Sanchi, Nalanda cũng góp phần không nhỏ cho sự huy hòang của Chánh Pháp.
    Những tự viện, tinh xá ở Gandhara, Taxila, Purushapura, West Pakistan, East Pakistan đều là những trung tâm văn hóa Phật giáo. Ngòai những nét thẩm mỹ và kiến trúc độc đáo ra, các trung tâm văn hóa Phât giáo này còn là nơi xuất phát những anh kiệt của Phật giáo tạo nên những cuộc tranh luận triết lý văn học rất sôi nổi phấn khởi hào hùng; tiêu biểu là trung tâm Phật giáo Sanchi, Nalanda, Ajanta và Ellora.
    Những địa danh này, cũng theo qui luật vô thường của vạn vật mà biến thiên dời đổi. Những di tích còn sót lại đó không đủ đem lại ánh sáng rọi vào quá khứ vàng son của những địa danh này. Tuy nhiên, dù đã mờ nhạt đi trong lịch sử, những địa danh quan trọng này vẫn còn đủ sức hấp dẫn những học giả, tăng ni, tín đồ Phật giáo nối gót nhau lần dò về những miền xa xôi hẻo lánh để tìm lại một chút dư âm thời cực thịnh của Phật Giáo Ấn Độ.
    Sanchi
    [​IMG]
    Sanchi là một trong những địa danh nổi tiếng quan trọng của lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Địa danh này không có chút liên quan đến cuộc đời Đức Phật, nhưng Sanchi là một trung tâm văn hóa Phật giáo rất nổi tiếng và phồn thịnh thời Phật giáo cực thịnh. Theo sử liệu và văn chương truyền thuyết Phật gíao, Sanchi là nơi hội tụ các tinh hoa nghệ thuật của Ấn Độ, và có thể nói, Sanchi là tác phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ nhất của nước Ấn.
    Theo sử liệuTích Lan, vua A Dục đã cưới con gái một thương buôn giầu có và hạ sanh được một thái tử đặt tên là Mahinda. Thái tử Mahinda là một người mộ đạo Phật và rất được Vua Cha và Hòang Mẫu thương yêu. Khi vua A Dục già yếu, ngài muốn đưa hai người con trai và con gái của ngài qua Tích Lan truyền đạo, và tháp Sanchi đã được xây cất trên ngọn đồi vùng lân cận Vidisa, khi thái tử Mahinda dừng chân lại nghỉ ngơi trên đường qua Tích Lan hoằng hóa đạo Phật.
    Dù tài liệu có đúng hay không thì những bia ký, tháp tự ở Sanchi đều mang dấu ấn thời vua A Dục và người ta cũng tin rằng chỉ có vua A Dục, vị đại thí chủ hòang gia đó mới đủ tài sức để phát triển Sanchi thành một trung tâm văn hóa Phật giáo phồn vinh và nổi tiếng.
    Hầu hết các tháp tự ở Sanchi đều tọa lạc trên một ngọn đồi cao bao bọc bởi một tường đá rắn chắc vào thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên. Những ngôi tháp, bia ký này đều có dấu ấn từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên, tính từ đại tháp Sanchi cao 50 bộ và đường kính của vòm tháp Sanchi là 100 bộ là tháp lớn nhất đến ngôi tháp nhỏ nhất cao không quá 01 bộ, thì những tháp tự lớn nhỏ này tạo cho ngọn đồi một thế đứng hùng mạnh sừng sững.
    Ngôi đại tháp ở Sanchi được xây cất bởi gạch đá thời vua A Dục, gồm có những cột trụ cao bằng đá rắn chắc chạy dài bao quanh ngôi tháp, và cổng chính của tháp được xây cất và chạm trỗ một cách điêu luyện đầy thẫm mỹ độc đáo như hình bên cạnh. Hai cột trụ đứng chạm kinh văn nguyên bản tiếng Phạn xưa. Đầu cột tạc 2 con voi đỡ 3 xà ngang, có chỗ trạm chỗ hình voi, sư tử, kinh văn, v.v. tượng trưng những sinh hoạt văn học triết lý của các thời kỳ chánh pháp, tượng pháp Phật giáo Ấn Độ. Bốn mặt đại tháp có 4 cổng gồm 1 cổng lớn và 3 cổng nhỏ. Ba cổng nhỏ kia cũng xây cất và chạm trỗ giống như cổng lớn với các hình tượng voi, sư tử, nam nữ, ngựa, v.v. miêu tả theo những thần thọai về cuộc đời và giáo pháp của Thế Tôn. Những thuyết thần thọai hóa cuộc đời Đức Phật miêu tả trong kinh Bổn Sanh Bổn Sự được các nghệ nhân Ấn đúc kết chạm trỗ điêu khắc trên các cổng thành và tường tháp. Đáng chú ý nữa là hình tượng vua A Dục được chạm khắc trên một cổng thành, miêu tả lại quang cảnh vua A Dục viếng thăm chiêm bái cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng. Hình ảnh vua A Dục ở Sanchi là hình ảnh duy nhất được chạm trỗ do các nghệ nhân và thần dân của Vua khắc lại để tưởng nhớ đến công ơn của một vị đại thí chủ của Phật giáo đã hết lòng ủng hộ công cuộc hoằng dương chánh pháp.
