1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Âm mưu và thảm hoạ chiến tranh

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi SSX, 25/02/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. picoodle

    picoodle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/11/2006
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    24
    Cái đấy chỉ là hình thức cho dân chủ ấy mà , nếu mà không được hội đồng quản trị thông qua thì có mà bố obama cũng chịu, để cho nhân dân Mỹ lầm tưởng rằng FED chịu sự chi phối của chính phủ Mỹ.
  2. F2communist

    F2communist Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Bài viết:
    1.006
    Đã được thích:
    42
    Hà hà! Dân chủ là hình thức. Còn độc tài là thực sự. Bọn Mẽo dân chủ chỉ là hình thức thì chắc chúng nó có độc tài thực sự.
    Cái tô píc nầy hay, hay ở chỗ thấy trên đời nầy hóa ra có nhiều đồng chí có trí tưởng tượng bay bổng. Giải trí một chút cũng được.
  3. picoodle

    picoodle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/11/2006
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    24
    Vâng em biết bác f2 kích em phọt tiếp phần học viện hồ chí minh trong lòng trục london - newyork vậy . em hứa mai em đem đến cơ quan phọt vậy .
  4. F2communist

    F2communist Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Bài viết:
    1.006
    Đã được thích:
    42
    Hôi giời! Chẳng kích thì các đồng chí cũng phọt. Tớ đứng xa nghía thôi chứ lại gần thì ặc ặc. Chúc cho đồng chí phọt nhiều vầu nhé! Sở thích mỗi người mà lị.
    Dững cái thuyết kiểu bọn Do Thái điều khiển cả thế giới là từ bọn có tư tưởng bài Do Thái mà ra. Có nhiều đấy.
    Khi nầu tớ sẽ cho đồng chí thấy bọn Do Thái chỉ là con muỗi chứ ảnh hưởng toàn thế giới cái khỉ gì. Như chính uỷ bên kia ( http://ttvnol.com/forum/quansu/1195847/trang-9.ttvn#15745483 )còn nói hầu hết bọn Do thái nắm các cty tài chính. Có phải thế đâu. Phét lác hết!

  5. picoodle

    picoodle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/11/2006
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    24
    HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ XUYÊN QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRONG LÒNG TRỤC TÀI CHÍNH LONDON - NEWYORK.
    Thế lực tài chính đã dựng lên một kế hoạch cực kỳ lâu dài nhằm mục đích xây dựng một hệ thống tài chính để khống chế được cả thế giới, chỉ một số người nhưng có thể làm bá chủ thế giới cả về chính trị lẫn kinh tế.
    Hệ thống này thực ra là một mô hình theo kiểu chuyên chế phong kiến được các ông chủ ngân hàng đầu não thâu tóm hết sức hợp lý thông qua nhiều thỏa thuận bí mật được ký kết trong những cuộc họp dày đặc .
    Cốt lõi của hệ thống này chính là ngân hàng quốc tế Basel - một ngân hàng thuộc quyền quản lý của tư nhân bởi ản thân những ngân hàng đầu não đang kiểm soát nó cũng chính là những công ty tư nhân. Vì thế nên mỗi ông chủ ngân hàng đầu não đó đều ra sức thông qua các phương thức như kiểm soát cho vay tài chính , thao túng giao dịch ngoại hối , tạo anh hưởng đến đời sống kinh tế quốc gia,, cũng như trả thù lao cho các nhà chính trị hợp tác trong các hoạt động thương mại đê khống chế chính phủ các nước.
    Nhà sử học Carroll Quigley năm 1966 đã nói.
    Trong cuộc sống hiện nay , thuật ngữ như " chính phủ thế giới ", tiền tệ thế giới đang ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Nếu không có những bối cảnh lịch sử tương quan thì rất có thể bạn sẽ coi điều này chỉ là sự cóp nhặt những tin tức mới thông thường, trong thực tế đó lại là một kế hoạch khổng lồ đang bắt đầu chuyển động. Và điều khiến người ta cảm thấy lo ngại đó chính là đại đa số người trung quốc vẫn chưa hiểu rõ kế hoạch này.
    Tháng 7 năm 1944 trong khi 2 đại lục Á - Âu còn đang chìm trong khói lửa chiến tranh , nghĩa là chỉ hơn 1 tháng sau khi mở màn cuộc đại chiến lần thứ 2 thì tại Anh - Mỹ , một số nước tây âu đã cử đại diện của mình cùng với 44 quốc gia khác trên thế giới đến Bretton - Woods - một thắng cảnh nghỉ mát nổi tiếng của bang New Hampshire - để đàm phán về kế hoạch lập lại trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Còn các ông chủ ngân hàng quốc tế cũng bắt đầu thực thi kế hoạch mà họ đã vạch ra từ trước: kiểm soát toàn bộ việc phát hành tiền tệ trên toàn thế giới.
    Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế lúc này đã lập ra những tổ chức nòng cốt như: viện Hoàng gia về các vấn đề quốc tế, hay hội đồng quan hệ quốc tế tại mỹ . Sau đó , từ hai tổ chức nòng cốt này , họ lại phát triển thêm ra hai phân nhánh mới - câu lạc bộ Biderberg nắm giữ chính sách định hướng quan trong về lĩnh vực kinh tế , còn Ủy ban ba bên chịu trách nhiệm về những vấn đề chính trj.
  6. SSX999

    SSX999 Guest

    Winston Churchill: ?oLịch sử do kẻ thắng viết.?
    François-Marie Arouet-Voltaire: ?oLịch sử là sự bịa đặt được số đông đồng thuận.?


