1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Âm mưu và thảm hoạ chiến tranh

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi SSX, 25/02/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. saruman

    saruman Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    1.684
    Đã được thích:
    140
    Bố cáo cho các bác gọi topic là phân biệt chủng tộc: các bác có thể tìm đọc "10 bí quyết thành công của người Do Thái" bán đầy rẫy ở các hiệu sách
  2. SSX109

    SSX109 Guest

    Chắc là chia đều, đâu đó trong mấy trang đầu đã nói: nợ quốc gia không bao giờ mất.
  3. taiwewe

    taiwewe Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    01/04/2009
    Bài viết:
    427
    Đã được thích:
    0
    Chắc là chia đều, đâu đó trong mấy trang đầu đã nói: nợ quốc gia không bao giờ mất
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    Mà chỉ co thể bị xù...BTT là 1 tấm gương sáng chói.
  4. picoodle

    picoodle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/11/2006
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    24
    HÔNG CÓ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG THÌ KHÔNG CÓ CHIẾN TRANH THẾ GIỚI I
    Khi nói về sự bùng phát của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ I, trông cuốn Thuật Ngoại Giao nổi tiếng của mình , Kissinger đã có câu bình luận rất ân tượng: "Điều khiến người ta kinh ngạc là cuộc chiến tranh thế giới I bùng nổ không phải do một việc không thấm tháp gì so với cuộc khủng hoảng trước đó, mà là bởi nó bùng nổ sau môt thời gian rất dài.
    Ngày 28 tháng 6 năm 1914 Thái tử Ferdinand Von sterreich- Este của Vương triều Habsburg - vương triều chính thông châu Âu bị Osterreich thôn tính vào năm 1918 - đã bị ám sát bởi một thích khách trẻ tuổi người serbia. Đây chỉ là một hành vi phục thù trong kế hoạch của một tổ chức khủng bố đơn thuần. Lúc đó, chẳng ai nghĩ rằng việc này lại trở thành ngòi nổ cho cuộc chiến tranh trên toàn cầu, kéo theo 30 nước, 1,5 tỷ người vào vòng khói lửa và làm bị thương 30 triệu người.
    Do cuộc chiến tranh Pháp - Phổ nỏ ra mà PHáp và Đức đã trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau , trong khi nước Anh thoát khỏi chính sách đại lục châu Âu " quang kinh cô lập" và phải đối phó với cục diện Đức mạnh, Pháp yếu. Lúc này Đức đã trở thành cường quốc số 1 châu âu, nếu không khống chế được thì quốc gia này ắt sẽ trở thành mối lo thường trực của Anh. Vậy là Anh lôi kéo Nga vốn cũng có là nước có chút hiềm khích với Đức, cùng pháp thành lập liên minh 3 nước.
    Còn Đức liên minh với Áo, từ đây hình thành nên 2 tập đoàn đối lập lớn nhất châu Âu.
    Hai bên không ngừng chạy đua vũ trang chiến lược, duy trì một đội quân sẵn sàng chiến đấu có quy mô lớn. Chính phủ các nước đều vì vậy mà lún sâu vào vũng lầy nợ nần. Một báo cáo chi tiết thu nhập công nợ của các quốc gia châu Âu cho thấy rằng , số tiền chi trả lãi suất hàng năm cho các laọi công trái lên đến 5.343 tỷ đô la. Các nước châu Âu đã lún sâu vào các khoản nợ nần này, còn chính phủ các nước này thì không thể kiểm soát được tình hình.. Cho dù gây ra nhiều khả năng đáng sợ, nhưng so với tình hình hòa bình với giá cắt cổ và tình trạng mất ổn định thì chiến tranh là một sự lựa chọn đáng để suy nghĩ.
