1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

AK-47 is a copy of Sturmgewehr 44

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi fitter, 02/09/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    http://www.youtube.com/watch?v=FXRY2j3RaUs&feature=related
    http://www.youtube.com/watch?v=lQe864rGLyk
    xếp hai chú cạnh nhau, Mosin và AK. Khoán nòng coay hai tai được Mauser và Mosin dùng từ lâu, nhưng khi chuyển sang tự động, đặc bieeth là liên thanh thì gặp nhiều vẫn đề, do đó cả Chauchat và M1 Garand đều không có hình dáng hợp lý.
    Vến đề là ở liên thanh càng khó dùng, khi súng bắn nhiều, nó mòn nhanh và tai to hơn. Dốc móc vỏ đạn của AK hình thành rất muộn, Bulkin có khoá nòng giống AK nhưng cững chưa có dốc móc ưu việt như vậy.
    Về băng.
    Đặc trưng của băng đạn hai hàng M1 Garand là miệng băng cân đều hai bên, móc vỏ đạn luồn giữa, tin cậy. Miệng băng to hơn một viên đạn, nhưng nhờ hình dang hai bên thanh miệng băng mà đạn không bật ra. Trước đó các băng hai hàng như PTRS làm lệch một bên. G-43 Đức thời gian này cũng học theo và chỉ đến những prototype muộn nhất của MP44 mới có cái này,
    Điều đó là hợp lý, vì MP38, 40, 41 Đức đều là băng một hàng, MP41/II mới là băng hai hàng, sản xuất rất ít. Vậy nên chương trinh MP Đức dùng băng một hàng là dễ hiểu.
    Băng hai hàng ban đầu, sử dụng cái kẹp đạn này để nhồi nhanh đạn
    [​IMG]
    Ở đây là đạn. Liệt não nhai đi nhai lại MP44 nhồi 1,65 gram do đó mạnh bằng AK.
    Một là, AK có thuật đường đạn rất khiếp, nó nhỏ nhje chậm hơn, những sát thương cao hơn Mosin (NATO 7,62). Như vậy dù MP44 có sơ tốc cao hơn AK 100m/s thì nó vẫn chưa bằng AK. Với liệt não thì nói đường đạn chúng lờ ngờ , não thối mà
    hai là, mình cũng có biết thử nghiệm nhồi 1,65 gram. Nhưng các đạn sản xuất trước và sau chiến tranh, tức là mẫu đạn cuối cùng được chấp nhận vượt thử nghiệm, đều nhổi 1,54 gram, sơ tốc 620 m/s.
    ba là, dù nhồi ít như vậy nhưng MP44 vẫn quá nặng, nó nặng bằng trung liên RPK. Nguyên nhân dễ hiểu, nòng nó quá dầy do nhồi quá nhiều vào vỏ đạn bé, sinh áp lực quá cao, lại cố kéo dài nòng để vớt vát sơ tốc. Đó là hậu quả súng ngắn muốn như súng trường. Sau khi bóp cổ chết SK39, dân MP cố giật gấu vá vai nên mới ra nỗi này.
    http://claus.espeholt.dk/mp44.htm
    http://claus.espeholt.dk/
    [​IMG]
    [​IMG]
    AK có sức sát thương cao hơn cả NATO 7,62x54 (Mosin). Như vậy, dù MP44 có sơ tốc đến 850m/s vẫn chưa sánh sức phá với AK được, vì chưa có kỹ thuật đường đạn mời định hình khoảng 1948-1949
    Liệt não thường nói MP44 cơ sơ tốc 680m/s đạn nhồi 1,65 gram. Thật ra, những đạn mạnh nhất do Czech sản xuất 195x cũng chỉ nhồi 1,57 gram. Loại đạn Đức chấp nhận trước khi chết là 1.45-1.50 gram. Và đương nhiên, súng cũng rất nặng, không bền, sử dụng đạn quá áp nhưng giải pháp cuối cùng mà thôi. Sơ tốc thật của MP44 là 620 m/s
    [​IMG]

    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 12:27 ngày 27/11/2009
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    [​IMG]
    trông cần đẩy lùi có vẻ là AK nhỉ
    Liệt não thì nói thế, thực tế, nguyên lý hai đẩy lùi hoàn toàn nhược nhau, AK là khí động xung, MP44 là áp lực tiết hưu hành trình dài long-stroke
    Hành trình ở đây là tính hành trình đâyủ lùi có lực đẩy, không ai tính đoạn đường piston không còn là piston, bị bệ khoa nòng kéo theo quá tính.
    Đây là hệ thống điển hình DP, SVT. Tuy nhiên, người đức làm piston chạy, chứ không làm cylinhder chạy. Buồn cười, do quá nhiều liệt não, nên tiếng ANh được phát triển bởi những chú bi bô mới học tiếng Anh, lắm đoạn cười vãi. Người nói tiếng ANh khi bê cái bộ đẩy SVT về mới gọi cái cylinhder là piston hình cốc, piston là cylinhder hình mũi, cười vãi .... 100 thứ.
    Cái bộ đẩy của DP nguyên thuỷ bao gồm một lỗ tiết lưu nhỏ, cơ vận điều chỉnh kích thước, nhờ đó điều chỉnh được tốc độ bắn khi súng mòn. Toàn bộ hệ thống tích năng lượng lớn hơn nhiều khả năng hãm của lò xo, xả năng lượng bằng đập vào cuối súng, nhờ đó súng có tốc độ bắn ổn định và bền. Khi trích được tích vào một khoang rộng và kín, nhờ có lỗ tiết lưu mà nó chạy ngược về nòng chậm, nên áp suất còn lại trong khoang lâu, đẩy máy súng chạy trong một thời gian dài, và vì thế mà gọi là long-stroke
    Nhưng điểm ngược với khí động AK là hệ piston-cylinhder phải kín, nếu không khí thất thoát nhanh. Kín là phải chấp nhận to, nặng đẻ bảo vệ, để lâu mòn... và hợp kim tốt giá đắt. Nhưng khi buộc phải chấp nhận kín thì lại có nhiều thuận lợi "khuyễn mãi", ví dụ DP và SVT dùng cylinhder chuyển động, điều này làm bố trí ray chính xác hơn và thực hiện được là nhờ đường kính cylinhder nhỏ, đường kính nhỏ là nhờ hệ thống kín, tận thu áp lực.
    Lợi điểm lớn nhất của hành trình dài là tốc độ khối lùi tăng từ từ, lực đẩy nhỏ, không rung súng, không cần cần đẩy về quá khoẻ, bắn được lựu từ nòng chính... Những súng máy khối lùi nặng như DP mà xung như AK thì cần đẩy lùi nặng hàng kg.
    Lộn ngược bộ cylihder và piston này còn đem đến nhiều điểm lợi ngoài chuyện ray chính xác. Ví dụ, dòng khí nén phải lộn lại mới thoát, nên tận thu năng lượng, kể cả khi không kín lắm, trong trường hợp này piston cylinhder đóng vai tuye-turbine. Hai là bụi bẩn khí thuốc thoát ra ngoài máy súng, chứ không chui vào trong... Cộng cả lại là sự tiết kiệm khí,
    Ở lúc này, người Đức lại không có kinh nghiệm trích khí, vì hầu hết các máy súng danh tiếng của họ lúc đó đều là lùi. Chính vì thế mới có cái duyên kỳ lạ, anh em họ xa quay lại chung sống, là trích khí SVT trở thành chìa khoá để G43 vượt qua thử nghiệm.
    Tuy nhiên, người Đức lúc đó cũng chưa nhiều kinh nghiệm để đánh giá trích khí. MP44 bỏ việc lộn ngược bộ cylinhder. Sau này, G36 cũng làm vậy, nhưng phải thêm một cơ chế thay đổi tiết diện piston và thoát khí về trước.
    Vì chuyện cái cylinhder lộn ngược có tác dụng của turbine tận thu dòng khí, nên nó tốn ít khí và kéo dài được hành trình, khi áp lực giảm đã lâu, chỉ còn vận tốc dòng khí. Vì vậy khéo thiết kế làm lực đẩy kéo dài và đều. Khi quay xuôi như G36, phải làm diện tích piston tăng lên sau một đoạn đường chạy, làm tăng đều lực đẩy khi áp suất đã giảm, và sau đó mở cửa thoát khí về trước. Tuy nhiên, cơ cấu này xuất hiện quá nhiều cylinhder cùng bị mòn, nên AM8 vẫn đang chê.
    Đứng từ góc nhìn G36 50 năm sau, ta mới thấy cái trích khí của MP44. NGười ta dự định không xoay bộ cylinhder cho rẻ, nhưng cuối cùng lại đắt, do thiếu kinh nghiệm đanh giá hướng phát triển ban đầu. Ngoài chuyện đó ra thì các cơ cấu lỗ tiết lưu, điều chỉnh diện tích lỗ, khoang tích khí... đều theo mẫu mực DP.
    Còn trích khi của AK-47 mình nói rồi, đó là một trích khí rất hiế khi được dùng, vì nó rất khó tính toán. Nó là trích khí khí đồng xung, hành trình ngắn, shotr-stroke. Lỗ trông với nòng rất to, vì nó không dùng tiết lưu để ngăn khí thoát ra, mà dung vận tốc dòng khí ngắn không cho khí lộn ngược lại trong ống trích xiên ngược. Vì cái lỗ to, thằng này mà khí lập tức thoát về nòng, không kéo dài được dòng năng lượng truyền vào lỗ. Thực chất, piston AK chạy sau khi đạn đa xra khỏi nòng, vận tốc dòng khí trong ống trích thẳng dài đẩy nó chạy.
    Gia tốc của khối lùi AK rất lớn, vận tốc đạn được trong thời gian ngắn, sau đó chạy bằng quan tính, vì vậy súng rung mạnh và cần đẩy về cần to khoẻ, cũng không bắn được lựu đạn từ đầu nòng chính.
    Hai trích khí hoàn toàn ngược nhau, và dân liệt não cần nhớ rằng, đa phần các giải pháp quan trọng của MP44 học từ bên địch.
  3. ALPHA3

    ALPHA3 Moderator

    Tham gia ngày:
    02/04/2002
    Bài viết:
    26.328
    Đã được thích:
    4.538
    Đọc suốt bài của bác Huy Phúc mà phì cười!
    Kiến thức tốt mà vẫn tật cũ không bỏ.
    Đúng là lắm tài nhiều tật. Mỗi người mỗi vẻ, thích đấy
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Tại sao bọn ngu dân tiếng anh lại làm liệt não hàng núi trẻ em tiếng anh về AK học theo MP44.
    Tại sao lại công phu đến mức cố nói súng ngắn là súng trường, bất chấp nó tên là súng ngắn.
    À, nó đây, khẩu súng này dùng khá nhiều ở VN, vừa gây án mạng xong
    [​IMG]
    Các bạn nhận ra đó là gì không. Đó là khẩu súng cùng cỡ đạn, gần giống kích thước vỏ đạn với MP44, cùng thời với AS-44, MkB35, SK39, MP44, AK... Và đương nhiên, nó cũng tung hoành ngang dọc bắn nhau với AK trong một thời gian dài
    http://world.guns.ru/rifle/rfl08-e.htm
    Đó chính là M1 Carbine
    Nó chẳng khác gì AK cả, cũng xưng là súng trường (cạc bin là súng trường nhỏ, AK ban đầu cũng xưng là cạc bin vì đang đứng trước mặt K44, sau lên ngôi rồi mới ỉm phéng cạc bin đi), cũng có bắn liên thanh.
    Có điều, đạn nó cả về cấu tạo và sức mạnhđều quá yếu. M1 Carbine dùng đạn dum-dum đặc trứng cho súng ngắn, người Mỹ lại không đủ trình dùng quá áp để tăng sức cho đạn súng ngắn. (lúc đóp tất cả các súng ngắn Đức đã cải tiến quá áp với áp lực rất cao, cao gấp rưới bình thường, dùng cho MP. Các đạn này đều ghi "chỉ dùng cho MP", vì làm nổ nòng súng ngắn một tay, sau chiến tranh Anh-Mỹ mới du nhập được phần nào thuốc đạn Đức).
    Đạn dum dum là đạn súng ngắn, anh M1 Carbine là súng ngắn nhưng xưng là súng trường. ANh MP44 to hơn mạnh hơn vẫn khiêm tốn là súng ngắn.
    Tại sau súng trường lại yếu hơn súng ngắn được nhỉ?
    Và thế là cỗ máy chế tạo liệt não mang tên wiki mới thiết kế ra cả một học thuyết liệt não, mà từ điểm của nó mình vừa chỉ ra xong.
    Không chỉ truyền bá, bệnh liệt não còn được khuyết đại qua các lăng kinh não liệt một cách khủng khiếp. Ví dụ, sau một thời gian bị phỉ nhổ, wiki tiếng ANh co vào chỉ còn một dòng bé tí, "AK theo concept (nguyên lý chiến đâu) của MP44, nhưng 2 súng rất khác nhau". Tất nhiên để nói được dòng này thì liệt não vẫn phải ỉm phéng FA đi, ỉm phéng chuyện chính người thiết kế FA mới là trùm sò của hội đồng thiết kế AK, còn Klashnicov chỉ là lính cần vụ trẻ, sẽ thay ông già chế tạo súng này, và đảm bảo ngôi vị của nó vững vàng khi các ông già về chầu giời.
    Thế nhưng đến wiki một số thứ tiếng, thường được thực hiện bằng công nghệ dịch từ wiki Anh, theo kiểu không cần não, đoạn này được cải chút. Vì bà con ở thế giới liệt não thường kém học vẫn, tra từ điển biết concept là gì nhưng chịu không dịch được. Thế là AK học theo MP44
    Cái học thuyết này nhanh chóng phổ cập trong thời đại ngu dân toàn cầu mang tên Bush. Phì ra cười, nước nào nhái AK nhiều nhất : Mỹ. Đạn nào mẫu mực ở Mỹ: AK-47. Nước nào đăng ký nhiều phát minh nhái nguyên bản AK nhất: Mỹ. Dân Mỹ khoái khẩu súng nào nhất: AK-47.
    Có điều AK-47 ở Mỹ thường được đánh thuế rất cao, vừa là súng máy, vừa là súng nhập khẩu, thuộc hàng thuế tiêu thụ đặc biệt. Thường để vận chuyển, phải dùng mot hàn cắt súng ra để tránh thuế, đến nơi hàn lại, làm như thế tuy súng hại vô cùng, nhưng bít seo.
    MP44 là súng ngắn hay là súng trường ?? tuỳ tiêu chuẩn đanh giá vậy. Với con gián thì một phân là cồng kềnh rồi, con hươu cao cổ không thể cãi được với gián. M1 Carbine là súng trường thì MP44 quá là súng trường, lại còn là súng trường hạng nặng ấy chứ.
  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Hậu sự của Fedorov
    mình không tranh cãi xem ai là cha đẻ của AK, Klashnicov hay là ai đó. Điều đó cũng như là con cái là hậu duệ của bố hay của mẹ vậy, hay là của ông hoặc của bà, phức tạp lắm. AK là người chấp bút viết đoạn cuối cùng, là hoàn chỉnh thiết kế và bắt tay vào sản xuất. Nhưng đó chỉ là phần nổi, rất nhỏ so với cả một mặt trận đông đảo các nhà thiết kế khác, đa phần đều coi Fedorov là thầy, khởi nghĩa đồng loạt đưa STXF lên ngôi vua.
    Chúng ta cũng đã thấy, nguyên lý chiến đấu AK thì đã già rồi, còn các chi tiết thiết kế thì đã có nhiều trên các súng khác cùng cuộc khởi nghĩa, từ cái báng, cho đến nguyên lý và cấu tạo máy móc.
    Người Nga không thích khoe khoang nhiều về các sức mạnh của họ, thậm chí còn im ỉm chế tạo ra nhiều tình huống giếu cợt để che đi. Điều đó có từ cổ xưa, ví dụ, loại cối có buồng đốt hình nón đặt lệch lên sẽ làm đạn xoáy và không nẩy trong nòng. Nó được người Nga dùng từ cuối 1k17, phổ biến thời Piotr, nhưng Pháp mãi sau cách mạng mới dùng, còn ANh Mỹ vẫn dùng cối cổ cho đến tk20. Nguyên nhân là người Nga chế tạo ra một chuyện hài giễu cợt đậm chất Piotr, làm các nước khác tin sái cổ đó là ý tưởng rồ nào đó của một nhà quý tộc nào đó, chỉ vì được lòng Piotr mà được chế tạo, như một sự giễu cợt nước Nga vây.
    Cũng bằng cách đó mà người Nga giấu biệt được trạm truyền nổ chữ U và ống hội tụ sức nổ của B41, trạm chữ U thì có từ B40. Cả hai điều này đều được đem ra giễu, và phương Tây lại tin sái cổ đấy là một học thuyết ngớ ngẩn của một ông bác học lão làng nào đó đang gặp thời. CHo đến sau 199x , nước Đức có toán học Đông Đức, mới làm được trạm chữ U, còn ống hội tụ thì chưa. Trong khi thế giới thờ ơ cho rằng B41 chả có gì đặc biệt, nó nổi tiếng chỉ vì quân Vịt dùng nó, thì ống hội tụ này được phát triển siêu việt trong AT14. Xuyên qua khoảng giáp trống hàng mét vẫn hội tụ.
    Các đặc tính ưu việt của AK cũng được giấu biệt bởi anh sáng chói chang người ta cố ý chiếu vào Klashnicov. Mà ưu điểm đầu tiên: nó rất dễ chế tạo, với dung sai gia công lớn. Về đường đạn, trong tầm 300 mét, AK bắn cực chính xác, vòng tròn chụm đạn ở 250 mét là 20mm, trong khi đó M16 là 508mm ở 274 mét. Ở 300 mét, AK bắn đầu thua Mosin vốn "bền" năng lượng hơn. Về sức công phá, đạn AK phá thịt người hơn cả Mosin (NATO 7,62x51), gấp đôi M16 tất cả các đời.
    Ít người biết được nòng AK mòn vẹt, thả viên đạn chưa bắn (tháo từ vỏ đạn mới), trôi từ đầu này đến đầu kia, vẫn không giảm độ chính xác. Đây là một bí mật của đạn, được thực hiện từ năm 1936 cho SVT và các đời dùng đạn Mosin khác, được thực hiện dưới áp lực của chính Tokarev. Tokarev có ảnh hưởng mạnh đến cả đạn cho PPSh và Mosin.
    Bí mật ở chỗ, nòng nó mòn theo hình côn, cuối nòng mòn nhiều, to hơn, đầu nòng nhỏ. Thêm nữa, đạn lại.... phình ra khi bắn. Vậy nên viên đạn bắn trong nòng mòn vẫn bị xiết chặt. Nòng AK chỉ không dùng được khi rãnh xoắn mòn vẹt cả bờ, đạn không xoay được nữa.
    Chính vì thế, nòng AK 7,62mm có thể mòn đến 0,6mm (mỗi bên 0,3mm), mà dùng đạn M43/67 vẫn chuẩn, tức lúc đó chõ rộng nhất của nòng, tường là má bên chịu lực của rãnh, có thể đạt 8,2mm hay hơn nữa. Đó là chưa kể những kỹ thuật xẻ rãnh có hình thù đặc việt, như rãnh sâu ở chân thành đứng, vẫn đang được dùng trên các súng máy khác.
    Đạn tk19 phình, nó là chì đúc. Nhưng ít người biết đến điều đó, trừ những nhà nghiên cứu thì không ai nhìn thấy hình dang viên đạn chì đúc sau khi bắn. Đến thời đạn thép vỏ đồng, thì nó phình ít hơn, nhưng ban đầu người ta cậy gia công nòng tốt hơn. Đến M1936, thì đạn Mosin có một số giải pháp tăng phình, được hoàn thiện ở M43/67. Đạn 5,45 thì ngay từ đầu đã chú ý các giải pháp này, nên về độ bền nòng thì cực chuẩn.
    Độ bền nòng của đạn như vậy, không phải đạn làm nòng mòn ít thì nòng bền. Chuyện đạn phình thế nào thì những nhà toán học Nga và Đức lại giữ im ỉm. Ở rất nhiều nước, kể cả những nước đã sản xuất hàng chục triệu súng trường, không có một người nào biết việc này.
    Đó là những bí mật đương nhiên không phải của Klashnicov, mà của hậu trường, của phần chìm tảng băng. Tất cả đều hoạt động dưới sự lãnh đạo của Fedorov.
    Ở đây, có đoạn ngoắt nghéo của lịch sử.
    Fedorov không được cả Nga Hoàng và Liên Xô ủng hộ, ông bỏ ra 30 năm, vừa chế súng vừa dậy được một mặt trận viện sỹ, tổng khởi nghĩa đưa STXF lên ngôi.
    Một quyết định khôn ngoan của Fedorov là lôi kéo về mình một người thợ trẻ nhưng đã mấy đời làm súng, đầu óc tay chân đều phi phàm, đó là Degtriarev.
    Quyết định khôn ngoan thứ hai là dựng ông học trò "giai cấp công nhân" này làm xếp, nhờ đó mà Kovrov trờ thành nhà máy súng máy chủ chốt của Liên Xô.
    Quyết định khôn ngoan thứ 3 là dựng Klashnicov lên, nhười thợ trẻ này cũng được huấn luyện thành viện sỹ, tuổi còn nhiều, sẽ thay thế các ông già sẽ sớm chầu trời.
    Về kỹ thuật, quyết định khôn ngoan của Fedorov là chấp nhận dùng đạn bằng đường kính với Mosin, cũng như SK39 chấp nhận bằng Mauser. Điều này là vô lý với việc thu nhỏ súng, thu nhỏ lệch lạc không cân đối. Nhưng điều này lách qua lý do lớn nhất mà bảo thủ đưa ra: tránh thay đổi cỡ đường kính, nhờ đó bảo tồn tốc độ sản xuất.
    Ngay khi AK đã lên ngôi thì nó làm gì chẳng được, vua mà, cứ ngắn lại đã, lên ngôi rồi co bé sau.
    Tuy nhiên, AK không được chấp nhận ngay, mà SKS còn tại vị. CHỉ đến AKM và vào năm 1959, có RPK, PK, BMP, B41... thì mới đủ bộ, SKS không còn lý do gì nữa giữ ngai.
    Và ngay lập tức, thập niên 196x bắt đầu bước hai của đạn Fedorov. Cả đời Fedorov luyến tiếc cỡ đạn 6,5mm của ông mà Nga Hoàng đã bỏ năm 1913, thay bằng đạn ngoại. Việc dùng đạn nước ngoài làm Fedorov không thể cải tiến được đạn, và đạn ngày đó còn thiếu nhiền kiến thức để trở thành đạn hiện đại.
    Các nhà thiết kế súng hiện đại đều công nhận, đạn với nguyên lý chiến đấu của AK-47 tốt nhất nằm ở khoảng nào đó 6-6,5mm. Khi đó, đạn đủ các tính năng chiến đấu, nhưng lại không quá khó làm như AK 5,45 (hay nói cách khác là bỏ đi quá nhiều sức mạnh như NATO 5,56), cũng nhẹ hơn 7,62 một chút mà giữ nguyên sức mạnh.
    Tuy nhiên, việc co bé lại đã quá muộn với Fedorov. Ông đã quá già và mất năm 1966.
    Sau đó, chương trình thử nghiệm phát triển lệch lạc. Đạn 6-6,5mm được thử nghiệm cho đến năm 198x thì dừng bởi Gorbachov. Đạn được phát triển cả ở các kiểu xung (nòng cực ngắn), ngắn (dùng cho súng ngắn), trung bình (STXF) và to (battle rifle).
    Việc chọn đạn 5,45 do tư tưởng quá lạc quan, rằng các cuộc chiến tranh mới Liên Xô không quá khó khăn, luôn áp đảo. Đạn 5,45 quá khó chế tạo, đến nay vẫn là độc quyền của Nga. Nó là đạn đầu rỗng, hiện nay phương Tây chỉ dám dùng trong súng bắn tỉa. Vì vậy, nó giữ được độ chính xác của đạn to (vòng chụm đạn 250met là 20mm), trong khi đó ở cỡ này, NATO 5,56 phải hy sinh "chống trên mũi nhọn", quay về đường đạn cố định trục tk19, với vòng chụm đạn 274 mét là 508mm.
    Một điểm chú ý ban đầu của đạn 5,45 Nga là chấp nhận nòng mòn nhiều. Đạn có lớp đệm mền rất dầy, lõi cứng nhỏ, khi bắn, lõi cứng này như cái nêm, lớp đệm khá nặng, chèn đạn phình ra rất nhiều, vì vậy súng càng chính xác.
    Trong khi đó, cỡ đạn 6,5mm hoàn toàn không cần các kỹ thuật cao cấp, vẫn đạt được ưu thế đường đạn, nhẹ hơn nhưng giữ nguyên sức mạnh của 7,62mm.
    Thời 196x ngài đạn ra còn hàng loạt các kiểu phát triển nữa. Ví dụ ngoằn nghèo là tiết lưu. AK về sau này bỏ cái trích khí xiên ngược lừng danh mà dùng tiết lưu kín, hành trình dài.
    Vẫn đề thế này, vào đầu thập niên 196x có xuất hiện mẫu mới A-4 và A-7, khắc phục nhược điểm khá lớn của AK là không chụm loại dài do súng nẩy lệch. Có nhiều giải pháp giảm điều đó, như học theo Suomi cái đâì nòng bù nầy (AKM 1955), nhưng triệt để nhất là hệ thống lùi cân bằng, AK-107, 108 hiện đang dùng. Để dùng hệ thống này phải chuyển sang tiết lưu hành trình dài. Người ta tổ chức nghiên cứu công nghệ dản xuất trích khí mới, mặc dù có thể có hoặc không lắp lùi cân bằng. Nhưng sau khi nghiên cứu, trích khí mới quá rẻ (đúc áp lực hàng loạt và gia công cắt gọt tự động), nên anh xiên ngược (phải đục điện) dần lép vế, mặc dù không lắp lùi cân bằng.
    Thật ra thì sau này, đến 197x, lại cải tiến tiết lưu để khắc phục phần nào các nhược điểm của nó, đặc trưng nhất là tăng kích thước lõ tiết lưu, làm kín piston, nhưng có lẽ không chuyển sang SVT thì không giải quyết triệt để. Mà chuyển sang kiểu SVT lừng danh thì còn gì là đơn giản nữa, thà dùng xiên ngược cho chóng.
    Kể ra dùng tiết lưu thì AK nhẹ hơn chút, vì bỏ được xung lực đấm vào cần đẩy lùi. CŨng mở ra khả năng bắn lựu đạn từ nòng chính, nhưng điều nay nay lạc hậu rồi vì đã có GP-25.
    Cũng vì các nhước điểm của đạn và tiết lưu mà thời hiện đại Izhmash vẫn thiết kế vàn sản xuất các phiên bản dùng các giải pháp khác, như trích khí kiểu cũ và cỡ 7,62. Một trong nhưng giải pháp tiên tiến được lai vào cả AK 7,62 và được nhái lại trên khắp thế giới, kể cả G36 Đức, là báng gập ngang làm bằng nhựa đúc của AK-74.
    Khi G36 di cư sang Mỹ làm XM8, người ta tránh mọi sự giống AK thể hiện quá lộ liễu, nên bỏ cái báng này đi, tất nhiên là cái giá phải trả là một cái báng dở hơi ăn cám lợn không nên có.
    Buồn cười. Năm 2006, trên Discouvery xuất hiện đoạn phim so AK và M16. ĐOạn này là một lô sản phẩm đặt hàng của thời Bush ngu dân toàn cầu. Năm 2006 là năm chủ nghĩa ngu dân toàn cầu này đứng trên bờ vực, Tầu đã tích luỹ một đống đô la nhiều hơn ngàn tỷ, chuẩn bị tung ra cú đấm thôi sơ tháng 6-2007 làm quyj nước Mỹ. Kinh tế thì vầ, chiến tranh thì sa lầy mọi nơi. Để lên dây cót số ngu dân liệt não còn lại, mới có sêri phim này. Về xe tăng thì M1Ax khôn ngoan, cúi đầu thua T-34, nhưng nhận đứng thứ 2, phá ra cười, cái xe tăng đạn 25mm bắn cũng thủng, nổ động cơ ấy dám xưng vô địch hiện tại. Tầu chiến thì Iowa pháo to hơn Yamato, không nhường ai, vô địch mọi thời đại. Súng trường thì nhường AK, nhưng khéo léo cài vào "M16 chính xác hơn". Đa phần ngu dân liệt não chưa từng nhìn thấy súng, sờ được lên mặt súng, nên không ai cãi nhau với đàn chó điên cả.
    Thật ra, ở 250 mét, AK chụm vòng 20mm. M16A2 là 508mm ở 274 mét, chênh nhau ở khoảng này cỡ 50 làm trong điều kiện M16 bắn trong hầm thử tĩnh gió, có điều hoà nhiệt độ.
    M16 so với AK47 bắn chụm loạt dài hơn, nhưng AK-47 không thiết kế cho điều đó, ở xa nó chuyển sang bắn phát một trong đối kháng. CÒn nếu liên thanht rợ chiến thì đương nhiên không cần chụm, mà chụm là vứt đi.
    Khi đạn nhẹ súng nhiều đi cơ giới, thì AK 5,45 mới lo đến chụm loạt dài, và lúc này thì nó chấp tất cả các súng khác đã dùng thực tế, chỉ trừ súng thử ngiệm như G11. (Thật ra, chiến đấu trên xe cơ giới vẫn đang được tranh luận, AK chỉ đi trước thôi, như sẵn sàng cho các nhà khoa học chiến thuật. BMP có công sự để chiến đấu không cần xuống xe, được dùng cho Chêchen 1994, nhưng bại trận, sau lại dùng "chiến đấu xuống xe, xe trợ chiến", mà đã xuống xe là lo đạn rồi, đi cách xe 100 mét không lo bằng hành quân bộ mấy trăm km như trung đoàn 66, nhưng không phải không đáng lo).
    M16 gọn, nhẹ ?? phá ra cười. Chỉ AKM 1955 đã gọn nhẹ hơn M16 ngày nay rồi, lúc đó còn mười mấy năm nữa M16 mới được chấp nhận và mẫu thử AR-15 cũng còn lâu mới ra. Đúng tiêu chuẩn có băng không đạn, không đồ đạc (lê, lựu, kính...) thì AK nhẹ hơn M16A2 800gram. Gọn thì không tính rồi, chỉ có ngu dân liệt não có khái niệm M16 gọn.
    Còn độ bền?
    Người Nga có nhiều bí mật được giấu im ỉm, như cái nòng dần biến thành hình côn của AK, viên đạn tự phình ra, và thiết kế 7,62mm nhưng mòn đến 8,2mm vẫn bắn trúng. Chính vì thế nên nòng của nó cực bền, cực bền ở đây không phải do lâu mòn, mà do kệ miej mòn.
    M16 có tuổi thọ nòng rất thấp, chỉ 2 ngàn phát bắn, bằng một trận to và vài trận nhỏ. CHính vì thế mà Stonner 63 và G36 có thiết kế modul, tức là chấp nhận kiểu nòng dùng một trận. Ả-15, G36 là phiên bản đẻ non, những người thiết kế ra nó đều biết. Những người ở lại Armalite cho ra AR-18, còn người đi theo Ả-15 đến Colt cho ra Stonner 63 . Nhưng chỉ ở nước Mỹ quái dị thì đẻ non mới xứng làm chiến binh.
    Nòng AKM về sau lại còn bền nữa bởi lớp mạ chrome. AK ban đầu không mạ, AK tầu là AK ban đầu, nhưng lại lai căng cải tiến có mạ. Điều đặc biệt là AKM mạ hợp kim, điều này mấy năm trước gây ấn tượng với dân mạng. Hiện nay người ta chỉ biết mạ một số hợp kim, riêng chrome thì chưa ai làm được hợp kim đủ ổn định. AK Tầu là mạ chrome đơn chất.
    Cuối cùng thì cững có AK-107, AK-108, chúng siêu chụm loạt (cả băng liên thanh một loạt rơi vào bia đường kính 20cm ở 100 mét trong tư thế đứng bắn), trừ súng thử nghiệm G11, không súng nào trên đời này dám liếc mắt nhìn kiểu đó. Nhưng một số ưu thế ban đầu đã mất dần, như dễ chế tạo, siêu bền, tin cậy.
    Fedorov đã chết rồi, ông mà sống lại thì đương nhiên Klashnikov ăn một số bạt tai.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 14:49 ngày 27/11/2009
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Spitzgeschoss tiếng Đức là "chống trên mũi nhọn", dân tiếng ANh thường nói tắt là "spitzer" do lười phát âm, dốt nát thì tưởng thế là hay, dịch ra tiếng Việt là đạn nhọn. Đạn nhọn thì ra là đạn mũi tên à.
    Hồi cuối tk19 và nửa đầu tk20, khoa học cơ bản ở Đức phát triển vượt bậc với nòng cốt là toán học, cuối tk19, người Đức đã giải thích được phần nào chuyển động của đạn xuáy ưu việt nhất, và được đặt tên cho chuyển động này là như thế. Thật ra, chuyện ứng dụng chuyển động này đã có từ lâu, trong súng cối Nga 185x, và nổi tiếng là M1863, M1867 nòng pháo hiện đại đầu tiên xuất hiện. Nhưngiẩi thích kỹ càng bằng toán học, rồi tiến hành thực nghiệm chụp ảnh đường đạn, là người Đức cỡ 188x.
    Chống trên mũi nhon là nguyên lỹ con quay có đinh. Khi đạn bay trong không khí, nó tạo ra một buồng chân không bằng một cái mũi, không nhọn mà tù, người ta đặt tên không đúng lắm, đúng hơn phải dịch là "chống trên mũi ở xa về phía trước", còn cái mũi đó bắn buộc phải tù để đẩy không khí xoè ra. Ở đạn nhỏ, để dễ gia công thì khó thấy điều đó, nhưng nhìn đạn pháo của Bismarck thì quan sát rõ, phần mũi tù được đẩy xa về trước bằng một cái đuôi, chính cái đuôi mới nhọn, chứ mũi thì tù.
    http://www.kbismarck.com/armament.html
    http://www.kbismarck.com/38cmshell.jpg
    Khi đó, chỉ có mỗi mũi đạn chịu lực cản, đạn trở thành con quay tự uốn trục theo hướng lực cản. Điều này khác biệt với các súng trường nòng xoắn ban đầu, xoáy mạnh cố định trục, nên đạn nghiêng với đường bay, mà sau này M16A2 buộc phải quay lại.
    Thế nhưng, không phải Nga hay Đức, mà Pháp đi trước hàng 10-20 năm hai nước này trong việc áp dụng ký thuật tiên tiến này, Lebel 1888, Đức là G98 Mauser, Nga là kiểu đạn M1908. Kinh, kinh, kinh... bà đầm Phú đi trước có ***** nghề làm súng 20 năm.
    Đây là thể hiện tính cách đồng bóng của bà đầm, bà chỉ hiểu bề nổi, và không hiểu bề chìm, mà bề chìm mới là phân lớn của kiến thức, phần nặng, phần đáng quan tâm. Bản thân Lebel chọn các giải pháp vội vàng, nên thật ra có rất nhiều loại nòng Lebel ra gần nhau, không bắn được đạn của nhau. Ví dụ, M1886 là nòng trơn đạn cầu.
    he he he he, bà đầm đồng bóc thấy anh Spitzgeschoss trẻ, đẹp, hiện đại liền ôm ngay vào, mà quyên không xem kỹ cơ cấu máy móc ẩn kín có hoành tráng không.
    Việc Lebel chọn "chống trên mũi nhọn" năm 1888 là quá sớm, lúc đó, sẽ chỉ có một lượng nhỏ súng đạn đáp ứng được. Nó yêu cầu đạn thép vỏ đồng mềm, rãnh chữ nhật. CHính vì thế mà đến WW1, nước Pháp có đến máy loại đạn súng trường, không loại nào tập hợp được đủ các kiến thức.
    Vấn đề khó hiểu ở chỗ, loại thép làm nòng và số đo mm thì từ tk18 đến Mauser, Mosin như nhau, đều là thép carbon cao ủ non, đơn vị đo nòng súng châu Âu đều dùng "đốt" (tên tiếng Anh là inch), mà sau này đa só các nước đã bỏ, theo hệ mét, nhưng nòng súng vẫn giữ.
    Thế nhưng, chỉ đến đầu tk20, thì người ta mới test nhanh được chất lượng thép trong lò, và lượng carbon, silic, phốt pho, lưu huỳnh mới khống chế đúng. Nói cách khác, cùng một mark thép, nhưng năm 1888 thì chỉ có chúa mới biết được là chất lượng thế nào, và phải chấp nhận 2/3 số sản phẩm không đúng.
    Như vậy, 2/3 Lebel sẽ có hình dáng, son phấn hiện đại, rãnh xoắn chữ nhật, đạn thép bọc vỏ đồng, nhưng ruột thối hoắc. Khi súng mòn nhiều, thì người ta cần đạn chì đúc để nó phình ra khi bắn. Càng mòn nhiều, càng cần đạn nặng để phình nhiều. Chính vì thế Lebel 1888 không thể cạnh tranh nổi với các súng trường khác cũng của tây Phú, để đến nỗi bà đầm có đến mấy loại đạn với đủ các đời cấu tạo.
    Nguyên nhân là gì, bà đầm không biết đạn phình to ra trong nòng, nên bà tưởng "chống trên mũi nhọn" là ngon xơi. Chính những người chế ra "chống trên mũi nhọn" biết rằng cần phải phình đạn trong nòng, nên chưa dám dùng.
    Đến khi thép đủ độ chính xác, Nga và Đức mới dám làm điều này, đạn thép vỏ đồng của "chống trên mũi nhọn" phình ít hơn. Nhưng người ta lại tìm ra thiết kế mới cho rãnh xoắn, tức là tính toán gia tốc sao cho nòng mòn theo cạnh rãnh xoắn, mòn hình xoắn, chứ ít mòn rộng ra. Các bạn ở bộ đội nhìn vào nòng súng cũ của mình thấy nó có gờ tam giác chứ không chứ nhật như mới, đó là do bị mòn kiểu đó. Khi nào mòn xoáy hết chân gờ thì bỏ nòng. Thường là mòn gờ xoắn 2mm thì mòn rộng ra mới 0,3mm, chính đây là bí quyết làm nòng bền, nó làm đạn xoáy cả khi mòn rất nhiều.
    Tuy chậm, nhưng cả Nga và Đức đều thận trọng, Mauser đã chọn đạn khá nặng, trên 13 gram (13-15), để đỡ "hiện đại" như bà đầm đầy son phấn. Mosin đi sau 10 năm, dễ quyết định dứt khoát hơn với đầu đạn 9,5 gram. (model 1930 có một thời gian ngắn quay lại 12 gram, nhưng đó là do mục tiêu bắn xuyên giáp, sau bỏ luôn).
