1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

AK-47 is a copy of Sturmgewehr 44

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi fitter, 02/09/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. convitbuoc

    convitbuoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2008
    Bài viết:
    1.153
    Đã được thích:
    918
    "...KHÔNG PHẢI CHIA ÁP LỰC QUA TIẾT LƯU...". Bác AChan có vấn đề về đọc hiểu ! Ngại thật
  2. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Chà hết phân tích kiểu AK đạn bi nòng đại bác lại đến pít tông di chuyển không phải do áp lực. Không do áp lực vậy do lực gì? động năng à? lại một kiểu đạn bi mới.
    [/QUOTE]
    Chần nhiều khi bi bô cũng chuẩn phết. Ở đây, piston của AK-47 do chỉ phải chạy ngắn, trên toàn bộ quãng đường chạy này đạn vẫn còn trong nòng nên áp lực được giữ nguyên không bị thoát ra ở đầu nòng (gây tụt áp). Nên dù có hở khí ở các vị trí khác thì nói chung súng vẫn rất khoẻ khoắn. Ngược lại, M16 bắt khí phải chạy dài, viên đạn thoát ra khỏi đầu nòng từ lâu rồi mà khí chưa chạy đến vị trí để đẩy được khối lùi. Lúc này, còn cái gì để bịt ở đầu nòng nữa đâu mà khí thuốc nó chả thoát ra. Vì vậy, áp lực giảm nhanh chóng là điều hiển nhiên, súng dù có kín khít đến mấy thì vẫn thoát nhiều khí (thoát khí ở ngay cửa chính, đỡ sao nổi ). M16 yếu ớt là vì thế.
    Được 272chip272 sửa chữa / chuyển vào 14:03 ngày 26/11/2009
  3. Po210

    Po210 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    45
    Cám ơn anh Chip272
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    lâu mới gặp chiên ra làm hàng giả Trần An.
    Thuwea trần an. Piston AK 74 copy từ ZB26 Tiệp khắc. Đây là khẩu súng rất nổi tiếng, sau được sát nhập mà Đức và dùng với tên MG26(t), Bren là trung liên ANh dùng nhiều ở ta, là phiên bản cải tiến ZB30 bỏ cái này.
    Người Tiệp Khắc chưa biết tính toán hoàn hảo cho cái nguyên lý hoàn toàn mới này, vì vậy nó còn nhiều nhược điểm. Người Thuỵ Điển khi copy súng này làm ngược lại, tức là ống trích xiên xuôi.
    Khẩu súng cùng thời với MP44 là AS44 có rất nhiều mẫu, đáng tiếc Sudaev mất sớm. Một số mấu sau của Sudaev đã hoàn thiện trích khí này với cấu tạo như AK, vậy nên phải nói rằng, công thức tính trích khí này được Sudaev sử dụng đầu tiên. Sau ngoài AK, RPK, PK thì có SVD.
    Ống trích xiên ngược không dùng áp lực, mà dùng vận tốc dòng khí. Đầu tiên, khi viên đạn còn trong nòng, thì chỉ một lượng nhỏ khí được vào ống, áp suất trong ống tăng chậm, đợi đạn đi xa, ngăn không cho tốn khí. Điều này đạt được do ống xiên ngược, dòng khí chuyển động với vận tốc 600m/s không thể lộn lại trong ống nhiều. CHỉ đến khi vận tốc dòng khí hơi chậm lại, tức đạn ra khỏi nòng đa lâu và đang giảm áp nhanh, thì khí mối lộn vào ống.
    Khi khí lộn được vào trong ống, ống có thiết kế to, thẳng, nên một lượng khí nén tăng tốc độ trong ống và tích luỹ năng lượng, chính vận tốc thẳng này đập vào mặt piston làm piston chạy.
    Trích khí khí động rất khó tính toán, đồng thời làm AK không bắn được lựu từ nòng chính. NGày nay các nước hiện đại đều tránh phóng lựu từ nòng chính, nên chuyện này cũng nhỏ. Một số AK-47 sản xuất ở ngoài Nga bỏ trích khí này để cho mục đích trên.
