1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Âm mưu và thảm hoạ chiến tranh

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi SSX, 25/02/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Herzl hoạt động hăng say không tiếc sức. Chu du khắp nơi, gặp gỡ hết thảy các nhân vật có thẩm quyền lúc bấy giờ. Năm 1903, người Anh muốn tặng ông xứ Ouganda ở Trung Phi, đảo Chypre ở Địa Trung Hải để thành lập quê hương Do Thái, nhưng các người Do Thái ở Nga - đặc biệt Chaïm Weizmann, sau nầy thành vị tổng thống đầu tiên của Israël - nhất định không chịu, kiên quyết đòi về đất Palestine cho bằng được.
    Năm 1897, hội nghị Sionisme - chủ nghĩa Do Thái tự trị - lần thứ nhất, cảm hứng từ dự phóng một quốc gia Do Thái của Théodore Herzl, đã công bố quyền của dân tộc Do Thái trong mùa xuân mới dân tộc trên chính quê hương của họ. Quá lao tâm lao lực ngày đêm tranh đấu thuyết phục các chính quyền, liên lạc với đồng bào trên thế giới, Herzl kiệt sức và qua đời tại Vienne (Áo) năm 1904 hồi mới 44 tuổi.
    Năm 1905, Nga thua Nhật, cách mạng nổi lên ở Nga và dân Nga lại trút hết tội lỗi lên đầu người Do Thái, do đó có nhiều cuộc thảm sát Do Thái trong tháng 10 (1905) và vào năm 1919-1921 đã có trên 10 vụ pogrom.
    Năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ. Đồng minh trông cậy rất nhiều vào Anh quốc vì bấy giờ Anh làm bá chủ trên biển. Nhà cầm quyền nước Anh lúc đó vô cùng bối rối vì các nguyên liệu chế tạo thuốc nổ của họ thiếu một chất cốt yếu, đó là chất acétone. Trong những ngày khủng hoảng đó, nhà bác học Anh gốc Do Thái Chaïm Weizmann (1874-1952) đã sáng suốt nắm lấy cơ hội, chế biến được chất acétone nhân tạo giúp đồng minh đánh bại Đức năm 1918. Đế quốc Ottoman sụp đổ, Palestine thuộc Thổ Nhĩ Kỳ và rồi bị Anh cướp mất mở đường kích thích người Do Thái lưu vong bắt đầu trở về. Họ phải chiến đấu chống người Anh để bám đất, và đồng thời với dân bản địa Palestine.
    Quyền của dân tộc Do Thái đã được bản Tuyên Ngôn Balfour công nhận ngày 02 tháng 11 năm 1917 và được Hội Quốc Liên [Liên Hiệp Quốc] tái xác định, do đó đã thành sự công nhận quốc tế chính thức về mối liên hệ lịch sử của dân tộc Do Thái với vùng đất Palestine và quyền tái lập quê hương của họ.
    Palestine vốn không phải là một quốc gia mà là một vùng đất mênh mông thuộc đế quốc Ottoman, 1453-1917. Đệ nhất thế chiến chấm dứt năm 1918, thực dân Pháp "được ủy nhiệm "vùng Bắc Phi" (Maroc, Algérie, Tunisie, Libye) và bắc Cận Đông (Syrie và Liban). Palestine nằm dưới sự "ủy nhiệm" của thực dân Anh, nơi đây gồm các tộc Ả Rập Hồi, Thiên Chúa Giáo và Do Thái được gọi chung là Palestiniens (cư dân vùng Palestine).
    Thảm hoạ Shoah đã tiêu diệt hàng triệu người Do Thái tại Châu Âu, thêm một lần nữa chứng minh nhu cầu phải giải quyết vấn đề thiếu tổ quốc và độc lập của dân tộc Do Thái bằng sự tái lập quốc gia Do Thái hầu mở cửa cho mọi người Do Thái và trao cho họ một quy chế bình đẳng trong lòng cộng đồng các quốc gia.
    Những người sống sót trong cuộc thảm sát tại Châu Âu cũng như những người Do Thái từ các quốc gia khác không hề buông bỏ sự cố gắng của họ để tìm về Israël, bất chấp mọi khó khăn, mọi trở ngại, mọi tai ương; và họ không ngưng đòi hỏi quyền có một đời sống có phẩm cách, có tự do và có công ăn việc làm liêm chính trên mảnh đất của tổ tiên họ. Quê hương Do Thái được thành lập vào năm 1922 nhưng bị đặt dưới quyền bảo hộ của Anh, tức là có tiếng mà không có miếng (Tuyên ngôn Balfour ngày 02/11/1917).
    Năm 1938, trước khi bắt đầu thế chiến thứ 2, thực dân Anh đề nghị chia khoảng 30% lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Ả Rập và một Do Thái, nhưng sự việc không thành. Phải đợi đến cuối thập niên 1940 quốc gia Do Thái mới thành một thực tại độc lập. Trong thế chiến thứ hai, một lần nữa người Do Thái đã anh dũng chiến đấu phía đồng minh, đặc biệt bên cạnh Anh mặc dù người Anh đã một lần xảo quyệt phụ rẫy công lao của họ (cho đất mà không cho quyền tự trị).
    Khi chiến sự kết thúc, hy vọng độc lập của người Do Thái lại bay theo khói súng. Công chung sức diệt Đức Quốc Xã của họ không được Anh đếm xỉa tới. Sự kiện nầy trách Anh là chuyện thừa vì sự thành lập một quốc gia Do Thái độc lập ảnh hưởng đến lẽ sống chết của Anh: các mỏ dầu hỏa của Anh nằm hết bên các xứ Ả Rập ?" Ai Cập, Syrie, Ả Rập Séou***e, Cisjordanie - những quốc gia tử thù truyền kiếp với Do Thái.
    Nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, ngày 29/11/1947, tán thành giải pháp đôi toàn bộ lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Do Thái (56,47%) và một Palestine (43,53%) dưới quyền giám định của Anh. Năm 1948, Anh rút khỏi Palestine. Thánh địa Jérusalem có một quy chế đặc biệt dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Khối Ả rập không chịu, đặc biệt người Palestine, viện cớ không được tham vấn trong việc phân chia.
    Người Do Thái lợi dụng khoảng trống đó tuyên bố thành lập quốc gia Israel và bắt đầu xua đuổi người Palestine như những kẻ cư ngụ bất hợp pháp khỏi quốc gia Israel, ngay cả những người Palestine ở trên phần đất được LHQ phân chia cho họ năm 1947.
    Bốn triệu người Palestine phải tha phương cầu thực khắp các quốc gia đồng đạo vùng Trung Đông. Trong khi 750.000 người Palestine bị tống khỏi những vùng đã được phân chia cho họ trở thành những kẻ không đất cắm dùi lui về cố bám lấy vùng Bờ Tây sông Jordan và dải Gaza.
    Ngày 14/05/1948, dưới sự lãnh đạo của David Ben Gourion (1886-1973), quốc gia Do Thái được thành lập. David Ben Gourion đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập: "Đất Israël là nơi sinh ra dân tộc Do Thái". Chính nơi đó đã đặt nền móng cho bản sắc tâm linh, tín ngưỡng và dân tộc của người Do Thái. Chính nơi đó dân tộc Do Thái đã thực hiện nền độc lập của mình và đã tạo nên một nền văn hoá có ý nghĩa quốc gia và phổ biến. Chính nơi đó họ đã soạn ra bản Thánh Kinh và đã cống hiến cho thế giới.
    Bị bức bách phải lưu xứ, tản mác trong mọi quốc gia khác, dân tộc Do Thái vẫn thủy chung với vùng đất Israël, chưa bao giờ họ ngưng nguyện cầu và ngưng hy vọng trở về để tái lập nền tự do quốc gia của mình. Thúc đẩy bởi sự liên hệ lịch sử đó, người Do Thái đã đấu tranh qua bao thế kỹ để được trở về trên mảnh đất của tổ tiên và tìm lại xứ sở của mình. Người Do Thái đã trở về, khai khẩn các vùng đất hoang, tái sinh ngôn ngữ, xây dựng các thành phố, các thôn làng và sắp đặt một cộng đồng năng động và tràn đầy phát triển, có đời sống riêng về kinh tế và văn hoá. Họ cầu tìm hoà bình đồng thời sẵn sàng để tự vệ. Họ đã mang lại nhiều lợi ích trong tiến bộ cho mọi cư dân trong xứ và đã được chuẩn bị cho nền độc lập tối cao.
    Giành được nền độc lập không có nghĩa quốc gia Do Thái sẽ được sống trong hoà bình để kiến thiết khi chung quanh họ các nước thù địch trong Liên Đoàn Ả Rập (được thành lập từ 1945) vẫn nhất quyết tận diệt họ. Hơn nữa, có quá nhiều khác biệt trên mọi phương diện giữa người Do Thái với nhau và vùng đất mới được độc lập của họ vốn đã "chết" quá lâu, ảnh hưởng rất nhiều đến lẽ sinh tồn của họ.
    Công việc đầu tiên mà Bộ Quốc Gia Giáo Dục Istaël gấp rút xúc tiến sau ngày 14/05/1948 là thống nhất tiếng Hébreu thành quốc ngữ. Sau 2.000 năm phiêu bạt khắp hoàn cầu, con cháu Abraham không những đã mất đi ít nhất 99% huyết thống chính tông trong người mà tiếng mẹ đẻ chẳng còn mấy người nói được. Thời mới phục hồi nền độc lập, dân số Israël được hơn một triệu gồm trên 50 giống người và mỗi giống mỗi ngôn ngữ, mỗi nếp sống, mỗi trình độ văn minh, văn hoá.
    Để thống nhất ngôn ngữ, BQGGD Israël cưỡng bách mọi công dân Israël phải học tiếng Hébreu, soạn những sách phổ thông dạy từ 500 đến 1.000 tiếng căn bản để sau vài tháng dân chúng có thể đàm thoại với nhau được. Đồng thời Bộ còn cho dịch những danh từ mới về mọi ngành ra tiếng Hébreu để cho soạn sách từ cấp tiểu học đến đại học, tìm trong Thánh Kinh những chuyện cổ để dịch ra những ý niệm mới.
    Trong vòng 10 năm, ngành giáo dục của họ đã bắt kịp các nước tân tiến nhất. Ngôn ngữ mới được hồi sinh mà con cháu Abraham đã muốn tranh giành ảnh hưởng với các ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức !
    Hai đại học lớn nhất tại Israël là đại học Jérusalem gồm đủ phân khoa và Viện Công Nghệ, nơi đào tạo các kỹ sư đủ mọi ngành, đặc biệt ngành nông nghiệp và công nghệ. Ngoài ra còn có một viện chuyên về nghiên cứu là Viện Khoa Học Weizmann ?" tên vị tổng thống đầu tiên của họ - ở Rehovoth với những ngành như vật lý, hạt nhân, điện tử, vi trùng học, vật lý thực nghiệm ..., một đại học ở Tel Aviv và nhiều trường đại học khác khắp nước.
    Từ ngày Do Thái lập quốc, Mỹ trở thành một hậu cứ cho Do Thái và Do Thái là căn cứ tiền phương của Mỹ giữa biển cát Hồi giáo mênh mông ở Trung Đông. Trong khoảng thời gian 1964-1970, Mỹ đổ vào Do Thái $221.782.000 vũ khí, gần gấp đôi số vũ khí đổ vào Iran và gấp 50 lần số bán cho Saudi Arabia vốn là đồng minh thân thiết của Mỹ thời đó.
    Người Palestine chẳng nhận được một viên đạn nào mà cũng chẳng mua được một khẩu súng nào của Mỹ. Ở Mỹ có 5.600.000 người Do Thái xấp xỉ bằng dân số chính quốc, trong khi chính quốc Do Thái chỉ có khoảng 4.500.000 người theo Do Thái giáo gồm 53 thứ Do Thái từ khắp nơi tụ về, còn lại khoảng 1,2 triệu là người Ả Rập. Từ khi thành lập quốc gia Israël người Do Thái ở trong nước được gọi là Israéliens / Israelis (công dân quốc gia Israël) để phân biệt với những người Do Thái ở hải ngoại (Juifs/Jews).