    Câu trả lời của Die Kriegschuld-Luge về sự bịa đặt của kẻ thắng đối với tội lỗi chiến tranh nước Đức
    Jürgen Rieger - www.juergen-rieger.de/beitraege/diekriegsschuldluege.html
    Một lần nữa chúng ta có một ngày tròn để xem xét: kỷ niệm lần thứ 70 cuộc xâm lược Ba Lan.

    Một lần nữa chúng ta được nghe rằng chúng ta phải nhìn nhận nó với sự "xấu hổ và tội lỗi."

    Chúng ta phải tuyên bố với giọng buồn nôn rằng "(chiến tranh)? không bao giờ bùng lên từ đất Đức nữa? " vv, vv

    Nhưng nào có gì khác có thể mong chờ từ chế độ như bị chiếm đóng của chúng ta.
    Xuất bản của Springer "World on Sunday" than vãn trong ấn phẩm ngày 30 tháng 8 năm 2009: "? Thật chán nản khi tại buổi lễ ấn tượng, hoành tráng và long trọng kỷ niệm sự kiện bắt đầu chiến tranh của Ba Lan diễn ra tại nơi nó đã bắt đầu, Westerplatte Danziger, không có nguyên thủ quốc gia phương Tây nào đến dự ngoại trừ Angela Merkel."

    Chúng ta được nghe một điều đến là tốt đẹp "? nếu phương Tây, qua sự có mặt ở Danzig, thấy được sự đau khổ lớn lao xảy ra ở cả Đông Âu và không chỉ ở Ba Lan."

    Trong các ấn phẩm khác là câu chuyện rằng Adolf Hitler vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 đã "châm ngòi Chiến tranh Thế giới II"; ?ogây ra đám cháy thế giới"; "bắt đầu chinh phục thế giới"; và những lời nói dối khác tương tự.

    Sự thật là chiến tranh Đức-Ba Lan bắt đầu vào ngày 01 tháng 9 năm 1939, và cuộc chiến tranh cục bộ này đã trở thành một cuộc chiến tranh châu Âu với việc Anh và Pháp tuyên bố chiến chống lại Đức Nazi hôm thứ ba ngày 3 tháng 9 năm 1939.

    Chiến tranh châu Âu đã trở thành Chiến tranh Thế giới II vào ngày 12 tháng 9 năm 1941, khi Tổng thống Roosevelt chỉ thị cho hải quân Mỹ đánh chìm bất cứ tàu chiến nào của Đức bắt gặp.

    (Về nguyên cớ này, tư lệnh hải quân Mỹ nhận xét vắn tắt rằng Mỹ đã bước vào cuộc chiến, nhưng người dân Mỹ không hề biết nó đã được đưa ra.)

    Sự thật là Ba Lan, vốn đã lâu ở dưới sự cai trị của Nga, được tái lập là một nhà nước độc lập từ Đức và Áo năm 1916.

    Để cảm tạ cho hành động rộng lượng này, các đơn vị chính qui của quân đội Ba Lan tham gia cùng nhóm vũ trang Korfanty và bắt đầu xâm chiếm các khu vự thuần Đức tại Thượng Silesia và Tây Phổ.

    Để đối phó với việc người Đức giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, ở mỗi khu vực bỏ phiếu, chúng mở đầu một triều đại khủng bố, và nhờ sự giúp đỡ của Pháp, Ba Lan đã được phép chiếm giữ các khu vực này của nước Đức.

    Theo cưỡng chế của hiệp ước Versailles, Ba Lan đã được trao cho một ?ohành lang? đến biển Baltic, cùng với các khu vực rộng lớn của Tây Phổ mà dân cư Đức sinh sống.

    Hành lang này hoàn toàn chia cắt Đông Phổ ra khỏi nước Đức, làm cho thương mại và giao thông liên lạc gặp khó khăn hoặc không thể.