    Điều đáng tiếc là bên Đức, dân MP nắm quyền, "phòng nghiên cứu chiến thuật" của Mauser toàn bác học già lép vế, nên đạn súng trường không được cải nhiều và đạn Mauser G88 không thay đổi nhiều cho đến 1945, Mauser bị Mosin bắt làm tù binh, phương Tây lấy đầu Mosin cắm lên đuôi Mauser thành NATO 7,62x51.
    Bên Nga thì Tokarev vướng vụ 1927. Liên Xô khá thân với Vollmer, nhà thiết kế MP của ERMA, tác giả của EMP36. MP38/40/41 chỉ là cải tiến chủ yếu để hoà đồng các hãng làm MP khác nhau, không hãng nào quá lợi thế kỹ thuật. Liên Xô mua các mẫu Vollmer và trên cơ sở cấu tạo đó, Tokarev áp dụng nguyên lý chụm loạt cực nhanh, sau này truyền đến Suomi, PPSh, M16 Mỹ. Tuy nhiên, Tokarev ngay lập tức tháy đạn cần cải tiến nhiều. Ông bỏ công làm đạn mới, hợp với nòng dài, và khẩu súng đầu tiên áp dụng là PPD, sau là PPSh.
    Sau 1939, thì những tiến bộ do phát triển đạn TT (Tokarev ở Tula, đạn của PPSh), thì Liên Xô thấy cần cải đạn Mosin. Sau nghiên cứu, vẫn đền nòng cũ chính xác lại được đặt ra, đạn M1908 "chống trên mũi nhọn" kém phình. Thế là có model M1936, M1942, M1944, M1945. Chủ yếu biến đổi lớn là M1936, song song với đạn cho PTRS kể trên và đạn 12,7mm cho DS. Đây là tiền đề cho sự xuất hiện của đạn AK.
    Vào thời gian này, những tiến bộ về vật liệu của thuốc đạn AK dẹt cứng như thép vẫn chỉ là ước mơ. Nhưng những cái đạn được lớn nhất là những nguyên lý vật lý, toán học, trong khi những giải pháp thoả mãn chúng còn chưa tìm đủ.
    Về thuốc, nòng đã nhẹ và gọn hơn nhiều, Mosin K44 nòng 540mm. Điểm này thì nhiều người nói đến.
    Điểm ít người nói đến là việc tăng khả năng phình của đầu đạn. Đạn M36 dành riêng cho bắn tỉa là đạn đầu rỗng, vỏ đồng, trong chì đúc, cực kỳ chính xác. Từ đó cho đến M1967, người ta hoàn thiện phương pháp tăng độ phình ra của đạn lõi thép bằng cấu tạo lớp đệm giữa. Trước đây chỉ có vỏ đồng lõi thép, nay thêm một lớp đệm mềm, trước đây là chì, nay đa phần vẫn là chì nhưng có một số đạn thay bằng chất khác, như nhôm. Thêm nữa, một đoạn đuôi đạn đúc luôn bằng chì, không có lõi thép, nhờ thế phình rất tốt như đạn bắn tỉa, mà giá không cao lên.
    Đạn AK 7,62 ngay từ ban đầu đã có đệm giữa dầy. Đến năm 196x thì Mosin lại thừa kế các thành tựu của đạn AK, chủ yếu là thuốc.
    Tât nhiên là những nước chỉ biết bổ đạn ra nhái thì không hiểu đệm giữa làm gì: a, nòng AK bền là vì đệm này đây, nó mêm nên ít mòn !!! thử xem, ơ, sao nó mòn nhiều thế, không phải vậy. Bắn thử 5 ngàn viên AK. A ha ha ha ha ha ha ha, chúng mày quảng cáo láo, AK mòn kinh khiếp, bền đâu mà bền. Bắn thử: sao nó mòn mà vẫn chính xác nhỉ ???? thôi, kệ nó, không ai nói chuyện chính xác nhé, chỉ lấy số đo mòn của nó thôi, ơn anh Bush, dân đóng thuế nuôi ta liệt não hết cả rồi.
    Hài nhất là gần đây bác M16 cũng lờ mờ đoán được người ta xì xào là đạn bác không biết phình, tuổi thọ nòng chỉ 2 ngàn viên. Bác cũng đổ chì vào đít, nhưng thử nghiệm không kỹ thế nào, lính tráng chửi te tua ở Afghan. Hình như là cái đuôi của bác phình khoẻ quá đến mức vỡ tung toé trong nòng. Cái này thì mời bạn SSX cốc bia, bạn ấy ngọt giọng kể cho.
    Chửa có phải dễ đâu, phải biết cách chửa chứ. Cứ phải tọng cái gì vào ống là chửa được đâu. Anh i ăng ki trẻ rồ thì cũng như bà đầm sơn phấn, toàn đồng bóng.
    Vì vậy, dù MP44 có sơ tốc như NATO 7,62x51 thì noá vẫn chưa thể sánh với AK. Son phấn bề ngoài thì có thể so bì, nhưng cởi ra xem bí mật bên trong thì một trời một vực.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 16:56 ngày 27/11/2009
  7. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Nguồn gốc trích khí AK
    Phì cười, phải chỉ rõ ***** của từng chi tiết không thì các anh liệt não cứ gán cho MP44. Con cá chết là con cá to, AK là tiên à, cũng chỉ là MP44 mà thôi.
    Đây
    http://world.guns.ru/machine/mg52-e.htm
    [​IMG]
    Đây là một khẩu súng danh tiếng. Thứ làm nó lừng danh nhất chính là nòng, nòng nóng đỏ ngâm nước làm mát không hỏng, điều này tốt quan trọng với súng máy ngày đó, ví dụ như Maxim-Tokảrev phải mang bầu nước nặng uỵch. Loạt thép trứ danh này bí mật trong một thời gian dài, được nấu ở nhà máy Brno.
    Trong lịch sử, vùng đất đế quốc Hungari, bao gồm Czechoslovak , Áp, Nam Đức.... nổi tiếng là quê hương súng ống châu ÂU. NHưng lâu rồi nước Czechoslovak mới có khẩu súng trứ danh đế thế.
    Trích khí xiên ngược xuất hiện trong phiên bản năm 1926, được cháp nhận với tên ZB26. Các mẫu thử trước đó không có. Phiên bản 1930 mà ANh copy thành Bren cũng không có. OPhieen bản 1939 Thuỵ Điển cũng có nhưng phiên bản 1940 cũng Thuỵ ĐIển bỏ đi.
    ZB26 sau được Đức sát nhập và dùng bằng tên MG 26(t) . Đây là súng quan trọng trước khi Đức có MG42 thật sự ưu việt.
    Thật ra, trích khí này chưa được tính toán kỹ lắm, nên người Anh bỏ đi. Trung liên Bren dùng khá nhiều ở ta, có thể do tử nghiệm thấy khí thuốc của Anh hơi khác.
    http://world.guns.ru/machine/mg10-e.htm
    Biến đổi từ kiểu 1939 (7,92x57 Mauser) sang 1940 của thuỵ điển cho thấy khi dùng đạn Thuỵ Điển (6,5x55 ) thì trích khí này yếu
    M39
    http://www.gotavapen.se/gota/artiklar/kg/swedish_kg3.htm
    M40
    http://www.gotavapen.se/gota/artiklar/kg/swedish_kg4.htm
    Cải tiến là chuyển từ xiên ngược sang xiên xuôi, để tăng cường khí vào ống trích. Ống trích có hai nửa để giảm rung ngang. Đồng thời, ống trích bố trí lên trên để giảm dung cho máy chèn nghiêng gây ra.
    Như vậy, đây là nguồn gốc của ống trích xiên ngược cho AK. Nhưng người Tiệp chưa biết tính toán hợp lý, nên khi chuyển đoạn, không còn thích hợp. Sudaiev áp dụng trên AS, sau đó là hàng loạt súng như AK, RPK, PK, SVD... cho thấy đến lúc đó phương pháp tính mới hoàn thiện.
    Nguyên lý của trích khí này rất phức tạp. nó phải thoả mãn hai điểm, một là ngăn không cho khí thuốc thoát phí, hai là phải tận dụng khí thuốc đẩy mạnh, hai điểm ngược nhau này trong một mới phí. Nguyên lý tiết lưu thì dễ rồi, nhưng đây lỗ to tướng mà khi đi qua không dám vào mới khó. Với cái lỗ tơ bằng nửa cái nòng M16, khí mà tràn vào tự do thì nổ tung cylinhder, vốn mỏng tang so với nòng.
    Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao cylinhder của AK không nổ chưa ?
    Ví dụ ở AK. Khi đạn còn trong nòng, vận tốc dòng khí chuyển động ngang miệng lỗ trích hơn 600m/s, người ta tinh góc xiên thế nào để khi đó khí vào ống rất ít, nhờ vạy mà không tốn khí, nhờ không tốn khí mà tránh được cái lỗ trích xỏ kim không lọt bắt buộc phải có.
    Khi đạn đã ra khỏi nòng, áp suất và vận tốc trong nòng không giảm đều, mà lên xuống từng đợt sóng, có những đỉnh áp cao tốc độ thấp, xen giữa những đỉnh áp thấp tốc độ cao đi qua miệng lỗ trích. CHỉ khi áp và tốc vừa đủ, năng lượng mới tràn vào súng.
    Dù cho có là xung, thì bệ khoá nòng cũng cần một thời gian nhất định để đạt đủ tốc độ cần thiết. Thế nhưng, lúc đó đạn đã di xa, áp xuất giảm nhanh, vì thời gian áp cao trong nòng chỉ còn lại 1/vạn giây. Ở đây, phải cần một cơ chế tích năng lượng mới.
    Ống trích thẳng và phải đủ dài, cứ không ngắn tũn như lỗ tiết lưu. Ống trích cũng phải đủ to, chữ không nhỏ ti hin.
    Khi đó, khí nén trong ống trích đạt một vận tốc nhất định trước khi áp suất trong nòng hết sạch, nó duy trì lực đẩy trong cylinhder một thời gian đến 1/100 giây, đủ để tăng tốc bệ khoá nòng.
    Như vậy, tính góc nghiên để biết thời điểm khí tràn vào ống trích, đường kính và độ dài ống trích để năng lượng trong đó đủ đẩy khối lùi.... và điều không đơn giản. Chỉ cần sai một chút, thì cái lỗ trích to bằng nửa cái nòng M16 sẽ thoát sạch bách khí. Hoặc ngược lại, phải cải sang xiên xuôi như Thuỵ Điển, trở nên ***g công khá đẹp mắt, trông như kèn đồng.
    [​IMG]
    So sánh với model nguyên thuỷ dùng đạn Mauser. Mình không viết nhiều vì trong link họ nói hết cả rùi.
    [​IMG]
    Đây là mặt cắt của Zb26 xiên ngược , dễ thấy đặc điểm của nó là để quá gần đầu nòng, trong khi góc xiên lại quá lớn, chính điều này làm xuất hiện các nhược điểm. Khi góc xiên lớn, thì khả năng ngăn khí lộn ngược lại kém, do đó thoát nhiều khí, tón sức. Vì vậy lại phải chuyển về đầu nòng, mà như thế thì hieuj quả xiên ngược còn gì, thà xiên xuôi còn hơn.
    Cũng vì tính chưa kỹ, nên ống trích dầy cộp, người ta lo nó nổ mà.
    Trích khí xiên xuôi được người Đức dùng từ trước, được áp sụng trên MkB35 Vollmer, nhưng dưới dạng piston mũi súng, khi bắn, đạn chui qua giữa piston, khí đẩy piston chạy, kéo máy súng, kiểu máy này công kềnh. Vollmer thích gì SK đâu, làm chơi mà, SK mà thành công thì ông ấy bán license cho ai, ERMA ăn cám.
    Về hiệu quả, trích khí xiên xuôi cực chuẩn, lại dễ gia giảm để khắc phục sự rung. Nhưng nhược điểm lớn là cồng kềnh mà thôi, gọi là súng kèn.
    [​IMG]
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 17:42 ngày 27/11/2009
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đúng hơn là thế này
    Tầm bắn sát thương 1500 mét
    tầm bắn thước ngắm (tức có thể trúng chết nhưng tỷ lệ nhỏ) 800 mét
    tầm bắn hiệu quả 300 mét. tầm bắn hiệu quả là tầm bắn mọi viên phát một, trừ tỷ lệ cho phép trượt rất nhỏ do có một số đạn hơi sai, đều trung bia số 4. Mỹ là bia tròn 508mm. Đây là tầm bắn tối đa đối với binh nhì bình thường, vì độ phân giải tối đa của động tác chỉnh súng trường trong tư thế đứng bắn. tât cả các súng nói quá tầm bắn này đều là láo.
    Tầm bắn chính xác bằng giá thử súng thì không rõ AK là bao nhiêu, nhưng người ta chỉ cần tính đến 250 mét, AK đạn chui trong một lỗ 20mm. Tầm bắn chính xác của súng phải cao hơn 300 mét (bia số 4 hay bia tròn 508mm Mỹ), thì súng mới đạt tầm bắn hiệu quả tối đa 300 mét. So sánh, M16 vòng chụm đạn 508mm là 274 mét, súng mới, bắn trong hầm thử không gió, có điều hoà.
    Những súng như Mosin, Mauser có tầm bắn chính xác tối đa cao hơn AK, đạt 600 mét, sau 300 mét, độ chính xác của những súng nhỏ như AK giảm nhanh, nhưng trước 300 mét AK cao hơn, do đường đạn của AK hiện đại hơn.
    Tốc độ bắn liên thanh của AK
    AK-47 nguyên thuỷ có tốc độ bắn liên thanh 400 phát phút. Tốc độ bắn liên thanh của AK không giảm nhiều theo tuổi thọ của lò xo vì nó được điều chỉnh bằng động tác mở búa, chứ không bằng lò xo đẩy về. Tức là, chủ yếu bệ khoá nòng đứng yên chờ búa.
    Tốc độ bắn của AKM tối đa là 600, nhưng thường là 400. Có điều này do AKM thêm một cái làm chậm búa, nhờ đó, khi chỉnh 2 vít trước sau cò sẽ làm thay đổi dộng tác mở búa, và lò xo búa yếu không làm chậm tốc độ đã được hiệu chỉnh, vì tốc độ mở búa chỉ phụ thuộc nhiều vào khối lượng mấu hãm búa, ít thay đổi.
    Tốc độ tối đa là 600, nhưng khi sản xuất người ta không chỉnh đến đó. Có thể quan sát rõ ràng những clip AK đầy trên nét.
    Tốc độ tiêu thụ đạn của AK liên thanh là 120.
    Tốc độ tiêu thụ đạn AK phát một là 40.
    Khối lượng đạn mỗi viên là 16 gram, đầu nặng 8 gram, nhồi 1,65 gram thuốc. Năng lượng trên khối lượng các thuốc đạn đều na ná như nhau, chúng chỉ khác hau ở áp suất tối đa. Thuốc tốt cháy đều thì áp suất tối đa thấp, nòng đồng đều, nhẹ.
    Sơ tốc AK 7,62mm 715 m/s đến 725m/s
    tốc độ tính toán (khi xạ thủ bắn mục tiêu di động và kỹ sư ngồi tính đường đạn) là 6290 m/s
    điều lệnh mỗi lính AK mang 300 viên=4,8 kg. Nhưng thông thường đều mag 2 lần số đó.
    Đặc trưng nguyên lý chiến đấu của AK là loạt ngắn 2-3 viên, ở tầm xa 300 mét nên chuyển sang phát một. Loạt ngắn được dùng trong động tác xung phong.
    AK ưu tiên nhất động tác tấn công đứng bắn, có ngắm đàng hoàn (xem clip trong Izhmash), đi chậm. Một động tác bắn buộc phải có là bắn ứng dụng khi đang chạy, tầm rất gần, không ngắm, chính động tác này yêu cầu cái tay cầm súng lục xuất hiện từ MP. Động tác bắn ứng dụng này đặc dụng khi xung phong trong hầm hào, công trình, mục tiêu chỉ cách vài chục mét, xuất hiện đột ngột.
    Động tác xung phong là ưu thế của các súng liên thanh không giật mạnh. AVS-36 khi chưa có đạn AK (dùng đạn Mosin), đẩy lùi xạ thủ khi đứng bắn loạt mấy bước, không đáp ứng được. Những ở tầm xa thì các MP lại yếu. Trong Stalingrad, lính Đức phát khiếp bắn tỉa Nga, do MP tầm quá ngắn, không trả đòn được, vậy nên mới nỗ lực lai xung phong với súng trường.
  9. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    Thêm tý ảnh cái trích khí xiên ngược của bác HP:
    [​IMG]
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Thật buồn cười
    Khi xây dựng học thuyết súng ngắn là súng trường, rồi bị chửi te tua, thối quá, liệt não bỏ đi, nhưng cố nhai thêm "AK học concept MP44"
    (đây là liệt não wiki tiếng Anh, còn liệt não wiki tiếng việt thì AK bê nguyên xi MP44. Vừa cách đây 1 phút, mình đang tìm nguồn cung nước phốt phát hoá, thấy hiện lên trong gúc wiki tiếng việt, phốt phát là nguyên tố dùng để pha vào hợp kim sắt đồng
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%91t_pho#.E1.BB.A8ng_d.E1.BB.A5ng
    tình trạng chung của các con bệnh liệt não là bị cả thiên hạ chửi là ngu. Chúng đều sở hữu học thuyết chung là cả thiên hạ này ngu, chỉ mình chúng khôn, khôn mà không thể hiện được mới vô cùng bức xúc. Wiki là cái biển xả trí khôn của chung, toàn các học thuyết vĩ đại
    )
    Liệt não ỉm phéng đi rằng súng trường xung phong là một học thuyết của người Nga xây dựng hoàn chỉnh từ trước WW1, ỉm phéng đi khẩu súng trường xung phong được sử dụng nhiều Fedorov Avtomat đã kinh qua mấy cuộc chiến tranh. Trước đó, khẩu súng trường tự động đầu tiên trên thế giới là Mondragon của Mexico đã nỗ lực tìm kiếm phiên bản xung phong, nhưng do Mexico không chủ động sản xuất (thuế Đức và thuỵ sỹ làm), nên dừng.
    Đức bắt đầu súng trường xung phong muộn và nhanh chóng bị dân MP bóp chết. Mauser đưa ra các phiên bản đạn súng trường xung phong, các hướng phát triển súng trường xung phong thời gian nước Đức bị cấm xuất khẩu và sản xuất vũ khí thập niên 192x. Sau thời gian này, nước Đức được cỏi trói, nhưng dân MP nắm quyền trong công nghiệp chiến tranh. Bắt buộc phải đi theo hưỡng của bác học già Mauser, nên dân MP cũng làm súng trường xung phong, nhưng bóp chết dần và dần biến thành súng ngắn.
    Năm 1927, lần đầu tiên Rheinmetall-Borsig format một đạn theo hướng súng trường xung phong, đạn 8 x 42,5 mm
    http://www.deutsche-kriegsmarine.de/Waffen/sturmgewehre-R.htm#M35
    Đến năm 1935, chương trình được khởi động chính thức. Nhưng những ghi chép còn lại cho thấy cục vũ khí Đức đã đặt các yêu cầu sai về súng trường xung phong. Súng trường xung phong có hai yêu cầu chủ chốt, là có tầm súng trường và bắn liên thanh được trong khi di chuyển.
    xem clip thử nghiệm AK .
    http://www.izhmash.ru/eng/product/weapon.shtml
    http://www.izhmash.ru/media/Small_arms_esp_XVid.avi
    Nhưng yêu cầu của cục vũ khí đức không hoàn chỉnh hay điểm cốt yếu đó, mà lại thêm nhiều điểm rườm rà, trong đó có điểm sai là giữ tầm bắn hiệu quả như súng trường đối kháng. Đây là một cái bẫy mà chính quyền đưa ra để không thể thực hiện được, dễ giết hơn.
    CHũng ta biết ràng, cần một nỗ lực rất lớn để hoàn thiện đạn, từ lúc có tham vọng và format kích thước hình học bên ngoài, vận nên không chỉ muộn, mà chương trình bên Đức đã chết khi còn quá sơ khai. CHương trình không thể thành công, vì nó bị giết ngay trong yêu cầu.
    Hai mẫu súng đầu tiên có khẩu của Vollmer.
    MkB35 dùng cỡ đạn 7,75x40 GECO. Vollmer khá thân thiện với Liên Xô, do vậy, không thể chắc là Liên Xô không tận dụng mẫu này, hay các kết quả thử nghiệm này. Đạn M43 ban đầu của AK có cỡ vỏ 7,62x41. 7,62 cho đúng bằng nòng Mosin, né tránh việc thay đổi cỡ nòng súng vốn được ngại. Tất nhiên, MP44 đã bóp chết nghéo MkB rồi, nên đạn AK khác xa đạn MP44.
    ---------------------
    Ở đây, ta quay lại trích khí. Vollmer MkB35 có trích khí Bang system, giống như G41.
    [​IMG]
    Bang system là hệ thống của người Đức do Søren H. Bang phát triển. Nó dùng một piston ở đầu súng, có lỗ giữ cho đạn chui qua. Khí thuốc đẩy piston này, kéo máy súng chạy thông qua một đòn bẩy đổi chiều chuyển động từ tiến thành lùi.
    Người Đức không có nhiều kinh nghiệm thiết kế trích khí, chúng ta biết rằng, việc thiết kế đòi hỏi phải có rất nhiều súng dùng để đánh giá. Bang system có lợi là không hao khí, nhưng quá cồng kềnh. Trong khi đó, nếu có trích khí tốt thì đơn giản là có thể kéo dài nòng ra một chút để bù hao khí. Chings vì vậy, dùng trích khí SVT của địch trở thành chìa khoá để G43 vượt thử nghiệm.

    NHìn lại trích khí của ZB26 trên, thấy rằng, nó chưa phải hoàn toàn llaf trích khí khí động, mà lai với bang systom. Ở đây, Bang không có piston, mà chỉ là một cái khuyên rộng hơn nòng (xem hình vẽ trên). Khuyên này chặn khí lại đẩy vào ống xiên. Trích khí xiên ngược rất khó tính toán và ở đây, các nhà thiết kế đã chọn hai giả pháp ngược nhau. Xiên ngược cho phép lùi trích khí về phía sau, Bang lại phải đưa ra đầu, do cái khuyên này đanh dấu chấm hết chiều dài nòng. Việc đưa ra đầu làm yếu xiên ngược.
    Chính vì thế, các phiên bản dùng đạn khác như M39 Thuỵ Điển, Bren Anh, đều bỏ trích khí kiểu này đi.
    Và như vậy, AK mới là thằng xiên ngược hoàn chỉnh, đúng đắn đầu tiên.
    To bạn gabeo2010
    AK chính thức là vũ khí chủ lực từ AKM, khoảng 1955, 1959, cùng một lô thứ khác như RPK, PK, B41, BMP. Trước đó tỷ lệ AK vẫn nhỏ. Liên Xô vẫn dùng format kiểu WW2 gồm các sư đoàn súng trường và sư đoàn súng máy, trong các đơn vị súng máy, AK thay vai trò của PPSh.
    Các sư đoàn súng trường trang bị RPD và SKS (xê ca xê), trước PK là DP46.
    AKM 3,14 kg .
    http://world.guns.ru/assault/as01-e.htm
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 15:16 ngày 01/12/2009

Chia sẻ trang này