    Việc kiến thiết quốc gia Israël, người Do Thái phải bắt đầu từ con số không. họ đã nỗ lực siêu phàm san bằng những trở ngại thiên nhiên của họ. Đó là sự phát triển kinh tế trên bãi sa mạc Neguev,"kẻ thù số một phải khuất phục của Israël"theo lời bà Golda Meir, thủ tướng Israël, 1969-1974).
    Sa mạc Neguev (Neguev = Phía Nam) rộng hơn phân nửa diện tích toàn xứ Israël (13.000 km vuông), nằm phía nam Tel Aviv, đỉnh cực nam là Hồng Hải với thành phố biển Eilat. Trước thế chiến II, Neguev hoàn toàn hoang vu khô cháy, lồi lõm. Văn minh tiến bộ như thực dân Anh mà còn chịu thua, không sao khai thác được.
    Chính phủ Israël phải khai phá vùng cát"chết" này. Một là để nuôi dân: đất đai thì hẹp mà dân số tăng rất nhanh qua các phong trào hồi hương tập thể. Hai là để củng cố mặt quốc phòng: không để khoảng đất rộng nào không có người ở hầu tránh sự xâm nhập của kẻ thù.
    Thường thì người ta tính năng suất của đất đai theo diện tích, có nghĩa là mức sản xuất hàng năm được bao nhiêu mỗi héc-ta. Riêng tại Israël thì sự tính toán hơi lạ đời vì dân ở đây tính năng suất theo ... khối nước tưới ! Mỗi năm có bao nhiêu nước và mỗi khối nước sinh lợi được bao nhiêu. Bởi vậy, một mặt họ lo cách thức kiếm nước, một mặt họ tìm mọi cách hầu tránh chuyện nước bị hao hụt đi, chẳng hạn nước bị bốc hơi hay thấm vào lòng đất. Phương pháp dẫn thủy nhập điền rất công phu tỉ mỉ ở Việt Nam đã làm thế giới ngạc nhiên, song đem so với những nổ lực phi thường của dân tộc được Chúa chọn thì hãy còn kém xa.
    Vấn đề thiếu nước ở Israël là nguyên nhân sinh ra lắm thứ thuế oái oăm. Ví dụ: Trong giá tiền một chai bia được tiêu thụ, một nửa là thuế dành cho công cuộc tìm nước. Họ đã nghĩ đến việc đào giếng, dùng nước mưa và nước biển, nhưng lấy đâu cho đủ nước trong khi ở đây mưa chẳng mấy lúc; còn nước biển thì ngoài công dụng cho kỹ nghệ ra, súc vật còn chịu không nổi huống hồ cỏ cây.
    Họ bèn thăm dò những dòng nước ngầm dưới lòng đất nằm ven biển và đã khám phá ra những nơi nầy có một tầng đất không thấm nước, chứa lại khá nhiều nước ngọt, như ở khu Avedat, số nước rút được từ các nơi đó là khoảng 140 triệu thước khối trong một năm. Những vùng có nước ngầm đã trở nên bồn nước thiên nhiên dành cho cả khu vực Yarkon ?" Neguev. Nhất là từ khi sử dụng được dòng sông lịch sử Jourdain, tổng lượng số nước rút được hàng năm lên tới 5 tỉ thước khối đủ dùng cho mọi nhà, mọi ngành kỹ nghệ và 4 triệu dounams đất khô cháy (10 dounams tương đương với 1 héc-ta).
    Để tránh việc phí phạm nước, dân israéliens bơm xuống lòng đất hàng triệu thước khối nước - kể cả nước cống đã được lọc và khử trùng ?" cho khỏi bị bốc hơi. Thật chưa dân tộc nào cần"nước"như người Do Thái. Song xét ra phương pháp đặt ống dẫn nước vẫn hiệu nghiệm hơn cả. Ống dẫn nước ở Israël có lẽ là loại ống dẫn kỹ lục: dài từ 4 đến 170 km, nặng không dưới 32 tấn, mỗi đoạn 5 thước đường kính và 3 thước bề dài, đặt ngay trên mặt đất, có khi phải xuyên núi, vượt đèo và thung lũng. Hệ thống dẫn nước của họ là cho nước chạy theo ống dẫn lớn, qua ống nhỏ, phân ra làm muôn ngàn nhánh mỗi lúc mỗi bé để rồi tung ra ruộng nương, vườn tược qua các máy nước chẳng khác gì các trận mưa nhân tạo.
    Nước chảy đến đâu, người dân tìm theo đến đấy và sự canh tác tiến triển tùy nhịp nước lan mau hay chậm.
    Thủ đô của sa mạc Neguev là thành phố Beersheva, tụ điểm của hầu hết những người Do Thái hồi hương từ khắp nơi trên thế giới. Chính Abraham đã đặt ra tên Beersheva (Giếng thề).
    Dưới bầu trời sa mạc nóng cháy Neguev (trung bình 36° C), người ta thấy gồm đủ hạng người, từ anh kỹ sư, nhạc sĩ đến chị bán hàng, chú thợ máy; từ bác tiến sĩ, thím giáo sư đến cô y tá, em sinh viên, cậu cu li. Bấy giờ mọi dị biệt xã hội giữa họ đều được san bằng, tất cả chỉ còn là những đứa con của Israël chung vai sát cánh hồi sinh vùng Đất Hứa.
    Dù người Do Thái chung tay xây dựng đất nước hùng mạnh vậy, nhưng đến nay vẫn còn sự kỳ thị ngấm ngầm nhưng sâu sắc giữa hai nhóm Do Thái, đặc biệt cộng đồng Do Thái chủ thể Ashkénaze - tự cho mình là dân trí thức - vẫn có cái "nhìn xuống" đối với cộng đồng Do Thái Séfarade (hồi hương từ Bắc Phi) mà họ đánh giá là lái buôn, ít học. Israël cho đến nay không hề có bộ trưởng nào cũng như chưa hề có một thẩm phán Do Thái gốc Ả Rập trong Tối Cao Pháp Viện. Từ khi lập quốc năm 1948, Israël đã trải qua 8 đời tổng thống và 13 thủ tướng, tất cả đều gốc Ashkénaze.
    Năm 1967, Do Thái lấn vào hai vùng này và người Palestine bị dồn vào chân tường phải vùng lên. Danh từ Intifada, Jihad bắt đầu được thế giới nhắc đến từ đó. Cuối cùng Do Thái đã nhượng cho Palestine 17% vùng Tây ngạn sông Jordan và 60% dải Gaza.
    Người Do Thái tiếp tục dành đất, vài trăm ngàn người Do Thái ở trên những phần đất thuộc quyền quản trị của Palestine. Trước 1967, mật độ chung Do Thái là 278 người trên một cây số vuông trong khi ở dải Gaza, mật độ đó là 3.138 người.
    Nguồn nước uống, những đường thông thương ra biển, đa số công ăn việc làm và chuyện học hành của Palestine đều do Do Thái kiểm soát. Kinh tế của Palestine giảm 1/3 trong giai đoạn 1992-1996, số thất nghiệp lên đến 20%. Lợi tức hàng của người Do Thái là $36.000, cao gấp 12 lần cao hơn người Palestine trong khi đó viện trợ Mỹ hàng năm cho Do Thái là $1.000 cho mỗi đầu người, ở các nơi khác vùng Châu Phi $6 cho mỗi người.
    Sau chiến tranh ném đá 2 (Intifada 2), ở Jaffa, người Ả Rập mua bán trong các chợ Ả Rập, người Do Thái mua sắm trong các siêu thị. Thu nhập khác nhau, cách sống khác nhau, hai cộng đồng vẫn song hành, vẫn giao nhau nhưng chẳng thấy nhau. Đạo diễn Avi Mograbi từng viết "họ đã thành công khi làm biến mất người Ả rập trên đất nước" vì ở đây "người ta có thể nghe tiếng Hébreu, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh ... và mọi thứ tiếng khác TRỪ tiếng Ả Rập.[...] Văn tự Ả rập biến mất trên các tên đường. Mọi bảng hiệu hoàn toàn được kẻ bằng chữ Hébreu và chữ Anh, kể cả tên họ trên các chuông cửa".
  2. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Về phương diện đối ngoại, Hoa Kỳ đã chịu quá nhiều tai tiếng trong chuyện bênh ai bỏ ai. Trăm dâu đổ đầu tằm, mọi oán than thù hận của người Hồi giáo đều đổ lên đầu Mỹ, ít ra cũng là từ ngày Do Thái lập quốc năm 1948 đến nay. Do Thái lập quốc là Palestine vong quốc, năm 1944 trước viễn tượng lấn đất cắm dùi Do Thái- Palestine, T.T Roosevelt cam đoan với vua Ibn Saud của Saudi Arabia rằng Mỹ sẽ không để cho dân Palestine mất một tấc đất nào vào tay Do Thái.
    Năm 1991, T.T Bush bố hứa hẹn cho Palestine ''một ốc đảo an bình'' ở Trung Đông để ve vãn khối Á Rập ủng hộ Mỹ trong chiến tranh chống Iraq. Thế mà năm 2001 Palestine trở thành tiếng trống trận thúc đẩy những người muốn biến Hồi giáo thành một ý thức hệ chống Tây phương và chống Mỹ.
    Cùng năm, khối C ộng Sản tan rã cộng thêm chiến tranh với Iraq, liên minh Mỹ-Hồi giáo hình thành nhưng rồi các đồng minh Hồi giáo của Mỹ dần dần rút lui vì Mỹ không giải quyết xong những đau khổ của Palestine và Iraq.
    Ngày 01/10/2000, quân đội Israël bắn chết 13 công dân Israël gốc Ả Rập trong một cuộc biểu tình tại Naplouse. Tại Tel Aviv, một số công dân Israël-Séfarade nghiệm ra rằng người ta có thể bắn sả vào họ như bắn người Ả-rập Palestine (năm 2000 có chừng 120.000 nhân công Ả -r â ậ p Palestine qua lại làm việc bên Israël), còn một số công dân Israël-Ashkénaze khám phá ra rằng các thợ thuyền hay các người giúp việc - gốc Ả Rập - trong gia đình mình có thể bất ngờ trở thành hiểm họa, cho nên đã thay thế lần lần bằng các nhân công di cư Nga, Roumanie, Philippine...Cứ đà nầy, Tel Aviv sẽ thực hiện được giấc mơ thuở ban đầu: Thành phố dành riêng cho người Do Thái-Ashkénaze.
    Do đó mới nảy ra câu hỏi: Cái gì đã tạo ra cái gì? Khủng hoảng Do Thái - Palestine đã tạo ra sự kỳ thị Ả Rập hay sự kỳ thị Ả Rập là nguyên nhân kéo dài không biết đến bao giờ khủng hoảng Do Thái - Palestine?
    Tới đây đọc lại liệu có phải đậu phộng không? Không, không đậu phộng, mới chỉ rắc vừng thôi. Nhưng mà vấn đề là đang tìm hiểu xem Do Thái chỉ là con muỗi hay có ảnh hưởng toàn thế giới cái khỉ gì không? Có phải bọn Do thái nắm các công ty tài chính? Lại phải đánh võng thêm đọan nữa.
    Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:

    - Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra ?ogiá trị thặng dư? và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa c ộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
    - Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Cục Dự trữ liên bang Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;
    - Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;
    - 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008) ? là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng...
    Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :
    - Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật ?olàm hộ? chuyện ấy.
    - Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên tới 26,5 tỷ USD.
    - George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn. George Soros được mệnh danh là phù thuỷ trong lĩnh vực tài chính quốc tế, người từ bồi bàn thành tỷ phú, người kiếm 1 tỷ USD trong vòng 1 tuần, kẻ đầu cơ tiền tệ vĩ đại nhất thế kỷ 20, người từng thu được những món lời kết xù từ những dự đoán chính xác qua 2 cuộc khủng hoảng tài chính London 1992 & châu Á 1997. Người ta tin rằng ông có thể một tay che cả bầu trời, làm mất giá bất kỳ đồng tiền mạnh nào trên thế giới hay gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế bởi những cư dân của phố Wall và thị trường tài chính London luôn dõi theo và sẵn sàng hành động theo ông.
    - Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng cử viên Tổng thống Mỹ khóa tới...
    Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này.
    Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói ?oTiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái?. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.