    Từ năm 1887 đến 1914 , tình hình chính trị bất ổn cộng với giá cả đắt đỏ vẫn bám chặt châu Âu. Chính phủ các nước châu Âu vì chạy đua vũ trang mà lâm vào nguy cơ phá sản nhưng vẫn nhìn nhau bằng ánh mắt đối địch. Tục ngữ có câu " Một phát pháo nổ đáng giá vạn lượng vàng", hệ thống ngân hàng châu Âu cung cấp các khoản vay tín dụng cho các bên đối lập do dòng họ Rosthchild xây dựng và phát triển, đã dốc sức xúi giục cuộc đối đầu quân sự này.
    Trên thực tế, các quốc gia đang dùng tiền và lương thực đánh nhau. Đến năm 1914 , một điều rõ ràng là các quốc gia chủ yếu của châu Âu đã không thể gánh vác nổi một cuộc chiến quy mô lớn. Tuy có một lực lượng quân đội luôn trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu và một chế độ động viên quân sự phổ cập cũng như hệ thống vũ khí hiện đại nhưng kinh tế của các quốc gia này lại không thể chi trả cho các khoản chiến phí khổng lồ. Tình hình này diễn ra đúng như những gì cơ quan tình báo nga viết trong thư gửi Sa Hoàng tháng 2 năm 1914 , " Không còn nghi ngờ gì nữa , chi phí chiến tranh sẽ vượt ra ngoài khả năng chịu đựng của Nga. Cho nên , chúng ta cần phải vay tiền của các nước liên kết và các quốc gia trung lập dù phải trả giá đắt. Nếu kết quả cuộc chiến bất lợi cho ta , hậu quả kinh tế của cuộc chiến bại là khó có thể tính được, nền kinh tế nước nhà sẽ bị rơi vào trạng thái tê liệt hoàn toàn. Dù có giành được thắng lợi thì chúng ta cũng không lấy gì làm vuinếu điều đó gây bất lợi cho nền tài chính nước nhà, bởi một khi thua trận thì nước Đức cũng sẽ chẳng có gì để bồi hoàn chi phí chiến tranh cho ta. Hiệp ước Hòa bình sẽ mang lại lợi ích cho nước Anh mà không cho phép Đức có được cơ hội phục hồi kinh tế để trả hết các khoản nợ cho chúng ta, thậm chí sau khi chiến tranh kết thúc, Đức cũng không thể có khả năng hoàn trả các khoản nợ.
    Copy đoạn trên cho liền mạch vì mấy bác giáo dục giới tính vào bình luận
    Tiếp tục nào anh em
    Trong tình hình này, một cuộc chiến quy mô lớn xảy ra là điều không thể hình dung nổi. Nếu như chiến tranh thực sự bùng nổ thì cũng chỉ có thể diễn ra trong phạm vi cục bộ mang tính chất tạm thời và ở cấp độ thấp, có thể sẽ giống cuộc chiến tranh Phổ - Pháp năm 1870 - một cuộc chiến chỉ kéo dài trong khoảng thời gian 10 tháng. Nhưng kết quả chiến tranh chỉ có thể xoa dịu chứ không thể giải quyết cục diện đối lập ở Châu Âu. Cho nên, thời gian khai chiến chỉ có thể tiếp tụcđược kéo dài trong sự bất ổn chính trị và giá cả leo thang, mãi cho đến khi có sự ra đời của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ.