    Những tác phẩm nghệ thuật này đều phản ảnh lòng nhiệt thành mộ đạo của thần dân địa phương vùng Sanchi. Họ đã tổn phí rất nhiều và phải mất nhiều năm mới hòan thành các tác phẩm kiến trúc tuyệt mỹ này. Từng đường khắc, từng nét chạm, từng nét vẽ đều mang trong nó tâm hồn yêu nghệ thuật, lòng sùng kính, dâng hiến và biết ơn của người nghệ sĩ. Các nghệ nhân này làm công việc đó không phải vì lợi danh, địa vị, cho nên tâm tư họ thỏai mái, an lạc hướng trọn tâm hồn cho nghệ thuật. Vì thế, các tác phẩm đều tóat lên một sức sống mãnh liệt khiến người xem cảm thấy rung động sâu xa như đang sống trong ánh sáng Đạo Vàng Giải Thóat.
    Trong số những tháp tự này, có 3 ngôi tháp được người ta chú ý nhiều nhất.
    Tháp thứ nhất là ngôi tháp thứ 3, nằm về hướng Đông Bắc của ngôi Đại Tháp, mặc dù là tháp nhỏ nhất nhưng là ngôi tháp kiểu mẫu. Trong căn phòng tôn thờ xá lợi, Tướng Cunningham đã khám phá ra những xá lợi của ngài Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên, hai vị đại đệ tử của Phật. Hai vị này rất nổi tiếng. Ngài Xá Lợi Phất là "Trí Tuệ Đệ Nhất." Ngài Mục Kiền Liên là "Thần Thông Đệ Nhất." Các xá lợi của hai vị đại đệ tử Phật được các nhóm khảo cổ mang về Anh Quốc, trưng bày ở bảo tàng thành phố Luân Đôn, và sau đó mang trả về lại tôn thờ ở Sanchi trong ngôi tháp số 3 này. Ngày xưa, ngôi tháp số 3 này thường hay bị đào xới khai quật.
    Ngôi tháp thứ 2, nằm trên sườn đồi phía Tây. Ngôi tháp này không có xá lợi, không có cổng chính, nhưng còn lưu giữ lại một số những đồ dùng của các nghệ nhân ngày xưa để quên lại, và những đồ dùng vật liệu này giúp cho người ta biết được cách đây hơn 2500 năm, các nghệ nhân đã đúc tượng chạm vẽ thế nào. Các nét điêu khắc ở ngôi tháp này có vẻ tân tiến hơn lối kiến trúc của Đại Tháp.
    Ngôi tháp nhỏ cuối cùng gần chân đồi phía Tây là nơi tôn thờ xá lợi của ngài Ca Diếp. Ngòai sự đặc biệt này, ngôi tháp còn đặc biệt với những cột trụ, đầu cột, bức tường chạm khắc các hình ảnh vô cùng tuyệt xảo độc đáo.
    Nhiều tháp nhỏ rải rác chung quanh Đại Tháp được tìm thấy. Trong đó, người ta đào được nhiều mảnh vụn vỡ của các tượng, bia ký, v.v. Ở Sonari cách Sanchi vài dặm, nhiều di tích được tìm thấy. Ở Satdhara, cách đó ba dặm, người ta lại tìm thấy xá lợi của ngài Xá Lợi Phất trong 2 ngôi tháp nhỏ, giống như xá lợi tìm thấy ở tháp vùng Sanchi. Còn rất nhiều tháp ở vùng Bhojpur, vùng Andher mà các dấu ấn đều mờ nhạt không thể giúp chúng ta xác định được các tháp xây cất vào triều đại Asoka hay sau thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
    Trong số các tháp tự đó, đáng kể nhất là cột trụ đá vua A Dục với tượng 4 sư tử đâu lưng vào nhau, gần cổng chính Đại Tháp Sanchi phía Nam. Trên đầu cột trụ, có khắc hàng chữ tuyên bố lệnh "Cấm phân rẽ, phá họai Tăng Đòan, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc" của vua A Dục. Ngòai ra, ngôi đền số 17, số 18 xây cất vào khỏang từ thế kỷ thứ 7 đến thời kỳ thứ 12 sau Công nguyên, với những tượng Phật, cột trụ đá, những bức tường chạm trỗ cũng góp phần vào công trình tuyệt mỹ ở Sanchi.
    [​IMG]
    Những tháp tự ở Sanchi đã được giữ gìn, phục hồi lại rất cẩn thận và khéo léo bởi các nghệ nhân điêu khắc và các nhà khảo cổ bác học. Người có công nhất trong cuộc trùng tu khai quật này là ngài John Marshall, vị cựu tổng giám đốc Viện Khảo Cổ Quốc Gia Ấn Độ. Ông đã tu bổ, sửa chữa, phục hồi lại các di tích và những du khách khi đến Sanchi đều có thể tưởng tượng như đang trở về thời quá khứ vàng son của Chánh Pháp với những ngôi tháp hùng vĩ sừng sững một góc trời.
    Ajanta và Ellora
    Hai địa danh nổi tiếng đáng kể nữa là Ajanta và Ellora tọa lạc ở vùng Maharashtra. Trong một thung lũng nhỏ hẹp là hang động đẹp tuyệt vời Ajanta với những di tích của những ngôi đền và tự viện.
    Từ những tảng đá thiên nhiên, những nghệ nhân đã đẽo gọt, khắc chạm thành những tượng Phật, Bồ Tát hay những tác phẩm nghệ thuật vô cùng tinh xảo. Những bức tường, cột trụ đá, trần động đều được chạm trỗ thật tinh vi xuất sắc mang dấu ấn nghệ thuật Phật giáo kéo dài suốt 800 năm và không có một di tích nào ở Ấn Độ có thể so sánh được với những tuyệt tác này.
    Những hang động ở Ellora thì được khai quật và tìm thấy trên một cao nguyên tòan đá rất rộng lớn. Không giống như Ajanta, Ellora tượng trưng cho sự tổng hợp nghệ thuật của 3 nền tôn giáo lớn ở Ấn Độ. Đó là: Phật giáo, Bà La Môn giáo, và Kỳ Na giáo. Ngôi đền Kailasa nổi tiếng của đạo Bà La Môn là tiêu biểu xuất sắc nhất của nền nghệ thuật thế giới với những trần nhà, hành lang thiết kế mỹ thuật, những bức tường thần sống động qua những nét chạm trỗ điêu khắc, những tranh ảnh họa theo những truyền thuyết, tất cả những di tích đó đều được đẽo gọt từ những lòng đá mà ra, khiến cho ngôi đền trong hang động Ellora thêm lừng danh nổi tiếng.
    Những hang động ở Ajanta mang dấu ấn những thế kỷ cuối cùng của kỷ nguyên trước Thiên Chúa, và theo thứ tự niên đại, Ajanta đã góp phần vào sự phát triển nghệ thuật, mỹ thuật, điêu khắc, xây cất những kỳ tích. Hang động số 9 và số 10 là những hang động lâu đời nhất nằm sâu tận trong lòng những dãy động đá ở Ajanta. Từ những dãy động đá này suốt đến hang động thứ 19 và 26, người ta thấy vô số những hình ảnh, tượng khắc Đức Phật theo nhiều cách thiết họa khácnhau. Các tượng, tranh ảnh vẽ Đức Phật trong tư thế ngồi kiết già thiền định hay trong dáng đứng Chuyển Pháp Luân. Những nghệ nhân thời xưa đã dâng trọn trái tim nghệ thuật và sự tôn kính sùng bái lên Thế Tôn qua nét vẽ và chạm khắc của họ.
    [​IMG]
    Hang động thứ 16, 17, và 02 là những hang động quan trọng nhất. Hang động thứ 16 và 17 được xây cất từ năm 500 sau Công nguyên và hang động thứ 1 và thứ 2 được xây cất một thế kỷ sau đó. Những hang động này rất đẹp nhờ những cột trụ đá chạm trỗ và sự thóang mát của các dãy hành lang rộng lớn. Nhưng sự huy hòang tráng lệ của Ajanta đúng ra là do số lượng khổng lồ của tranh vẽ. Những họa sĩ nổi tiếng đã vẽ những sự tích đời Đức Phật theo kinh Bổn Sanh Bổn Sự và thêm vào đó là những tranh ảnh vẽ chân dung Đức Phật, các vị Bồ Tát và các Phạm Thiên.
    [​IMG]
    Trong số những hang động trần thiết ở Ellora, 12 hang động dọc theo hướng Nam được trần thiết theo những truyền thuyết Phật giáo, ngòai ra là những hang động theo kiểu Bà La Môn giáo và Kỳ Na giáo. Những di tích ở Ajanta và Ellora thường có dấu chân của các nhà bác học, khảo cổ và nghệ nhân đến chiêm ngưỡng và học hỏi hơn là các du khách, vì hang động này nằm ở vị trí sâu và cao hơn trên rừng núi. Tuy nhiên, Ajanta và Ellora vẫn được liệt kê vào danh sách các danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Ấn Độ.
    [​IMG]
     
  3. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Nalanda
    Tu viện Nalanda chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử Phật giáo cận đại.  Theo truyền thống, Đức Phật đã viếng thăm tu viện Nalanda vài lần và lịch sử ngôi tu viện này có thể mang dấu ấn triều đại vua A Dục. Tuy nhiên, những cuộc khai quật cũng chưa đủ chứng minh về thời gian xây dựng tu viện này và những chứng cứ như bia ký, dấu ấn, vài di tích còn sót lại trùng hợp với một số điển tích thì tu viện Nalanda phồn vinh và nổi tiếng từ thế kỷ thứ 5 cho đến cuối thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên. Cũng chính nơi đây, nhà du tăng nổi tiếng Trung Hoa, Trần Huyền Trang, đã đến ở lại vài lần. Ngài đã ghi lại nhiều dữ kiện và sơ đồ của nhiều kiến trúc khác nhau của tu viện Nalanda, một tu viện cũng là học viện có sức chứa đựng hơn 10,000 tăng sĩ tu tập hàng năm tại đây để tu hành, nghiên cứu kinh điển và tranh luận.  Ngài Tam Tạng Huyền Trang cũng ghi nhận sự cúng dường ủng hộ của vua Harsha và nhiều vị vua các triều đại kế tiếp. Ngài Nghĩa Tịnh (I Tsing), một nhà sư Trung Hoa, cũng đến tham quan tu viện Nalanda và ghi nhận lại các tăng sĩ trụ xứ tại Nalanda đã được sự yểm trợ ủng hộ của hơn 200 ngôi làng chung quanh và dưới sự tài trợ của nhiều vị vua.
    Nalanda được đi vào lịch sử Phật giáo thế giới vì nơi đây các đạo sư Silabhadra, Santarak****a và Atisa Dipankara đã một thời tu học và góp phần làm rạng danh tu học viện Nalanda.
    Sự hoang tàn đổ nát của Nalanda đã khiến du khách đến xem phải bàng hòang tiếc nuối cho một tu viện Phật giáo lừng danh một thời, nay chỉ còn lại vài di tích của những điện thờ, tháp và tăng phòng. Quang cảnh những di tích còn sót lại đó cũng cho chúng ta biết là trước kia, những tháp và điện thờ chiếm chiều dài từ Bắc đến Nam, những tăng xá cho chư Tăng trú ngụ thì trãi dài từ sườn đồi phía Đông đến phía Tây của cả mấy dãy đồi to lớn. Dù bây giờ Nalanda đã tàn rụi, nhưng vẫn cho chúng ta hình dung được quang cảnh sầm uất, phồn thịnh đông đúc của sự sinh họat hàng chục ngàn tăng sĩ cách đây mấy thế kỷ.
    Ngôi tháp số 3 là một kiến trúc đồ sộ tọa lạc ở giữa sườn đồi phía Tây Nam và được bao bọc chung quanh vô số những tháp nhỏ. Ngôi tháp đầu tiên chỉ là một ngôi tháp nhỏ, nhưng dần dần được xây cất lớn rộng ra. Ngôi tháp hiện giờ đã được xây rộng ra cả đến 7 lần, mỗi lần xây to rộng ra và chạm trỗ điêu khắc thẫm mỹ hơn, khác lạ hơn. Chân tháp vẫn là hình vuông theo kiến trúc của ngôi tháp đầu tiên, nhưng đến khi xây cất lại lần thứ 5 thì các nghệ nhân đã khắc chạm tô vẽ thêm 4 mặt tháp với những miếng gạch lớn khắc kinh văn Phật giáo ở trên với bút tự ở thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên.
    Về phía Bắc ngôi đại tháp này là những dãy tu viện đã được trùng tu xây sửa lại nhiều lần. Ở đây du khách vẫn còn thấy dấu vết của rất nhiều điện thờ, tháp nhỏ, v.v. Tại một bảo tàng viện gần đó, rất nhiều di tích, mãnh vỡ các tượng Phật, Bồ tát được trưng bày. Những di tích này được tìm thấy trong những cuộc khai quật tu viện Nalanda.
    Những tài liệu về bia ký tìm thấy ở Nalanda cũng không phải là ít. Người ta tìm thấy những bia ký bằng đồng, bằng đá, bằng gạch và những con dấu, những bút tự bằng đất nung. Những bia ký bằng gạch khắc với những bài kinh hay giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên và những bài thần chú đà la ni, những bia ký này đều được tàng trữ gìn giữ cẩn thận và trưng bày tại Bảo Tàng Khảo Cổ Ấn Độ.
    Nalanda vẫn còn nổi tiếng nhờ sự yểm trợ ủng hộ của nhiều vị vua chúa, hòang tộc như các vua Narasimhagupta, Kumaragupta đệ nhị, Vainyagupta và Vishnugupta của triều đại hòang gia Gupta, Sarvavarman và Avantivarman của triều đại Maukhari, Bhaskaravarman của Kamarupa, Harshvardhana của Kanauj và rất nhiều thế hệ các vua chúa khác đã liên tục cúng dường tài trợ tu viện Nalanda trong suốt mấy thế kỷ. Người ta còn tìm thấy một bia ký bằng đá khắc tên hòang tộc của vua Yasovarman của Kanauj, và một bia ký bằng đồng có tên các Vua dòng Pala như vua Dharmapala, vua Devapala, vua Balaputradeva của triều đại Sailendra. Trong đời các vị vua dòng Pala, vua Mahipala đệ nhất là người cuối cùng tài trợ công cuộc tu bổ lại tu viện Nalanda cùng sự góp sức của tu sĩ Vipulasrimitra.
    [​IMG]
    Giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa Phật giáo được các cao tăng truyền dạy tại Nalanda, nhưng về sau ảnh hưởng của Mật Tông Phật giáo đã lan rộng ra trong giới tu sĩ, và có pha trộn những kỳ bí của Mật Tông Bà La Môn giáo khiến cho nền giáo lý học thuật Phật giáo có phần đổi thay bất lợi, không đúng. Sau này, vì sự chia rẽ mâu thuẫn trong Tăng đoàn, Hồi giáo đã thừa dịp xâm lấn và phá hủy những địa danh nổi tiếng của Phật giáo, và một tôn giáo chân chính, lừng danh với triết thuyết của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni đã bị phai tàn theo thời gian, mờ dấu vết ngay chính tại quê hương Đức Phật
    Vậy nhé, tiếp tục với Trung Quốc đây...
  4. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    Hoan hô Trang, hay ơi là hay! Trang kiếm mấy bài này ở đâu vậy?
    VH có cuốn Almanach Những nền văn minh thế giới, trong đấy có nói nhiều về Ấn, hay phết.
  5. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Hương sướng thế nhỉ, được khen trẻ đi bao nhiêu. Trang đoán Hương chắc không thể nhỏ hơn 18 và chắc không lơn hơn 20 tuổi, lấy con số trung binhlà 19 đi. Vậy là Hương được khen trẻ những 8 tuổi cơ đấy. Ganh tị quá!!! Đó là giấc mơ không bao giờ thành sự thật của Trang đấy, hihi!
    Mấy bài đó à, lăng quăng trên mạng, bấm 2 chữa Ấn Độ, thế là cứ copy va paste thôi, hihi!
    Hôm nay nhớ hắn thế! Tối qua tự nhiên dến 10h bên đó rồi mà hắn lò dọ mò ra net, thường hắn rất ít ra net sau khi đã về đến nhà... Vẫn vậy, khi có chuyện hắn lại tìm đến mình không phải để nhận sự giúp đỡ mà nhận sự đồng tình và khích lệ... Cảm thấy rất hạnh phúc vì hắn nhớ đến mình trong những giây phút như thế, không biết sau này khi hắn đã có 1 gia đình của riêng mình hắn có còn vậy không? Tham lam và ích kỷ quá! Lại buồn quá cả nhà ơi...!
  6. ngongoz

    ngongoz Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/03/2005
    Bài viết:
    198
    Đã được thích:
    0
    Trang à có vẻ như tất cả các cô gái trong topic của mấy đứa mình đều đa cảm hay sao ấy nhỉ.Trang đừng buồn nữa nhé vì dù sao Trang cũng là người rất quan trọng với hắn.Và hắn cũng thế với Trang đúng không.Thế thì Trang phải vui lên mới đúng chứ.Hắn của tớ thì đã quên tớ thực sự rồi.Không tin nhấn ,không điện thoại,không một thông tin gì.Cảm giác như tớ đã chẳng còn tồn tại trong thề giới của hắn nữa.
    Hai đứa tớ chẳng phải giận nhau nhưng trẻ con lắm,cả hai đứa .Thế nên mới có chuyện này.Nhưng nghĩ lại cũng thấy giận mình đã không trân trọng những gì hắn dành cho tớ.Như thế này cũng là đáng lắm thôi.
  7. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
              Nào các ấy ơi, sao tòan nói chuyện buồn thế






    Microsoft mở chiến dịch ?osăn đầu người? ở Ấn Độ - 13/12/2005 8h:14

    [​IMG]Chủ tịch Microsoft Bill Gates vừa quyết định tung ra một chiến dịch ?osăn đầu người? lớn nhất từ trước đến nay tại Ấn Độ. Chiến dịch ?osăn người? này sẽ cố gắng đưa tổng số nhân viên tài năng của họ tại Ấn vượt mức 5000 người. Gates đã đặt tên cho chiến dịch này là ?oCode 4 Bill?. Gates cũng công nhận rằng Ấn Độ là quốc gia có tiềm năng nhân lực công nghệ thông tin vào hàng nhất nhì thế giới.
    Nhận định về chiếc dịch săn nhân tài công nghệ thông tin này, Gates cho biết: ?Đây là chiến dịch tuyển mộ nhân tài mà chúng tôi chưa từng thực hiện ở bất kỳ nơi nào trước đây. Chiến dịch này nhắm vào tuyển mộ các sinh viên tài năng đang học năm cuối và vừa tốt nghiệp tại Ấn Độ. Những người giỏi nhất trong các ứng cử viên sẽ làm việc trong đội ngũ trợ lý kỹ thuật của chính tôi trong vòng một năm. Tôi sẽ tìm được đủ số người mình cần và tôi cảm thấy hết sức thú vị với chiến dịch này?. Mọi sinh viên công nghệ thông tin của Ấn Độ nếu cảm thấy mình có đủ khả năng đều được phép đăng ký tham dự cuộc thi tuyển mộ nhân tài cho Microsoft được tổ chức vào tháng 1-2006 tới đây. Các kỹ năng kiểm tra chủ yếu tập trung vào 2 môn là công nghệ máy tính và kỹ năng phân tích. Các chuyên gia kỹ thuật sừng sỏ của Microsoft sẽ trực tiếp làm giám khảo của cuộc săn đầu người này. Trong lần ghé thăm Ấn Độ gần đây nhất, Gates đã đi thăm nhiều nơi ở New Delhi và không tiếc lời khen ngợi Ấn Độ là quốc gia sản sinh ra rất nhiều tài năng phần mềm của thế giới. Gates nói: ?Hầu hết mọi ứng dụng cao cấp của Microsoft đều được hoàn thiện tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển của Microsoft tại Ấn Độ. Quốc gia này là đất nước có ưu thế số một trong việc tiến vào kỷ nguyên kỹ thuật số?. Trong năm tài chính 2004, nền công nghiệp phần mềm của Ấn Độ có tổng giá trị đạt đến 17 tỷ USD. Các chuyên gia công nghệ nhận định rằng mức lương bình quân của một chuyên gia máy tính có năng lực mới ra nghề tại Ấn Độ chỉ ở mức 40.000 rupee, tức khoảng 888USD/tháng, là ?oquá bèo? với một đại công ty giàu có như Microsoft. Nhưng đây là mức lương chỉ có trong giấc mơ của đại đa số dân chúng còn sống ở mức nghèo khổ của Ấn Độ. Microsoft hiện đang có 6 cơ sở đóng tại doanh nghiệp trong đó có một cơ sở chuyên về tiếp thị sản phẩm. Hiện Microsoft đang thuê mướn khoảng 4000 nhân viên Ấn Độ làm việc cho mình. Vào cuối tuần qua Microsoft đã công bố rằng sẽ tiếp tục đầu tư vào Ấn Độ với tổng số tiền khoảng 1,7 tỷ USD trong vòng 4 năm tới, và sẽ cố gắng thuê được khoảng 3.000 chuyên gia giỏi từ đây cho đến năm 2009. Gates cũng đã nhiều lần ca thán rằng các sinh viên ở Mỹ hiện nay đã trở nên lơ là với nền công nghệ thông tin của nước nhà và ngày càng trở nên tụt hậu so với sinh viên ở các nước châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc?

     Theo Tuổi Trẻ Online
  8. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    Có 104 người đang xem chủ đề này đấy hì hì. Để nhìn đồng hồ xem được bao nhiêu phút.

    Tháp Kutab Minar - Nền kiến trúc độc đáo của Ấn ĐộNguồn Di sản thế giớiNgày 15/12/2005, 09:57

    [​IMG]Tiếng Ấn Độ goi ?oKutab Minar? là đài kỷ niệm Hồi giáo ở Ấn Độ, còn gọi Tháp chiến thắng-chiến thắng của đạo Hồi trên đất nước của đạo Hindu trong thế kỷ 13, Kutab Minar nổi tiếng thế giới không chỉ vì ý nghĩa lịch sử, mức độ đồ sộ mà chủ yếu vì kiến trúc hài hoà, cần đối, trau chuốc nhưng giản dị. Batuta nhà bình luận nổi tiếng của thời trung cổ đã ca ngợi ?oKutab Minar? là một trong những kỳ quan của thế giới...Không thể tìm thấy cái thứ hai nào như vậy-trong thế giới Hồi giáo?Kutab Minar do một ông vua Hồi giáo tên là Kutab Ud Din Aibak xây dựng từ năm 1.200. Ông chỉ hoàn thành được tầng 1 của tháp (cao 28,93mét). Các triều đại sau đó tiếp tục xây dựng tu sửa hoàn chỉnh như ngày nay. Tháp hình trụ cao 72,55 mét đường kính đáy 14,4 mét và đường kính đỉnh là 2,7mét. Kiến trúc của Kutab Minar độc đáo, mang màu sắc của nhiều thời đại, kết hợp các đặc điểm kiến trúc đạo Hồi và đạo Hindu. Ba tầng dưới của tháp bên ngoài ốp bằng loại đá đỏ, các đường gấp nếp nổi bao quanh thân tháp tạo thành dáng đứng vững chắc mà thanh tao kiều diễm, hai tầng trên cũng được óp chủ yếu bằng đá hoa trắng, các dải đá đỏ. Sử sách ghi lại rằng năm 1368, sét đã đánh gục tầng 3 và tầng 4 (lúc đó chưa có tầng 5). Vua Firuz Shah Tughlug đã cho sử lại xây thêm thầng 5 và tạo mái hình vòm. Năm 1803, mái vòm bị sụp sau một trận động đất. Năm 1828 Kutab Minar được bổ sung đỉnh tháp canh mang sắc thái kiến trúc gô-tích không hoàn toàn hài hoà với toàn khối di tích này. Năm 1848 đỉnh tháp canh đã bị tháo dỡ và thay vào đó là hàng rào thép đứng bao quanh đỉnh. Đó là sự thay đổi cuối cùng của ngôi tháp cổ xây dựng từ thế kỷ 13 ở thủ đô Ấn Độ.Hệ thống thang máy trôn ốc bên trong tháp làm lối đi để leo lên đỉnh tháp, đi ra ở ban công ở các tầng ngắm nhìn thành phố. Trước đây chỉ có vua chúa mới được trèo lên Kutab Minar để quan sát đo thành vào lúc bình minh và hoàng hôn. Trong chuyến đi thăm đầu tiên Công hoà Ấn Độ năm 1988, Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị chính khách đầu tiên đứng trên tầng cao của tháp Kutab Minar lịch sử vẫy chào Ấn Độ mới. Từ ban công của tháp Kutab Minar có thể thả mắt theo dòng sông Yamuna. Nhánh lớn của dòng sông mẹ Ganga, có thể quan sát thành phố Delhi.Bên cạnh Kutab Minar hùng vĩ là khu đền thờ đạo Hồi Kuwat U1 Islam. Khu này được xây dựng từ năm 1193 và hoàn thành năm 1197. 26 ngôi đền thờ đạo Hindu Jain đã bị phá đi để lấy nguyên liệu xây lên khu nhà thờ đầu tiên của đạo Hồi này. Ngày nay một vài công trình đã bị mại một, nhưng toàn cảnh vẫn gợi lại nơi thánh đường lớn, đông đúc người theo đạo Hồi lui tới để cầu khẩn.Ở đây điểm nổi bật thu hút sự chú ý không những của du khách mà của các nhà khoa học là chiếc cột thép ở ngay chính giữa khu đền thờ có trên 500 năm tuổi đứng ?otrơ trơ? không bị mưa gió mài mòn. Có thể nói rằng đây là cả một bản anh hùng ca về tài nghệ luyện kim và thành tựu của nền khoa học cổ Ấn Độ. Trải qua thời gian nắng nóng, bảo táp, mưa gió suốt hơn năm thế kỷ mà cột thép vẫn bóng láng không bị han gỉ. Cột thép này hình tròn, cao 7,21mét, đường kính phía trên là 0,37mét, dưới là 0,416mét, nặng chừng 6 tấn. Về chất lượng thép, người ta cho rằng ngày nay khó có thể luyện được một khối kim loại tinh khiết như vậy. Chính vì đặc tính nổi bật như vậy mà Ấn Độ người ta nghĩ rằng người nào có vàng tay ôm hết chu vi cột thép, thì người đó hạnh phúc. Bất kỳ người khách nước ngoài cũng như người Ấn Độ nào đến đây đều cũng muốn được ?othử hạnh phúc? như vậy.Ở Ấn Độ. Sau kỳ quan Taj Mahal nổi tiếng, Kutab Minar là di tích lớn thứ hai, thu hút rất nhiều du khách trong nước và nớc ngoài.
     
  9. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    Ấn Độ, quốc gia đầy triển vọng của thế kỷ 21
    Nguyễn Minh
     
              Từ vài năm trở lại đây, Ấn Độ trở thành nơi hành hương của những nhà lãnh đạo quốc gia giàu có nhất và tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới. Từ tháng 3-2005 trở đi, người ta thấy bà Condolezza Rice, tân bộ trưởng ngoại giao Mỹ, đã chọn Ấn Độ làm quốc gia đầu tiên trong chuyến viếng thăm châu Á của mình. Tiếp theo sau là thủ tướng Ôn Gia Bảo của Trung Quốc, tổng thống Musharaf của Pakistan, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Koffi Anan, thủ tướng Koizumi của Nhật Bản... đua nhau đến thủ đô New Dehli thăm viếng và trao đổi với chính phủ Ấn Độ. Tất cả đều vì một viễn tượng vững chắc : Ấn Độ đang trở thành một cường quốc kinh tế mới tại châu Á và sẽ giữ một vai trò rất lớn trong việc duy trì hòa bình và ổn định trong vùng Đông Nam Á.
              Theo những số liệu thống kê đáng tin cậy, đến năm 2030 tổng thu nhập nội địa (GDP) của Ấn Độ sẽ ngang bằng Trung Quốc, đến năm 2035 sẽ vượt qua Nhật Bản và có thể đứng vào hạng thứ hai hay thứ ba trên thế giới. Nếu chỉ nhìn phiến diện bề ngoài, thành phố Bombay ngày nay là một "Manhattan mới" của Ấn Độ với những tòa nhà chọc trời lộng lẫy, đường sá rộng lớn với từng đoàn xe hơi sang trọng chạy quanh khắp thành phố với những cửa hàng to lớn đầy ắp hàng hóa và màu sắc hai bên đường.
              Lý do của sự thay da đổi thịt này là từ cuối thập niên 1980, các chính quyền Ấn Độ đã thay đổi chính sách quản trị đất nước bằng cách chấm dứt chế độ kinh tế chỉ huy để tư hữu hóa sản xuất và khuyến khích phát huy sáng kiến và ý kiến. Sau 15 năm áp dụng, tỷ lệ phát triển kinh tế của Ấn tăng trên 6%/năm và sẽ còn tăng cao hơn nữa.
              Đặc điểm của chính sách kinh tế mới này là: giảm thiểu vai trò của công nghiệp quốc doanh từ 17 ngành xuống còn 8 ngành ; giải tư thật nhanh những xí nghiệp quốc doanh có năng suất cao và có lời; khuyến khích đầu tư tư nhân vào các ngành sản xuất, trừ các ngành kỹ nghệ nguy hiểm có thể gây ô nhiễm; ban hành luật cấm độc quyền và cho phép tư bản di chuyển tự do ; tư bản nước ngoài có thể làm chủ 51% vốn đầu tư. Với chính sách mới này, kinh tế của Ấn Độ không những đã tăng trưởng trở lại mà đồng rúppi (rupees) còn được tôn trọng trên các thị trường chứng khoán quốc tế. Nền nông nghiệp lạc hậu cũng nhờ đó được phục hồi, nạn thiếu đói triền miên ở những vùng nghèo khó cũng chấm dứt. Ngành sinh vật học cũng đã góp phần đáng kể trong việc bảo tồn môi sinh và sinh thái trong nước và khu vực.
              Tuy vậy, Ấn Độ vẫn dành ưu tiên phát triển ngành công nghệ nội địa, dựa trên nền dân chủ đại nghị do toàn dân đầu phiếu chọn dân biểu và nghị sĩ từ nhiều đảng chính trị. Điều này khác với mô hình phát triển theo kiểu "công trường thế giới" của Trung Quốc. Nhưng từ khi chính sách kinh tế mới được áp dụng, hàng hóa của Ấn Độ cũng đã xuất hiện tại khắp nơi và chiếm lĩnh một vài thị trường quan trọng như tin học, hạch nhân nhẹ và dược phẩm. Tỷ lệ xuất khẩu phần mềm (software) của Ấn Độ trong năm 2004 đã lên đến 17,2 tỷ USD tăng 35% so với năm trước, công nghệ kỹ thuật cao cấp hạch nhân chiếm 20% tổng ngạch xuất khẩu.
              Tại sao người Ấn có khiếu về ngành tin học? Tại vì Ấn Độ biết áp dụng một chính sách giáo dục thích hợp với nhu cầu của thời đại. Nhờ nắm vững tiếng Anh (quốc ngữ chính), nhân tài Ấn Độ hấp thụ rất nhanh các ngành khoa học của phương Tây, nhờ đó đã thích ứng nhanh với những đòi hỏi mới của nhu cầu công nghệ tin học và điện tử. Hiện nay một số công ty tin học của Ấn dẫn đầu thế giới về phần mềm cũng như về dịch vụ khai thác. Khác với Nhật Bản, một nửa nhân tài tập trung vào các ngành dịch vụ như thương nghiệp, ngân hàng, gần phân nửa nhân tài tại Ấn tập trung vào toán học và tin học.
              Nhờ có sinh hoạt kinh tế tự do, tư bản Ấn đầu tư rất nhiều vào nghiên cứu khoa học, đặc biệt là ngành chế biến dược phẩm. Hiện nay, 8 công ty sản xuất dược phẩm quốc nội không những đã cung cấp đầy đủ thuốc men cho dân chúng trong nước mà còn xuất khẩu sản phẩm y dược sang những quốc gia khác tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-Tinh. Đặc điểm của các công ty dược phẩm Ấn là chờ đến lúc các bằng sáng chế y dược Âu Mỹ vừa hết hạn là tập trung vào sản xuất với giá rẻ hơn rồi bán ra thị trường. Sự bộc phát của công nghệ này đang đe dọa sự sống còn của các công ty dược phẩm lớn của phương Tây.          Như một phản ứng dây chuyền, nhờ có tỷ lệ phát triển cao, Ấn Độ có đủ tiền để đầu tư vào nghiên cứu khoa học trong mục đích kinh doanh. Các cố vấn kỹ thuật của Ấn hiện đang có mặt khắp nơi tại các quốc gia thuộc thế giới thứ ba để buôn bán và giúp đỡ các chính quyền địa phương.
              Một công nghệ đầy triển vọng khác là ngành chế tạo xe hơi, mà Nhật Bản đang rất quan tâm. Đầu năm 2005, công ty Mitsubishi đã mua xí nghiệp SRS Tools của Ấn để chiếm lĩnh thị trường trên một tỷ người này. Công ty sản xuất xe hơi Lotte của Nam Hàn cũng đã có mặt tại New Dehli. Tuy có hơi lỗi thời, ngành sản xuất đầu máy xe lửa của Ấn vẫn chiếm lĩnh thị trường các quốc gia chậm tiến.
              Tuy vậy, sinh hoạt kinh tế của Ấn vẫn còn nhiều khuyết điểm như cơ sở hạ tầng còn yếu kém, khả năng cung cấp điện lực chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước, tỷ lệ người biết đọc biết viết còn thấp (65%), sự phân biệt nam nữ và sự phân chia đẳng cấp vẫn còn tồn tại. Để vượt qua những khó khăn vật chất này, Nhật Bản là quốc gia viện trợ nhiều nhất cho Ấn Độ qua các chương trình viện trợ ODA, hơn một tỷ USD mỗi năm.
              Nói tóm lại, với một dân số trên một tỷ người với hơn gần một ngàn ngôn ngữ và phong tục tập quán khác nhau, Ấn Độ đã thành công trên đường tiến về tương lai. Nguyên do chính của những thành công này là dân chủ. Như một phép mầu, chỉ trong vòng 15 năm áp dụng dân chủ Ấn Độ đã trở thành một cường quốc kinh tế và đang được mời gọi nắm giữ những vai trò quốc tế quan trọng.
  10. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    Chuyện nhảm tí nào
     

    http://www3.24h.com.vn/upload/news/2005-11-09/911ANH***1.jpgTruyền hình Kailaras (Ấn Độ) phát phim *** thay vì tin tức
    Hàng triệu người xem truyền hình tại Kailaras, Ấn Độ đã bị sốc nặng khi kênh Indian channel DD-1 lại phát một bộ phim *** của Nga thay vì phát bản tin thời sự tiếng Anh buổi tối như thông lệ.


    Những người dân Kailaras cho rằng nguyên nhân gây ra sự việc là do lỗi của các nhân viên kỹ thuật đài tiếp âm. Họ đã sử dụng các thiết bị của đài truyền hình để xem các bộ phim *** qua vệ tinh từ Nga. Hàng trăm người dân Kailaras đã bất bình đến nỗi họ đổ xô ra đường biểu tình yêu cầu các nhân viên kỹ thuật phải bị sa thải.
    Tuy nhiên, đài truyền hình chưa đưa ra lời giải thích nào cho vụ việc này. Ông Man Singh Verma, giám đốc của đài cho biết: ?oTheo những thăm dò đầu tiên thì nguyên do có thể xuất phát từ việc lơ đễnh của các nhân viên kỹ thuật. Chúng tôi đang tiến hành điều tra và sẽ có những hình phạt thích đáng với những ai gây ra vụ việc này
     


    [​IMG]Có 25 ngón chân, tay ?" Tin được không?
    Chuyện thật như bịa xảy ra tại Ấn Độ. Trong khi người bình thường chỉ có tổng thể 20 ngón chân, tay thì cậu bé 10 tuổi Devender Harne lại có những 25.


    Devender Harne sinh sống tại Maharashtra khi sinh ra đã có cả thảy 25 ngón chân, tay, trong đó hai bàn tay và bàn chân trái mỗi bàn có 6 ngón và bàn chân phải có đến 7 ngón.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này