    Trong thời gian Đồng Minh thảo hiệp ước hòa bình Versailles, thủ tướng Anh trong Thế chiến thứ nhất Lloyd George, vẽ khu vực này lên bản đồ và nói trước: "Đây là nơi cuộc chiến tranh thế giới tiếp theo sẽ bắt đầu!"
    Được SSX999 sửa chữa / chuyển vào 11:15 ngày 01/10/2009
  7. saruman

    saruman Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    1.684
    Đã được thích:
    140
    Capitalist Conspiracy
    [​IMG]
    Đọc bản giản lược tại đây
    http://www.scribd.com/doc/2557593/Edward-Griffin-The-Capitalist-Conspiracy-Original-Transcript
    Theo ý kiến của em thì việc giảng dạy các môn Mác-Lê trên ĐH thay vì bắt đọc thuộc những giáo trình và nguyên lí học thuật khô khan, cho SV đọc những tác phẩm thực tế kiểu này (như là CT tiền tệ, Lời thú tội Sát thủ KT hay Jekyll Island) sẽ hiệu quả hơn nhiều
  8. saruman

    saruman Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    1.684
    Đã được thích:
    140
    Nathan Rothschild - Nhà đầu cơ tài chính bạo gan nhất mọi thời đại
    [​IMG]
    Dòng họ Rothschild là một trong những dòng họ Do Thái lâu đời nhất, nổi tiếng nhất, giàu có nhất và số phận cũng thăng trầm nhất ở nước Đức. Từ thế kỷ 17 đến nay, dòng họ này luôn có được những đại diện thành danh trong kinh doanh và có vai vế trong xã hội, nhưng không ai sánh được với Nathan Rothschild.
    Buổi giao thời giữa hai thế kỷ 18 và 19, ông nổi tiếng trong kinh doanh cũng như đầu cơ, làm chính trị và lợi dụng chính trị; trong thành công và thất bại, ý chí làm giàu và khôi phục sự giàu sang, thắng không tự mãn và thua không nản lòng. Không phải chỉ ở thời đó mà ngay cả đến tận bây giờ, Nathan Rothschild vẫn được coi là một trong những nhà đầu cơ tài chính lớn nhất, bạo gan nhất và cũng thành công nhất.
    Dòng họ Rothschild ở Đức nỗ lực làm giàu còn nhằm mục tiêu dùng sự giàu có ấy để cải thiện vị thế của người Do Thái ở châu Âu, bởi thời đó người Do Thái ở đây thường bị miệt thị và phân biệt đối xử. Người cha của Nathan Rothschild, ông Mayer Armschel Rothschild - giống như các thương nhân người Do Thái khi ấy - đã nhận ra từ rất sớm rằng, phải giàu có thì mới có thể tồn tại được ở châu Âu, phải có tiền thì mới có thể thoát khỏi cảnh bị nhục mạ, coi thường và sợ hãi, mới được công nhận và vị nể. Ông trụ lại ở Frankfurt bên dòng sông Main, nhưng lại cử cả bốn đứa con trai đi lập nghiệp và làm ?ochân rết? ở bốn phương trời khác nhau: James sang Pháp, Carl sang Italia, Solomon sang Áo, còn Nathan sang Anh. Lúc ấy, Nathan mới 23 tuổi và cũng là thời điểm chuyển giao thế kỷ 18 sang thế kỷ 19.
    Cuộc chiến tranh giữa Pháp và Anh đầu thế kỷ 19 như thể được tiến hành cho riêng Nathan kiếm lời! (Xem trong tác phẩm Chiến tranh tiền tệ)