    Lúc này, nước Mỹ bên kia bờ Đại Tây Dương đã là 1 cường quốc công nghiệp số 1 thế giới có năng lực lớn trong sản xuất công nghiệp và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phúc. Nhưng mãi đến năn 1913 , Mỹ vẫn là nước vẫn dựa vào các khoản vay nước ngoài và ít có khả năng cung cấp các khoản vay cho nước ngoài. Nguyên nhân chính là do khôn có sự hiện diện của ngân hàng trung ương, và bởi vậy mà các nhà ngân hàng New York khó có thể tập trung điều động nguồn tài chính trong nước . Nhưng các nhà Ngân hàng thường có hứng thú với chiến tranh quy mô lớn, bởi chiến tranh sẽ đem lại đến cho họ nguồn lợi nhuận khổng lồ. Ngay sau khi đề án Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ được thông qua , các nhà ngân hàng quốc tế lập tức bắt tay vào hành động. Ngày 3 tháng 8 năm 1914 , ngân hàng của Rothschild ở Pháp đã gửi thông báo đến Morgan đề nghị lập tức chuẩn bị một khoản tín dụng 100 triệu đô la Mỹ để Pháp mua vật tư từ Mỹ. Khi nghe tin, Wilson lập tức phản đối, trong khí William Jenings Bryan - Bộ trưởng ngoại giao Mỹ lúc bấy giờ lên án khoản cho vay này là "giao dịch phi pháp xấu xa nhất".
    Đức và Mỹ xưa nay chưa từng kết giao với nhau trong kinh tế và chính trị. Lúc này, Mỹ có khoảng 8 triệu người Mỹ gốc Đức, chiếm khoảng 10% dân số, và khí Mỹ lập quốc, suýt nữa thì tiếng Đức đã trở thành quốc ngữ của Mỹ. Người Mỹ gốc Đức có tầm ảnh hưởng chính trị không nhỏ, thêm vào đó là dân nhập cư gốc Ailen vốn không mấy thiện cảm đối với Anh. Chính phủ Mỹ đã từng mấy phen giao chiến với Anh , cho nên ở giai đoạn sơ khởi của chiến tranh , chính phủ Mỹ luôn giữ thái độ dùng dằng , khác hẳn với các nhà ngân hàng đang sốt ruột như kiến bò trong chảo nóng. Các Đại gia ngân hàng tích cực xúi giục Mỹ tuyên chiến với Đức., còn chính phủ thì kiên quyết phản đối chiến tranh và giữ thế trung lập.
    Trước tình thế này, các nhà tại phiệt ngân hàng bèn nghĩ ra 1 kế sách tạm thời - câp tín dụng cho các nước thuộc khối đồng minh để mua vật tư của Mỹ thay vì cho các nước này vay tiền thông qua việc bán công trái. Dưới sự bức ép của các nhà ngân hàng, Wilson buộc phải đồng ý. Vì thời gian bầu cử tổng thống sắp đến gần nên Wilson ngày càng nghiêng về lập trường của các nhà ngân hàng trong vấn đề tham chiến với hy vọng tái đắc cử lần 2.
    Ngày 23 tháng 12 năm 1913 , đề án Cục Dự Trữ Liên Bang được thông qua, các điều kiện cho sự bùng phát 1 cuộc chiến tranh thế giới đã bước vào giai đoạn chín muồi. Cỗ máy chiến tranh vốn im hơi lặng tiếng quá lâu cuối cùng đã có thể khởi động.
    Ngày 16 tháng 11 năm 1914 Cục Dự Trữ Liên Bang chính thức đi vào hoạt động. Ngày 16 tháng 12, Davison - cánh tay phải của Morgan đến Anh để đàm phán với thủ tướng Anh - Herbert H Asquith - về khả năng Mỹ cung cấp cho Anh một khoản tín dụng. Ngày 15 tháng 1 năm 1915 Ngân hàng Morgan và Anh đạt được 1 bản hợp đồng tín dụng với tổng trị giá là 10 triệu đô la Mỹ. Đối với Mỹ , việc này là một thương vụ tương đối khả quan, vì chẳng ai có thể ngờ rằng tổng số khoản vay cuối cùng đã đạt đến con số 3 tỷ đô la Mỹ - một khoản vay không lồ. Ngân hàng Morgan đã thu được 1% phí thủ tục nghĩa là ngân hàng này xơi trọn 30 triệu đô la Mỹ. Mùa xuân năm đó, ngân hàng Morgan lại ký với Pháp một hợp đồng tín dụng.