    Nước Israel nhỏ bé tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2003 bằng 19.000 USD. Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người A Rập xung quanh ...
    Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.
    Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua.
    Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
    Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) ?" kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
    Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi.
    Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.
    Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho.
    Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: ?oNhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.? Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa c ộng sản ?olà sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn?.
    Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.
    Triết gia Max Weber viết: ?oĐạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.? Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: ?oLạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa? (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn ?" qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ (thật ra Ki-tô muốn giữ con chiên trong sự bần cùng, ngu si để dễ bề sai khiến, người Việt ta có câu "theo đạo lấy gạo mà ăn" là vậy. Ki-tô bóc lột con chiên mỗi phần vật chất con chiên kiếm được đều phải chia 3, giữ cho bản thân 1 phần, 2 phần nộp cho nhà thờ, nhà thờ giữ lại 1 phần nuôi cán bộ, 1 phần nộp về nước chúa - Vantican). Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
    Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: ?oVàng ở xứ này rất quý? (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có.
    Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3.000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này ?ocó rất nhiều súc vật, vàng bạc? (Genesis 13:2).
    Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật.
    Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.
    Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái.Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn.
    Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại ?" về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào.
    Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền ?" họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).
    Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án.
    Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ ?oChẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.? Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái.
    Người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói ?onặng nề? vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.
  3. F2communist

    F2communist Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Bài viết:
    1.006
    Đã được thích:
    42
    Phê bình đồng chí Dinhphdc cóp bài viết, công sức của người khác mà không ghi rõ nguồn gốc. Lý do hay được các đồng chí bẩn bựa kiểu nầy đưa ra là "tổng hợp"
    Đồng chí nầy đạo bài người khác mà lại cắt xén làm ý nghĩa bài viết không rõ ràng
    Tấm Gương Do Thái
    tg: HànLệ Nhân
    link: http://www.saga.vn/view.aspx?id=1052
    Sau 2.000 năm nước mất nhà tan, người người ly tán ăn nhờ ở đậu các xứ trên thế giới và thường trực bị sống trong thảm nhục diệt chủng, động lực nào đã thúc đẩy người Do Thái - với trăm ngàn dị biệt giữa họ - không những giành lại được đất tổ quê cha mà còn biến vùng đất khô cằn sỏi đá cũng như sa mạc hoang sơ từ ngàn xưa nơi đó thành một cõi bờ trù phú tân tiến, hồi sinh và thống nhất một ngôn ngữ già như trái đất là cổ ngữ Hébreu thành quốc ngữ?
    1/ Dân tộc Do Thái
    Thủy tổ người Do Thái và ý thức Do Thái Giáo là Abraham, dân tộc Hébreu , thuộc giòng Sémite. Abraham gốc người xứ Chaldée (Irak ngày nay), theo thân phụ di cư qua đất Canaan. Ông tự nhận được Thượng Đế khải thị cho chọn đất nầy làm nơi định cư lập nghiệp. Tuy nhiên, dân tộc Do Thái chỉ thực sự được gầy dựng kể từ đời thứ tư nhờ một trong 12 người chắt trai của Abraham là Joseph. Bấy giời Joseph làm thượng thư trong triều đình Ai Cập nên toàn thể độ 70 người trong tộc Abraham đều theo Joseph qua Ai Cập sinh sống.
    Vào năm 1585 trước CN, một vị Pharaon (vua Ai Cập) khác lên ngôi, không thích người Do Thái, nghi kỵ và bạc đãi bắt cả nhóm của Joseph làm nô dịch. Ý thức thành lập một quốc gia Do Thái phát sinh từ đó.
    Gông cùm nô dịch kể trên kéo dài 317 năm mới được Moïse giải phóng. Moïse là một thân vương của Ai Cập, nhưng đứng trước nhục trạng của đồng bào ông, ông cương quyết từ bỏ địa vị cao sang cá nhân, bênh vực và bảo vệ họ.
    Vào năm 1266 trước CN, Moïse đưa đồng bào đau khổ của ông di cư về Đất Hứa. Tới núi Sinaï, họ sống vất vưởng cực khổ 40 năm. Truyền rằng chính nơi đây, được khải thị bởi Thượng Đế, Moïse đã cụ thể hoá ý thức tôn giáo nhất thần của Abraham thành Do Thái Giáo, có cơ sở hẳn hòi: Thờ Jahvé, một thượng đế toàn năng, toàn trí, chí nhân, chí công và là người tạo ra trời đất cùng muôn loài.
    Thánh Kinh Do Thái (La Torah) di lưu rằng vì thủy tổ loài người, ông Adam và bà Eva, phạm tội ăn trái cấm nên hậu duệ của ông bà phải chịu khổ, song một ngày kia một Đấng Cứu Thế trong tộc Do Thái sẽ ra đời và Ngài sẽ là người hoà giải Jahvé với nhân loại.
    Người trong đạo Do Thái tin có linh hồn và linh hồn bất diệt khi thể xác rữa tan. Tín đồ Do Thái giáo phải tin theo Thập Tự Giới như: thờ một Chúa duy nhất, kính trọng cha mẹ, không được cướp của giết người, không được nói dối, phải giữ linh hồn và thể xác trong sạch ... Ngày thứ bảy trong mỗi tuần là ngày Sabbat, tức là ngày thiêng liêng, mọi công việc đều phải đình lại.
    Dân tộc Do Thái bắt đầu văn minh và thống nhất từ đời Moïse nhưng nhờ Josué, đời kế tiếp, chiếm được một phần xứ Canaan (Đất Hứa), con cháu Israël mới về đó định cư chính thức. Sau, David chiếm trọn đất Canaan, dựng đô ở Jérusalem, lập một ngôi đền đẹp đẽ cũng lấy tên là Jérusalem (có nghĩa là Đền Bình Trị). Và đến đời con của David là Salomon, quốc gia Do Thái mới toàn thịnh.
    Năm 930 trước CN, Salomon băng hà, Israël bị chia làm hai tiểu quốc: Israël ở phía bắc và Judée ở phía nam. Nam bắc tương tàn, rốt cuộc Israël bị Assyrie chiếm mất, Judée lọt vào tay Babylone.
    Tới khi Ba Tư (Iran) sang chiếm Babylone, người xứ Judée mới được về lại xứ, xây cất lại đền Jérusalem, tạm sống yên ổn trong hai thế kỹ.
    Rồi tới năm 63 trước CN, La Mã chiếm xứ Judée, tàn phá và đổi tên Jérusalem thành Aelia Capitolina, và Israël thành Palestine (tên cũ). Dân tộc Do Thái mất quốc gia và nếm mùi lưu vong và nhục trạng diệt chủng trường kỳ khủng khiếp từ thời đó cho tới năm 1948, tây lịch.
    2/ Bước đường lưu vong
    Mới đầu họ tản mác qua Tiểu Á rồi qua Âu Châu, Bắc Phi, Ethiopie, chỉ còn một nhóm nhỏ ở lại trong xứ sống chung với người Ả Rập. Đi tới đâu, thổ dân cũng nhận ra họ, một là vì tôn giáo, hai là vì nét mặt (nhất là sống mũi mỏ vẹt đặc thù của họ), ba là sự đoàn kết, sự thông minh, sự tiến đạt thịnh vượng hơi quá lộ liễu của họ, dù rằng đi tới đâu họ cũng đều nhập tịch xứ đó và cũng hy sinh tính mạng những khi hữu sự y như người bản xứ.
    Xin lược kể ra đây một vài trường hợp khinh ghét oái oăm mà người Do Thái phải hứng chịu tại các nước đạo Hồi:
    ? Tại Ba Tư (Iran) vào thế kỹ XIX tây lịch, người Do Thái chẳng khác gì hạng tiện dân bên Ấn Độ, vì đối với người bản xứ, hễ người Do Thái đụng tới một vật gì thì vật đó hoá ra nhớp nhúa bẩn thỉu. Do đó người Do Thái bị cấm triệt không được hành nghề như mở quán tạp hoá, nhà hàng ... Lúc trời mưa, họ không được ra khỏi khu vực dành riêng cho họ (có tên là Mellah) tương tự như các ghetto ở Âu Châu. Đặc biệt người Do Thái không có quyền làm chứng và tuyên thệ ở toà án. Sinh mạng của một người Do Thái không quá 140 Kraus (tiền Ba Tư).
    ? Tại Maroc, người Do Thái không được luật pháp công nhận quyền công dân dù họ đã vào quốc tịch. Lẽ sống chết của họ tùy thuộc vào nhà vua. Vua Maroc muốn bắt họ làm nô lệ thì họ phải tuân theo vì không biết dựa vào đâu mà kêu ca ngoài lời nguyện cầu Jahvé che chở.
    ? Tại Yémen trước 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước mặt người Hồi giáo, không được bán cùng món hàng với người Hồi. Ngoài ra, ngày thờ Mohamed, giáo chủ Hồi giáo, người ta cấm họ mặc các thứ vải có màu nhạt, mang khí giới. Trẻ con Do Thái mồ côi phải giao cho nhà cầm quyền để nhà cầm quyền cho chúng theo Hồi giáo.
    Thân phận người Do Thái ở Âu Châu xét ra còn bi đát hơn nhiều so với thân phận người Do Thái ở Trung Đông. Suốt gần mười thế kỹ, không nơi nầy thì nơi khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị nhục cảnh ghetto, pogrom, hỏa hình lò thiêu, dìm nước. Người Do Thái bị buộc gắn hình bánh xe nhỏ hoặc hình ngôi sao David sáu cánh trên áo như tội phạm mang áo dấu, bị trút lên đầu lên cổ tất cả mọi tội lỗi mà họ không hề gây nên. Nhưng lúc họ được yên thân nhất cũng không khác thân phận nô lệ là bao vì người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn theo nghề nông, họ chỉ có thể làm nông nô hay tá điền là cùng. Muốn khá giả, họ chỉ còn nghề đổi tiền và cho vay .
    Sự học hành của người Do Thái ở các nơi nầy cũng bị hạn chế. Chẳng hạn ở Nga, chính phủ không ra mặt cấm hẳn sự học của họ nhưng lại áp chế một chính sách xảo quyệt là cho các trường trung học chỉ được thu nhận một số học sinh Do Thái khoảng 10% tổng số học sinh theo Thiên Chúa giáo, trong khi ở châu thành nào có dân Do Thái thì nhân số Do Thái cũng chiếm ít nhất 30% tổng số dân cư ngụ vì người Do Thái bị bắt buộc phải sống chung gần như trong các ghetto của Đức, của Ba Lan.
    Tình cảnh của họ bất công đến nỗi một người theo Thiên Chúa giáo đã phải thốt ra câu nầy: "Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là người Thiên Chúa giáo ngoan đạo thì hết thẩy chúng ta đều là những người Thiên Chúa giáo ngoan đạo".
    Cuộc tàn sát Do Thái vì kỳ thị Thiên Chúa giáo thực sự bắt đầu từ thế kỹ XI trong cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân kéo dài đến đầu thế chiến thứ hai thì chuyển hướng qua kỳ thị chủng tộc bởi Hitler và Đức Quốc Xã.
    3/ Kỳ thị tôn giáo
    Năm 1096, người ta rủ nhau đi giải phóng mộ Chúa Ki Tô. Và còn gì hữu lý bằng, trước khi làm công việc thiêng liêng cao cả đó, trả thù những kẻ mà 11 thế kỹ trước đã phản bội Chúa nên Chúa mới bị chính quyền La Mã kết tội phiến loạn, bị đóng đinh trên Thánh Giá tại núi Golgotha cùng với hai tên đạo tặc.
    ? Ở Worms (Đức), trong hai ngày, người Âu Châu đã làm thịt 800 người Do Thái bất luận già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Hễ là Do Thái mà không chịu theo Thiên Chúa giáo là bị chém bằng gươm bằng giáo.
    ? Ở Mayence (Đức) cũng vậy, 700 người Do Thái ngã gục chỉ vì họ là hậu duệ của kẻ đã giết Chúa (Juda) và đã được Chúa" xin Cha - Thượng Đế - tha thứ cho họ (người Do Thái) vì họ không biết họ làm gì". Chúa tha, nhưng đời đời kiếp kiếp tín đồ của Chúa, vốn không cùng chủng tộc với Chúa, không tha, quyết diệt cho tiệt cái nòi mà chính Chúa đã mượn thân xác xuống trần.