    Cả bốn anh em nhà Rothschild thực ra chỉ là thương nhân, chuyên mua chỗ rẻ bán chỗ đắt, mua của kẻ có đến bán cho người cần. Nathan Rothschild chịu trách nhiệm về kênh buôn bán giữa nước Anh và châu Âu lục địa. Bước sang thế kỷ 19, Pháp và Anh xung chiến. Năm 1806, Pháp phong tỏa mọi tuyến đường biển giữa Pháp và Anh, cấm vận hoàn toàn hàng hóa của Anh, dù vậy cũng không phong tỏa được khả năng kinh doanh của Nathan. Nathan làm giả giấy tờ vận chuyển hàng hóa và tàu thuyền vận tải, chuyển hàng từ Anh đi vòng qua Thụy Điển sang Đức. Tất nhiên người Pháp cũng không đến nỗi quá ngờ nghệch. Năm 1810, quân đội Pháp bắt quả tang Nathan vận chuyển hàng lậu qua Frankfurt và từ đó luôn đặt thương gia này vào ?otầm ngắm?.
    Đó cũng chính là lý do khiến Nathan buộc phải chuyển nghề từ lái thương sang nhà băng, song đó cũng chính là lãnh địa để Nathan phát huy tối đa năng khiếu đầu cơ bẩm sinh của mình. Nathan chọn London làm nơi dụng võ vì khi đó London đang trên đà trở thành trung tâm tài chính lớn nhất và quan trọng nhất của cả châu lục. Năm 1811, Nathan thành lập công ty kinh doanh tài chính riêng và mở rộng cánh cửa bước vào thế giới đầu cơ tài chính.
    Trước tiên là vấn đề vốn kinh doanh. Nathan không xin bố mẹ, cũng không nhờ cậy vào gia đình vợ (cưới năm 1806) vốn cũng kinh doanh rất thành đạt mà sử dụng vốn của Công tước Wilhelm von Hessen (thuộc Tây Nam nước Đức ngày nay). Câu chuyện này có những tình cờ mà tưởng như là sự sắp đặt của số phận. Cha của Nathan đã từng là cố vấn tài chính cho cha của Wilhelm von Hessen. Năm 1806, Napoleon xua quân Pháp đánh chiếm Hessen, đuổi dòng họ quý tộc phong kiến đứng đầu lãnh địa này ra khỏi Hessen. Wilhelm von Hessen buộc phải lưu vong ở Đan Mạch và vì thế phải dùng Nathan Rothschild làm người đứng ra chính thức quản lý và kinh doanh số tiền của mình. Cũng có thể nói Nathan đã khởi nghiệp với số tiền 300.000 Bảng Anh của Wilhelm von Hessen. Nathan dùng số tiền này đầu cơ vào trái phiếu của chính phủ Anh và vàng. Kinh nghiệm buôn lậu và mạng lưới thông tin được thiết lập từ trước cùng với sự mẫn cảm của một nhà đầu cơ bẩm sinh đã giúp cho Nathan trong vòng 5 năm không chỉ sinh lời cho Công tước Wilhelm von Hessen, mà còn ?ogột nên hồ? cho chính mình. Mạo hiểm là nhân tố không thể thiếu trong cách đầu cơ của Nathan. Những trái phiếu chính phủ được mua ghi tên của Nathan và chuyển tên cho Công tước Wilhelm khi công tước trả tiền, nếu bán có lãi thì Nathan được hoa hồng, nếu lỗ thì Nathan phải gánh chịu tất cả. Rất mạo hiểm, nhưng... rất có lời!
    Vấn đề tiếp theo là thông tin. Có thông tin trước thì mới có thể lập thế trận đầu cơ để bẫy cả các nhà đầu cơ khác. Gia đình Rothschild thiết lập mạng lưới thông tin riêng, nhân viên đưa tin có trang phục màu xanh vàng riêng, chân rết được cài cắm và gây dựng ở khắp mọi nơi, tàu thuyền và xe ngựa luôn hối hả trên đường và sẵn sàng lên đường, những con chim đưa thư cũng được huấn luyện đặc biệt để tránh lưới bẫy và chim săn mồi mà đối thủ của Nathan cài dăng, thả đón dọc bờ biển phía Nam nước Anh.
    Nhưng đầu cơ vào chiến tranh mới là định hướng chiến lược của Nathan. Ông công khai tuyên bố là thời buổi chiến tranh dễ làm ăn hơn hòa bình. Và cuộc chiến tranh giữa Pháp và Anh như thể được tiến hành để cho riêng Nathan kiếm lời! Tháng Giêng năm 1814, chính phủ Anh ủy quyền cho Nathan lo chuyện tiền nong cho đội quân của Đô đốc Wellington chiến đấu với quân Pháp để vị tướng này trả lương cho binh lính, mua lương thực và quân trang. Nathan không chỉ kiếm thêm tiền cho Wellington, mà còn cho chính phủ Anh vay tiền. Tháng 5/1814, chính phủ Anh đã nợ Nathan tới 1.167.000 Bảng Anh - số tiền khổng lồ thời đó. Con tính của Nathan là, quân đội Anh thắng thì giá trị trái phiếu của chính phủ Anh sẽ tăng và càng tăng thì Nathan càng có lợi. Hơn nữa, chiến tranh càng kéo dài thì Nathan càng có cơ hội đầu cơ. Quả thực Nathan thắng lớn khi Hoàng đế Pháp Napoleon thua trận đầu tiên năm 1814.
    Tuy thế, không phải ông không từng nếm những thất bại cay đắng. Khi biết tin Napoleon từ đảo Elba trở về Paris, Nathan đoán chiến tranh sẽ lại xảy ra và đổ hết của cải vào việc mua vàng và trái phiếu chính phủ, trù tính cho một cuộc chiến lâu dài. Nhưng khi Napoleon thua ở Waterloo ngày 18/6/1815 thì nhà đầu cơ trứ danh này gần như bị phá sản hoàn toàn vì chiến tranh chấm dứt, chính phủ Anh không còn cần đến vàng nữa và trái phiếu chính phủ giảm giá. (thực ra không hẳn, sau khi biết tin Napoleon thua trước thị trường 1 ngày, Nathan chịu lỗ khi bán rẻ và ngầm gom hết trái phiếu Anh và sau đó lãi 1 vốn ăn 20)
    Tay trắng, Nathan quyết chí phục thù và biết rằng con đường phục thù nhanh nhất vẫn là đầu cơ. Bất chấp sự phản đối của cả gia đình, ông bỏ hết tiền có được và đi vay được để mua trái phiếu chính phủ với lãi suất 3%, với niềm tin chắc chắn rằng giá trị loại trái phiếu này sẽ tăng. Ông đã kiên định giữ số trái phiếu đó trong 2 năm cho dù cả gia đình không biết bao nhiêu lần khẩn khoản yêu cầu Nathan bán đi để được đồng nào hay đồng ấy. Và cuối cùng, sự mẫn cảm của nhà đầu cơ đã thắng. Nathan cứ tiếp tục cách làm như vậy và chẳng bao lâu sau gỡ gạc lại được những gì đã bị mất.
    Nathan Rothschild sinh năm 1777 và mất năm 1836. Khi mất, ông để lại sự giàu sang cho cả gia đình với tài sản giá trị bằng 0,62% GDP của nước Anh thời đó. Ngày nay, người được coi là giàu nhất thế giới Bill Gates có số tài sản bằng 0,52% GDP của nước Mỹ. Nhưng ở vào thời của Nathan Rothschild, nước Mỹ của Bill Gates còn chẳng khác gì vừa mới? thôi nôi.
    Bắc Hà
    DDDN
    Được saruman sửa chữa / chuyển vào 13:35 ngày 25/10/2009
  9. SSX999