    Tháng 9 năm 1915 là thời khắc để các ông trùm khảo nghiệm phố Wall có thể đủ sức trở thành trung tâm tài chính thế giới hay không . Khoản vay Anh - Pháp trị giá 500 triệu đô la chính thức được mở màn. Tổng thống Wilson vốn dĩ trước đó luôn kiên quyết phản đối việc này đã không chống đỡ nổi sự tấn công từ cả phía các nhà ngân hàng và thành viên nội các. Tân bộ trưởng Ngoại giao của Wilson là Robert Lansing đã cảnh báo rằng : " Nếu không có các khoản vay thì nên sản xuất sẽ bị hạn chế, công nghiệp suy thoái, nguồn vốn và sức lao động bỏ không, nguy cơ phá sản sẽ diễn ra trên quy mô lớn, sự tức giận và bất mãn của dân chúng sẽ tăng lên".
    Nghe xong , Wilson toát mồ hôi lạnh , chỉ còn biết nhượng bộ thêm 1 lần nữa . Đối với việc bán công trái ra ngoài với quy mô lớn chưa từng có lần này, các nhà ngân hàng Phố Wall cũng đã phải tung hết chiêu của mình. 61 nhà tài phiệt ký nhận trách nhiệm thanh toán công trái và 1570 cơ cấu tài chính tham gia vào nghiệp vụ phát hành và tiêu thụ. Đây là một nhiệm vụ hết sức gian nan, đặc biệt là miền Trung và Tây Mỹ càng chở lên khó khăn hơn. Người dân Mỹ đều cho rằng cuộc chiến tranh là việc của người châu Âu và họ có quan hệ trực tiếp gì trong cuộc chiến tranh đó. Để đánh tan sự nghi ngờ này, các nhà ngân hàng đã mạnh miệng tuyên truyền rằng, nguồn tiền đầu tư này sẽ ở lại nước Mỹ. Mặc dù, đã dùng nhiều chiêu thức, nhưng vùng Trung Tây Mỹ chỉ có 1 ngân hàng của Chicago chịu gia nhập vào đội quân phố Wall. Hành động này lập tức gây phẫn nộ đối với hậu duệ của người Đức ở vùng này. Họ phát động kế hoạch ngăn chặn các cuộc vận động của ngân hàng. Đến năm 1915 , vẫn có một khoản công trái trị giá 187 triệu đô la chưa được bán xong.
    Khi chiến tranh bước sang thời khắc quan trọng để kiếm được nhiều tiền hơn nữa, Chính phủ Anh tuyên bố sẽ trưng thuế thu nhập lợi tức đối với công trái Mỹ mà người dân Anh đang nắm giữ. Người dân Anh lập tức bán đổ bán tháo những công trái này. Ngân hàng Anh Quốc nhanh tay thu mua một lượng công trái khổng lồ và lập tức lệnh cho các đại lý của Morgan ở Mỹ đem nhưng công trái ra tiêu thụ ở Phố Wall. Các nhà đầu tư Mỹ tự nhiên được một khoản công trái của nước mình, thật nhanh chóng khoản công trái trị giá 3 tỷ đô la đã chảy vào thị trường, nước Anh lại thu được 1 khoản tiền khổng lồ để chi trả cho chiến sự. Nhưng vị trí chủ nợ được tích lũy hơn 100 năm của người Anh một thoáng đã tan theo khói lửa chiến tranh. Từ đây mối quan hệ chủ nợ của Anh đối với Mỹ đã thay đổi về căn bản.
    Tín dụng Mỹ như được tiếp thêm dầu vào lửa . Ngọn lửa chiến tranh bắt đâuf tức tốc lan tràn, mức độ thảm khốc của chiến tranh cung theo đó mà leo thang cực độ. Chỉ trong chiến dịch ở sông Mane, nội chỉ 1 ngày các nước đồng minh đã tiêu tốn 200 nghìn phát đạn pháo. Nhân loại cuối cùng đã hiểu được rằng, sự kết hợp giữa hệ thống sản xuất công nghiệp hiện đại và hậu cần hiện đại và thủ đoạn tài chính hiện đại có thể khiến cho cuộc chiến tranh ngày càng thêm thảm khốc và kéo dài.
    Cuộc chiến tranh tiêu hao vật tư với tốc độ chóng mặt. Chiến tran đã khiến các nước tham chiến bất chấp mọi giá để theo đuổi, bất chấp mọi giá để vay ngân hàng. Đó là lý do giải thich tại soao chiến tranh luôn là điều mà các nhà ngân hàng mong chờ và yêu thích.
  5. dreamwa

