1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ai yêu Ấn Độ và người Ấn nào

Chủ đề trong 'Ấn Độ' bởi viethuong279, 26/05/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    Bác Hồ với Thủ tướng Ấn Độ Nehru
    Tại cuộc đối thoại với các đoàn viên thanh niên ngành ngoại giao chiều ngày 25-8 vừa qua tại Hà Nội, một bạn trẻ đề nghị Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên kể về những kỷ niệm khi ông làm phiên dịch cho Bác Hồ. Ông Nguyễn Dy Niên, năm nay 70 tuổi, 51 năm làm việc trong ngành ngoại giao, đã kể cho các đoàn viên thanh niên nghe câu chuyện còn ít người biết dưới đây.
    Năm 1958 Bác Hồ sang thăm Ấn Độ. Trước đó, tôi được cử sang Ấn Độ học tiếng Hindhi, chuẩn bị cho chuyến thăm này của Bác Hồ và vinh dự được làm phiên dịch cho Bác trong thời gian Người ở thăm Ấn Độ.
    Ấn tượng sâu sắc và vinh dự to lớn đối với tôi là lần đầu tiên được đọc bài diễn văn của Bác đã dịch sẵn sang tiếng Hindhi. Trong cuộc mít-tinh có hàng vạn người dự tại Red Fort (Thành Đỏ) ở thủ đô Delhi, các bạn Ấn Độ làm sẵn một cái ghế cho Bác Hồ ngồi trên bục danh dự. Chiếc ghế trông như một cái ngai vàng, rất lớn. Trong khi đó, Thủ tướng Ấn Độ ngày ấy là J. Nehru thì chỉ ngồi một chiếc ghế bình thường như mọi người khác. Khi Thủ tướng Nehru mời Bác Hồ ngồi vào chiếc ghế đó, Bác dứt khoát từ chối. Thấy vậy, Thủ tướng Nehru nói: Ngài là khách danh dự của chúng tôi, việc Ngài ngồi lên chiếc ghế này chính là niềm vinh dự của chúng tôi mà... Chứng kiến điều này, hàng vạn người dự mít tinh phía dưới quảng trường đứng cả lên xem. Hai vị lãnh tụ của hai nước cứ nhường nhau, cuối cùng chẳng ai ngồi lên chiếc ghế lớn ấy. Thủ tướng Nehru đành gọi người cho chuyển chiếc ghế đi, thay bằng một chiếc ghế khác giản dị hơn. Thấy vậy, hàng vạn người dân Ấn Độ dưới quảng trường rất cảm kích vỗ tay vang dội và hô rất to: "Hồ Chí Minh muôn năm!" Hồ Chí Minh muôn năm!". Chuyện này được người Ấn Độ sau đó kể lại rất nhiều, trở thành một huyền thoại của họ về Bác Hồ.
    Trong chuyến thăm này, trong một bữa tiệc do Thủ tướng Nehru chiêu đãi Bác Hồ có món thịt gà địa phương rất nổi tiếng. Người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà dùng năm ngón tay để bốc thức ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ cũng muốn dùng tay bốc thức ăn. Nhưng tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch sự. Khi món thịt gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có vẻ không quen dùng dao, dĩa. Bác Hồ rất tinh ý, Người nói với Thủ tướng Nehru: Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới ngon chứ còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói chuyện với người yêu lại phải qua ông phiên dịch. Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn tiệc cười ầm cả lên làm cho không khí bữa tiệc hôm đó rất vui vẻ và thân mật.
  2. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    ?oCon ma xó? người Việt ở Ấn Độ
    [​IMG]


    Quốc Anh trong một chuyến đi ở Zeh, bang Jammu & Kashmir
    Quốc Anh được nhiều lưu học sinh Việt Nam tại New Delhi biết đến như một ?ocon ma xó? ở Ấn Độ. Anh đi khắp nơi, biết nhiều chuyện và sẵn sàng tư vấn nếu bạn muốn tới một chỗ nào đó trên đất nước bao la này. ?oĐi để hiểu thêm về cuộc sống...? - chàng trai vừa tốt nghiệp thạc sĩ loại giỏi về lịch sử Ấn Độ (Đại học Nehru) tâm sự như thế.
    Học từ cộng đồng
    Nhiều người bạn Ấn Độ đã tròn xoe mắt khi nghe chúng tôi kể rằng có một chàng sinh viên Việt Nam đã đi khắp 20/27 bang của đất nước này, mà có nơi thậm chí chính họ cũng chưa bao giờ đặt chân đến. ?oNhững nơi ấy rất xa xôi và nguy hiểm? - họ lắc đầu.