    Mà thật ra, Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo vốn là"đồng bào ruột thịt"vì Đức Mẹ Maria và Chúa Jésus đều là người Do Thái và tất cả đều theo những điều luật của Moïse, cũng dân Do Thái nốt.
    Còn nhiều, rất nhiều cuộc tàn sát Do Thái khác trước đệ nhị thế chiến nhưng vì không tiện liệt kê cả ra đây. Chúng ta hãy biết rằng năm 1905, Nga thua Nhật ở eo bể Đối Mã, cách mạng nổi lên ở Nga và dân Nga lại trút hết tội lỗi lên đầu người Do Thái, do đó có nhiều cuộc thảm sát Do Thái trong tháng 10 (1905) và vào năm 1919-1921 đã có trên 10 vụ pogrom.
  4. F2communist

    F2communist Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Bài viết:
    1.006
    Đã được thích:
    42
    4/ Kỳ thị chủng tộc
    Trước kia người ta giết Do Thái một cách thô bạo, dã man. Đến thế chiến thứ hai, Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát họ rất bình tỉnh, có tổ chức, có kế hoạch, có chủ thuyết và có khoa học. Bởi vậy dân Do Thái chết như rạ, dầu Néron, Tần Thủy Hoàng có tái sinh cũng không thể không cúi đầu chịu thua trên phương diện lượng và phẩm khủng khiếp.
    [​IMG]
    Lửa kỳ thị tôn giáo và hận giết Chúa sau gần 20 thế kỹ dù sao cũng phải lụi phần sôi sục. Hơn nữa, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo, cho nên muốn tận diệt họ, Hitler bèn tạo thêm lòng kỳ thị chủng tộc. Thuyết kỳ thị chủng tộc của Hitler đã được rút ra từ cuốn sách "Chủng Loại Các Thứ Cây" (Espèces en Botanique), xuất bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thụy Điển Carl Linné (1707-1778). Từ hệ tống phân loại cỏ cây làm 24 giống, Linné phân loại tới loài người: Giống Âu da trắng siêng năng, giống Á da vàng dai sức, giống Phi da đen bạc nhược và giống Mỹ da đỏ nóng nảy.
    Chộp lấy hệ thống đó, Đức Quốc Xã tuyên truyền rằng giống Do Thái ?" vàng chẳng ra vàng, đen chẳng ra đen, trắng không thật trắng ?" có máu quỉ quyệt phản bội (phản Chúa), chống chính phủ (thuyết cộng sản của Marx, gốc Do Thái). Vậy, vì lý do an ninh của nước Đức và để bảo tồn huyết thống của giống Đức (giống Aryen) - một giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới - khỏi bị lây lai bậy bạ mà phải sa đoạ lần lần mất, chúng ta (dân Đức) phải tận diệt chúng (tức Do Thái) và tịch thu tài sản của chúng.
    Từ năm 1939 đến đầu năm 1945, tính ra có trên năm triệu người Do Thái bị Hitler và đồng bọn thảm sát hoặc bằng súng đạn, hơi ngạt, hoặc bằng lò thiêu, chôn sống. Chỉ riêng tại trại Auschwitz cũng đã có gần ba triệu thây ma Do Thái.
    Hai chữ Do Thái thật ra chỉ là danh xưng để gọi một giống người mà huyết thống, sau 2.000 năm vong quốc, đã bị lai loãng cả trăm, cả ngàn đời rồi. Cho nên có đến hàng trăm thứ Do Thái: Do Thái Pháp, Do Thái Bỉ, Do Thái Ý, Do Thái Anh, Do Thái Mỹ, Do Thái Nga, Do Thái Hung, Do Thái Thổ, Do Thái Đức, Do Thái Ba Lan, Do Thái Bồ Đào Nha, Do Thái Tây Ban Nha, Do Thái Ả Rập (Iran, Irak ..., Algérie, Maroc, Tunisie, Syrie, Egypte ?" Ai Cập ...), Do Thái Áo, Do Thái Phi châu da đen ... và cả Do Thái Tàu.
    Tóm lại trên phương diện địa lý-văn hoá, giữa người Do Thái với nhau có sự phân chia đại cương thành 2 nhóm: Ashkénaze và Séfarade. Ashkénaze = Do Thái gốc Nhật nhĩ man (germanique: Đức, Anh, Hoà Lan... và mấy nước Bắc Âu) và Tư lạp phu (slave: Nga, Biélorusses, Ba Lan, Ukraines, Serbes, Croates, Slovaques, Tchèques...); Séfarade = Do Thái gốc Địa Trung Hải (mé***erranéens: chủ yếu là Cận Đông, Bắc Phi và Tây Á).
    5/ Phục Quốc
    Bao lần quật khởi đẩm máu, người Do Thái vẫn không tránh được cảnh nước mất nhà tan, người người phân tán trên khắp địa cầu. Ở đâu họ cũng bị hất hủi, khủng bố, tàn sát cho nên lòng hoài hương của họ trong suốt 2.000 năm lúc nào cũng đau đáu trong lòng. Nỗi khổ của họ đã làm thi sĩ Anh Cát Lợi Byron buột miệng than"Dân Do Thái khổ hơn những con thú không có hang".
    Dù ở Moscou, Paris, New York, Rome, Berlin, Londre ... người Do Thái luôn luôn hướng về thánh địa Jérusalem và xứ Israël, mảnh đất thiên đường mà, nghe nói, Thượng Đế đã đặc ban cho họ, một dân tộc, cũng nghe nói, được Chúa trời chọn. Bất cứ gặp nhau ở nơi nào, họ đều chúc nhau: Sang năm về Jérusalem.
    Nói đến công cuộc phục quốc của người Do Thái mà không nói tới Théodore Herzl thì quả là một thiếu sót lớn. Vì nếu không có cuốn sách nhỏ mang tựa đề "Quốc Gia Do Thái" (L''Etat Juif) của Herzl, chẳng biết ngày nay thân phận hậu duệ ông Jacob đã đi đến vực thẳm khổ nhục nào rồi.
    Théodore Herzl sinh năm 1860 tại Budapest (Hung Gia Lợi), viết báo, soạn kịch và hành nghề ký giả. Nhân vụ án Alfred Dreyfus, một sĩ quan gốc Do Thái-Alsace trong quân đội Pháp, làm sôi nổi dư luận Âu Châu năm 1894, Herzl được toà báo Neue Freie Press (tân Tự Do) phái tới dự thính vụ xét xử và lột lon Dreyfus (ngày 15/01/1895) trước công chúng Pháp để viết bài tường thuật. Sĩ quan Dreyfus bị Bộ Quốc Phòng Pháp ngờ cho là gián điệp của Đức, bị toà xử tội đày. Dreyfus một mực kêu oan. Nét mặt ông khi ra toà tại Rennes thật thảm thương, chân thành, gây lòng trắc ẩn cho một số người trong đó có văn hào Emile Zola (1840-1902) và ký giả Théodore Herzl.
    Nghiệm thấy chứng cớ xử tội Dreyfus không đứng vững và tin rằng Dreyfus bị hàm oan, Emile Zola bèn can đảm viết loạt bài bất hủ nhan đề "Tôi Buộc Tội" (J''accuse) trên tờ l''Aurore (01/1898) để buộc chính phủ Pháp xét lại trường hợp của Dreyfus. Bảy năm sau, có đủ tài liệu chứng minh sự vô tội của Dreyfus, toà phá án và tha bổng Dreyfus. Song sau 12 năm nằm tù một cách oan uổng, Dreyfus đã hoá ra con người bỏ đi.
    Chính nỗi bất công mà Dreyfus phải hứng chịu đã thay đổi hẳn một người đồng chủng của ông là Théodore Herzl. Nỗi oan uổng đó đã làm Herzl gậm nhấm rằng "chỉ vì lỡ sinh ra là người Do Thái như mình mà Dreyfus phải bị tội oan". Cái án Dreyfus ám ảnh ông khôn nguôi và non một năm sau, ông viết một cuốn sách nhỏ tựa đề "Quốc Gia Do Thái", xuất bản tại Vienne (Áo) năm 1896. Sách được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trong sách có đoạn viết "người Do Thái nào muốn có một quốc gia của mình thì sẽ có một quốc gia và xứng đáng được có quốc gia". Ấy vì "chỉ có mình mới tự cứu mình được thôi, và vấn đề Do Thái phải do người Do Thái giải quyết lấy".
    Herzl hoạt động hăng say không tiếc sức. Chu du khắp nơi, gặp gỡ hết thảy các nhân vật có thẩm quyền lúc bấy giờ. Năm 1903, người Anh muốn tặng ông xứ Ouganda ở trung bộ Phi Châu, đảo Chypre ở Địa Trung Hải để thành lập quê hương Do Thái, nhưng các người Do Thái ở Nga - đặc biệt Chaïm Weizmann, sau nầy thành vị tổng thống đầu tiên của Israël - nhất định không chịu, kiên quyết đòi về đất Palestine cho bằng được.
    Quá lao tâm lao lực ngày đêm tranh đấu thuyết phục các chính quyền, liên lạc với đồng bào trên thế giới, Herzl kiệt sức và qua đời tại Vienne (Áo) năm 1904 hồi mới 44 tuổi.
    Năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ. Đồng minh trông cậy rất nhiều vào Anh quốc vì bấy giờ Anh làm bá chủ trên biển. Nhà cầm quyền nước Anh lúc đó vô cùng bối rối vì các nguyên liệu chế tạo thuốc nổ của họ thiếu một chất cốt yếu, đó là chất acétone. Trong những ngày khủng hoảng đó, nhà bác học Anh gốc Do Thái Chaïm Weizmann (1874-1952) đã sáng suốt nắm lấy cơ hội, chế biến được chất acétone nhân tạo giúp đồng minh đánh bại Đức năm 1918. Đế quốc Ottoman sụp đổ. Thực dân Anh cưỡng chiếm Palestine.
  5. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Năm 2004, tỉ phú George Soros đã tiến hành một cuộc thập tự chinh nhằm vận động lật cỗ xe tranh cử của tổng thống George W. Bush. ?oCon heo đất? của mục tiêu Soros là các tổ chức chính trị độc lập gọi là 527.
    Theo luật bầu cử Mỹ, đóng góp tài chính cho ứng cử viên bị giới hạn ở mức 2.000 USD/người (gọi là ?otiền cứng?), trong khi 527 có thể quyên bao nhiêu tùy ý (gọi là ?otiền mềm?) và được dùng thoải mái cho chiến dịch ủng hộ bên này hoặc phản kháng bên kia (tất nhiên tiền quyên góp của 527 không được tài trợ trực tiếp cho bộ máy tranh cử của cả hai ứng viên; hầu hết chỉ dùng cho các chương trình quảng cáo truyền hình bôi nhọ hoặc đánh bóng một ứng viên).
    Được đặt theo điều khoản 527 trong mã thuế Mỹ (Section 527 of the Internal Revenue Code), tổ chức 527 không chịu sự giám sát của Ủy ban bầu cử liên bang (FEC), được quyên góp tài chính không giới hạn từ bất kỳ nguồn nào và được miễn thuế thu nhập liên bang. Lợi dụng tính chất được gây quĩ không giới hạn, các nhóm 527 biến thành tổ chức chính trị. Trên lý thuyết, 527 không được phép liên hệ bằng bất kỳ hình thức nào với một bộ máy tranh cử. Tuy nhiên trong thực tế làm sao một tổ chức công khai ủng hộ một đảng chính trị lại không thể dính dáng ít nhiều đến đảng đó?
    Do vậy, chẳng có gì lạ khi hồi năm 2004 bộ máy tranh cử John Kerry đã kiện lên FEC việc bộ máy tranh tranh cử Bush liên lạc với tổ chức 527 có tên Swift Boat Veterans for Truth (SBVFT) trong chiến dịch bôi nhọ John Kerry.