    dreamwa Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/05/2009
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    10
    vote cho bác cái.
  6. picoodle

    picoodle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/11/2006
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    24
    Sao hôm nay ttvnol mình không vào được nhỉ .
    Cả bắt chước lão SXX thả mỗi nơi một tý cho đồng bào sốt ruột
  7. picoodle

    picoodle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/11/2006
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    24
    CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG THỜI CHIẾN DƯỚI SỰ THAO TÚNG CỦA BENJAMIN STRONG
    Benjamin Strong bắt đầu gây chú ý của công chúng là vào năm 1904 ., khi ông trở thành quyền chủ tịch của Ngân hàng Trust. Khi đó , Davison - một nhân vật thân tín của Morgan - đang lo lắng trước việc các công ty ủy thác ngày càng lớn mạnh. Phạm vi nghiệp vụ của các công ty ủy thác còn lớn hơn các ngân hàng thương mại và bị chính phủ trói buộc ít hơn. vì vậy có thể thu hút tài chính với mức lợi nuận cao hơn . Để đối phó với sự cạnh tranh mới này, sau khi được sự đồng ý của Morgan, vào năm 1903, Davison cúng đã can dự vào việc mua bán ủy thác, và Strong trở thành người thực thi cụ thể của Davison. Trong cơn khủng hoảng năm 1907 , ủy thác ngân hàng còn có thêm các hành động cứu vãn cơ cấu tài chính khác, và nhờ vậy
    mà danh tiếng của Benjamin Strong nổi như cồn.
    Sau khi Cục dự trữ liên bang Mỹ được thành lập năm 1913 Davis và Paul Warburg tìm đến Benjamin Strong để tiến hành một cuộc đàm phán với hi vọng Benjamin Strong sẽ đảm nhận vị trí Chủ tịch Ngân hàng New York thuộc Cục dự trữ liên bang. Và Benjamin Strong vui vẻ nhận lời. Từ đây Benjamin Strong trở thành nhân vật chính yếu trong hệ thống dự trữ liên bang Mỹ.
    Benjamin Strong nhanh chóng thích ứng với vai trò mới. Ông ta đã thành lập một diễn đàn , tiến hành họp định kỳ để thương thảo về các quy tắc hành động của Cục dự trữ liên bang trong thời kỳ chiến tranh. Với những thủ đoạn vô cùng khéo léo, Benjamin Strong đã thao túng chính sách tiền tệ của Cục dự trữ liên bang Mỹ, đồng thời tập trung quyền lực phân tán từ các ngân hàng của 12 khu vực thuộc Cục dự trữ liên bang về tay Ngân hàng New York. Bề ngoài Cục dự trữ liên bang cho phép Ngân hàng dự trữ liên bang ở 12 khu vực trên toàn nước Mỹ được quyền căn cứ vào nhu cầu thực tế của địa phương mà đặt ra chính sách về tỉ lệ chiết khấu, hay nói cách khác, Chủ tịch Ngân hàng Dự Trữ của các bang sẽ có quyền quyết định loại ngân phiếu thương nghiệp nào có thể được cầm cố với mức chiết khấu ra sao. Đến năm 1917 , có ít nhất 13 loại quy tắc cầm cố ngân phiếu thương nghiệp khác nhau đã được lập lên.
    Thế nhưng , do chiến tranh số công trái được dùng làm ngân phiếu cầm cố của Ngân hàng New York thuộc Cục dự trữ liên bang trên thực tế không ngừng tăng nhanh, do vậy mà hạn mức công trái đã vượt xa rất nhiều so với tống số ngân phiếu thương nghiệp khác, chẳng mấy chốc đã khiến cho chính sách cầm cố ngân phiếu của các ngân hàng khu vực khác thuộc Cục dự trữ liên bang trở lên vô hiệu. Dưới sự khống chế của Benjamin Strong , " thao tác thị trường công khai" đã xem công trái la ngân phiếu cầm cố chủ yếu và duy nhất từ đó toàn bộ Cục dự trữ liên bang bị thao túng một cách nhanh chóng.
    Do việc phát hành các khoản vay quy mô lớn để trợ giúp tài chính cho cuộc chiến Châu Âu nên lưu lượng tiền tệ mỹ giảm đi ghê gớm, uy lực của Ngân hàng trung ương bắt đầu được thể hiện rõ. Chính phủ Mỹ bắt đầu tăng thêm lượng công trái khổng lồ, còn Cục dự trữ liên bang thì cũng tiếp nhận với khối lượng đáng kinh ngạc. Chi phiếu Cục dự trữ liên bang với hạn ngạch lớn ồ ạt hòa vào dòng chảy tiền tệ chẳng khác nào nước lũ vỡ đê, bổ sung cho sự thiếu hụt tiền tệ do các khoản cho vay chiến tranh mà châu Âu gây ra. Cái giá phải trả là sự tăng lên theo chiều thẳng đứng của các khoản công trái Mỹ, kết quả là chỉ trong vòng 4 năm khi Cục dự trữ liên bang đi vào hoạt động từ năm 1916 đến năm 1920 , số công trái của Mỹ tăng bột phát 25 lần , từ 1 tỷ đô la thành 25 tỷ. Tất cả số công trái hiện có của Mỹ đều dựa trên những khỏan thuế chưa nộp của người dân Mỹ để thế chấp. Kết quả là trong chiến tranh, các nhà tài phiệt ngân hàng kiếm được một khoản tiền khổng lồ trong khi người dân lại mất tiền, mất sức thậm chí cả tính mạng và máu của mình .
    HẾT LÃO X ĐẾN MAN LẠI BỊ NGỒI CỘT ĐIỆN , NGỒI GÕ MÕI TAY RÕ CHÁN [
    Được picoodle sửa chữa / chuyển vào 22:50 ngày 11/07/2009
  8. MrHaiLua