    Có vùng đất nóng bỏng như bang Jammu & Kashmir (nổi tiếng thế giới vì những xung đột kéo dài giữa Ấn Độ và Pakistan) mà Quốc Anh cũng đã tới đó ba lần.
    Mùa hè năm 2002, Quốc Anh cùng nhóm 10 sinh viên tình nguyện Ấn Độ về bang Gujarat giữa lúc một cuộc xung đột đẫm máu đang diễn ra nơi đây.
    Nhiều người chết, nhiều trường học bị đốt cháy, và Quốc Anh cùng các bạn đi vào những ngôi trường tan hoang để nhặt nhạnh những tờ hồ sơ còn sót lại, rồi phỏng vấn học sinh để làm lại học bạ cho các em, hỏi chuyện người dân để làm lại giấy tờ đã mất cho họ...
    Nhóm sinh viên tình nguyện ở tại nhà một cô giáo người địa phương trong hai tuần, khi mà cảnh máu đổ đầu rơi diễn ra ngay trên đường phố: ?oSợ lắm, cả bọn phải học những câu khẩu hiệu tiếng Hindi để khi cần thiết thì đọc như tấm bùa hộ mạng. Sợ, nhưng đã đến thì cố ở lại để giúp đỡ người dân bằng những việc mình có thể làm được? - chàng SV 24 tuổi nhớ lại.
    Những chuyến đi như thế còn là cách tốt nhất để Quốc Anh thu lượm kiến thức thực tế cho việc học và làm đề tài thạc sĩ: ?oHệ thống đẳng cấp dưới sự thống trị của Anh?.
    Việc phân chia đẳng cấp trong xã hội, như một truyền thống lâu đời, có tác động rất lớn đến sự phát triển của Ấn Độ, trong khi đây lại là một quốc gia rất rộng lớn với một nền văn hóa và hệ thống xã hội cực kỳ phong phú và đa dạng.
    Chính vì vậy, cách tốt nhất để mở rộng kiến thức là bước vào cộng đồng để tìm hiểu thực tế.
    Tư vấn du lịch cho... người Ấn Độ!
    Học giỏi, nên khi khoa Đông phương học của Trường ĐH KHXH & NV Hà Nội có ý định mở chuyên ngành nghiên cứu về Ấn Độ, Quốc Anh giành được học bổng để sang học tại ĐH Tổng hợp Delhi.
    Tốt nghiệp đại học, anh lại giành được học bổng của Nhà nước Ấn Độ để làm luận án thạc sĩ ở ĐH Nehru.
    Từng làm lớp trưởng để ?olãnh đạo? một tập thể toàn sinh viên Ấn Độ nói tiếng Anh ?onhư cháo?, chàng trai Việt Nam có gương mặt trắng trẻo thư sinh hòa nhập rất nhanh và dễ dàng nổi bật.
    Một buổi tối, chúng tôi đã chứng kiến điện thoại Quốc Anh reo liên tục, chỉ để tham vấn bạn bè người Ấn Độ cách thức đi du lịch kiểu balô ở... Ấn Độ.
    Quốc Anh từng cùng một người bạn Mỹ rong ruổi suốt hai tháng rưỡi từ Delhi đi bang Tamil Nadu dọc biển Ả Rập bằng chiếc môtô 500cm3 mua hồi năm cuối ĐH.
    Chuyến đi chỉ kết thúc khi tiền đã hết mà anh chàng người Mỹ có vợ sắp sinh em bé. Nghe Quốc Anh kể về những thung lũng mây bay, những thành phố nằm trong hẻm núi, những câu chuyện của người dân địa phương, những con đường băng giá mùa tuyết rơi... mới hiểu anh đã đi và thấm như thế nào về vùng đất Nam Á này.
    Một kinh nghiệm nhớ đời: có lần Quốc Anh cùng một thầy giáo đi vào vùng đầm lầy ở Kalash để quan sát các loài hoa. Sau bốn ngày, cả hai chợt nhận ra là không còn đủ thức ăn để quay lại.
    Chỉ còn cách là trèo qua đỉnh núi để đến vùng Shimla, bang Himachal Pradesh. 18 giờ đi bộ liên tục chỉ với thức ăn là... một gói mì tôm.