    Ưu điểm số một của trích khí này là không hề tốn khí, trong khi đó lỗ to bằng nửa cái nòng M16. Các trích khí áp lực phải dùng lỗ tiết lưu để tránh thoát khí, lỗ tiết lưu này phải có kích thước xỏ kim không lọt, nên rất hay tắc.
    Tiết lưu khí động cũng buộc AK phảu dùng chuyển động xung, tức là piston chỉ có tác dụng đẩy trong một xung thời gian ngắn, điều này làm cần piston phải khoẻ. CÒn trích khí tieetys lưu nhờ lỗ tiết lưu nhỏ mà khí thoát chậm theo hướng ngược về nòng, nhờ đó tích luỹ được khí nén trong một khoang đẩy piston chạy xa, tăng tốc dần. MP44 dùng cách này.
    AK như thế mới là xung ngắn, còn LWRC của Trần An là xung dài. Người ta tính xung là phần tác dụng đẩy của piston chứ không phải phần piston chạy.
    À, mấy năm nghiên cứu súng Mỹ, Trần An đã biết piston của LWRC là từ đâu chưa ?
    Đó là trích khí danh tiếng của SVT, nó được bế gần như nguyên xi trong G43 Đức ngya lúc đang đánh nhau, với tư cách là chìa khoá của vượt thử nghiệm. Cỡ súng AR-18 và LWRC trông khác nên các chi tiết khắc, nhưng chỉ khác một chút.
    Trích khí SVT là phiên bản cho súng nhỏ của DP, điểm khác là piston rời. Đây là mẫu mực của mọi loại trích khí tiết lưu, tổ tiên của mọi loại trích khí tiết lưu hiện nay.
    Trần An hiểu chửa.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 17:39 ngày 26/11/2009
  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    http://www.youtube.com/watch?v=lQe864rGLyk
    Uh AK học rõ nhất là băng đạn của M1 Gảrand, tuy nhên băng của M1 là băng súng cổ, ít đạn và đáy hàng đạn thường dùng một lần rồi bỏ. Thế lắp đạn thì AK giữ lại, nhưng nhờ đạn khá côn, nên đạn AK được đẩy vào thành sau băng chứ không đẩy ngang ra gây kẹt.
    Vấn đề băng là một nhược điểm của M16, M16 có nhiều nhược điểm vì nó là phiên bản đẻ non của AR-18, ở cái nước Mỹ quái dị ấy thì đẻ non mới được làm vua. Nhược điểm ấy thế này, khoảng chuyển động sau băng của M16 rất ngắn, chỉ có vài mm, trong thời gian đó yêu cầu lò xo phải đẩy đạn kịp lên. Tốc độ bắn của M16 lại 900, nên thời gian này quá ngắn, phải dùng lò xo quá cứng và do đó kẹt.
    Tất nhiên dân liệt não không biết rằng AK học một điểm của chính họ chứ không phải MP44.
    Khoá nòng AK là xoay 2 tai như Mauser, Mosin, súng tự động có từ Chauchat, truyền quan M1 Garand. Tuy nhiên, cả Chauchat và Garand đều chuyển từ phát một sang tự động không hoàn chỉnh. Khoá nòng xoay cần luồn cái móc đạn từ băng qua miệng băng, rồi quay đi, AK đã bố trí rất khéo léo, làm đạn cúi lên gập xuống, được đẩy lên từng nửa trước sau một, giảm chấn động ngang súng và yêu cầu lò xo không cần mạnh lắm, nên băng rất thoáng, thời gian dành cho chuyện động này lại dài bằng khoảng chuyển động sau băng của bệ khoá nòng.
    Cái dốc móc tiếp đạn này của AK thường được gọi là "dốc mượt AK" để nhấn mạnh ưu điểm của nó.