    SSX999 Guest

    Mossad bị tóm sống tại Tel-Aviv
    nguồn: http://www.sott.net/articles/show/197690-Israel-police-arrest-Mossad-agent-planting-car-bomb-in-Tel-Aviv
    Một chú thực tập sinh bị cảnh sát Israel tóm sống khi đang thực tập gài một quả bom giả vào xe ô tô ở Tel-Aviv.
    Cái gì vậy? Thực tập sinh Mossad đang tập gài bom trong một đợt huấn luyện.
    Một người phụ nữ tình cờ phát hiện ra tên Mossad này đang gài bom và không hiểu chuyện gì nên đã gọi điện cho cảnh sát và báo giới đã biết chuyện.
    Chỉ là tập luyện, nhưng Mossad đang tập luyện cái gì vậy? Tập đánh bom xe.
    15 phút sau khi người phụ nữ gọi điện, cảnh sát Tel Aviv đã phong toả khu vực và sơ tán dân chúng. Nhưng ít phút sau họ nói đó là Mossad đang thực tập đánh bom.
    3 hãng tin đã bị đề nghị ngừng đưa tin về sự cố này. Ynet cho biết.
    Israel và Mossad là mẹ đẻ của các loại khủng bố và các trò bẩn.
  10. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Vụ FED thì xem cái nì: http://ttvnol.com/forum/quansu/1216261/trang-7.ttvn#15969616 thì sẽ hiểu thêm một tí.
    Sau 2.000 năm nước mất nhà tan, người người ly tán ăn nhờ ở đậu các xứ trên thế giới và thường trực bị sống trong thảm nhục diệt chủng, động lực nào đã thúc đẩy người Do Thái - với trăm ngàn dị biệt giữa họ - không những giành lại được đất tổ quê cha mà còn biến vùng đất khô cằn sỏi đá cũng như sa mạc hoang sơ từ ngàn xưa nơi đó thành một cõi bờ trù phú tân tiến, hồi sinh và thống nhất một ngôn ngữ già như trái đất là cổ ngữ Hébreu thành quốc ngữ?
    Hai chữ Do Thái thật ra chỉ là danh xưng để gọi một giống người mà huyết thống, sau 2.000 năm vong quốc, đã bị lai loãng cả trăm, cả ngàn đời rồi. Cho nên có đến hàng trăm thứ Do Thái: Do Thái Pháp, Do Thái Bỉ, Do Thái Ý, Do Thái Anh, Do Thái Mỹ, Do Thái Nga, Do Thái Hung, Do Thái Thổ, Do Thái Đức, Do Thái Ba Lan, Do Thái Bồ Đào Nha, Do Thái Tây Ban Nha, Do Thái Ả Rập (Iran, Irak ..., Algérie, Maroc, Tunisie, Syrie, Egypte ?" Ai Cập ...), Do Thái Áo, Do Thái Phi châu da đen ... và cả Do Thái Tàu.
    Thủy tổ người Do Thái và ý thức Do Thái Giáo là Abraham, dân tộc Hébreu , thuộc giòng Sémite. Abraham gốc người xứ Chaldée (Irak ngày nay), theo thân phụ di cư qua đất Canaan. Ông tự nhận được Thượng Đế khải thị cho chọn đất nầy làm nơi định cư lập nghiệp. Tuy nhiên, dân tộc Do Thái chỉ thực sự được gầy dựng kể từ đời thứ tư nhờ một trong 12 người chắt trai của Abraham là Joseph. Bấy giời Joseph làm thượng thư trong triều đình Ai Cập nên toàn thể độ 70 người trong tộc Abraham đều theo Joseph qua Ai Cập sinh sống.
    Vào năm 1585 trước CN, một vị Pharaon (vua Ai Cập) khác lên ngôi, không thích người Do Thái, nghi kỵ và bạc đãi bắt cả nhóm của Joseph làm nô dịch. Ý thức thành lập một quốc gia Do Thái phát sinh từ đó.
    Gông cùm nô dịch kéo dài 317 năm mới được Moïse giải phóng. Moïse là một thân vương của Ai Cập, nhưng đứng trước nhục trạng của đồng bào ông, ông cương quyết từ bỏ địa vị cao sang cá nhân, bênh vực và bảo vệ họ.
    Vào năm 1266 trước CN, Moïse đưa đồng bào đau khổ của ông di cư về Đất Hứa. Tới núi Sinaï, họ sống vất vưởng cực khổ 40 năm. Truyền rằng chính nơi đây, được khải thị bởi Thượng Đế, Moïse đã cụ thể hoá ý thức tôn giáo nhất thần của Abraham thành Do Thái Giáo, có cơ sở hẳn hòi: Thờ Jahvé, một thượng đế toàn năng, toàn trí, chí nhân, chí công và là người tạo ra trời đất cùng muôn loài.