    MrHaiLua Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/03/2006
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0

    Đọc xong mấy bài này em chỉ mong nhà Vịt mình cũng có vài bác Rothschild.
    Ầy, chẹp chẹp.
  9. phungccuong

    phungccuong Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    17/05/2007
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    1
    TV vừa chiếu tổng thống Obama bổ nhiệm giám đốc mới của FED với sự phê chuẩn của quốc hội, như vậy giám đốc FED là một quan chức nhà nước, sao các bạn lại nói FED là ngân hàng tư nhân.
    Tuy nhiên cái tên FED cũng hơi khó hiểu, bạn nào rành về tài chính-ngân hàng làm một bài phân tích sự khác biệt giữa "cục dự trữ quốc gia" với "ngân hàng trung ương" về phương diện học thuật chứ không phải là các quan điểm mang màu sắc chính trị-xã hội để anh em có khái niệm căn bản cái đã. Trong topic này chủ yếu nói về FED trong khi mình lại rất mơ hồ về bản chất của nó thì khó hiểu quá
  10. MrHaiLua

    MrHaiLua Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/03/2006
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Bác có thể tìm hiểu thêm ở đây : http://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%A5c_D%E1%BB%B1_tr%E1%BB%AF_Li%C3%AAn_bang_Hoa_K%E1%BB%B3
    Tất nhiên đây là nguồn từ wiki nên hoàn toàn chỉ có giá trị tham khảo, nếu muốn bác có thể đọc bằng tiếng Anh thì tốt hơn ( wiki tiếng Việt cũng chỉ là lược dịch lại của wiki tiếng Anh nên thiếu sót là không thể tránh khỏi)
    Hi vọng có thể giúp ích cho bác

Chia sẻ trang này