    Nói cách khác, bên cạnh cuộc đại chiến giữa bộ máy tranh cử Bush và phe Kerry, còn có cuộc chiến thậm chí quyết liệt hơn giữa các nhóm 527 (theo) Dân chủ và các nhóm 527 (theo) Cộng hòa. Trong thực tế, các nhóm 527 Dân chủ hoạt động hiệu quả hơn và Cộng hòa từng kiện lên FEC hai lần việc Jim Jordan (phát ngôn viên của nhóm 527 America Coming Together (ACT) do George Soros ủng hộ; và nguyên là quản lý chiến dịch tranh cử Kerry) tội bí mật tuồn tiền cho John Kerry.
    Các tổ chức 527 Dân chủ cũng thành công hơn trong chiến dịch kêu gọi ủng hộ từ giới nghệ sĩ Mỹ. Các tổ chức 527 ở cả hai bên tung chiến dịch quảng cáo rầm rộ, tổ chức chương trình nghị luận truyền hình và choảng nhau ầm ầm trên mặt báo. Muốn thực hiện được tất cả điều này, phải có tiền và như vậy họ tổ chức liên tục chương trình quyên góp, vô hình trung lôi kéo xã hội Mỹ ngả theo chính kiến họ.
    Một trong những nhóm 527 Cộng hòa nổi nhất là SBVFT từng tung chiến dịch thành công bôi nhọ hồ sơ chiến trường VN của ứng viên John Kerry. Nhóm 527 Cộng hòa nổi tiếng không kém là Progress for America, được Tom Syndhorst (bạn thân Karl Rove, bộ não chính trị của Tổng thống Bush) thành lập. Bên phe Dân chủ, người ?onóng máy? nhất là tỉ phú George Soros.
    Ngày 6/8/2004, một tuần sau đại hội của đảng Dân chủ, tại Viện Aspen, Rocky Mountains bang Colorado (Mỹ) diễn ra một cuộc họp tuyệt mật. Những người tham gia đều là thành viên cốt cán của đảng Dân chủ. Tất cả đều phải tuyên thệ giữ bí mật, không tiết lộ về nội dung cuộc họp.
    Lần đầu tiên đảng Dân chủ có một cuộc họp lạ kỳ như vậy: 5 tỉ phú ngồi với 5 lãnh đạo đảng bàn về tương lai nền chính trị nước Mỹ. Mối quan hệ giữa các tỉ phú chẳng mặn mà gì. Quan điểm chính trị cũng nửa vời. Tuy nhiên, họ đều có chung một mục đích: Dùng tiền của tạo động lực đánh bại Tổng thống Bush trong cuộc bầu cử 2004.
    Người tổ chức cuộc họp là Peter B.Lewis, vị chủ tịch 70 tuổi thích sống ẩn dật của Công ty Bảo hiểm Progressive ở Clevelend, bang Ohio . Người thứ hai là doanh nhân 80 tuổi John Sperling ở bang Arizona . Ông này là sáng lập viên Đại học Phoenix năm 1976.
    Thứ ba và thứ tư là cặp vợ chồng doanh nhân Herb và Marion Sandler, sáng lập viên Tập đoàn tài chính hùng mạnh Golden. Công ty tiết kiệm tiêu dùng và cho vay tín dụng của họ trị giá 17 tỉ USD. Hai vợ chồng Sandler đều ủng hộ việc duy trì các loại thuế thu nhập và thuế thừa kế.
    Thành viên thứ năm đáng chú ý nhất chính là George Soros, tỉ phú 74 tuổi chuyên mua bán chứng khoán. Thấp nhỏ, tóc muối tiêu với cặp kính trắng, một bên tai đeo thiết bị trợ thính, Soros trông giống như một giáo sư đại học hơn là một tỉ phú thích chơi trò chơi chính trị.
    Trong 20 năm qua, George Soros luôn được xếp trong số những người giàu nhất hành tinh.Tính cách nổi bật của Soros là lũng đoạn dẫn tới lật đổ những chính phủ mà ông ta ghét. Ngay sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Soros liên hệ với Bộ trưởng Văn phòng Tổng thống Lawrence Eawith gợi ý ?ogiúp chính quyền Bush (cha) tăng cường hỗ trợ cho Gorbachev nhằm làm tan rã Liên bang Xôviết?.
    Giữa những năm 90, Soros tìm cách gây ảnh hưởng đối với chính sách đối ngoại của Bill Clinton góp phần tạo ra việc can thiệp chống lại Tổng thống Slobodan Milosevic của Nam Tư, , góp phần làm ?ocách mạng nhung? hạ bệ Tổng thống Gruzia E. Shevardnadze. Ông ta đã viện trợ 50 triệu USD vào các chiến dịch nhân đạo ở Bosnia và 100 ngàn USD cho kế hoạch tái tranh cử của Clinton.
    Cũng trong thời kỳ này, thông qua các hội mở, Soros đã bơm tổng cộng 1 tỉ USD vào Nga, lũng đoạn thị trường hối đoái Nga, trục lợi qua sự kiện sụp đổ của đồng rúp. Gần đây nhất, ông ta lại tìm cách can thiệp vào chính trường Ukraina , Kazakhstan .
    ?oNạn nhân? gần nhất, có lẽ chưa phải là cuối cùng, chính là vị cựu Tổng thống đầy oai phong nhưng ít IQ của nước Mỹ, George Bush con.
    Sau vụ khủng bố 11/9 khiến nước Mỹ phải nhanh chóng thông qua Đạo luật Ái quốc và ông Bush quyết định tấn công phủ đầu Iraq, Soros cho rằng chính chính quyền Mỹ đang trở thành một ?othể chế áp bức?.
    Trả lời phỏng vấn của tạp chí New Yorker, Soros nói: "Tôi cho rằng, việc quan trọng nhất tôi cần làm khi dựng lên các hội mở toàn cầu là để tống Bush ra khỏi Nhà Trắng". Soros cho rằng, ông Bush đã khai thác lý do "mối đe dọa khủng bố" để thống nhất quyền lực cho riêng mình và qua đó đã vi phạm các nguyên tắc dân chủ cốt lõi của quốc gia. Soros đặt mục tiêu: hạ bệ Tổng thống Bush bằng bất cứ giá nào.
    Trong cuộc họp 5+5 tại Viện Aspen, Soros đã hào hứng trình bày kế hoạch này.Theo luật mới, các nhà tài trợ không được trực tiếp quyên tiền một cách tùy ý cho đảng Dân chủ nữa. Tuy nhiên, họ có thể ?obơm? tiền cho các nhóm ?ođộc lập? để quyên góp gián tiếp. Có thể cung cấp tiền cho các nhóm kiểu này để tiến hành chiến dịch ?ovận động từng nhà? ở 6 hoặc 7 trong 17 bang dự kiến sẽ ?okhốc liệt nhất? trong cuộc bầu cử.
    Soros đã đưa ra một ý kiến gây sửng sốt: "Tôi không muốn xây nửa cây cầu. Tôi đề nghị tiến hành chiến dịch ở cả 17 bang". Tổng số tiền 75 triệu USD dành cho ?ochiến dịch? được chia đều cho các tỉ phú có mặt trong cuộc họp, trong đó riêng Soros là 18,5 triệu.
    Cả đảng Cộng hòa và Dân chủ đều sửng sốt trước việc làm này của Soros. Nó gợi lại hình ảnh hàng trăm triệu USD mà tỉ phú này đã đổ cho các hội mở, các nhóm hoạt động xã hội để tác động lật đổ các chính quyền trên thế giới trong những năm cuối thập niên 90.
    Nhưng đấy mới là bề nổi. Còn có hàng chục triệu USD khác cho các hội kín, các công ty lobby, báo chí, truyền hình, mục tiêu thống nhất là ?obôi đen? Bush trong cuộc tái cử 2004. Tổng cộng, Soros đã đổ tiền cho 527 nhóm, tổ chức, công ty, báo đài khác nhau. Đây là con số kỷ lục trong ?olịch sử lật đổ? thế giới.
    Trong chiến dịch chống Bush, Soros không chỉ chi hàng chục triệu USD cho các tổ chức 527 mà còn tung ra quyển sách lên án Bush (The bubble of American supremacy: Correcting the misuse of American power - tốn 3 triệu USD chi phí quảng cáo trên 36 tờ báo lớn).
    Nhóm 527 (theo) Dân chủ nổi nhất hiện nay là MoveOn. Chỉ bắt đầu từ một website ra đời năm 1998 nhằm vận động quốc hội không thông qua việc luận tội tổng thống Bill Clinton trong vụ Monica Lewinsky, MoveOn trở nên nổi tiếng thế giới từ năm 2003 với chiến dịch phản đối cuộc chiến Iraq. Từ đó, MoveOn ngả hẳn sang Dân chủ. Hoạt động MoveOn cực mạnh, gây chú ý quốc hội cũng như xã hội Mỹ.
    Tháng 6-2004, bộ phim Fahrenheit 9/11 của đạo diễn Michael Moore bị báo chí cánh hữu Mỹ nện túi bụi, qui kết Moore phản bội nước Mỹ. Phản ứng, MoveOn kêu gọi thành viên gửi e-mail ủng hộ Michael Moore đến hàng loạt rạp hát Mỹ và yêu cầu giới chủ rạp trình chiếu Fahrenheit 9/11 (hơn 110.000 trong 2,2 triệu thành viên MoveOn đã xem Fahrenheit 9/11 vào ngày đầu tiên công chiếu tại Mỹ).
    Như nói ở trên, các nhóm 527 đã thật sự bắt đầu ảnh hưởng tỉ lệ phiếu bầu. Tổ chức ACT (Dân chủ) đã đăng ký được 102.000 cử tri tại Missouri; 79.000 tại Ohio; 40.000 tại Florida... (Reuters 10-10-2004). Tất nhiên các nhóm 527 Cộng hòa không ngồi yên. Theo Newsweek (20-9-2004), SBVFT đã và đang tuyển mộ các tu sĩ Thiên chúa giáo để rao giảng những đức hạnh của con chiên Bush (một phần trong chiến dịch này là sử dụng lực lượng tình nguyện đến nhà thờ phát danh sách những điều ?ocần làm? và ?okhông nên làm? trong ngày bầu cử).
    Những tổ chức 527 không chỉ cho thấy thêm một phần hoạt động sân khấu chính trị nước Mỹ, nơi đồng tiền gần như luôn thủ vai chính - phản diện hay chính diện tùy góc nhìn, mà các tổ chức này và những nhân vật hỗ trợ tài chính thật ra còn là những nhà đầu tư chính trị - ?opolitical venture capitalist? - nói theo cây bút Matt Bai của tờ New York Times (trên bài viết ngày 25-7-2004). Nói cách khác, họ là những ?oLã Bất Vi? của nước Mỹ.
    Matt Bai viết: ?oNhững nhóm 527 - Cộng hòa hay Dân chủ - đều chẳng trung thành với ứng viên nào và một trong những mục tiêu của họ là tạo ảnh hưởng lên tương lai chính trị của đảng nhằm tìm kiếm lợi ích riêng... Họ xem chính trị cấp tiến như một thị trường của nhu cầu thành lập doanh nghiệp chính trị. Với họ, đầu tư vào chính trị còn rẻ hơn chơi trong thị trường và doanh thu chính trị kiếm được còn quan trọng hơn lợi nhuận thị trường - một cách tuyệt đối, như cách họ nói - bởi nó là sức mạnh có thể giúp giành lại chương trình nghị sự quốc gia về tay mình...
    Nếu vụ đầu tư của họ kết thúc bằng việc hồi sinh Dân chủ (hoặc Cộng hòa), tốt thôi. Còn nếu họ đi đến chặng cuối bằng việc đấu đá với Dân chủ (hoặc Cộng hòa) để kiểm soát chương trình nghị sự hoặc thậm chí đẩy đảng này vào thế yếu kém, như vậy (đối với họ) cũng chẳng có gì phải mà ầm ĩ?. Có thể thấy nhận xét này không sai đối với trường hợp tỉ phú George Soros, người từng bỏ ra hàng tỉ USD để đầu tư các thương vụ chính trị tại khối Đông Âu cũ và chính là người đưa trùm dầu hỏa Mikhail Khodorkovsky lọt vào và một thời làm mưa làm gió chính trường Nga (The Oligarchs - wealth and power in the new Russia, David E. Hoffman, NXB PublicAffairs, 12-2003).