    Kiểu khoá nòng này được một súng trước AK là BK của Bulkin thực hiện.
    http://world.guns.ru/assault/as01-e.htm
    Khoá nòng của MP44 hoàn toàn khác. Kiểu khoa nòng này được nhiều súng tự động dùng, tuy nhiên, nó tiện cho phát một, còn liên thanh thì làm rung ngang súng. Nhưng thuận lợi của nó là đơn giản.
    Kiểu này có nhiều biến thể, như một số súng Liên Xô SVT dùng tai xách hai bên, khẩu phương Tây thành công nhất thời AK là FN FAL, hoàn toàn giống SVT phần máy, chính là SVT liên thanh.
    Riêng MP44 thì có tai xách giữa lưng đặc trưng của PTRS, sau này được xê ca xê SKS dùng. Một cải tiến cho hơi khác là cái mấu chèn nhô ra đậm tính Đức.
    Trích khí thì MP44 đương nhiên là dùng trích khí DP. TRích khí SVT dùng cho G43, nhưng kiểu DP đơn giản hơn,chỉ một lò xo. Nước Đức trước đó ưa dùng lùi nên đánh giá trích khí chưa cao.
    Về đạn MP44 thì hài hước.
    TRong thập niên 192x nước Đức bị cấm làm và xuất khẩu một số vũ khí. Lúc đó, Mauser có một "phòng chiến thuật" mà nay là viện nghiên cứu chiến đấu . CHính thời gian này Mauser đưa ra cỡ đạn 5,56mm của M16, chuyên dung săn vịt. Để săn người, Mauser cũng giống Nga, đưa ra súng trường xung phong và yêu cầu đầu tiên là làm nhỏ đạn. CHương trình được phát triển khá mạnh năm 1935, khi Hitler ngu si mới lên, có hai mẫu MKB35 của Walther và Vollmer được chỉ định phát triển tiếp. .
    Hitler lên nắm quyền, lần lượt "lãnh tụ phụ trách công nghiệm chiến tranh" của đảng NAZI đều là dân MP, nên bóp nghẹt MkB. Một trong những nhà MP lãnh đạo đó lại chính là Vollmer
    Walther thắng năm 1939, được gọi chính thức là SK39 , nhưng vì thế mà ngỏm củ tỏi. MkB dùng một số loại đạn khác nhau, đều của GECO, lý do chính thức đưa ra là ngại thay đổi đường kính nòng, làm chậm công nghiệp chiến tranh.
    Trong chương trình phát trển này, GECO đưa ra nhiều mẫu đạn để thử nghiệm, chia là hai nhóm, súng ngắn và súng trường. Vì dân MP lãnh đạp đảng Nazi nên súng ngắn lên. Tuy nhiên, sau Stalingrad thì súng ngắn quá chứng minh nhược điểm. Tầm xa hơn, từ xa Nga cữ bắn tỉa Đức, súng ngắn phải vào gần.
    Từ đó, xảy ra điều hài hước, Vollmer lại thua trước mẫu súng ngắn của Haenel (tên công ty, chủ nhiệm thiết kế là Hugo Schmeisser). Đến năm 1942, tuy từ 1939 đã bỏ đạn súng trường, nhưng chương trình vẫn giữ tên "MkB42", sau đó thì cả nước Đức cười và ngượng quá phải đổi thành MP.
    Cuối cùng ERMA của Vollmer lại phải đi mua license. Thật ra, vì phát triển không hoàn chỉnh và đá đấu nên Đức sản xuất rất ít MP các loại, khoảng 2t, trong đó 400 ngàn là MP44. PPSh thời đó là 6t.
    Sau Stalingrad 1942 MP các loại nhường dần sản lượng cho súng trường G41, G43 và một loại trung liên FG42. Tổng số Đức làm 15t súng trường. Tuy nhiên, vì không đầu tư nghiêm túc, nên súng trường Đức quá tệ so với Nga, điển hình là G43 không thể qua thử nghiệm nếu không dùng trích khí của....SVT.
    Súng trích khí của Đức rất ít, nên MP44 dùng trích khí DP là chuyện thường.

    thế xếp đạn của AK là lấy từ M1 Garand, dân liệt não không biết điều này. Nhưng chưa có băng thật sự, mà vẫn dùng kẹp đạn,
    [​IMG]
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 18:40 ngày 26/11/2009
  6. prohezt

    prohezt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/12/2008
    Bài viết:
    881
    Đã được thích:
    0
    Pác bên quân khí à? Bài hay wa
  7. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Quote nhiều tầng quá.
    Cha này không phải quần khi, chả chỉ thích súng đạn và máu chữa bệnh não mà thôi.
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Một bộ súng lúc đó như là quyết định của Hitlẻ 6-4-1944, bao gồm
    G43, vai trò là súng trường chủ lực
    MP44, súng xung phong,
    MG42: súng trợ chiên
    Cùng là súng xung phong, nhưng MP44 là súng ngắn. Súng trường xung phong là SK39 đã ngỏm củ tỏi vì dân MP lãnh đạo Đức. xung phong trong tiếng Đức là sturm, bão tố, SK là sturm karabiner. Từ súng xung phong được dùng từ hồi format lực lượng công kiên Strurm Trupp= bộ đội xung kích. Súng xung phong Đức trừ SK39 chết non thì toàn MP, ban đầu là MP18,I.
    Vậy AK xuất phát từ đâu ?
    Thật ra, thế mạnh chính của AK là viên đạn chứ không phải khẩu súng, nó nhỏ nhẹ nhưng sát thương cao hơn Mosin, (NATO 7,62x56 là copy Mosin phần đường đạn). Tất nhiên sức xuyên và tầm xa thì không bằng đạn to.
    Người đề ra ý tưởng súng trường xung phong STXF, cùng với các loiaj súng tự động khác, là nhà nghiên cứu lý thuyết, nhà toán học Filatov. Người thực hiện khẩu STXF đầu tiên là Fedorov, khẩu súng tên là Fedorov Avtomat. Filatov là người tính toán và Degtriarev là người thực hiện mẫu thử.
    Degtriarev là con người đặc biệt, ông thừa kế truyền thống "thợ lưu", theo gia truyền Tula đi làm thợ từ năm 11 tuổi, năm 1891, đúng năm Mosin bắt đầu sản xuất lớn. Những máy móc của Mosin và kỹ thuật gia công kim loại hiện đại dành cho nó làm người thợ trẻ ấn tượng. Ông đi lính khi 20-21 tuổi, được Fedorov kéo về làm cận vụ dưới quyền, chính là người thợ sẽ thực hiện các mẫu thử. Dưới sự dạy bảo của thầy, người thợ truyền thống này trở thành nhà khoa học nổi tiếng, tiến sỹ khoa học, viện sỹ.
    Degtriarev trình bầy mẫu khoá nòng đầu tiên năm 1917. Mẫu này được một nhà khoa học thuỵ điển vẽ những chưa thực hiện. Sau này nguyên bản Thuỵ Điển được G43 sử dụng, dùng ngạnh cong lật. Còn Degtriarev là cải tiến, dùng ngạnh thẳng, máy to hơn, nhưng chuyển đọng đơn giản, chấp nhận sai số lớn, vật liệu rẻ, thích hợp cho súng to. Sau này, FA biến dần thành Fedorov-Degtriarev từ năm 1918 và cuối cùng là DP. DO chuyển sang dùng băng dây là DP46, DP46 thu nhỏ dùng đạn AK là RPD.
    Thật là duyên gặp nhau của những thiên tài, G43 không thể vượt qua thử nghiệm và chìa khoá để qua cửa này là trích khí của SVT. Trích khí SVT không cải gì nhiều từ DP ngoài việc tác rời cần đẩy lùi. Trích khí này trở thành mẫu mực của trích khí-piston dạng lỗ tiết lưu, được dùng trên MP44, AR-18, LWRC, G36, XM8... Duy chỉ có G36 cải tiến khá nhiều theo điều kiện gia công mới, còn các súng khác thì y hệt đúc DP và SVT.
    Không phải Liên Xô là thiên đường của súng ống như nhiều người nghĩ, ở đó không thiếu bảo thủ, trì trệ và tham nhũng. Chỉ có điều ở Nga và Đức có hệ thống "chính thống" trong khoa học, nên những cái đúng dù không được thực hiện nhưng luôn được công nhận.
    Fedorov Avtomat FA ra đời khi tác giả tham gia vào một nhóm các nhà khoa học, lúc đó, họ gọi nhau là "thời kỳ hy sinh toàn diện". Các nhà khoa học súng đạn hoàn toàn không được giúp đỡ gì từ chính quyền, giới công nghiệp và quân đội. Họ tự phải lo cho nhau từ chuyện áo cơm đến học hành. Lúc đó, chính quyền Nga đã thối rữa, triều đình thối não, cầm đầu đất nước là chính phủ ăn cắp. Hài hước đau đớn như Mosin, súng được thiết kế để sản xuất trong những quân xưởng có mức như Tula và các vệ tinh, thậm chí chấp nhận làm rãnh tam giác bằng dao cỏ vẫn dùng chung đạn với rãnh chữ nhật, thế nhưng những hợp đòng lớn đầu tiên được bọn ăn cắp chuyển sang Pháp, Mỹ.
    Fedorov là học trò của Filatov, là thầy của Degtriarev, họ trở thành một cạ thiết kế súng hoàn hảo. Sau 1906, thực tế chiến tranh Nga-Nhật cho thấy Mosin khi giáp lá cà chỉ dùng được lê, mà bao giờ thì nỗ lực xung phong cũng là quan trọng nhất của mỗi chiến sỹ, mỗi trận đánh. Súng được chính quyền thử nghiệm rất chậm chạp từ năm 1939. Đến năm 1913 thì thiết kế xong, nhưng đắp chiếu.
    Điểm quan trọng nhất với FA là nguyên lý chiến đấu của nó, nguyên lý này có đầy đủ các bộ phận của STXF, mà quan trọng nhất là có tầm súng trường và bắn được khi di chuyển.
    Năm 1915, trước thực tế chiến tranh, một đơn hàng lớn được ký, nhưng chỉ hơn 3 ngàn khẩu trong đó được thực hiện trước 11-1917. Súng được dùng ở mặt trận Rumani. Khỏi phải nói đánh giá về cuộc cách mạng kỹ thuật chiến đấu này như thế nào.
    Đầu năm 1918, hai thầy trò đến Kovrov. Giai cấp công nhân nòi Degtriarev được làm xếp, đây là quyết định khôn ngoan của ông thầy. Ngoài ra, việc lên chức này được hợp lý hoá bằng một cuộc bầu cử dân chủ. Thành phố nhường quyền sản xuất AK cho Izhmash chỉ vì Đức đã tiến cách nó 200km. Còn trước đó, đây là nhà máy súng máy chủ lực ở Liên Xô. Sản lượng của nhà máy từ năm 1918-1927 chủ yếu là các tiền thân của DP, tức là các súng từ Fedorov Avtomat FA, đến Fedorov-Degtriarev, và DP, từ dùng cho cá nhan đến máy may, xe tăng. Sản phẩm nhiều nữa là các đại liên Maxim do Tokarev thiết kế lại và súng ngắn liên thanh. Nhưng việc sản xuất hết sức cầm chừng, và khá nhiều lần công nhân nhà máy phải cầm sản phẩm để tự vệ.
    Một trong những thành viên của nhóm phát triển súng trước năm 1917 là Tokarev, tuy nhiên, mẫu súng trường tự động của ông không may mắn như Fedorov, có thể do Fedorov khéo nói hơn chẳng hạn. Tokarev tiếp tục cải tiến nhiều và thành SVT. Tokarev cũng là người thiết kế nguyên lý chiến đấu cho súng ngắn liên thanh năm 1927, mà sau này có ở Suomi, PPSh và M16 Mỹ. Sau thử nghiệm 1927, Tokarev đâm đầu vào làm đạn cho cả PPSh và Mosin.
    Tuy nhiên, cũng như bên Đức, FA không được cung cấp đạn, với lý do việc thay đổi cỡ súng trường sẽ làm mất sản lượng gối đầu súng đạn trong vài năm. FA được dùng cho lực lượng bộ binh cơ giới đầu tiên. Lần cuối FA được dùng là chiến tranh Phần Lan.
    Cực chẳng đã, Fedorov dạy ra một loạt học trò, đều trở thành viện sỹ, và STXF đã có cả một mặt trận các nhà khoa học khởi nghĩa đưa nó lên vua.
    Cỡ đạn thử nghiệm đầu tiên của M43 là 7,62x41, nó gần giống với cỡ đạn súng trường của GECO, cũng không thể biết Nga có học theo Đức lúc đó không, nhưng đó là MKb35, SK39 chứ không hề là MP44. Một cuộc đua thiết kế súng trường khổng lồ diễn ra với các nhà chế súng hàng đầu Liên Xô. Năm 1947, AK đứng ra tập hợp những ưu điểm tốt nhất, súng được chấp nhận năm 1949, gần như cùng thời với việc định hình đạn. Klasnikov đứng ra sản xuất.
    Klasnikov chỉ là người thực hiện giai đoạn cuối, còn hội đồng, tức là người chỉ huy chiến dịch khổng lồ này, chính là hai thầy trò Fedorov-Degtriarev. Đang tiếc, khi AK vừa thành công thì Degtriarev mất.
    Thật ra, AK chưa được công nhận là súng chủ lực , lúc đó là thời đại ngắn ngủi của SKS xê ca xê. Mất 10 năm cuối đời, các nhà khoa học theo Fedorov đánh bại SKS, thành công năn 1959 với đủ bộ: PK, RPK, AKM, BMP, B41.
    Sự lựa chọn 7,62mm là sự lựa chọn khôn ngoan của Fedorov, giống y như SK39 chọn cỡ 7,92mm của Mauser. Điều này lẽ được lý sự thay đỏi cỡ đường kính súng trường chủ lực. Tuy nhiên, điều này lại không thật sự ưu việt cho STXF. Cỡ đạn hợp nhất với chung nằm khoảng xung quanh 6,5mm mà trước đây Fedorov đã tính. Nhưng trước 1917, chính quyền Nga Hoàng buộc Fedorov dùng đạn Nhật, hiện ANh đang sản xuất cho Nhật. DDieuf này làm Fedorov không thể cải tiến được đạn, sau đó Hồng Quân bị cấm vận đạn này và FA chết yểu.
    Sau khi Fedorov mất năm 1966, những nhà phát triển mới đã làm lệch đường đi của AK. Ví dụ, trích khí tiết lưu được dùng, mục đích ban đầu để phục vụ hệ thống lùi cân bằng (AK107, AK108), nhưng sau được dùng ồ ạt do quá rẻ. Vẫn đề lớn nhất sau 1966 là dùng đạn quá nhỏ 5,45. Điều này lại làm Nga độc quyền về đạn AK 5,45, vì nó quá khó chế tạo, mà Nga hiện đang giữ độc quyền. Cỡ 6,5mm không yêu cầu cấu tạo đạn quá khoai, mà đạt những ưu thế tốt nhất của STXF, mà cỡ đạn 7,62mm quá lớn.
    Đến thập niên 198x, Liên Xô lại thử nghiemj lại đạn 6,0-6,5 mm. Nhưng Gorbachov thối não đã cho dừng.
    Như vậy, Fedorov mới chính là người đã danh cả cuộc đời để chế tạo và đấu tranh cho AK, chứ không phải là Klashnikov.
    ;;;;
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 20:41 ngày 26/11/2009
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Phì ra cười.
    như vậy, chương trình AK đã có trước MP44 cả một thời đại. Đến khi người ta ý định thử nghiệm các MkB35 đầu tiên thì các tiền nhiệm của AK đã tham gia vào nhiều cuộc chiến, trở thành lính già rồi, tích đầy miònh kinh nghiệm rồi. Fedorov Avtomat đã đang trog chiến tranh chiến hào cổ lỗ ở Rumani, đánh kỵ binh nội chiến, được dùng là súng cho xe tăng, máy bay, rồi được dùng tập trận trong bộ binh cơ giới kiểu mới, và dùng với vai trò bộ binh cơ giới trong chiến tranh Phần Lan. Việc sản xuất khá nhiều và luôn sử dungjtrong các mũi nhọn chứng minh súng được Liên Xô đặc biệt coi trọng.
    MP44,. ngược lại với liệt não nói, là một súng tập hợp rất nhiều những cấu tạo trước đó của Liên Xô. Đơn giản là vì Đức lúc đó không có nhiều kinh nghiệm thiết kế súng liên thanh nhỏ trích khí, mà máy của Đức hầu như là lùi các loại
    Về cấu trúc vỏ máy súng, chúng ta đều biết nắp hộp khoá nòng AK mở thế nào. CÒn MP44 sao y từ PPSh và PPS, mở bằng bản lề lật xuống.
    MP44
    [​IMG]
    ảnh to, lật rồi kéo ra đuôi, không sai khác gì PPSh và PPS cả
    http://www.gunsofthereich.com/images/MP43-356c/pics/23.jpg
    PPSh
    [​IMG]
    Bề ngoài PPS, tay cầm, băng cong đây, lại copnf cả báng gập. Thật ra những cái này đều có tiên phong là chú EMP36, tiền thân của MP38. Lúc đó kiểu dáng này là xì tin, không thể nói là ai học ai được. Và dù có ai học ai thì MP44 cũng là em út xa vời.
    [​IMG]
    Cách mở này có vẻ là mẫu mực cho MP nhỉ.
    [​IMG]
    Máy cò, nút chọn chế độ bắn đặc trưng của MP Đức, xiên ngang máy súng. Còn máy cò , chọn chế độ bắn của AK cũng đã xuất hiện từ lâu trong một số súng tự động của Pháp, Đức, nhưng hoàn toàn khác biệt với MP44. Thật ra, hệ thống này AK lấy trực tiếp từ AS, như ảnh bên dưới.
    ảnh to, để link thôi
    http://www.gunsofthereich.com/images/MP43-356c/pics/15.jpg
    Khoá nòng MP44 học từ đâu, đây, PTRS-41 và sau đó là xê ca xê sks
    [​IMG]
    [​IMG]
    Đây, mẫu mực của nó đây, trên là PTRS và dưới là SKS. Hài hước nhất là sau khi dân MP Đức lãnh đạo không cho ra súng tốt, thì Hitler quyết định dùng máy súng phát một chi liên thanh MP44 và dùng máy súng liên thanh cho phát một G43.
    [​IMG]
    Kiểu kgoá nòng này rất dễ làm , hay được dùng cho súng tự động hồi đó. Tuy nhiên, nó rung ngang đường đạn theo chiều đứng, giảm chụm loạt. Kiểu này có nhiều biến thể, SVT có hai tai xách hai bên, sau được copy gần như đúc trong AG42 Thuỵ Điển và FN FAL. Hai tai hai bên đó làm giảm chút chuyển động đứng của khôi chèn.
    Kiểu xê ca xê này đơn giản nhất, nhưng tập trung kích thước vào một tai làm tai to, chuyển động đứng mạnh, rung súng hơn, nguy hiểm với loạt dài là rung ngang đường đạn theo chiều đứng.
    AS-44 cũng là kiểu SVT, do thừa kế những tính toán thiết kế cũ nên súng quá nhanh hoàn thành. Và thự tế nhiều ảnh tư liệu cho thấy, mẫu đầu tiên của đợt tổng khởi nghĩa đưa AK lên ngôi vua này được quân Đức nhặt khá nhiều.
    Fedorov Avtomat
    Thật ra, sức mạnh chính của AK là ở viên đạn. Klasshnicov chỉ là người tham gia vào một khâu rất nhỏ trong sự nghiệp khổng lồ thiết kế súng, và được chọn là người đứng ra tổ chức sản xuất súng.
    [​IMG]
    Súng ngắn không có ốp lót tay được liệt não nói láo là súng trường
    [​IMG]
    Điểm cầm trước trên cổ băng, đặc trưng của MP
    [​IMG]
    Điểm cầm trước phải xa về trước trên ốp lót, nhờ đó tỷ lệ khoàng cách điểm cầm trước-điểm tỳ vai (còn gọi là bán kính điểm cầm trước), chia cho tầm đến mục tiêu, giảm đi. Tỷ lệ này quyết định "độ phân giải" của động tác chỉnh đường ngắm. Ví dụ, điểm cầm trước của AK cách 60cm, "độ phân giải" của cánh tay là 0,4mm, thì đường ngắm có độ phân giải 20cm đạt được tối đa ở 300 mét. Nếu điểm cầm trước 40cm thì chỉ còn 200 mét. Đương nhiên không vì tiếc một miếng gỗ mà làm giảm tầm súng, chỉ có MP44 không quá hiệu quả 200 mét nên chả cần miếng gỗ ấy làm gì.
    Và đương nhiên, muốn là súng trường thì phải có điểm cầm trước xa, là ốp lót hoặc tay cầm trước
    [​IMG]
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 10:33 ngày 27/11/2009
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 10:38 ngày 27/11/2009
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 12:13 ngày 27/11/2009
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 12:15 ngày 27/11/2009
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đây là một mấu AS, có thể nói, nó đã rất giống AK. AS sử sụng khoá nòng chèn nghiêng, nhưng dùng kiểu SVT, có hai tai xách hai bên. Điều này làm giảm chiều cao của máy súng, giảm chuyển động đứng của khối chèn, giảm rung chút và làm nhẹ súng đi chút.
    Kiểu máy này không thích hợp với liên thanh như khoá xoáy AK, nhưng đỡ hơn là MP44 nhiều. Sau này, FN FALN là khẩu súng thành công nhất phương Tây cùng thời AK 7,62mm, FN FAL được coi là SVT liên thanh hoá.
    Ngìn cái khoá an toàn thì biết máy cò AK thùa kế từ đâu. NHìn cách mở máy súng cũng thấy cấu tạo vỏ máy súng AK là loại nào. Do vội vàng và cái nhau nhiều quá, MP44 dùng lại nhưng thiết kế cổ lỗ trong khi đã có nhiều thiết kế tiến bộ hơn rồi. Từ lâu Suomi Phần Lan và súng Nga đã bỏ kiểu máy cò MP28.
    cũng đã thấy trích khí xiên ngược. TRích khí xiên ngược xuất hiện muộn trong dòng AS, khi Sudaev ốm và không đủ sức thiết kế súng nữa, đáng tiếc, sau đó ông mất khi còn rất trẻ. Còn cấu tạo vỏ máy súng và khoá cò thì xuất hiện ngay từ những mâu AS đầu tiên, chính những mẫu đã va đập với quân Đức ngoài chiến trường.
    NHìn những bức ảnh này thì liệt não nói sao, AK thừa kế từ AS-44 hay là MP-44, từ súng ngắn hay là súng trường.
    [​IMG]
    [​IMG]
    SK đã ngỏm củ tỏi năm nó có tên SK, 1939. SÚng trường phải có điểm cầm trước xa.
    [​IMG]
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 12:22 ngày 27/11/2009

Chia sẻ trang này