    Thánh Kinh Do Thái (La Torah) di lưu rằng vì thủy tổ loài người, ông Adam và bà Eva, phạm tội ăn trái cấm nên hậu duệ của ông bà phải chịu khổ, song một ngày kia một Đấng Cứu Thế trong tộc Do Thái sẽ ra đời và Ngài sẽ là người hoà giải Jahvé với nhân loại.
    Người trong đạo Do Thái tin có linh hồn và linh hồn bất diệt khi thể xác rữa tan. Tín đồ Do Thái giáo phải tin theo Thập Tự Giới như: thờ một Chúa duy nhất, kính trọng cha mẹ, không được cướp của giết người, không được nói dối, phải giữ linh hồn và thể xác trong sạch ... Ngày thứ bảy trong mỗi tuần là ngày Sabbat, tức là ngày thiêng liêng, mọi công việc đều phải đình lại.
    Do Thái và Palestine đều nhận mình là con cháu của Tổ phụ Abraham và Moses, đều tin vào một Thượng Đế toàn năng mà Palestine gọi là Allah, Do Thái gọi là Jahweh hay Jehovah. Điều lạ lùng trớ trêu là Thượng Đế toàn năng đó đã chỉ vùng đất Palestine hôm nay cho những người Do Thái, và bảo họ rằng: "Ngươi và con cháu ngươi là dân tộc ta chọn để sinh sôi nảy nở nơi đây để làm sáng danh ta".
    Trong khi cũng Thượng Đế toàn năng đó lại chỉ y nguyên phần đất Palestine sỏi đá đó cho người Palestine và bảo rằng: "Đây là quê hương của ngươi, đứa nào láng cháng đến thì đuổi nó đi để làm sáng danh ta".
    Cả người Do Thái lẫn người Palestine đều tin lời đó là thật cho nên nhất quyết theo đúng lời Thượng Đế toàn năng dạy phải ăn miếng trả miếng, mắt đổi mắt, răng đền răng bằng cách riêng và bằng phương tiện riêng của mình.
    Cuộc xung đột Do Thái-Palestine trở thành cuộc chiến giữa hai giáo chủ Moses và Mahomet, giữa thánh thư Talmud và Koran.
    Palestine là vùng đất mà cả người Do Thái, Hồi giáo và các hệ phái Thiên chúa giáo đều coi là thánh địa của riêng mình. Đến thế kỷ thứ hai thì coi như không còn người Do Thái nào hiện diện trên vùng đất đó nữa.
    Dân tộc Do Thái bắt đầu văn minh và thống nhất từ đời Moïse nhưng nhờ Josué, đời kế tiếp, chiếm được một phần xứ Canaan (Đất Hứa), con cháu Israël mới về đó định cư chính thức. Sau, David chiếm trọn đất Canaan, dựng đô ở Jérusalem, lập một ngôi đền đẹp đẽ cũng lấy tên là Jérusalem (có nghĩa là Đền Bình Trị). Và đến đời con của David là Salomon, quốc gia Do Thái mới toàn thịnh.
    Năm 930 trước CN, Salomon băng hà, Israël bị chia làm hai tiểu quốc: Israël ở phía bắc và Judée ở phía nam. Nam bắc tương tàn, rốt cuộc Israël bị Assyrie chiếm mất, Judée lọt vào tay Babylone.
    Tới khi Ba Tư (Iran) sang chiếm Babylone, người xứ Judée mới được về lại xứ, xây cất lại đền Jérusalem, tạm sống yên ổn trong hai thế kỹ.
    Rồi tới năm 63 trước CN, La Mã chiếm xứ Judée, tàn phá và đổi tên Jérusalem thành Aelia Capitolina, và Israël thành Palestine (tên cũ). Dân tộc Do Thái mất quốc gia và nếm mùi lưu vong và nhục trạng diệt chủng trường kỳ khủng khiếp từ thời đó cho tới năm 1948.
    Mới đầu họ tản mát qua Tiểu Á rồi qua Âu Châu, Bắc Phi, Ethiopie, chỉ còn một nhóm nhỏ ở lại trong xứ sống chung với người Ả Rập. Đi tới đâu, thổ dân cũng nhận ra họ, một là vì tôn giáo, hai là vì nét mặt (nhất là sống mũi mỏ vẹt đặc thù của họ), ba là sự đoàn kết, sự thông minh, sự tiến đạt thịnh vượng hơi quá lộ liễu của họ, dù rằng đi tới đâu họ cũng đều nhập tịch xứ đó và cũng hy sinh tính mạng những khi hữu sự y như người bản xứ.