    Trong thực tế, sân khấu chính trị Mỹ chỉ là sân chơi của hai đảng (luân phiên kiểm soát Nhà Trắng và hai viện Quốc hội). Và như vậy, dù bên nào thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống lần này, lại sẽ có những gương mặt quen thuộc ra tranh cử mùa sau; và như thế, tiền bỏ đó còn đó, chẳng mất đi đâu cả (ít nhất về ý nghĩa của vụ đầu tư)!
    Tuy nhiên, Soros đã không thỏa mãn được mục tiêu của mình. Với 51% cử tri ủng hộ, khi mà tinh thần ?oái quốc? của dân Mỹ còn cao, Tổng thống Bush đã tái đắc cử. Việc vận động tới từng nhà hóa ra lại phản tác dụng đối với đồng minh của Soros. Ông John Kerry đã phải chịu thất bại trước đối thủ Geogre Bush.
  6. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Vậy George Soros là ai?
    Sinh ngày 12-8-1930 tại Hungary. Tuổi thơ của nhà tỷ phú này gắn liền với những ngày kinh hoàng khi phát xít Đức tàn sát người Do Thái trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Khi còn nhỏ, ông được dạy rằng người Do Thái có thể chạy chứ không được lẩn trốn!
    Cha của Derd Shorosh (tên khai sinh của G. Soros) là luật gia từng nghĩ cách giúp những người gốc Do Thái thoát khỏi Hungary (đang bị Đức quốc xã chiếm đóng) bằng cách làm cho họ hộ chiếu giả. Khi ấy chính Derd mang các hộ chiếu giả này đi giao.
    Năm 1947, gia đình họ sang Anh và Derd Shorosh đổi tên thành George Soros. Công việc ban đầu của ông tại đất nước này là bồi bàn ở một hiệu ăn sang trọng ở London, khi cả gia đình đang phải sống bằng trợ cấp xã hội. 18 tuổi, với số tiền kiếm được bằng nghề thu hoạch táo và sơn nhà thuê, George Soros ghi danh vào Học viện kinh tế London. Sau giờ học, ông còn phải làm người gác đêm ở một ga tàu hỏa.
    G. Soros thích thú với quan điểm của triết gia Karl Popper trong ?oXã hội mở và các kẻ thù của nó?. Sau khi tốt nghiệp năm 1952, G. Soros quyết định hiện thực hóa những tư tưởng của Popper: kiếm tiền để biến thế giới thành xã hội mở.
    Năm 1956, Soros tới Mỹ khởi nghiệp với 5.000 USD ban đầu từ vị trí nhân viên môi giới tại hãng tài chính F.M. Mayer và là nhà phân tích cho Wertheim and Company cho tới giữa những năm 1960. Phương châm của Soros khá đặc biệt: trong kinh doanh, việc đúng hay sai không quan trọng, cái quan trọng là nếu đúng sẽ có được bao nhiêu tiền, và nếu sai sẽ mất bao nhiêu tiền.
    Trong thời gian này, Soros nghiên cứu một triết lý đầu tư của riêng mình có tên ?oreflexibity? (tạm dịch: cơ chế phản xạ), với quan điểm cách định giá thị trường của chính những người tham gia thị trường sẽ tác động tới giá trị đã được xác định trên cơ sở sổ sách. Đây về sau trở thành nguyên lý cơ bản của hoạt động của các quỹ đầu cơ do Soros điều hành.
    Năm 1973, Soros từ bỏ vị trí phó chủ tịch một tập đoàn đầu tư tại New York và lập hãng đầu tư riêng,về sau hãng này chuyển đổi thành Quỹ Quantum. Ông tuyên bố muốn kiếm đủ tiền từ thị trường tài chính để hỗ trợ sự nghiệp viết sách và nghiên cứu triết học của mình, và dự kiến mỗi năm kiếm được 500.000 USD là chấp nhận được. Nhưng hoạt động đầu tư của Soros sau này chủ yếu được gắn liền với Soros Fund Management. Quantum Fund, mỗi năm mang tới cho các cổ đông của nó hơn 30% lợi nhuận. Khả năng phân tích và phán đoán chính xác các dao động trên thị trường tài chính mang tới cho ông ta hàng triệu, thậm chí hàng tỉ USD, cùng với biệt danh ?oMozart của TTCK?.
    Quỹ Quantum của ông ta bao gồm một loạt nhà đầu tư lắm tiền, nhiều của thường kiếm lợi qua đầu cơ, gây mất ổn định các đồng tiền nước ngoài. Thủ đoạn chính của Soros là mua vào, bán ra các loại ngoại tệ mạnh để kiếm lời. Chẳng thế mà với số vốn ban đầu chỉ có 6 triệu USD năm 1969 đến năm 1999, Quantum đã có 5,5 tỉ USD.
    Có vài lần tài phán đoán này làm Soros xính vính: tiên đoán sự sụp đổ của các công ty Internet nên Soros đã sớm bán cổ phiếu của các công ty dotcom năm 1999. Nhưng các dotcom tiếp tục phát triển. Nhận ra sai lầm, Soros lại mua lại cổ phiếu để cuối cùng bán ra không kịp lúc các dotcom sụp đổ: thiệt hại lên tới gần 1 tỉ USD! Hay phi vụ với đồng tiền chung châu Âu euro. Nhà tài chính đã tiên đoán khả năng tăng giá của euro, nhưng do đổi USD sang euro quá sớm nên Soros mất hàng trăm triệu USD. Tuy nhiên nhìn chung Soros vẫn thắng lớn.
    Giới quan sát cho rằng: Soros và quỹ của ông ta là tác nhân chính làm chao đảo Ngân hàng Trung ương Anh năm 1992, gây ra sự đổ vỡ của đồng rúp Nga năm 1998 và cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997.
    Giới tài chính quốc tế ghi nhận những vụ đầu cơ lớn chưa từng có của George Soros lần đầu tiên khi ông bị nghi ngờ dính líu tới vụ đổ vỡ của thị trường chứng khoán Nhật Bản năm 1990. Trong vụ này, Hãng đầu tư Salomon Brothers là thủ phạm khởi động nền kinh tế bong bóng vào mùa đông năm 1989 và cũng chính hãng này làm nó đổ vỡ hoàn toàn vào năm 1990. Người ta cho rằng George Soros chính là một trong những đồng tác giả bởi quan hệ khá mật thiết giữa ông và Salomon Brothers.
    Thủ thuật làm ăn của Soros đã tạo ra một loại đầu cơ mới - đầu cơ trên qui mô toàn cầu. Ông ta có thể điều khiển hàng tỉ USD và đánh vào nền kinh tế của cả một quốc gia như đã làm với đồng bảng Anh năm 1992.
    Vào ngày Thứ tư Đen tối 16/9/1992, Soros đột nhiên trở nên nổi tiếng khi bán khống lượng bảng Anh có giá trị tương đương trên 10 tỷ USD, và kiếm lợi từ việc Ngân hàng Trung ương Anh do dự lựa chọn hoặc nâng lãi suất nội tệ lên ngang bằng với lãi suất tại các nền kinh tế khác trong Tổ chức sử dụng chung cơ chế tỷ giá châu Âu, hoặc thả nổi đồng nội tệ.
    Cuối cùng, Ngân hàng Trung ương Anh buộc phải rút đồng bảng Anh ra khỏi cơ chế tỷ giá hối đoái châu Âu và phá giá đồng bảng. Soros kiếm được khoảng 1,1 tỷ USD trong phi vụ này và được biết đến với biệt danh ?okẻ phá hoại ngân hàng trung ương Anh?. Những người thân cận của Soros có lần tiết lộ, khi thấy những điểm yếu của đồng bảng trong thời điểm đó, Soros đã hối thúc những người dưới quyền tận dụng lợi thế của mình chuẩn bị cho cuộc ?otấn công? vào đồng tiền này. Tuy nhiên, đồng GBP còn tiếp tục xuống giá sau đó nên cuối cùng George Soros kiếm được gần 2 tỷ USD.
    Cả thế giới biết đến Soros như kẻ làm mất uy tín của một trong những đồng tiền có giá trị bậc nhất thế giới. Không những làm mất giá đồng bảng Anh, chiến dịch đầu cơ của Soros còn gây ảnh hưởng hàng chục đồng tiền châu Âu khiến EU phải hoãn đưa đồng euro vào lưu hành mất năm năm.
    Cú tấn công thứ hai là với đồng yen của Nhật. Từ giữa năm 1995, đồng yen liên tục tăng giá so với USD - từ 128 yen chỉ còn 78 yen ăn 1 USD vào hè năm 1996. Chính quyền Nhật can thiệp để đưa tỉ giá đồng yen trở về vị trí cũ nhằm làm cho hàng Nhật rẻ hơn và dễ cạnh tranh hơn. Soros bèn mua đồng yen với giá 1 USD = 110-120 yen rồi bán nó khi tỉ giá là 1 USD = 80-90 yen. Lời 20%, Soros bổ sung vào tài khoản công ty ông ta vài tỉ USD! Thành công khiến ông ta có lúc tuyên bố: sẽ chỉ ?otha? không đánh duy nhất một đồng tiền, đồng forint của Hungary, nơi G. Soros từng là Derd Shorosh!
    Trong cuộc chơi của mình, có lúc Soros đã vượt lằn ranh. Năm 1988, Soros nhận được lời đề nghị tham gia nắm giữ ngân hàng khổng lồ của Pháp Société Générale. Soros từ chối, nhưng sau đó mua một lượng cổ phần của ngân hàng này trước khi thông tin về việc chuyển nhượng ngân hàng được công bố rộng rãi. Một năm sau, giới chức Pháp bắt đầu điều tra về vụ việc. Năm 2002, ông ta bị một tòa án Paris buộc tội sử dụng thông tin mật để thủ lợi và bị phạt 2,2 triệu euro. Đó là sự trừng phạt cho việc ông ta sử dụng khả năng tiếp cận một số thông tin mật để trục lợi từ các cổ phiếu chứng khoán của Ngân hàng Société Générale gần 2 triệu USD khi ngân hàng này bị tư hữu hóa năm 1987.
    ?oKhi 50 tuổi tôi đã có trong tay hơn 30 triệu USD. Sau đó tôi tự hỏi: mình cần nhiều tiền như thế để làm gì? Ý nghĩa của nó là đâu? Thế là tôi thành lập quĩ? - Soros trả lời như thế về các loại quĩ mang tên ông ta khắp thế giới. ?oNhà triệu phú thì xài tiền, còn nhà tỉ phú phải làm nên lịch sử?. Với phương châm này, năm 1969 Soros thành lập ?oquĩ từ thiện? đầu tiên, và tới năm 2003 đã có hơn 50 quĩ của Soros trên toàn thế giới.
    Khi đã trở thành một nhà tỷ phú, Soros bắt đầu hoạt động từ thiện và sống suy tưởng hơn. Ông được mệnh danh là nhà hoạt động từ thiện quốc tế tích cực nhất của thế kỷ 20. Nhưng Soros là một nhà từ thiện đặc sệt kiểu Mỹ, ông không tài trợ tiền vào các nhà thờ, bảo tàng... mà ông rót tiền vào những quỹ học bổng giáo dục. Ông cũng có thể cam kết rút tiền túi giúp những người nhập cư ở Mỹ 50 triệu đôla nếu ông thấy chính quyền có những chính sách không công bằng với cộng đồng người nhập cư. Soros chủ trương phát triển dân chủ trên thế giới.
    Mặc dù là một người Do Thái, ông không e ngại khi nói rằng ông tẩy chay Israel. Ông đã phát biểu rằng với tư cách là một người Do Thái, ông không tìm thấy niềm tin có thể khiến ông ủng hộ Israel. Soros là một người tiên phong đấu tranh vì tự do và dân chủ và ông không công nhận Israel là một nước có nền dân chủ. Tuy vậy, phần lớn những đối tác làm ăn của Soros là người Do Thái.
    Giữa thập niên 1980, một thông tin làm Soros quan tâm: tổng bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev đưa người bất đồng chính kiến Andrei Sakharov từ tù đày trở về. Nhận ra những thay đổi sắp chín muồi, Soros tới Nga để chi phối việc thành lập hệ thống chính trị mới. Ông ta thành lập một số quĩ dưới những tên gọi khác nhau, một trong số này là ?oViện Xã hội mở?.