    Có tới ba lần anh chàng tưởng đã chết vì bị ngã trên rặng núi đầy băng tuyết, đồ đạc rơi mất hết... Nhưng thật may là cả hai thầy trò đã vượt qua sự cố.
    Nhưng... tiền đâu để đi nhiều vậy? Quốc Anh bảo phải tiết kiệm. Dành dụm từ khoản học bổng ít ỏi 3.000 rupee/tháng (chừng 1 triệu VND), viết báo, đi làm thêm cùng các nhóm sinh viên... Phải biết đường đi nước bước, biết tiếng Hindi đủ để hòa đồng với người dân địa phương và tìm được những dịch vụ rẻ nhất, và quan trọng là ?ocái gì không biết thì đừng có nói?...
    Trong khi nhiều bạn trẻ ngại ngùng không dám đi đâu xa thì Quốc Anh coi đi du học Ấn Độ như một cơ hội tốt để tìm hiểu về một đất nước, một nền văn minh nổi tiếng.
    Anh đã trở thành thạc sĩ mùa hè này nhưng sẽ xin visa ở lại đến tháng 8-2004 để đi thêm, tìm hiểu thêm. Quốc Anh mơ ước trở thành giáo viên dạy ngành Ấn Độ học tại VN.

  3. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Mấy bài Hương tìm hay thế.
    Đọc bài về anh Tuấn Anh thấy ngưỡng mộ quá, híc. Mình cũng được đi nhiều như thế thì hay biết mấy nhỉ...
  4. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Tiếp tục tin thần của Hương nhé...
    Bhuvanesvar - thành phố thánh của Ấn Độ giáo

    [​IMG]Được xây dựng trên vùng đầm lầy ven biển Orissa, thành phố thánh Bhuvanesvar được nhắc đến như là một trong những kỳ quan của Ấn Độ.
    Thành phố của những ngôi đền này được so sánh như một ?otoà thánh" của Ấn Độ bởi sự hùng vĩ của những ngôi đền tượng trưng cho núi vũ trụ Mêru, dù tầm quan trọng của nó về mặt tôn giáo không bằng các thánh địa khác của Ấn Độ giáo trên đất nước này.
    Những di chỉ khảo cổ cho thấy thánh địa này đại diện cho toàn bộ nền văn hóa và nghệ thuật Orissan, một nền nghệ thuật có chiều dài lịch sử từ thế kỷ III trước công nguyên, đến thế kỷ XVI với bốn giai đoạn phát triển.
    Thời kỳ xây dựng rầm rộ nhất vào thế kỷ VII với hàng ngàn ngôi đền được dựng lên. Tuy nhiên, những ngôi đền đẹp nhất của ngôi đền này còn nguyên vẹn quy mô và dạng thức kiến trúc hiện nay chỉ còn khoảng 30 công trình. Hầu hết những công trình này được xây dựng xung quanh hồ Bindu Sagar, nơi mà theo truyền thuyết của Ấn Độ giáo, hội tụ và chứa đựng các dòng nước thánh ở Ấn Độ.
    Các ngôi đền này dù khác nhau về kiểu dáng nhưng kiến trúc của chúng như thể một hòn núi nhô lên từ lòng đất với hai dạng chính: Rekha - hình nón dạng tổ ong với chóp hình nón và Bhadra giống như dạng kim tự tháp được đắp cao.
    Phía trước nhiều ngôi đền đựơc đánh dấu bằng một cổng dẫn bằng đá trang trí rất hoa lệ và chỗ để thắp đuốc trong các buổi lễ tế. Cấu trúc của các đền thờ này được xây bằng những vòm khung với tay đỡ, những tảng đá lớn được xếp như những kim tự tháp lõm chồng lên nhau.
    Một ngôi đền là một tuyệt tác của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trang trí. Trong khi những trang trí bên trong đền thường đơn giản thì trang trí bên ngoài rất cầu kỳ với những hình chạm khắc rườm rà thể hiện và phản ánh tất cả các khía cạnh của tôn giáo cũng như đời sống, tạo nên một không khí vừa linh thiêng vừa thế tục.
    Nếu như đền Parashurameshwar, ngôi đền cổ nhất ở Bhuvanesvar, được tạo hình với mái vòm nổi tiếng với các cửa sổ mắt cấp bằng đá và những chú lùn nhảy múa thì cách đó vài trăm mét, ngôi đền Muktesvak được gọi là ?ogiấc mơ trên đá sa thạch? với bề mặt được tạo hình bởi hình ảnh các vị thần, các đôi nam nữ khoả thân.