    Tại Ba Tư (Iran) vào thế kỹ XIX, người Do Thái chẳng khác gì hạng tiện dân bên Ấn Độ, vì đối với người bản xứ, hễ người Do Thái đụng tới một vật gì thì vật đó hoá ra nhớp nhúa bẩn thỉu. Do đó người Do Thái bị cấm triệt không được hành nghề như mở quán tạp hoá, nhà hàng ... Lúc trời mưa, họ không được ra khỏi khu vực dành riêng cho họ (có tên là Mellah) tương tự như các ghetto ở Châu Âu. Đặc biệt người Do Thái không có quyền làm chứng và tuyên thệ ở toà án. Sinh mạng của một người Do Thái không quá 140 Kraus (tiền Ba Tư).
    Tại Maroc, người Do Thái không được luật pháp công nhận quyền công dân dù họ đã vào quốc tịch. Lẽ sống chết của họ tùy thuộc vào nhà vua. Vua Maroc muốn bắt họ làm nô lệ thì họ phải tuân theo vì không biết dựa vào đâu mà kêu ca ngoài lời nguyện cầu Jahvé che chở.
    Tại Yémen trước 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước mặt người Hồi giáo, không được bán cùng món hàng với người Hồi. Ngoài ra, ngày thờ Mohamed, giáo chủ Hồi giáo, người ta cấm họ mặc các thứ vải có màu nhạt, mang khí giới. Trẻ con Do Thái mồ côi phải giao cho nhà cầm quyền để nhà cầm quyền cho chúng theo Hồi giáo.
    Thân phận người Do Thái ở Châu Âu xét ra còn bi đát hơn nhiều so với thân phận người Do Thái ở Trung Đông. Suốt gần mười thế kỹ, không nơi nầy thì nơi khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị nhục cảnh ghetto, pogrom, hỏa hình lò thiêu, dìm nước. Người Do Thái bị buộc gắn hình bánh xe nhỏ hoặc hình ngôi sao David sáu cánh trên áo như tội phạm mang áo dấu, bị trút lên đầu lên cổ tất cả mọi tội lỗi mà họ không hề gây nên. Nhưng lúc họ được yên thân nhất cũng không khác thân phận nô lệ là bao vì người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn theo nghề nông, họ chỉ có thể làm nông nô hay tá điền là cùng. Muốn khá giả, họ chỉ còn nghề đổi tiền và cho vay .
    Sự học hành của người Do Thái ở các nơi nầy cũng bị hạn chế. Chẳng hạn ở Nga, chính phủ không ra mặt cấm hẳn sự học của họ nhưng lại áp chế một chính sách xảo quyệt là cho các trường trung học chỉ được thu nhận một số học sinh Do Thái khoảng 10% tổng số học sinh theo Thiên Chúa giáo, trong khi ở thành nào có dân Do Thái thì nhân số Do Thái cũng chiếm ít nhất 30% tổng số dân cư ngụ vì người Do Thái bị bắt buộc phải sống chung gần như trong các ghetto của Đức, của Ba Lan.
    Tình cảnh của họ bất công đến nỗi một người theo Thiên Chúa giáo đã phải thốt ra: "Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là người Thiên Chúa giáo ngoan đạo thì hết thẩy chúng ta đều là những người Thiên Chúa giáo ngoan đạo".
    Cuộc tàn sát Do Thái vì kỳ thị Thiên Chúa giáo thực sự bắt đầu từ thế kỹ XI trong cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân kéo dài đến đầu thế chiến thứ hai thì chuyển hướng qua kỳ thị chủng tộc bởi Hitler và Đức Quốc Xã.
    Năm 1096, người ta rủ nhau đi giải phóng mộ Chúa Ki Tô. Và còn gì hữu lý bằng, trước khi làm công việc thiêng liêng cao cả đó, trả thù những kẻ mà 11 thế kỹ trước đã phản bội Chúa nên Chúa mới bị chính quyền La Mã kết tội phiến loạn, bị đóng đinh trên Thánh Giá tại núi Golgotha cùng với hai tên đạo tặc.
    Ở Worms (Đức), trong hai ngày, người Âu Châu đã làm thịt 800 người Do Thái bất luận già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Hễ là Do Thái mà không chịu theo Thiên Chúa giáo là bị chém bằng gươm bằng giáo.
    Ở Mayence (Đức) cũng vậy, 700 người Do Thái ngã gục chỉ vì họ là hậu duệ của kẻ đã giết Chúa (Juda) và đã được Chúa" xin Cha - Thượng Đế - tha thứ cho họ (người Do Thái) vì họ không biết họ làm gì". Chúa tha, nhưng đời đời kiếp kiếp tín đồ của Chúa, vốn không cùng chủng tộc với Chúa, không tha, quyết diệt cho tiệt cái nòi mà chính Chúa đã mượn thân xác xuống trần.
    Mà thật ra, Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo vốn là"đồng bào ruột thịt"vì Đức Mẹ Maria và Chúa Jésus đều là người Do Thái và tất cả đều theo những điều luật của Moïse, cũng dân Do Thái nốt.
    Đến thế chiến thứ hai, Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát họ rất bình tỉnh, có tổ chức, có kế hoạch, có chủ thuyết và có khoa học. Bởi vậy dân Do Thái chết như rạ, dầu Néron, Tần Thủy Hoàng có tái sinh cũng không thể không cúi đầu chịu thua.
    Lửa kỳ thị tôn giáo và hận giết Chúa sau gần 20 thế kỹ dù sao cũng phải lụi phần sôi sục. Hơn nữa, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo, cho nên muốn tận diệt họ, Hitler bèn tạo thêm lòng kỳ thị chủng tộc. Thuyết kỳ thị chủng tộc của Hitler đã được rút ra từ cuốn sách "Chủng Loại Các Thứ Cây" (Espèces en Botanique), xuất bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thụy Điển Carl Linné (1707-1778). Từ hệ thống phân loại cỏ cây làm 24 giống, Linné phân loại tới loài người: Giống Âu da trắng siêng năng, giống Á da vàng dai sức, giống Phi da đen bạc nhược và giống Mỹ da đỏ nóng nảy.
    Chộp lấy hệ thống đó, Đức Quốc Xã tuyên truyền rằng giống Do Thái ?" vàng chẳng ra vàng, đen chẳng ra đen, trắng không thật trắng ?" có máu quỉ quyệt phản bội (phản Chúa), chống chính phủ (thuyết c ộng sản của Marx, gốc Do Thái). Vậy, vì lý do an ninh của nước Đức và để bảo tồn huyết thống của giống Đức (giống Aryen) - một giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới - khỏi bị lây lai bậy bạ mà phải sa đoạ lần lần mất, chúng ta (dân Đức) phải tận diệt chúng (tức Do Thái) và tịch thu tài sản của chúng.
    Từ năm 1939 đến đầu năm 1945, tính ra có trên năm triệu người Do Thái bị Hitler và đồng bọn thảm sát hoặc bằng súng đạn, hơi ngạt, hoặc bằng lò thiêu, chôn sống. Chỉ riêng tại trại Auschwitz cũng đã có gần ba triệu thây ma Do Thái.
    Bao lần quật khởi đẩm máu, người Do Thái vẫn không tránh được cảnh nước mất nhà tan, người người phân tán trên khắp địa cầu. Ở đâu họ cũng bị hất hủi, khủng bố, tàn sát cho nên lòng hoài hương của họ trong suốt 2.000 năm lúc nào cũng đau đáu trong lòng. Nỗi khổ của họ đã làm thi sĩ Anh Byron buột miệng than"Dân Do Thái khổ hơn những con thú không có hang".
    Dù ở Moscou, Paris, New York, Rome, Berlin, Londre ... người Do Thái luôn luôn hướng về thánh địa Jérusalem và xứ Israël, mảnh đất thiên đường mà, nghe nói, Thượng Đế đã đặc ban cho họ, một dân tộc, cũng nghe nói, được Chúa trời chọn. Bất cứ gặp nhau ở nơi nào, họ đều chúc nhau: Sang năm về Jérusalem.
    Nói đến công cuộc phục quốc của người Do Thái mà không nói tới Théodore Herzl thì quả là một thiếu sót lớn. Vì nếu không có cuốn sách nhỏ mang tựa đề "Quốc Gia Do Thái" (L''Etat Juif) của Herzl, chẳng biết ngày nay thân phận hậu duệ ông Jacob đã đi đến vực thẳm khổ nhục nào rồi.
    Được DinhPhDc sửa chữa / chuyển vào 21:54 ngày 26/11/2009

Chia sẻ trang này