    Trong 15 năm, quĩ này tài trợ cho nền khoa học đang chật vật của Nga và các trung tâm Internet cho sinh viên, trường dành cho trẻ em nghèo và các viện mồ côi. Nhưng Soros không chỉ làm từ thiện. Ông ta xây dựng quan hệ với G. Yavlinski, B. Federyov và V. Potanin, những người mà ông ta đánh giá có thể làm thủ tướng Nga.
    Nhưng nước Nga cũng đã từng là nạn nhân của George Soros trong cuộc khủng hoảng tài chính tháng 8/1998 khi giới đầu cơ quốc tế tấn công vào đồng Rúp. Ông đã đưa ra nhưng lời bình luận không có lợi khiến ngay trong giờ đầu tiên giao dịch, chỉ số chứng khoán Nga đã tụt 12%. 5 ngày sau đồng Rúp đã mất tới 25% giá trị. Năm 1998 cũng là một năm thất bại của George Soros, ông đã mất 2 tỷ USD trong một vụ vỡ nợ tại Nga
    Ngày 17-11-2003, phát biểu trên Đài phát thanh quốc gia Tbilisi, Tổng thống Gruzia E. Shevardnadze đã công khai chỉ trích Quĩ G. Soros tại nước ông vì đã ?otài trợ cho một số thế lực đối lập?, trong đó có phong trào thanh niên Kmara. Tuy nhiên, sự thức tỉnh của E. Shevardnadze quá muộn.
    Soros đã chuẩn bị cho việc lật đổ E. Shevardnadze từ tháng 2-2003 khi Viện Xã hội mở của ông ta tại Tbilisi gửi một người Gruzia, 31 tuổi, tên Giga Bokeria, lãnh đạo ?oViện tự do?, tới Serbia để học cách các thành viên của phong trào Optor (Kháng chiến) sử dụng những cuộc biểu tình trên đường phố lật đổ Tổng thống Milosevic như thế nào.
    Vài tháng sau, Quĩ Soros lại chi tiền cho các thành viên Optor tới Gruzia: những người này mở một khóa đào tạo ba ngày cho hơn 1.000 sinh viên Tbilisi về cách dàn dựng một cuộc cách mạng hòa bình.
    Theo Giga, ba tổ chức đóng vai trò then chốt trong việc lật đổ E. Shevardnadze là phong trào dân tộc đối lập của M. Saakashvili, Đài truyền hình đối lập Rustavi-2 và phong trào thanh niên Kmara! (Tháng 4-2003, sau khi nhận 500.000 USD từ Quĩ Soros, Kmara tuyên chiến với E. Shevardnadze và bắt đầu cuộc vận động tấn công nạn tham nhũng của chính quyền).
    Đài Rustavi-2 nhận tiền của Soros từ khi thành lập năm 1995 và đã được tăng thêm tài trợ từ một năm trước khi nó bắt đầu chương trình ?o24 giờ? chống E. Shevardnadze. Rustavi-2 công chiếu phim hoạt hình tên Our Yard trong đó Tổng thống Shevardnadze được mô tả như một kẻ lá mặt lá trái quanh co. Cũng chính Rustavi-2 đã truyền đi kết quả những cuộc thăm dò bầu cử quốc hội ngày 2-11 do các tổ chức Mỹ thực hiện, trái ngược với kết quả chính thức.
    Soros còn có mối quan hệ nồng ấm với nhà đối lập chính của E. Shevardnadze là Saakashvili, một luật gia tốt nghiệp tại New York và thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống ngày 4-1-2004 và mon mem gia nhập NATO, hiện đang bị phía đối lập buộc tội đánh mất 2 vùng đất ly khai, nổi tiếng với bức ảnh rúc dưới áo vệ sỹ khi máy bay Nga lượn lờ xa xa. Năm 2003, đích thân Soros tiến cử Saakashvili nhận giải thưởng của Quĩ xã hội mở.
  7. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Thái Lan. Đầu năm 1997, một số quỹ đầu cơ tài chính sừng sỏ như Quantum (George Soros) hay Tiger Management Corp. (Julian Robertson) đã ký hàng loạt các hợp đồng mua bán ngoại tệ có thời hạn (bán đồng Baht Thái, với thời hạn thanh toán chậm từ 6 tháng đến 1 năm) với tổng trị giá lên tới 15 tỷ USD. Người ta đang đánh cược là trong tương lai đồng Baht sẽ phá giá. Trong bối cảnh nền kinh tế khan hiếm USD tiền mặt, những kiểu hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn như thế này rất thông dụng. Do đó đến Ngân hàng Nhà nước Thái Lan cũng cảm thấy không có chuyện gì đáng ngại, thậm chí còn xem đây là một trong những phương pháp hữu hiệu đảm bảo vốn lưu thông cho nền kinh tế.
    Mãi phải đến giữa tháng 5, khi những dấu hiệu tiền khủng hoảng xuất hiện, Ngân hàng Thái Lan mới ra quyết định tạm ngừng những kiểu hợp đồng như thế, nhưng đã quá muộn. Ngày 14-15 tháng 6 năm 1997, thị trường tiền tệ ở Thái tràn ngập lệnh bán đồng Baht. Ngân hàng Nhà nước cố sức giữ giá, trong suốt 2 tuần đã chi ra gần 10 tỷ USD để mua đồng Baht và giữ tỷ giá hối đoái ở mức bình thường 25 baht 1 USD. Nhưng không ăn nhằm gì với làn sóng ?orũ bỏ? đồng Baht loang ngày càng rộng trên khắp thế giới.
    Chính phủ Thái đã vùng vẫy bằng mọi cách: từ dụ dỗ, dọa nạt, răn đe giới tài chính cũng như giới báo. Thậm chí cả làm động tác giả. Ngày 30 tháng 6, Thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh vẫn cố sống cố chết ?osẽ không phá giá baht?, thế mà chỉ 2 ngày sau, 2 tháng 7, baht lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht/1USD. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance o­ne, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
    Tại Phippines sự kiện cũng phát triển theo một kịch bản tương tự. Duy có khác là chính phủ nơi đây đã kịp thời ngăn chặn được các đợt tấn công trực tiếp của giới đầu cơ tài chính toàn cầu. Thay vì trực tiếp ra mặt mua peso để giữ giá, chính phủ Philippines đã cho tăng lãi suất ngắn hạn (cho vay qua đêm) từ 15% lên tới 24% (03.07.1997). Cách này có hiệu quả, tuy không ngăn chặn được xu hướng mất giá đồng peso, nhưng giảm thiểu tối đa thiệt hại. Đồng peso mất giá từ: 26peso/1 USD trước khủng hoảng, xuống 38 peso/1 USD vào năm 2000. Đây được xem là một thành công lớn.
    Kịch bản khủng hoảng ở các nước khác như Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông đều diễn ra với những nét tương đồng. Tuy nhiên, hậu quả thì mỗi nơi mỗi khác, phụ thuộc vào khả năng ứng phó trong điều kiện khủng hoảng của chính phủ và năng lực cũng như cơ cấu của nền kinh tế. Duy chỉ có điều ai cũng biết, thiệt hại mà khủng hoảng đưa lại cho các nước châu Á là quá lớn, dư âm của nó vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày hôm nay
    Người Malaysia chắc chắn còn nhớ mối hận thù giữa cựu Thủ tướng Mahathir với nhà tỉ phú Mỹ George Soros xảy ra từ hơn 10 năm trước trong cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á 1997 - 1998. Hồi đó, tỉ phú Soros, tung hoành trên thị trường tiền tệ tại châu Á, bị tố cáo là một kẻ ?ođục nước béo cò? trong cuộc khủng hoảng.
    Rõ ràng khủng hoảng tài chính châu Á 1997 hoàn toàn không ngẫu nhiên. Đó là một cuộc tấn công các nền kinh tế mới nổi, những con rồng con hổ châu Á, một cách có tổ chức. Vấn đề là ai tấn công và tấn công để làm gì? Thủ tướng Malaysia, Mahathir Mohamad, ngay sau khủng hoảng, đã chỉ mặt gọi tên thủ phạm gây ra mọi chuyện chính là các tập đoàn đầu cơ tài chính với đầu chòm là tỷ phú quốc tịch Mỹ, người Hungary gốc Do Thái George Soros.
    Quả thật, G. Soros và đồng đội đã kiếm được hàng tỷ USD lợi nhuận sau vụ đầu cơ này. Bản thân G. Soros không phủ nhận việc mình đã kiếm bạc tỷ trong đợt khủng hoảng tiền tệ, Nhưng lại phủ nhận hoàn toàn động cơ của nó. Ông và các đồng nghiệp đơn gian chỉ là những nhà tài chính nhạy cảm, dám mạo hiểm và gặp may. Khủng hoảng kinh tế châu Á, theo G. Soros đó là hệ quả tất yếu báo hiệu một cuộc khủng hoảng lớn hơn nhiều ?" khủng hoảng tư bản toàn cầu.
    Một luồng ý kiến thứ 2 cho rằng, G. Soros nhận nhiệm vụ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ, tạo khủng hoảng để ra đòn cảnh báo ASEAN. Còn nhớ, tháng 5-1997, có nghĩa chỉ 2 tháng trước cuộc khủng hoảng, ASEAN đã phớt lờ sự phản đối của Mỹ và EU khi chính thức kết nạp Myanma làm thành viên. Cũng có thể, nhưng chưa thuyết phục. Đơn giản là vì chế độ quân sự ở Myanma đã được thiết lập từ năm 1962. Biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra trong chừng ấy năm, biết bao nhiêu cơ hội, đâu cần chờ đến 35 năm mới ra tay.
    Ông Mahathir tháng 9-1997 đã không tiếc lời mạt sát ông Soros và bị ông này trả đũa không kém ác liệt. Khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, ông Mahathir tố cáo tỉ phú Soros là kẻ nhúng tay can thiệp làm cho đồng ringgit của Malaysia suy sụp bằng thủ đoạn đầu cơ tiền. Ông Soros bị gọi là ?okẻ đần độn đê hèn?. Ông Mahathir nói: ?oTất cả các nước châu Á đã vất vả trong 40 năm để xây dựng nền kinh tế của mình, vậy mà một kẻ đần độn như Soros đã ôm cả túi tiền tới đầu cơ phá tan tành mọi thứ?. Phản kích đối thủ, ông Soros tuyên bố: ?oLời lẽ của ông Mahathir là không đáng quan tâm. Chính ông ta, kẻ độc tài về tiền tệ, mới là mối đe dọa cho đất nước Malaysia. Ông ta phải từ chức mới phải?.
    Vậy thì ai? Ai là chủ nhân đích thực của khủng khoảng? Ai là người được hưởng lợi nhiều nhất từ khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997 ?" người đó là chủ nhân. G. Soros ?" dĩ nhiên, nhưng không phải mình ông ta. Dưới đây một danh sách ngắn những công ty đã kịp thời ?ochiếm hữu? tài sản của các tập đoàn châu Á với giá bèo bọt:
    - BNP Paribas thôn tính Peregrine, một trong những tập đoàn tài chính hàng đầu châu Á. Đây là kết quả của đồng rupee Indonesia bị phá giá;
    - Procter & Gamble nuốt chửng Ssanyong Paper của Hàn Quốc;
    - General Motors mua với giá gần như cho không Daewoo Motor;
    - Prudential Securities nắm quyền kiểm soát Nava Finance & Securities;
    - First Pacific vươn tay tới San Miguel, công ty bia hàng đầu của Philippines;
    - Citibank định thôn tính First Bangkok City Bank nhưng chưa thành công.
    Danh sách này vẫn còn có thể kéo dài nữa, rõ ràng, các chú hổ mới lớn châu Á, đang bị nhóm thợ săn dày dạn kinh nghiệm phương Tây săn đuổi với vai trò dẫn đường là các tay đầu cơ tài chính G. Soros và đồng đội. Yểm trợ phía sau chính là hai đại xạ thủ IMF và WB, với những khoản vay kèm điều kiện khắc nghiệt, mà nếu thực thi thì chỉ làm khủng hoảng ngày một trầm trọng thêm. Tài sản ?osăn? được cuối cùng sẽ được phân chia cho số đông theo danh sách kể trên, có tính đến sở thích và tích cách từng người.
    Dĩ nhiên, để tổ chức một cuộc săn bắn qui mô như vậy không thể thiếu được người cầm chịch. Người đó là ai? Chẳng nhẽ lại là Mỹ - siêu cường số một thế giới? Hồ đồ, hãy học cách loại bỏ thói quen, buôn bán thua lỗ - đổ lỗi cho số phận. Thất thế trong cạnh tranh quốc tế - đổ lỗi cho nước giàu. Nước Mỹ thì được lợi lộc gì trong vụ đi săn này?
    Bị khủng hoảng tài chính ?oquần? cho một trận nên thân, các nước Đông Nam Á, sau đó là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Brasil, rồi loang rộng ra tất cả các nước thuộc thế giới thứ ba, ngậm ngùi nhận ra một chân lý bất di bất dịch: muốn phòng chống được khủng hoảng tài chính phải tích trữ thật nhiều ngoại tệ. Càng nhiều càng tốt. Càng nhiều càng yên tâm. Và dĩ nhiên, đã là ngoại tệ thì không có loại nào chắc chắn bằng USD. Thế là các nước đua nhau tích trữ USD, mà không hề nghĩ rằng mình đang tự nguyện tài trợ vốn, không lãi hoặc lãi suất rất thấp cho nền kinh tế Mỹ phát triển.
    Giữa tháng 12 năm 2006, 2 cựu thù gặp lại nhau sau gần 10 năm tại một khách sạn sang trọng ở Kuala Lumpur để giảng hòa và xí xóa mọi chuyện năm xưa. Hai ông bắt chặt tay nhau thân mật, tươi cười trước hàng trăm nhà báo. Trong cuộc họp báo chung kéo dài hơn một giờ, ông Mahathir, 81 tuổi và ông Soros, 76 tuổi, xin lỗi nhau về chuyện cũ và cam kết khôi phục tình bạn.Tượng trưng cho cử chỉ hòa giải, tại cuộc họp báo chung, tỉ phú Soros đã trao tặng cựu Thủ tướng Mahathir cuốn sách của ông Thời đại có thể mắc sai lầm (The Age of Fallingbility).
    Mới đây nhất, quỹ đầu tư Soros Management Fund bị cơ quan quản lý Hungary, nơi Soros sinnh trưởng, phạt 2 triệu USD vì thực hiện kế hoạch đầu cơ tấn công đồng nội tệ của nước này.
    Mới chỉ kể 1 mình Soros đã thấy người Do Thái tài giỏi có thể làm được gì, nữa là nhiều người Do Thái cùng làm. Soros kể cũng đáng được xưng tụng là Lã Bất Vi của Do Thái!
    Tài liệu đượ tổng hợp, cóp nhặt từ nhiều nguồn, từ Đông sang Tây, từ hải nội đến hải ngoại.
    Chỉ để xem Do Thái là cái giống gì mà thôi.
  8. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Đợt người Do Thái đầu tiên di cư đặt chân lên Đại lục Bắc Mỹ chỉ có 23 người, ừ Brazil, nơi bị người Bồ Đào Nha chiếm đóng theo chủ nghĩa bài Do Thái xua đuổi, đó là vào một ngày hè năm 1654, nghĩa là trước khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ra đời những 135 năm.
    Tại Mỹ, lần đầu tiên người Do Thái được hưởng quyền sống của con người, được thực hiện tự do tôn giáo và dân chủ về chính trị, kinh tế chứ không bị khinh rẻ hắt hủi thậm chí xua đuổi, hãm hại như ở khắp nơi trên thế giới mà họ từng sống lưu vong suốt hai ngàn năm trước đây. Khi nước Mỹ lập quốc (1776), cộng đồng Do Thái ở Mỹ đã có 2.500 người. Tiếp đó, hàng loạt người Do Thái ở châu Âu, chủ yếu từ Đức, di cư sang Mỹ.
    Năm 1841, người Do Thái đầu tiên được bầu vào Quốc hội Mỹ. Năm 1880, quần thể Do Thái ở Mỹ có khoảng 150.000 người. Cuối thế kỷ XIX, do biến động của lịch sử hàng triệu người Do Thái ở Nga và châu Âu di cư sang Mỹ. Do chịu khó lao động, học tập và có biệt tài kinh doanh buôn bán, rất nhiều người Do Thái ở Mỹ đã thành công lớn. Thập niên 30 của thế kỷ trước, đảng Quốc xã (Nazi) của Hitler điên cuồng xua đuổi giết hại người Do Thái. Số người Do Thái di cư sang Mỹ trong thời gian 1933-1945 lên đến hơn 200.000, trong đó có nhiều nhà trí thức cấp cao, khiến nước Mỹ được lợi rất nhiều.
    Trước làn sóng người Do Thái dồn dập kéo đến Mỹ và thành công lớn trong kinh tế, văn hóa, những người Mỹ theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bắt đầu có tư tưởng bài Do Thái, nhất là sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917). Nhiều nhà giàu Mỹ coi chống Do Thái và chống c ộng sản là một. Đảng 3K khét tiếng dã man cũng tấn công người Do Thái như chúng đã làm với người da đen trước đây. Một số người Mỹ còn quy kết cuộc đại khủng hoảng kinh tế hồi đầu thập niên 30 là do người Do Thái gây ra. Chống Do Thái hăng hái nhất là người Mỹ gốc Đức, hồi ấy ở Mỹ đã có tới trên 100 tổ chức bài Do Thái. Sau khi nước Mỹ tham gia chiến tranh chống phát xít Đức (tháng 12-1941), dư luận Mỹ đồng tình mạnh mẽ với người Do Thái, các tổ chức chống Do Thái bị lên án.
    Người Do Thái ở Mỹ là cộng đồng dân thiểu số thành công nhất trên hầu hết các mặt của đời sống nước Mỹ, khiến các cộng đồng khác phải vì nể. Người Mỹ gốc Do thái trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và văn hóa đã xuất hiện cả ?oxê ri? sao rực rỡ, trong số 200 danh nhân văn hóa có ảnh hưởng nhất nước Mỹ thì quá nửa là người gốc Do thái. 1/3 số giáo sư giảng dạy tại các trường đại học danh giá nhất nước Mỹ, ¼ số luật sư Mỹ là người gốc Do thái. Trong số hơn 100 người Mỹ vinh dự được nhận giải thưởng Nobel các loại thì chiếm nửa là người gốc Do thái. Isaac Bashevis Singer giải Nobel văn học năm 1978 là người Do Thái từ Ba Lan di cư sang Mỹ, nhạc sĩ Irving Berlin, hai anh em George và Ira Gershwin, nhà bác học Albert Einstein, nhà sáng chế vắc-xin chống bệnh viêm tủy xám Jonas E. Salk.
    Sau hơn 300 năm kể từ ngày ấy, tính tới cuối thập niên 90 thế kỷ trước, tổng số người Mỹ gốc Do thái đã tròm trèm 6 triệu người, chiếm chừng 3% tổng nhân khẩu, ảnh hưởng của họ đối với mọi mặt xã hội Mỹ như chính trị, kinh tế, văn hóa, dư luận v.v? đều vượt xa bất kỳ cộng đồng hậu duệ dân tộc nào trong nước Mỹ.
    Người Do thái sở dĩ có nền tảng chính trị ổn định vững chắc tại nước Mỹ, bởi có tương quan mật thiết với bối cảnh kinh tế hùng mạnh của họ. Trên bảng liệt kê những người giàu có bậc nhất do tạp chí ?oForbes? Mỹ công bố, thì trong số 40 người đứng đầu bảng đã có tới 16 vị là người Do thái. Trong số các tinh anh tiền tệ phố Wall có quá nửa là người Do thái, người sáng lập ra các công ty danh tiếng như ?oAnh em Lehmann?, Google, Intel v.v? đều là người Do thái. Nổi danh hơn cả là Allan Greenspar 17 năm làm Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ; con ?oCá sấu tiền tệ? Soros; ?oVua chứng khoán? Warren Buffett, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Paul Wolfowitz và người tiền nhiệm James D. Wolfensohn, và nhiều ông chủ các tập đoàn tài phiệt lớn của Mỹ đều là người mang huyết thống Do thái.
    Các tỷ phú này không trực tiếp tham dự vào guồng máy chính trị Mỹ, mà là thông qua các khoản để tiền quyên góp để ?oTelecontrol? (Điều khiển từ xa). Tại nước Mỹ hiện có tới trên 80 ?oỦy ban hành động chính trị? Do thái chuyên điều phối nhịp nhàng cân đối việc quyên tiền, ngoài ra còn có tới trên 100 tổ chức của người Do thái, tương đối nổi tiếng trong số đó là ?oỦy ban sự vụ công cộng Mỹ- Isael?, ?oHội đồng Chủ tịch tổ chức người Do thái chủ yếu Mỹ?, trong khi người Ả Rập ở Mỹ chỉ có 10 tổ chức tương tự. Ý đồ chính trị cốt lõi của họ là du thuyết nước Mỹ luôn duy trì bảo vệ lợi ích của Isael.
    Người Do Thái tuy nổi tiếng căn cơ tiết kiệm nhưng khi quyên góp vì mục đích chính trị thì họ rất hào phóng. Bốn trong 5 người quyên góp nhiều nhất trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 là người Do Thái. Các ứng viên chức tổng thống, thống đốc bang hoặc nghị sĩ dựa vào tiền đóng góp của ai thì phải biết lấy lòng người ấy. Cho nên khi đã trúng cử, họ đều bênh vực lợi ích người Do Thái và Israel.
    Đặc biệt, người Do Thái có vai trò quan trọng trong giới truyền thông Mỹ. Các tờ báo lớn như New York Times, Washington Post, Newsweek... đều do họ sáng lập và nắm quyền kiểm soát. Các mạng truyền hình quan trọng như ABC, CBS, NBC, Bloomberg đều nằm trong tay người Do Thái. Họ lập ra hầu hết các công ty điện ảnh lớn nhất như Warner, Paramount, Metro-Goldwin-Mayer. Nhiều nghệ sĩ điện ảnh và đạo diễn là người Do Thái, như đạo diễn lừng danh Steven Spielberg.
    Điều khiến người ta phải thật sự chú ý tới là mánh lới người Do thái khống chế vui chơi giải trí Hollywood và giới truyền thông đại chúng, họ rỉ rả ngắm ngầm làm thay đổi cách nhìn của dân chúng Mỹ đối với người Do Thái. Tại Kinh đô điện ảnh Hollywood, các ông chủ người Do thái một số hãng điện ảnh danh tiếng như ?oWarrer Brothers?, ?oDreamworks?, ?oMikomer? v.v? liên tục dàn dựng xuất xưởng những bộ phim nói về lịch sử dân tộc Do thái, số phận bi thảm của người Do thái trong thế chiến 2, một người Do thái khác là Murdoch thì khống chế giới truyền thông đại chúng.
    Ngoài ra, trong các tòa báo lớn như ?othe New York Times?, ?oWall Street Daily? và 3 mạng lưới truyền hình lớn toàn Mỹ đều có nhiều phóng viên kỳ cựu, quyền uy và hậu duệ Do thái, bọn họ trực tiếp khống chế thao túng dư luận tin tức Mỹ, chặn đứng, không cho xuất hiện bất kỳ bài báo, mẩu tin nào không có lợi đối với người Do thái và đất nước Israel.
    Năm 2007, Tiến sĩ Milsheimer, giáo sư chính trị học nổi tiếng của trường đại học Chicago hợp tác với giáo sư Walter trường đại học Harvard viết một bản báo cáo tựa đề ?oTập đoàn du thuyết Israel và chính sách ngoại giao Hoa Kỳ?, chỉ rõ nền ngoại giao của nước Mỹ lâu nay bởi chịu sự khống chế của tập đoàn Do thái ngay trên đất Mỹ nên thường xuyên hy sinh lợi ích của mình.
    Bản báo cáo sau khi ra lò, các tờ báo chính thống Mỹ đều từ chối, không dám đăng, nên bất đắc dĩ họ phải gửi đăng tại báo chí nước ngoài. Nội dung bản báo cáo sau khi truyền trở lại Mỹ, tựa hòn đá củ đậu ném xuống mặt ao thu, tạo nên làn sóng phản kháng dữ dội quy mô lớn khắp nước Mