1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ai yêu Hàn Mặc Tử không?

Chủ đề trong 'Văn học' bởi angeloflife, 30/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội: Mối tình đối với nàng Thương Thương còn khiến Hàn Mạc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần Tiên Hội viết chưa xong và không có gì. Duyên Kỳ Ngộ hay hơn nhiều. Đây là một giấc mơ tình ái, ngắn ngủi nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt diệu. Thi nhân dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu chân người. Ở đó tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều biến thành những lời thơ tình tứ. Ở đó Hàn Mạc Tử sẽ gặp nàng Thương Thương mà người không mong được gặp ở kiếp này. Nàng sẽ nói với người những lời nồng nàn âu yếm khiến chim nước đều say sưa. Nhưng rồi người sẽ cùng tiếng tiêu cùng đi như vụt nhớ đến cái nghiệp nặng nề đương chờ người nơi trần thế. Và giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn rã tiếng suối ca.
    Trong thi phẩm Hàn Mạc Tử có lẽ tập thơ này là trong trẻo hơn cả. Còn từ Thơ Đường Luật với những câu:
    Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối;
    Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.
    cho đến Gái Quê, Thơ Điên, Xuân Như Ý và các tập khác, lời thơ thường vẩn đục.
    * * *
    Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mạc Tử. Không có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã...
    Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn.
    Hoài Thanh - Hoài Chân
    ________________________________________________
    * Trích Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân.
    Tài Liệu
    + Thơ Hàn Mặc Tử hay Những Bài Tình Ca Bi Thiết của Huy Phong và Yến Anh.
    + Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại - Quyển I của Trần Tuấn Kiệt.
    + Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân.

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Thấy Được Những Huyền Bí Bên Kia Cõi Chết Qua Hiện Tượng Hàn Mặc Tử

    Hàn Mặc Tử

    Dũng Lạc Cao Tường
    Cả ngàn trường hợp những người đã được các bác sĩ chứng nhận là đã chết thực sự rồi vì một lí do huyền bí nào đó bổng dưng sống lại, đã được bác sĩ Raymond Moody thu góp trong cuốn "Đời Sau" (Life After Life) xuất hiện năm 1975. Tôi đã tìm đọc trước hết vì tò mò muốn biết những điều bí ẩn về hiện tượng này. Nhưng trong lòng thì vẫn hồ nghi, không biết những kết luận của bác sĩ Moody có thực không, hay cũng chỉ do phản ứng thuốc và cơ thể lúc hấp hối, vì óc cũng như các tế bào đang chết mà nảy sinh ảo giác và những hình ảnh như kiểu "nảy đom đóm mắt" vậy.
    Nhưng rồi cái tò mò này dẫn tôi đi xa hơn. Về những thay đổi kì lạ và bất ngờ nơi những người như thế, mà cụ thể là Hàn Mặc Tử.
    Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thiên tài và thần bí. Thơ của ông chất chứa những ý tưởng và hình ảnh lạ lùng vượt qua ngôn ngữ loài người. Bí ẩn gì đàng sau hiện tượng này? Những vần thơ tuyệt tác của ông do tài năng riêng hay do một nguồn huyền bí nào khác? Đời sống của ông đã tữ những vật vã cô đơn cùng độ đến những cảm nghiệm hút hồn đầy hoan lạc. Điều gì lạ vậy?
    I. ĐƯỢC ÁNH SÁNG BIẾN ĐỔI
    (Transformed by the Light)
    Đó là tựa đề cuốn sách do cuộc nghiên cứu nhiều năm bằng phương pháp khoa học của bác sĩ Melvin Morse về hiện tượng những người chết sống lại, mới được xuất bản (Villard Books, 1992), sau sự thành công của chương trình nghiên cứu khác tại Seattle trong cuốn Gần Aùnh Sáng Hơn (Closer to The Light, Ivy Books 1990). Thực ra thì bác sĩ Raymond Moody đã thu góp, phân tìch và đưa tới những kết luận chung về những trường hợp trên từ lâu, nhưng chưa mang tính cách khoa học như của bác sĩ Melvin Morse xác nhận trong cuốn "Được Ánh Sáng Biến Đổi": "Tôi muốn chứng minh một cách khoa học những điều mà những người nghiên cứu khác chỉ phỏng đoán, xem những người chết sống lại được thay đổi như thế nào..." (trang 29)
    Đã chết thật khác với tình trạng hôn mê bất tỉnh. Tôi đã có dịp nói chuyện với một người quen, đã bị hôn mê cả tháng trời sau khi mổ, thì không thấy có hiện tượng như trường hợp chết đi sống lại, mà chỉ có những cơn mơ dài. Vì tình trạng hôn mê vẫn
    chưa phải là chết thật.
    Những gì xẩy ra trong thời gian một người đã thực sự chết rồi sống lại? Có người chết 5 phút, có người chết nửa giờ. Cả mấy trăm trường hợp như vậy được khảo sát bằng phương pháp khoa học đàng hoàng.
    Tất cả mọi trường hợp trên đều có 4 điểm chính:
    1. Hồn ra khỏi xác: bay lơ lửng trên không nhìn xuống xác của mình, thấy rõ mọi người và mọi sự đang xẩy ra trong khung cảnh mình vừa tắt thở. Thấy các y tá và bác sĩ chạy hối hả. Thấy những người thân yêu đang khóc...
    2. Ống tối dài: sau đó hồn như bị hút vào một cái ống dài thật tố đen với một tốc độ nhanh kinh khủng. Betty Eadie kể lại kinh nghiệm của chính mình trong cuốn "Được Aùnh Sáng Aáp Ủ" (Embraced by The Light, Gold Leaf Press 1992): Đây đúng là thung lũng bóng tối sự chết" (trang 39) như Kinh Thánh đã từng nói tới.
    3. Nguồn sáng: bỗng thấy một nguồn sáng xuất hiện đầy yêu thương và an bình. Aùnh sáng này thật sáng nhưng không chói mắt. Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Đức Maria.... "thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi" (trang 191). Lúc đó hồn được soi sáng nhìn lại và thấy tất cả cuộc đời của mình hiện lên trong một nháy mắt. Giáo lý vẫn gọi là phán xét. "Tôi thấy tôi là chính những người tôi xúc phạm, và cũng là chính những người tôi giúp đỡ". Lời thuật này làm chứng lời Chúa trong Phúc Aâm Thánh Gioan: Chúa không sai Con của Ngài xuống để luận phạt thế gian mà là để cứu rỗi; ai đi trong bóng tối thì đã tự luận phạt rồi.
    Rồi hồn sung sướng sửa soạn bước vào vùng ánh sáng thì lại nghe rõ lệnh: chưa phải lúc, hãy trở về. Thế là sống lại. Tất cả đều không thích trở lại như vậy. Cũng có một số trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối hiện
    hình như quỉ sứ trong biển lửa thật sợ hãi, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong "Aùnh Sáng Muôn Năm" (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27).
    Betty Eadie tả kỹ về cảm nghiệm nguồn ánh sáng: "Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật. Không còn chỉ tin vào một lực vũ trụ, mà tin vào một Đấng đàng sau sức mạnh đó. Tôi thấy Đấng đầy yêu thương đã dựng nên vũ trụ và đặt mọi khôn ngoan vào đó. Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương..." (trang 61). "Tôi cảm nhận tình yêu của Chúa vô điều kiện, vượt trên mọi tình yêu trần thế... Và tôi được ấp ủ trong cánh tay của ánh sáng vĩnh cửu này" (trang 53).
    4. Được biến đổi: bác sĩ Morse cho biết: "Tất cả mọi trường

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    4. Được biến đổi: bác sĩ Morse cho biết: "Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này... Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết" (trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa "Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới. Một số người tự nhiên thông minh hơn ra nhiều... biết nhiều nguyên lí toán học ngay cả về nguyên tử... thuyết tương đối của Einstein ...phát triển nhiều khả năng tâm linh..." (trang 9-10).
    Tất cả những cái thấy trên đây đều được bác sĩ Melvin Morse chứng nghiệm là có thật, chứ không phải do phản ứng của thuốc hay cơ thể lúc chết do ảo giác vì thiếu dưỡng khí hay vì những thần kinh óc bị hủy hoại. (xem Được Aùnh Sáng Biến Đổi trang 194). "Cảm nghiệm ánh sáng không thể tự tạo ra được, mà chỉ có thể có được ở điểm chết hoặc nơi những thị kiến tâm linh rất đặc biệt... Sự thay đổi mạnh nhất và kéo dài lâu nhất được thấy nơi những người đã trông thấy ánh sáng này" (trang 197).
    II. HÀN MẶC TỬ ĐÃ CHẾT MẤY LẦN VÀ ĐÃ THẤY GÌ?
    Trong thơ Hàn Mặc Tử, có nhiều ý tưởng và hình ảnh kì lạ khó hiểu. Một vài người vội nghĩ ngay đó chỉ là những tưởng tượng hay bám víu vào niềm tin cho khuây khỏa cơn bệnh, hay chỉ là những kiểu chơi chữ cho bay **** cao siêu. Nhưng qua những khảo cứu và những khám phá khoa học trên thì chắn chắn ai cũng phải nhận rằng những ý tưởng và hình ảnh này đúng là của một người đã chết, đã thấy nhiều điều huyền bí từ "cõi chết" (phải nói là cõi sống thật mới đúng), rồi sống lại trở về kể lại như một lời chứng.
    Sự kiện đầu tiên được Nguyễn Bá Tín trong "Hàn Mặc Tử Anh Tôi" thuật lại. Hồi nhỏ Hàn Mặc Tử rất ham chơi. Hết thích bắn ná cao su thì sang bắn súng, rồi quần Anh và tắm biển, nhất là thời gian gia đình ở Qui Nhơn. "Có lần cả hai anh em xuýt chết vì lội ra quá xa bờ, khi vào bị gió nồm quá mạnh, anh Trí đuối sức gần ngất đi, phải nằm ngửa cho gió đẩy vào bờ. Trông anh sợ hãi khác thường, thần sắc ngơ ngác, như không còn trông thấy gì nữa. Anh thều thào: "Ở Huế, bơi qua cầu Bạch Hổ bị rong vấn chân kéo chìm không lội đuợc, mà sao ít sợ hơn bữa ni". Rồi anh lẩm bẩm nghe như: Đức Mẹ...Đức Mẹ... Tôi tưởng anh cầu nguyện. Trông anh khác lạ đi, tôi càng hoảng sợ: anh không còn giống anh nữa, với đôi mắt lạc thần. Từ đó, anh không tắm biển nữa, sợ nước, ít hoạt động, nói năng nhỏ nhẹ như sợ ai nghe. Thường ngồi khoanh tay nghe hơn là nói, thân thể gầy sút đi. Nhiều lúc như xuất thần, anh không hay biết gì chung quanh, nhất là lúc anh ngâm thơ, giọng như run run đau đớn" (trang 20-21).
    Thật lạ lùng, các diễn tiến trong thơ Hàn Mặc Tử cũng giống hệt như 4 điểm chính trong khảo sát của bác sĩ Melvin Morse:
    1. ĐÃ THOÁT HỒN NGOÀI XÁC
    Hàn Mặc Tử đã thấy gì hôm đó? Trong "Ánh Sáng Biến Đổi" bác sĩ Morse thuật lại một truyện xảy ra của Jim cũng suýt chết đuối ở bờ biển California y như trường hợp Hàn Mặc Tử, mà ông gọi là "fear death" (chết vì quá sợ ):
    "Khi thấy càng bị đẩy xa bờ hơn, tôi quá sợ hãi, và càng đạp mạnh hơn. Bỗng tôi thấy mình bay lên trên không khí nhìn xuống tôi đang bơi, giống như có hai cặp mắt cùng nối vào một óc... Rồi tôi được tràn ngập bởi một nguồn sáng, như mây bao phủ quanh tôi. Tôi thấy thích thú... Bỗng tôi trở lại thân xác tôi. Tôi nghĩ rằng tất cả cảm nghiệm này kéo dài khoảng một phút". (161-162)
    Ánh sáng trong trường hợp Hàn Mặc Tử ở bờ biển Qui Nhơn được biểu hiện là chính Đức Maria, mà sau này được ghi lại trong bài Thánh Nữ Đồng Trinh Maria:
    Maria, linh hồn tôi ớn lạnh
    Run như run thần tử thấy long nhan
    Run như run hơi thở chạm tơ vàng
    Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
    Chính Nguyễn Bá Tín cũng xác nhận điều này: "Anh xúc động đến rơi lệ và thì thầm cảm tạ được ơn cứu thoát trong tai nạn đó" (Hàn Mặc Tử Anh Tôi, trang 82).
    Lạy Bà là Đấng tinh truyền thanh vẹn
    Giàu nhân đức giàu muôn hộc từ bi
    Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
    Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế.
    Và ít nhất ba chỗ trong cuốn "Hàn Mặc Tử", Ông Trần Thanh Mại có nhắc tới việc Hàn Mặc Tử chết đi sống lại trong thời gian bệnh đã nặng: đôi ba lần (trang 55, 80) rồi bốn năm lần (trang 136).
    Chính Hàn Mặc Tử đã ghi lại:
    Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc
    Mẹ dấu yêu liền vội đền tay nâng.
    ...
    Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt
    Để chập chờn trong ánh sáng mông lung.
    (Sáng láng)
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trong Kinh Thánh, Thánh Phaolô có lần kể lại chuyện về chính mình bị ném đá chết ngất đi tại Lystra: "Tôi sắp kể về các cuộc thị kiến và khải minh Chúa ban cho tôi. Tôi biết có một người trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm (hồn còn ở trong xác hay đã ra ngoài xác tôi không biết, có Thiên Chúa biết) được bốc lên tầng trời thứ ba; và tôi biết người đó (hồn còn ở trong xác hay đã ra khỏi xác tôi không biết, có Thiên Chúa biết) đã được bốc lên Thiên Đàng và được nghe thấy những tiếng nói mà người thường không có thể cũng không được phép phát ra. Đó là người tôi muốn khoe chứ tôi đây thì khoe làm gì, vì chỉ thấy những điểm kém hèn. Giả tỉ tôi nhất định khoe thì cũng chớ ai cười tôi là khùng, vì tôi nói đúng sự thực; nhưng tôi sẽ không nói nữa, vì những vụ thị kiến kia quả là vĩ đại khác thường, tôi sợ vì đó mà có người đánh giá tôi cao hơn những tư cách họ mắt thấy tai nghe ở nơi tôi" (2Co 12:1-6).
    2. HỒN BAY VÙN VỤT
    Nhất là trong "Hồn Lìa Khỏi Xác", Hàn Mặc Tử đã diễn lại y như bác sĩ Melvin Morse đã khảo sát trong giai đoạn sau khi chết bị hút vào ống tối dài, mà Betty Eadie tả là thung lũng bóng tối sự chết:
    Há miệng cho hồn văng lên muôn trượng
    Chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây
    Aùnh sáng lạ sẽ tan vào hư lãng
    Trời linh thiêng cao cả gợi nồng say.
    Vì không giới nơi trầm hương vắng lặng
    Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao
    Sóng gió nổi rùng rùng như địa chấn
    Và muôn vàn thần phách ngả lao đao...
    Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
    Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa
    Hồn mất xác hồn sẽ cười nghiêng ngả
    Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la...
    Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng
    Để cho hồn bớt nỗi bi thương
    Nhưng khốn nỗi xác ta đành câm tiếng
    Hồn đi rồi không nhập xác thê lương.
    3. TẮM GỘI Ở TRONG NGUỒN ÁNH SÁNG
    Thấy ánh sáng muôn năm là yếu tố then chốt trong thiên tài nghệ sĩ sáng tác của Hàn Mặc Tử. Ông thấy và diễn tả lại một cách trung thực. Không phải như một luận đề, suy diễn, hay kết luận của hệ thống giáo lí nào cả, mà là một thực chứng.
    Nhiều khi ông điên cả lên vì cảm thấy như vậy mà không làm sao dùng ngôn ngữ loài người mà diễn đạt nổi. Cái điên trong tập "Thơ Điên" không nhất thiết vì quá đau đớn, mà vì cái xốn xang như trong "Kêu Gọi":
    "Ý còn ở trong lòng thì rạo rực xốn xang, khi phô phang lên giấy thì tê dại, ngất ngư, như không có chút gì là rung động nữa... Lòng ta hừng hực mỗi khi nắng hanh lên. Aáy là dấu hiệu mùa thơ đã chín. Gặt hái cho mau, kẻo ngọn thơ càng cao, người thơ càng điên dại..." (Chơi giữa mùa Trăng, trang 27-28).
    Nguồn ánh sáng mà Hàn Mặc Tử thấy là một ngôi vị Thiên Chúa tình yêu, chứ không phải là một lực vũ trụ vô vi, vô vị nhạt nhẽo. Là chính Chúa Giêsu trong cảm nghiệm của thánh Phaolô trên đường Đa-mát: "Đương khi còn đi đường, khúc đó đã gần tới Đa-mát ngay trước cổng mở vào thành, chợt ông trông thấy có ánh sáng từ trời bủa xuống bao kín chung quanh ông. Oâng ngã xuống đất, và nghe thấy có tiếng bảo rằng: Sau-lô, Sau-lô, sao nhà ngươi bách hại ta hoài? Oâng hỏi: Ngài là ai? Tiếng nói trả lời: Ta là Giêsu..." (TĐCV 9:3-5).
    Cảm thông và kết hợp với Thiên Chúa là một tương giao rung động con tim chứ không phải như kiểu tượng muối trở về hòa tan trong biển cả là cội nguồn mình. Đó là một tương giao thân tình kiểu "I - Thou" trong tâm tình của Buber.
    Và như Betty Eadie, Hàn Mặc Tử thấy hồn sung sướng được ấp ủ trong Tình Yêu:
    Ai tới đó mà chẳng nao thần trí
    Tòa châu báu kết bằng hương kì dị
    Của Tình Yêu rung động lớp hào quang
    ....
    A ha hả, say sưa chê chán đã
    Ta là ta hay không phải là ta?
    Cò gì đâu cả thể với cao xa
    Như cội rễ của trăm ngàn đạo hạnh.
    (Siêu Thoát)
    Và trong bài "Ngoài Vũ Trụ", hồn thơ còn thấy rõ hơn:
    Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền
    Không u tối như cõi lòng ma quỉ
    Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị
    Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp u linh.
    ....
    Tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyên
    Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên
    Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    4. ĐƯỢC BIẾN ĐỔI:
    QUI TỤ THÂU VỀ TRONG MỘT MỐI
    Nhiều người trong cuộc khảo cứu của bác sĩ Melvin Morse, sau khi chết đi sống lại, đã trở nên khác lạ với những khả năng cảm thụ đặc biệt. Trường hợp Olaf trong "Được Aùnh Sáng Biến Đổi" thì thấy: "đang trôi trong vũ trụ vô bờ bến... Vũ trụ như những bọt xa bông đang qui về trọng tâm theomột hình thái phức tạp, nhưng tôi hiểu được trọn vẹn, thấy được mọi sự đều có nghĩa... cảm thụ được toàn thể vũ trụ..." (trang 12-13). Hàn Mặc Tử cũng đã được khả năng lạ lùng này, là thấy mọi trắng đen đỏ vàng ,buồn vui, trầm bổng cuộc đới không phải là những mảnh vỡ vô nghĩa hay những cù lao trôi nổi phi lí, mà đều qui tụ thâu về trong một mối, mang trọn ý nghĩa trong một chương trình mầu nhiệm như lới Kinh Thánh:
    "Chúng ta biết rằng mọi sự đều đi liền với nhau sinh ích cho những ai được Chúa yêu thương, tức là những người được Chúa kêu gọi theo chương trình của Người" (Roma 8:28).
    Cái thấy này cũng đang phù hợp với những khám phá mới nhất về khoa học vật lý. Từ nhãn quan vật lý cá biệt "những cù lao" của Newton đến thuyết tương đối của Albert Einstein, và bây giờ là "quantum physics", dịch thoát là "vật lý vũ trụ nhất thể", mọi sự xuất phát và "qui tụ thâu về trong một mối", đều liên hệ tới nhau vì chia sẻ cùng một lực sống.
    Hàn Mặc Tử đã tả lại cái thấy này trong bài Siêu Thoát:
    Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang
    Sẽ qui tụ thâu về trong một mối.
    Và tư tưởng không bao giờ chắp nối
    Là vì sao? Vì sợ kém thiêng liêng
    Trí vô cùng lan nghĩ rộng vô biên
    Cắt nghĩa hết những anh hoa huyền bí
    Trời bát ngát không cần phô triết lí
    Thơ láng lai chấp chóa những hàng châu
    Ta hiểu chi trong áng gió nhiệm mầu?
    Những hạt lệ của trích tiên đầy đọa.
    LÀM MỘT NHÀ VĂN
    Tất cả những cái thấy trên đúng là như vẽ ra cảnh thiên đàng trong hình ảnh Kinh Thánh qua các thị kiến của các tiên tri và Khải Huyền, thật lạ lùng vượt qua sức hiểu biết con người, nhưng có thực, giống như cái thấy của thánh Gioan:
    "Tôi thấy một trời mới và một đất mới, cảnh trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến dạng, cả biển cũng không thấy đâu. Tôi thấy thành thánh, thành Giêrusalem mới, từ Thiên Chúa trên trời hạ xuống, xinh đẹp như một tân nương trang điểm chờ chồng. Rồi tôi nghe có tiếng lớn phán ra từ bảo tòa: Ngươi có thấy đô thị này chăng? Tại đây Thiên Chúa sống giữa loài người. Người sẽ đặt trú sở của Người giữa chúng; và chúng sẽ lã thần dân của Người, và chính Người sẽ là Thiên Chúa của họ, đúng như mấy chữ Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Người sẽ lau mắt họ cho ráo lệ sầu, sẽ không còn chết chóc, không còn tang chế hay là buồn rầu nữa. Thế giới cũ đã qua" (Khải Huyền 21:1-4).
    Với cái thấy đã một lần cảm nghiệm, Hàn Mặc Tử đã diễn ra thành những vần thơ tuyệt tác có một không hai trong nền văn học Việt Nam, và của nền tu đức Công Giáo. Ông nhìn cuộc sống và mọi sự, ngay cả con người cùi của mình, với một nhãn quan mới chan hòa ánh sáng chứ không u ám vật vã như trước nữa.
    Ông Thái Văn Kiểm trong bài nói chuyện tại giáo xứ Paris dịp giỗ 50 năm Thi Hào Hàn Mặc Tử ngày 11.11.1990 đã có những nhận xét: "Nhà thơ của chúng ta bẩm thụ được cái thiên tư cao quí là nhìn thấy được cái hư ảo, cảm được cái vô lượng và nghe được sự yên lặng của vô thủy vô chung". "Nơi đây vang dội những lời cầu nguyện, những hương lạ mê ly, những âm thanh kỳ diệu, tất cả chìm ngập trong bể hào quang và trong tinh hoa của thi vị". Vì "theo Hàn Mặc Tử, thi ca là một sáng tạo thuần túy của Thượng Đế, và để báo đáp công ơn đó, thi sĩ phải là kẻ xướng thánh ca, cảm thông với thượng Đế, ca ngợi chân thành sự nghiệp thiêng liêng và vinh quang bất diệt của Người. Thi sĩ là gạch nối, là trung gian ưu tú giữa Hóa Công và nhân loại". Đức Tin tuyệt đối nơi Thượng Đế đã giúp Hàn Mặc Tử trải qua những thống khổ nơi trần gian, đồng thời hoàn bị thi ca của chàng đến mức độ cao siêu và thành tựu".
    Hàn Mặc Tử đã làm chứng đức tin bằng thơ văn về những gì huyền bí đã thấy bằng thực chứng qua những lần chết đi sống lại. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, thì một người ngoài Công Giáo cũng nhận ra có linh hồn, có thung lũng "ngục tổ tông" bóng tối sự chết, có phán xét, có thiên đàng, có hỏa ngục, có buồn có vui, mọi sự sẽ "qui tụ thâu về trong một mối", và nhất là có Chúa là nguồn Ánh Sáng Tình Yêu.
    Có nhiều người Công Giáo viết văn, làm thơ, nhưng chỉ khi nào chuyển được sứ điệp Chúa Kitô, của Thập Giá và Phục Sinh, thì mới có được những nhà văn, nhà thơ Công Giáo như Hàn Mặc Tử. Đúng như lời Hoài Thanh đã nhận xét trong Thi Nhân Việt Nam:
    "Thơ Hàn Mặc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể" (trang 212).
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    mình có tất cả các bài thơ của Hàn, ai thích bài gì mình post lên cho
    TRước tiên , xin tặng các bbạn bài thơ sau.Các bạn , xem, nghĩ đên cái gidf nào, 1 ban cổ điển rất hay của Bach,và Gônud
    Ave Maria

    Hàn Mặc Tử

    Như song lộc triều nguyên: ơn phước cả,
    Dâng cao dâng thần-nhạc sáng hơn trăng.
    Thơm-tho bay cho đến cõi Thiênđdàng
    Huyềnđiệu biến thành muôn kinh trọng-thể.
    Và Tổng-lãnh Thiên-thần quỳ lạy Mẹ
    Tung-hô câu đường-hạ ngớp châu sa.
    Hương xông lên lời ca ngợi sum-hòa:
    Trí miêuđuệ của muôn vì rất thánh.
    Maria! Linh-hồn tôi ớn lạnh,
    Run như run thần-tử thấy long-nhan,
    Run như run hơi thở chạm tơ vàng...
    Nhưng lòng vẫn thấm-nhuần ơn trìu-mến.
    Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
    Giàu nhânđdức, giàu muôn hộc từ-bi,
    Cho tôi dâng lời cảm-tạ phò nguy
    Cơn lâm-lụy vừa trải qua dưới thế.
    Tôi cảmđdộng rưng-rưng hai dòng lệ:
    Dòng thao-thao như bất-tuyệt của nguồn thơ.
    Bút tôi reo như châu ngọc đền vua,
    Trí tôi hớp bao nhiêu là khí-vị...
    Và trong miệng ngậm câu ca huyền-bí,
    Và trong tay nắm một vạn hào-quang...
    Tôi no rồi ơn võ-lộ hòa chan.
    Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ,
    Ngọc Như-Ý vô-tri còn biết cả,
    Huống chi tôi là Thánh-thể kết tinh
    Tôi ưa nhìn Bắcđdẩu rạng bình minh,
    Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế-giới...
    Sáng nhiều quá cho thanh-âm vời-vợi,
    Thơm dường bao cho miệng lưỡi khong-khen.
    Hỡi Sứ-thần Thiên-Chúa Gabriel,
    Khi người xuống truyền tin cho Thánh-nữ,
    Người có nghe xôn-xao muôn tinh-tú,
    Người có nghe náođdộng cả muôn trời?
    Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
    Để ca-tụng, -- bằng hương hoa sáng-láng,
    Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng,
    Một đêm xuân là rất đỗi anh-linh?
    Đây rồi! Đây rồi! Chuỗi ngọc vàng kinh.
    Thơ cầu-nguyện là thơ quân-tử ý,
    Trượng-phu lời là Tôngđdồ triết-lý,
    Là Nguồn Trăng yêu-mến Nữ Đồng-Trinh
    Là Nguồn Đau chầu lụy Nữ Đồng-Trinh.
    Cho tôi thắp hai hàng cây bạch-lạp,
    Khói nghiêm-trang sẽ dân lên tràn ngập
    Cả Hàn-giang và màu sắc thiên-không,
    Lút trí khôn và ám-ảnh hương lòng
    Cho sốt-sắng, cho đe-mê nguyền-ước...
    Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn-phước,
    Cho tình tôi nguyên-vẹn tợ trăng rằm,
    Thơ trong-trắng như một khối băng-tâm,
    Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu,
    Cho vỡ-lở cả muôn ngàn tinhđdẩu,
    Cho đê-mê âm-nhạc và thanh-hương,
    Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng,
    Lòng vua chúa cũng như lòng lê-thứ
    Sẽ ngây-ngất bởi chưng thơ đầy ứ
    Nguồn thiêng-liêng yêu-chung Mẹ Sầu-Bi
    Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
    Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
    Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
    Trên triều-thiên ngời chói vạn hào-quang?




    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  7. Hoabaoxuan

    Hoabaoxuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2002
    Bài viết:
    1.232
    Đã được thích:
    0
    Rụng rồi
    Thơ chưa ra khỏi bút
    Giọt mực đã rụng rồi
    Lòng tôi chưa kịp nói
    Giấy đã toát mồ hôi!
    Đây là một bài thơ rất lạ của thi sĩ họ Hàn. Nhưng tôi thích nó vì lời thơ rất dung dị mà ý tưởng lại rất lớn lao, sâu sắc, nó gần với câu nói của Nguyễn Tuân: Khi tôi viết là tôi đang đối diện với một pháp trường trắng! HMT cũng thế. Nhưng thi sĩ đã đặt mình cao hơn một bậc, theo kiểu của những nhà thơ TQ cổ, đề cao cái tôi của mình... Một sự kết hợp giữa thơ mới và thơ cũ rất độc đáo và khác lạ trong con người HMT!...
    *********
    Lòng em cát bụi kinh thành
    Đa đoan vó ngựa, chung tình bánh xe!
    ************
  8. HTYCG

    HTYCG Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    0
    quên tặng Bác Home vài sưu tầm của nhóm Vnet về HMT
    **********
    Dù sự hiện diện của nhà thơ trên cõi đời chỉ như gió thoảng mây bay như hương hoa trong khoảng khắc, nhưng đã lưu lại những dấu vết bất tử theo thời gian và đã làm sống mãi bên cạnh tên tuổi ông, hình ảnh những người con gái đã trở thành quen thuộc với mọi người. Nếu Mộng Cầm, Kim Cúc, Thương Thương được kể là nguồn thi hứng tuyệt vời để nhà thơ tạo nên những vần thơ kỳ diệu trong lâu đài thi ca lãng mạn thì mối tình ông dành cho Mai Ðình, tức Mai Thị Lệ Kiều, luôn khơi dậy những tâm tình vừa trân trọng vừa xót thương, đồng thời cũng góp cho làng thơ mới Việt Nam một nhà thơ nữ.
    Theo các tài liệu sưu khảo văn học thì ngoài hàng trăm hàng ngàn độc giả say mê những vần thơ trữ tình lãng mạn của ông được phổ biến trên báo chí, có rất nhiều người tình đã đi qua cuộc đời của nhà thơ Hàn MạcTử và ông đã đổ biết bao máu lệ để tặng cho họ những vần thơ. Trong số 9 người tình mà hầu hết hiện nay còn sống, ông chỉ gặp 4 người (Mộng Cầm, Kim Cúc, Mai Ðình, Thương Thương), còn 5 người kia chỉ nghe tên nhưng cũng trao đổi thư từ làm thơ tặng riêng mỗi người :
    Tặng Mộng Cầm :
    Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm
    Nhớ thương còn một nắm xương thôi. (Muôn Năm Sầu Thảm).
    Tặng Kim Cúc :
    Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá
    Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương. ( Hồn Cúc).
    Tặng Mai Ðình :
    Quý như vàng, trọng như ngọc trên đời
    Mai, Mai, Mai là Nguyệt Nga giáng thế. ( Thắm Thiết).
    Tặng Thương Thương :
    Bây giờ đây khóc than niềm ly hận
    Hỡi Thương Thương, người ngọc của lòng anh.(Kịch thơ Duyên Kỳ Ngộ).
    Tặng Ngọc Sương :
    Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối
    Sương ở Cung Thiềm giỏ chẳng thôi. (Người Ngọc).
    Tặng Thanh Huy :
    Thanh Huy hỡi ! Nàng chưa là châu báu
    Cớ làm sao phước lộc chảy ra thơ. (Bức Thư Xanh).
    Tặng Thu Yến :
    Chị ấy năm nay còn gánh thóc
    Dọc bờ sông trắng nắng chang chang. (Mùa Xuân Chín).
    Tặng Mỹ Thiện :
    Ðêm qua trăng vướng trên cành trúc
    Cô láng giềng bên chết thiệt rồi. (Cô Gái Ðồng Trinh).
    Tặng Thu Hà :
    Chút tình bến cũ còn đeo đẳng
    Hụt chuyến đò đưa nghĩ nghẹn ngào. (Bước Giang Hồ).
    Nàng Mộng Cầm là mối tình đầu của nhà thơ khi hai người gặp gỡ nhau tại thị xã Phan Thiết và Quy Nhơn. Hai người thề nguyền gắn bó keo sơn, cùng nhau xướng họa thi văn, đưa nhau đi viếng thắng cảnh như lầu Ông Hoàng và hẹn hò trăm năm bền chặt sắt cầm. Nhưng 6 tháng sau khi Hàn MạcTử lâm bệnh, Mộng Cầm đã đi lấy chồng ! Còn gì đớn đau cho nhà thơ đang lúc bệnh hoạn hành hạ thì người yêu lại vội sang ngang ! Tất cả nỗi ai oán chất chứa trong tâm hồn được nhà thơ giãi bày trong hai vần thơ bất hủ được người đời truyền tụng cho đến nay :
    " Làm sao giết được người trong mộng,
    Ðể trả thù duyên kiếp phũ phàng."
    Về sau nhà thơ đã tìm cái say túy lúy để vơi bớt nỗi sầu và thường đến tận lầu Ông Hoàng để tìm lại dấu vết người xưa, nơi lưu luyến những kỷ niệm thuở ban đầu !! Chính vì những chi tiết này, hiện nay các đoàn du lịch trong và ngoài nước đến Phan Thiết viếng thăm lầu Ông Hoàng thường được các hướng dẫn viên du lịch kể lại mối tình dang dở thơ mộng của Hàn Mạc Tử và Mộng Cầm.
    Trong các người tình của Hàn Mạc Tử, có lẽ không ai yêu nhà thơ tha thiết bằng nữ sĩ Mai Ðình. Tên thật nàng là Mai Thị Lệ Kiều, sinh năm 1916 tại Nông Cống, Thanh Hóa,thuộc dòng đạo Phật.Thân phụ nàng là một vị quan bảo thủ ép nàng lấy một người mà nàng không yêu ! Lúc18 tuổi nàng bắt đầu làm thơ, đọc báo Sài gòn thời ấy càng đam mê thơ Hàn MạcTử, bút hiệu Lệ Thanh. Nàng thường gửi những bài thơ ký tên Lệ Kiều xin nhà thơ sửa và đăng báo. Từ đó tình thơ bắt đầu chớm nở. Thân phụ nàng biết được theo dõi cấm đoán, nàng đổi tên là Mai Ðình (Hoa Mai + Ðình Chùa). Cuộc trao đổi thư từ giữa hai người tiếp diễn đều đặn
    Nghe tin nhà thơ bị bệnh, ba lần Mai Ðình đến thăm tại số 20 đường Khải Ðịnh, Quy Nhơn nhưng không được gặp !! Tuy vậy nàng không thất vọng viết thư cho biết nàng không sợ sự tàn phá của chứng bệnh nguy hiểm trên thân xác người yêu. Mẹ chàng giấu kín Hàn Mac Tử tại một nơi hoang vu hẻo lánh trên bãi cát tha ma Gò Bồi. Cuối cùng theo lời khuyên của người mẹ, Mai Ðình được Hàn MạcTử tiếp với điều kiện nàng phải bịt kín đôi mắt và trong khi nói chuyện không được nhìn trộm !! Chàng ngâm thơ cho nàng nghe. Cả hai cùng bùi ngùi xúc động. Hàn Mạc Tử nghẹn lời còn Mai Ðình khóc lóc nức nở. Nàng nói sẽ nhớ mãi những kỷ niệm mà nàng cho là quý nhất trong đời nàng. Về nhà có bao nhiêu vốn liếng tư trang, nàng bán đi lấy tiền gửi bà mẹ Hàn Mạc Tử góp phần săn sóc cho người yêu. Sau này về thăm mộ nhà thơ, nữ sĩ Mai Ðình đã viết những vần thơ nức nở :
    " Bên anh, xin Chúa cho xây mãi
    Nấm mồ thương nhớ, khổ thương đau
    Hình anh, em khắc trong tim
    Cho mai trắng nở quanh viền mộ anh."
    Mộng Cầm, Mai Ðình, Kim Cúc đã đi qua cuộc đời Hàn Mạc Tử, nhưng hình ảnh sâu đậm trong trắng đã khơi nguồn thơ vô tận cho chàng thi sĩ đào hoa bệnh hoạn này lại chính là nàng Thương Thương, người mà Trần Thanh Ðịch, em ông Trần Thanh Mại, giới thiệu với thi sĩ và nói rằng đó là một cô gái Huế yêu kiều mảnh mai. Nhưng kỳ thực đó chỉ là cô cháu của ông mới chỉ 12 tuổi ! Nhưng Hàn Mạc Tử cứ tin là thật và trong những lá thư gửi Thương Thương, chàng đã xác nhận tất cả sự nghiệp văn học của chàng mai sau nếu có, chính là nhờ vào sự đóng góp nguồn thơ của Thương Thương. Quả thật nàng đã trở thành nguồn cảm hứng cho Hàn Mạc Tử yêu đời sáng tác nhiều tập thơ như Cẩm Châu Duyên và hai kịch thơ Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội.
    ... PS .. đừng nói YÊU HMT .. nói là yêu thơ HMT cơ ... (Smile)

    , ngay cả người yêu, nữ sĩ Mai Ðình tức Mai Thị Lệ Kiều, đến thăm nhiều lần và tình nguyện ở lại nhà săn sóc nhưng anh chỉ gặp đôi ba lần !!
    Trong những năm 1937 - 1938, anh được gia đình âm thầm gửi đi lánh bệnh nhiều nơi trong tỉnh Bình Ðịnh : Xóm Ðộng, Xóm Tấn, Gò Bồi, Ghềnh Ráng, nhiều nơi chỉ là những túp lều chơi vơi trống trải ngoài đồng hoang vắng !! Bệnh càng tăng, đau khổ càng chồng chất, anh càng sáng tác rất nhiều tập thơ, nổi tiếng nhất là bài :" Ở Ðây Thôn Vỹ Dạ" để tặng người yêu Kim Cúc. Anh cũng viết đề bạt tập thơ Một Tấm Lòng của Quách Tấn, đề tựa tập thơ Tinh Huyết cho nữ sĩ Bích Khê, viết giới thiệu tập thơ Xác Thu của Hoàng Diệp. Thời gian này Trần Thanh Ðịch, em nhà phê bình Trần Thanh Mại, giới thiệu một nữ sinh Ðồng Khánh Huế là Thương Thương, anh đã sáng tác rất nhiều tập thơ : Cẩm Châu Duyên, Duyên Kỳ Ngộ, Quần Tiên Hội để tặng nàng.
    Ngày 8 tháng 9, 1940, vì không thể lánh bệnh mãi nơi này nơi khác, gia đình buộc lòng đưa anh vào bệnh viện Quy Nhơn được một bác sĩ người Pháp khám bệnh. Vào một buổi sáng ngày 20 tháng 9, 1940, gia đình xin cho anh được nhập Trại Phong Quy Hòa, hồ sơ mang số thứ tự 1134, dưới thời Mẹ Nhất người Pháp, nữ tu Maria Juetta (tục danh Jolande Leroy, qua đời ngày 27 tháng 8, 1989 tại Do Thái ). - Trại Phong Quy Hòa tọa lạc phía Nam Thành Phố Quy Nhơn lối 7 cây số, do linh mục người Pháp Paul André Maheu, dòng Thừa Sai Truyền Giáo Ba Lê, thành lập năm 1929. Có người còn gọi trại Phong Quy Hòa là " Thung Lũng Tình Thương " hay " Thung Lũng Ngàn Hoa", cha Maheu trao cho các nữ tu Mến Thánh Giá Gò Thị phụ trách. Năm 1932, các nữ tu Phan Sinh Thừa Sai Ðức Mẹ tình nguyện đến phục vụ các bệnh nhân phong cho đến nay.
    Sau 52 ngày được các nữ tu, đăỉc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi. Theo bác sĩ, bệnh nhân không chết vì bệnh phong nan y, mà vì uống thuốc có quá nhiều độc tố cao sinh kiết lỵ !! Lúc 14 giờ chiều cùng ngày, thi hài anh được tẩm liệm trong một quan tài thô sơ bằng gỗ ván cây gòn. Ðúng 14 giờ 30, sáu anh chị em giáo dân tiễn đưa anh lên nguyện đường trại. Trước một quan tài phủ một tấm màn đen, cha Cận cử hành những nghi lễ cuối cùng tiễn đưa anh trong bầu khí buồn thảm thương tiếc. Những tiếng hát kinh cầu hồn hòa lẫn với những tiếng chuông nguyện đường đổ từng giọt buồn đưa tiễn nhà thơ trẻ tuổi tài hoa về bên kia thế giới. Anh là bệnh nhân đầu tiên được an táng tại nghĩa trang Quy Hòa chỉ cách trại 200 mét.
    Sau khi nhà thơ qua đời 19 năm, ngày 13 tháng 2, 1959 gia đình và người bạn thơ Quách Tấn xin cải táng đưa về an táng tại Ghềnh Ráng, thành phố biển Quy Nhơn. Mộ phần được kiến trúc hình chữ nhật. Trước mộ là một cây thánh giá lớn bằng xi măng cao 0 m 50. Trên đầu bia mộ là tượng Ðức Mẹ Maria hai tay giang rộng mắt nhìn xuống mộ, vì trước khi chết Hàn Mặc Tử ước mong được một lần trong đời đến kính viếng Ðức Mẹ tại thánh địa La Vang Quảng Trị nhưng không thực hiện được !! Bước lên ba bậc tam cấp, hiện nay du khách có thể nhìn thấy trên tấm bia ghi rõ tên thánh, họ và tên nhà thơ, ngày sinh và ngày tử cùng tên cha mẹ và anh chị em lập bia mộ. - Năm 1991, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (ca sĩ Nhật Trường) cùng một số anh chị em nghệ sĩ trong nước đã bảo trợ kinh phí, để ban Giám Ðốc trại phong Quy Hòa xây một đài Tưởng Niệm nơi nhà thơ được an táng đầu tiên tại " Khe Nước Ngọc " nghĩa trang Quy Hòa và một Phòng Lưu Niệm Hàn Mạc Tử cũng được thiết lập ngay tại địa điểm mà nhà thơ đã trút hơi thở cuối đời.
    Tưởng niệm nhà thơ Công Giáo Hàn Mặc Tử
    Trong tác phẩm Danh Nhân Tự Ðiển ( nhà xuất bản Xuân Thu Sàigòn 1966 ), Giáo sư Trịnh Vân Thanh sau khi trình bày tiểu sử và thi văn nhà thơ Hàn Mạc Tử đã nhận định :" Nhiều người thường cho Hàn Mạc Tử là một nhà thơ lãng mạn trữ tình. Nhưng đích thực ông là một thiên tài hiếm có trong Phong Trào Thơ Mới Việt Nam ... Từ một hiện tại lành mạnh, một người trai giang hồ đi ngao du Nam Bắc tới một hiện tại đau ốm, một bệnh nhân phong, một phế nhân nằm yên một chỗ chờ chết, Hàn Mạc Tử đã tìm cho đời mình một hướng đi, một con đường đi vào Vĩnh Cửu . . Lời thơ của Hàn Mạc Tử không phải chỉ là tiếng nói của một con người văn nghệ thời đại, nhưng trên bình diện con người, ông chính là một thi sĩ mà các thế hệ bây giờ cũng như sau này không thể nào quên được."
    Nếu đề cập đến thơ mới Việt Nam, bất cứ một nhà văn học sử nào cũng không thể quên không nhắc đến Hàn Mạc Tử, vì ông chính là một tài hoa sáng chói trong thi ca Việt Nam. Mặc dầu cuộc sống của ông chỉ kéo dài 28 xuân xanh nhưng ông đã bắt đầu làm thơ từ năm 14 tuổi. Và sau khi mất đã để lại cho hậu thế những thi phẩm nổi tiếng với những cảm hứng dạt dào tình thương pha lẫn khắc khoải, máu và nước mắt.
    Trong hoàn cảnh đất nước nghèo như Việt Nam, rất hiếm có trường hợp chỉ 2 năm sau khi nhà thơ mất, khi nhà phê bình Trần Thanh Mại ra mắt tác phẩm : Hàn Mạc Tử - Thân Thế và Thi Văn (Nxb Rạng Ðông Hà Nội 1942 - Nxb Tân Việt SàiGòn tái bản 1957) là bắt đầu cả một phong trào tìm đọc thơ của Hàn Mạc Tử, nhất là đối với giớí trẻ thời đó. Từ đó đến nay, Hàn Mạc Tử vẫn là đề tài được rất nhiều văn sĩ, thi sĩ, nhà phê bình đề cập đến như một chủ đề bất tận ! Thời gian qua, biết bao tác phẩm, đặc san, bài báo đã viết về ông, đặc biệt từ năm 1998 đến nay, sau khi cuốn Ði Tìm Chân Dung Hàn Mạc Tử, một công trình sưu khảo công phu giá trị do ông Phạm Xuân Tuyển phát hành.
    Năm nay, ngày 11 tháng 11, 2000, kỷ niệm 60 năm (1940 - 2000) ngày mất của Hàn Mạc Tử, rất nhiều tổ chức văn hóa trong và ngoài nước sẽ tổ chức những cuộc hội thảo, những buổi lễ kỷ niệm để tưởng niệm nhà thơ tài hoa đoản mệnh này. Ðể bổ túc cho những nét tiểu sử trình bày trên đây, chúng tôi xin được ghi lại một vài khía cạnh trong cuộc đời ông dưới đây.
    Những Ngày Cuối Ðời của Hàn Mạc Tử :
    Không một người nào biết rất rõ những gì xảy ra trong 52 ngày cuối đời của nhà thơ Hàn MạcTử bằng ông Rôcô Nguyễn Văn Xê.Với nhà thơ, ông là một người đồng bệnh, đồng đạo, một người bạn tri kỷ đã tận tình giúp đỡ hết mình. Sau khi nhà thơ mất, ông được di chuyển vào Nam mất ngày 8 tháng 3, 1995 tại trại phong Bến Sắn, xã Khánh Bình, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Trong một cuộc phỏng vấn trước khi mất, ông Nguyễn Văn Xê đã kể cho nhà sưu khảo Nguyễn Xuân Tuyển những chi tiết trong những ngày cuối đời nhà thơ như sau : (Trích Ði Tìm Chân Dung Hàn Mạc Tử).
    " Ngày 20 tháng 9, 1940, Trí nhập trại phong Quy Hòa, thời Mẹ Maria Juetta. Sau ba tuần, nhờ sự chăm sóc tận tụy của các nữ tu dòng Phan Sinh (Franciscaine), bệnh tình Trí thuyên giảm .. Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của Trí đều đều như kinh Nhật Tụng : 5 giờ sáng dậy đi nhà nguyện đọc kinh, sốt sắng dâng lễ, rước lễ - 7 giờ cùng anh em bệnh nhân dùng điểm tâm cháo trắng với đường tán đen - 8 giờ được băng bó, uống thuốc hoặc chuyện vãn với anh em đồng bệnh - 11 giờ cơm trưa rồi nghỉ ngơi - 14 giờ 30 lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17 giờ dùng cơm chiều. " (xem ÐTCDHMT trg 35).
    Có lần Trí còn tâm sự : " Tôi đến Quy Hòa này là nơi có bãi biển, rừng dừa xanh, núi non hùng vĩ, cù lao xanh huyền ảo, đặc biệt là Tình Người nên tôi được hưởng sự bình an của nội tâm, cái thanh tao của nguồn vui tưởng như đã chết trong tôi khi sống ở Xóm Tấn đầy đau khổ, nghèo nàn, cô đơn, không một ai đến an ủi săn sóc dù là người thân quyến.." - " Trí là một người rất sùng kính Ðức Mẹ Maria, lúc nào cũng cầu xin Ðức Mẹ và thứ bảy nào cũng xưng tội" ..". Trưa ngày 30 tháng 10, 1940, khi đọc kinh tại nhà nguyện về Trí hỏi tôi : Anh Xê có đến La Vang đi kiệu Ðức Mẹ lần nào chưa ? Trí lộ vẻ mặt buồn buồn nói : Từ ngày có bệnh tôi ao ước có một lần trong đời kính viếng Ðức Mẹ La Vang ... Lúc này tôi lại càng vô cùng ao ước được quỳ gối dưới chân Mẹ La Vang xin Người tha thứ tội lỗi " ... " Suốt hơn một tuần, từ 30 tháng 10, 1940 đến 7 tháng 11, 1940, Trí bị bệnh kiết lỵ nặng nên mất sức !! Ðêm ngày 8 tháng 11, 1940 Trí lấy hai tập giấy pelure, dùng bút chì cùn trong áo veston sáng tác bài thơ cuối cùng La Pureté de l' Âme (Tâm Hồn Thanh Khiết) để ca tụng Ðức Maria cùng các bà mẹ dưới đất là thân mẫu và các nữ tu Phan Sinh đã săn sóc Trí. Ðây là bút tích cuối đời của Trí."
    " Chiều 9 tháng 11, 1940, Trí xưng tội lúc 16 giờ 30. Sáng ngày 10 tháng 11, 1940, lúc 6giờ 45 Cha Tuyên Úy cho Trí chịu phép Xức Dầu bệnh nhân và rước lễ lần cuối.. Ðêm đó tôi (ông Xê) trự c canh chừng Trí. Mẹ Nhất Juetta và sơ Julienne đến thăm Trí ba lần trong đêm. Lúc ba giờ sáng, sơ Julienne cho biết Trí khó lòng qua khỏi ! Thời gian của đêm nay đối với tôi như chùng hẳn xuống. Tôi nhìn Trí, ngoài nhửng lúc đau bệnh, Trí khi quỳ, lúc ngồi, khi nằm, trên tay lúc nào cũng cầm chuỗi hạt đọc kinh cho đến lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940 thì Trí nhẹ nhàng tắt thở một cách êm ái "(Xem ÐTCDHMT trg 36 - 38).
    Được HTyCG sửa chữa / chuyển vào 08:39 ngày 10/01/2003
  9. angeloflife

    angeloflife Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    1.262
    Đã được thích:
    0
    Vậy là không chỉ tôi yêu cái điên cuồng say mê trong thơ HMT. Các bạn nghĩ sao về bài Sầu Xuân. 12 câu thơ mà có đến 14 chữ xuân. Chẳng hiểu sao tôi thích bài thơ này đến thế. Mùa xuân mà tràn ngập những nỗi buồn, không có cảnh vật nào là không buồn cả. Nó cứ như là một tiếng thở dài đầu xuân vậy.
    Người ta nói thơ HMT cứ như là viên ngọc trai vậy.
    "HMT là một nhà thơ có tư duy thơ rất độc đáo và hiện đại, hình như ông sinh ra là để làm thơ. Ông đến với thơ thật là tự nhiên nhưng ông làm thơ trong một hoàn cảnh thật bi đát. Người ta nói: " Con ngọc trai ở đáy biển bị hạt cát chui vào người khiến nó rất đau đớn và nó khóc. Nó tiết ra nước mắt bao bọc lấy hạt cát để xoa dịu nỗi đau trong lòng nó. Lâu dần nước mắt con trai kết tinh lại và trở thành viên ngọc trai quý giá cho đời." HMT cũng làm thơ trong hoàn cảnh tương tự. Để chống lại nỗi đau bệnh tật,với cái chết, ông đã phát ra những lời thơ quằn quại đau thương. Thơ ông là những viên ngọc trai quý giá để lại cho đời.
    Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
    Một ví sao trơ trọi cuối trời xa
    Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
    Những ưu phiền đau khổ với buồn lo.
    angel
  10. angeloflife

    angeloflife Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    1.262
    Đã được thích:
    0
    Một người tình của HMT là Hoàng Cúc. Các bài thơ của ông về Hoàng Cúc.
    Hoa cúc
    Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa
    Sương đẫm trăng ***g bóng thướt tha
    Vẻ mặt khác chỉ người quốc sắc
    Trông đời tri kỷ chỉ riêng ta.
    Hồn cúc
    Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường
    Không dám sờ tay sợ lấm hương
    Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá
    Dám ôm hồn cúc ở trong sương
    Trồng Hoa Cúc
    Thích trồng hoa cúc để xem chơi
    Cúc ngó đơn sơ, lắm mặn mòi
    Đêm vắng gần kề say chén nguyệt,
    Vườn thu vắng vẻ đủ mua vui.
    angel

Chia sẻ trang này