    Hay đó là đền Kedaresvar đắp nổi hình tượng thần khỉ Hanuman và nữ thần Dugar oai nghi đứng trên lưng voi... Tuy nhiên ngôi đền nổi tiếng nhất là Lingaraja được xây khoảng năm 1000 với ngọn tháp chính cao hơn 54m. Phần nền của ngôi đền này được xây phức tạp hơn những ngôi đền khác với một nhóm hành lang đối xứng để tiến hành các nghi lễ tôn giáo và lễ hội.
    Với những gì còn lại sau những xâm thực của thiên nhiên, bằng sự huy hoàng và tráng lệ vẫn đang hiện diện và sống động như cuộc sống hiện tại, Bhuvanesvar được xem là niềm tự hào của kiến trúc Ấn Độ giáo. Và như đại thi hào Tagor đã viết, Bhuvanesvar là ?onơi ở của Thượng đế được bao phủ bởi những cái thiện và cái ác, cái vĩ đại cũng như cái tầm thường và những hoạt động của con người... Cuộc sống này là đền thánh đời đời của ngài?.
  5. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Hoàng Đế Asoka Giã Từ Chinh Chiến Với Nỗi Thống Khổ Của Người Thắng Trận
    Trần Hương Lan dịch
    -ooOoo-
    Những tàn tích vùng Dhauligiri, một làng nhỏ trong bang Orissa, thường khơi dậy ký ức về một biến cố lịch sử vĩ đại nằm cách thủ phủ Bhubaneswar của tiểu bang Đông Ấn này chừng 10 km, làng Dhaulirigi vẫn còn giữ được gò đất và con lạch nhỏ dưới chân gò. Đối với một du khách chiêm bái hay một học giả chân chính, cả hai vật này đều là bảng chỉ đường về lịch sử và truyền thống văn hóa Ấn Độ cổ đại. Bên dưới đống đá lởm chởm và con lạch kia là cả câu chuyện thương tâm về việc cảm hóa một anh hùng viễn chinh của Ấn Độ thành một sứ giả nhiệt tình vì hòa bình và nhân ái trên khắp thế giới (A-dục vương).
    Sự kiện này xảy ra trong cuộc đời của vị đại đế cổ Ấn Độ Asoka (A-dục vương 273 - 236 trước công nguyên) tiếp theo sau trận chiến Kalinga lẫy lừng, có lẽ đó là chiến trận bạo tàn nhất từng diễn ra trên đất Ấn. Kể từ năm 231 trước CN, trận chiến Kalinga đã có khoảng 100.000 người bị giết, hàng trăm ngàn người thương vong và 150.000 bị bắt làm tù binh. Ngày nay, vùng Dhauligiri luôn nhắc nhở cho con người thấy sự vô nghĩa của bạo lực và khiến cho họ phải lắng lòng suy nghĩ thật sâu sắc.
    Đường đi đến Dhauligiri rất dễ dàng, phi cảng gần nhất là Bhubaneswar, nối với Delhi, Calcutta, Bombay, Hyderabad và Bangalore. Những chuyến tàu siêu tốc cũng có thể đưa bạn đến Bhubaneswar từ nhiều đô thị lớn khắp Ấn Độ. Mọi tiện nghi đều sẵn có trong các khách sạn do Công ty phát triển Du lịch Orissa quản lý hoặc các nhà trọ tư nhân. Xe buýt và taxi, sẵn sàng phục vụ ngay tại Bhubaneswar đi đến Dhauligiri và nhiều thắng cảnh thu hút khách du lịch trong vùng quanh đó rất dễ ra vào.
    Trong khi theo đuổi chủ nghĩa bành trướng một cách bạo tàn, hoàng đế Asoka đã mở rộng vương quốc khắp mọi phía. Thực ra ngài đã thừa hưởng một vương quốc khá lớn do vị Tiên vương để lại, trải dài từ Persia (Iran ngày nay) đến Nam Ấn. Ngài còn bành trướng thêm bằng cách sáp nhập lãnh thổ Kalinga. Các sử gia cho rằng vương quốc của ngài là đế quốc vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ - Văn hào H. G. Wells còn miêu tả ngài là "Đệ nhất Đại đế của xứ sở này".
    Song Kalinga là trận chiến thắng cuối cùng của Đại đế Asoka. Cuối cùng, chính là vì những nỗi khổ đau của kẻ chiến bại và lòng hối hận của người chiến thắng tràn ngập trong lòng Đại đế đến mức độ ngài từ giã chiến chinh mãi mãi, vì hoàng đế ăn năn đã chấp nhận đạo Phật thành một tín ngưỡng được tôn trọng suốt đời mình và đem hết những năm tháng còn lại ra sức thuyết giảng giáo lý phổ biến đạo từ bi khắp mọi tầng lớp quần chúng không chỉ trong quốc độ ngài mà còn vượt cả biên thùy Ấn Độ mãi cho đến bao đời sau!
    Sừng sững giữa di tích ở Dhauligiri là một thạch tượng oai nghi, đẽo bằng đá tàng, dễ thu hút khách chiêm bái. Thạch tượng dáng cao cả, đơn độc như là nhân chứng câm lặng và bất lực trước cuộc chiến kinh hoàng. Người ta cho rằng con suối nhỏ kia tên là Daya (Từ tâm) cũng đã nhuộm thắm máu đào của cuộc tàn sát tập thể thời ấy. Đứng bên bờ suối, bạn có cảm tưởng như con suối kia chảy lờ đờ vì nó vẫn còn mỏi mòn kiệt quệ với nỗi đau do cuộc chiến Kalinga gây nên. Tàn tích Dhauligiri vẫn còn đó, suốt đời hậu chiến cho đến bao thế kỷ hậu lai.
    Đặc điểm phi thường nhất trong biến cố trọng đại này là Đại đế Asoka đã không đổi đời vì bất cứ một động lực chính trị nào thúc đẩy từ trong nước cũng như ngoài nước, mà đơn thuần vì lòng từ bi đột nhiên sinh khởi đưa đến sự chuyển tâm toàn diện, một sự thay đổi trong tư duy lẫn hành động. Ngài vẫn là vị Đế vương tối thượng đầy đủ mọi uy quyền. Ngài được quần thần, chư hầu khắp nơi tôn trọng và kiêng oai. Song nỗi thống khổ do cuộc chiến Kalinga gây ra quá nặng nề đến độ ngài không thể nào chịu đựng được nữa.
    Đại đế Asoka đầy ăn năn liền đi tìm gặp vị danh Tăng thời ấy là Tỳ kheo Upagupta. Ngài phủ phục trước vị Tỳ kheo và thỉnh cầu vị Pháp sư đem lại cho ngài sự bình an trong tâm trí. Do đó ngài được đưa dần vào đạo Phật và đạo Phật đã dần dần cảm hóa ngài, thu hút ngài mãnh liệt. Trong mọi nỗ lực hành trì giáo lý Bất hại (Ahinisa) và Từ tâm (metta) là nền tảng của đạo Phật, ngài truyền nhiều phái đoàn Phật giáo đi đến tận những vùng đất xa xôi vượt biên giới Ấn Độ để truyền đạo của Đức Thế Tôn.
    Ngài lại ban các sắc dụ giải thích mọi công đức thiện sư này cho toàn dân thông hiểu và tuân hành. Các sử gia xem Đại đế Asoka là vị quốc vương Ấn đầu tiên ban hành các sắc dụ để truyền bá lý tưởng cao cả của ngài.
    Sử gia Ấn Độ lỗi lạc, tiến sĩ Radha K. Moorkerji, chia các sắc dụ này thành ba loại. Loại thứ nhất là "Sắc dụ Kalinga"; bao gồm mười bốn sắc dụ trong đó có cả các sắc dụ liên hệ vùng Dhauligiri này. Sắc dụ XIII khắc trên trụ đá diễn tả nỗi khổ đau sâu sắc của vua Asoka vì đã gây nên sự việc, mà theo lời ngài, là cuộc bạo hành đối với nhiều người vô tội đầy lòng mộ đạo trong suốt cuộc chiến Kalinga này. Vì thế, ngài cầu mong mọi người hưởng được niềm hạnh phúc của nếp sống bất hại, từ điều thân, bình đẳng và thân ái. Quan niệm "chinh phục bằng vũ khí" trước kia đã được thay thế bằng lý tưởng chiến thắng bằng Đạo pháp. Và đạo ngài theo đuổi không phải là đạo cuồng tín, mà thấm nhuần tính nhân đạo giải thoát.
    Đối với Đại đế Asoka, an lạc hạnh phúc của toàn dân là điều tối quan trọng. Ngài tuyên bố : "Tất cả thần dân đều là con ruột của Trẫm và ví như Trẫm ước mong các con Trẫm được hưởng mọi thứ an lạc hạnh phúc trong đời này lẫn đời sau, Trẫm cũng ước mong mọi thần dân được như nguyện".
    Bằng các thiết lập một mối quan hệ đầy tình người giữa nhà vua cai trị và thần dân bị trị, ngài cho phép mọi triều thần và cận vệ trình tấu ngài mọi việc từ quốc sự đến dân tình vào bất cứ giờ phút nào, ngay cả khi ngài ở trong các hậu cung của các vương phi.
    Là vị vua sáng lập ra một quốc gia hưng thịnh ở Ấn Độ, ngài nhấn mạnh đức tính vị tha và thông cảm giữa các tôn giáo qua các sắc dụ của ngài, chính ngài vẫn phán bảo quần thần "Nếu người nào chỉ ca ngợi giáo pháp của mình và chê bai các giáo phái khác thì chính người ấy đã làm hại giáo phái mình một cách nghiêm trọng".
    Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật. Ngài tuyên bố "Không sinh vật nào được giết hại hay đem ra tế lễ trong quốc độ Trẫm".
    Quả thật, vua Asoka đã cống hiến hầu hết cuộc đời mình - khoảng hai thập niên - sau trận chiến Kalinga để thực hiện các phận của một Phật tử thuần thành. Một số sử gia có thể không tán đồng việc này, song một số khác cho rằng công cuộc ngài theo đuổi trong thời hậu chiến này còn có giá trị đối với nhân loại hơn cả thành tích chiến thắng của nhiều người khác.
    Trên đỉnh đồi của quần thể vùng Dhauligiri ngày nay có dựng lên một Phật đài rộng rãi được thiết kế rất mỹ thuật. Nó thu hút sự chú ý của mọi người từ xa như một chứng tích thể hiện công cuộc mưu tìm hòa bình của Đại đế Asoka qua đạo Phật. Các Phật tử khắp nơi trên thế giới đã đến đây để chiêm bái vùng Thánh địa cao cả này.
    Song ý nghĩa trọng đại hơn đối với đất nước Ấn Độ ngày nay là sự việc vua Asoka đã đặt nền tảng vững chắc cho một cơ chế dân chủ yêu chuộng hòa bình cao cả. Trên thực tế quốc huy nước Ấn Độ độc lập ngày nay là khuôn mẫu lấy từ Thạch trụ Asoka có hình bốn con sư tử lớn trên đỉnh cột hình tròn được dựng lên khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Dưới quốc huy là phương châm: Chỉ có chân lý chiến thắng (Satyameva Jyate). Cũng vậy, hình bánh xe với 24 căm xe mà xanh dương trên nền quốc kỳ màu trắng, phát xuất từ Pháp Luân (Dharma Cakka) trên Thạch trụ Asoka. Bánh xe nằm nổi bật trên hình hoa sen nở trên đỉnh trụ.
    Quả thật các tàn tích trận chiến Kalinga, các Thạch trụ của vua Asoka và quần thể Phật đài ở Dhauligiri tượng trưng ba giai đoạn trong cuộc đời ngài: giai đoạn đầu tiên giai đoạn ngài trưởng thành qua đạo Phật và sau cùng là những ước mơ về tương lai cho chính ngài cùng hậu thế. Chính phần cuối cùng này đã đem lại lợi lạc cho quốc dân ngài và toàn thể nhân loại mãi mãi về sau./.

    GOPÁL ***NA (Realist Budhhist, 1993)

  6. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Trang tìm thấy bài viết về người Chămpa ở Việt Nam, có thể sẽ giải thích rõ hơn về câu hỏi của Trang và Hương hôm trước...
    Chăm là một trong 54 nhóm chủng tộc bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Dân số người Chăm hiện nay khoảng 100.000 người, trong đó hơn 2/3 định cư tại Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết và Bình Tuy ; số còn lại sinh sống tại Châu Đốc, Tây Ninh và Sài Gòn.
    Chăm là tên một nhóm dân cư, trước kia là thần dân vương quốc Chiêm Thành (Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đã có mặt từ lâu đời tại miền Trung trước khi người Kinh đến đây lập nghiệp.
    Nền văn hóa cổ Champa
    Sau khi đã thống lãnh toàn bộ các khu vực có dân cư sinh sống trên vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 8, các nhóm người hải đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền tảng vật chất để trị vì lâu dài : xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định canh và tổ chức xã hội theo kiểu lãnh chúa. Vì trình độ văn hóa không cao nhưng giỏi chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu giữ một phần của nền văn minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú, mặt khác vẫn duy trì một số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của mình. Qua những di tích và văn hóa còn lại, người ta nhận thấy tất cả đều có sự pha trộn giữa yếu tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.
    Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ truyền bá văn minh, văn hóa, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và canh tác nông nghiệp của họ cho giới vương quyền và các lãnh chúa địa phương mà thôi, quần chúng dân gian không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có nhiều lý do, thứ nhất là quần chúng dân gian không có trình độ văn hóa cao, thứ hai là họ không phải là thành phần có quyền quyết định, thứ ba là sự tuân thủ các điều luật của đạo Bà La Môn, đẳng cấp này không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ Bà La Môn dần dần được các lãnh chúa trọng vọng và giữ những vai trò cao trong triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu bền.
    Luật Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism) phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức giới đạo sĩ (phần lớn là người Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần lớn là người Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma nên nắm quyền chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới thương gia và phú nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và xây dựng. Thứ tư là Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân (đa số là các sắc dân miền núi và tù binh), được sinh từ hai bàn chân của Brahma chỉ để bị sai khiến và làm nô dịch.
    Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và Phật phái Đại Thừa, không thấy có sự phân chia đẳng cấp xã hội trong những bia ký tìm được trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên lãnh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ còn thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi (các thầy Char, Po Adhya, Po Bac), nhưng đã biến dạng rất nhiều so với nguyên thủy.
    Người Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi là Chăm Jăt, tức người Chăm chính thống. Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo chính trong giai đoạn đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi là tôn giáo chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ mà thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban đầu phát triển mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ thứ 4, dưới triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người sáng lập ra triều đại Gangaraja (sông Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai trò độc tôn trong các triều chính cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường vai trò lại cho đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada). Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện và chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.
    Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập cùng lúc với đạo Bà La Môn nhưng không phát triển mạnh vì không thừa nhận tính cực đoan của giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ phát triển mạnh trong giới dân gian. Phật giáo tại Champa có hai phái : phái Arya Sammitinikaya (Tiểu Thừa) và phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm trong giai đoạn đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không có dấu vết gì về Phật giáo Đại Thừa ; ngược lại tại miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung Hoa mang vào phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong giới dân gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu Chân, Nhật Nam), sau đó thì mất hẳn.
    Ngôn ngữ của người Chăm cũng rất khó xác định. Nói người Chăm có một ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản địa lúc ban đầu có lẽ đã trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai, kế là thổ ngữ Nam Đảo. Về sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi lập nghiệp góp phần pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi những đợt di dân từ ngoài biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương Bắc (Văn Lang, Trung Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập) liên tiếp gia nhập vào vùng đất này, ngôn ngữ của người Chămpa đã biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc dân miền núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và chi phối đến lối phát âm chính của người Chăm.
    Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa những bậc vương tôn có thể đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với các quan lại nhà Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là lãnh thổ thuộc nhà Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng lập vương quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang Giao Chỉ triều cống, các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đã vào Lâm Ấp truyền giáo và giao thương trước thế kỷ thứ 2 và đã phổ biến chữ viết. Những địa danh và tên các vương triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là tên một địa danh tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương quốc Champa cổ từ thế kỷ 2. Những bia ký tìm được đều được khắc bằng chữ sanskrit, tức chữ Phạn cổ.
    Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi. Người Chăm pha trộn và biến cải chữ Phạn cổ thành tiếng "Chăm mới", nhất là từ sau thế kỷ 15 khi vương quốc miền Bắc bị tan rã, dân chúng Nam Chiêm Thành chỉ sử dụng chữ "Chăm mới" và còn áp dụng cho đến ngày nay. Chữ "Chăm mới" có nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc hải đảo Đông Nam Á, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.
    Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7, mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ phía đông nam Philippines. Người "Java" (cách gọi chung những nhóm dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc thánh chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung Đông từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo theo đạo Hồi là tính (thiện) tuyệt đối của nó : không tôn thờ hình tượng và xây dựng đền đài như đạo Bà La Môn. Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đã theo đạo rất đông vì không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn giáo nữa. Khi các "hải tặc Java" (cách gọi những ngư phủ không hành nghề đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên miền Trung, họ đã mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh và văn hóa Hồi giáo đến với các nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những hiện tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển không có trình độ văn hóa cao, không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.
    Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đã đến buôn bán với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7 và 9, nhưng không được đón tiếp nồng hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo cho dân chúng địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như người Ấn Độ vì sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được truyền bá vào vương quốc Chiêm Thành qua trung gian các nhà ngoại giao và thương nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi tại Chiêm Thành có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.
    Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào Chiêm Thành là thế kỷ 10. Dưới thời vua Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận cho một số gia đình hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali (trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người này đã nhân dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi cho các gia đình hoàng gia Chiêm Thành.
    Trong các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo lý, lần này cho quần chúng. Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo Java, giáo lý đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Chiêm Thành, thật ra họ cũng không muốn bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để xây dựng những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều người Chăm đã được thương nhân và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo Hồi được đông đảo người theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương quốc Chiêm Thành, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15. Chữ Ả Rập được du nhập vào vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi, nhưng không lấn át được chữ Phạn.

  7. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Vị vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah, Po Âu Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới về nước trị vì. Dưới triều vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất mạnh, nhiều đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây dựng tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần theo thời gian, theo phong tục và lối sống của người địa phương, mất dần tính chính thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo Bani (Hồi giáo biến cải), người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm Bani để phân biệt với người Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5 còn lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam (2 ở Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so với người theo đạo Bani).
    Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe dọa, một mảng lớn giáo dân theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp và Java sinh sống. Khi định cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mã Lai đồng hóa, cộng đồng Chăm và Mã Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam. Tại Chân Lạp sau một thời gian xung đột chính trị và tôn giáo với người Khmer (theo đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số người Chăm đã chạy về Châu Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ, trí thức, nông dân và thương nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran viết bằng chữ ẢRập. Được những thương nhân ẢRập di cư truyền cho cách thức buôn bán, người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn bán.
    Tại miền Trung, các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani thay mặt giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo vào mùa chay (ramadan) mà thôi, không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày hay ăn chay trường. Ngược lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng theo luật của Hồi giáo chính thống : tín đồ đều hướng về La Mecque 5 lần trong ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn uống và rất khắt khe trong việc lập gia đình.
    Được hairbraid sửa chữa / chuyển vào 12:22 ngày 21/10/2005
  8. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    đọc bài trang hay quá, hương tìm nhiều, nhưng chưa biết người chămpa xuất xứ như thế nào. Thấy các cô gái Chăm rất xinh, dịu dàng,... nhạc Chăm rất hay, tình tứ
    Hôm hương vào site phrasebase.com, thấy tiếng việt xếp vào họ Nam á, Nam đảo gì đấy, cùng với Mon-Khmer language, làm tớ hơi ngạc nhiên luôn.
    Trang ơi nhớ kiếm nhiều bài hay, post lên mọi người cùng đọc nha..
    À quên, tớ mới quen một anh bạn ấn độ, có TY là người Việt, anh này trong box kỹ thuật quân sự nước ngòai, id là, chacko. Ai có tài ăn nói, gửi pm cho anh chacko, bảo anh í tham gia với bọn mình cho vui, hi hi. Tớ ăn nói bộp chộp lắm, mất công, anh í hiểu lầm, hi hi. Anh í quý người việt lắm đó, có thêm anh í trong topic bọn mình, sẽ vui lắm, nhỉ.
  9. hairbraid

    hairbraid Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/06/2005
    Bài viết:
    401
    Đã được thích:
    0
    Hương canh nhà từ chiều đến giờ à?
    Trang cũng muốn rủ rê cái anh Ấn mà Hương nói, nhưng nghĩ a ra nên nói sao đây. Mà anh đó có đọc hiểu được tiếng Việt không Hương?
    Mới phát hiện có ai đó vote cho mình. Hương vote hả?
    Được hairbraid sửa chữa / chuyển vào 22:09 ngày 21/10/2005
  10. viethuong279

    viethuong279 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    3.223
    Đã được thích:
    4
    anh ấy đó hả, không hiểu tiếng việt đâu, mỗi câu xin chào thì ghi thành sing chaw??? nghe như tiếng tàu ấy. Nhưng mà, sởi lởi, nhiệt tình, nhưng mà (lại nhưng mà) chuyện mời mọc anh í, hương nhờ hairbraid nha
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này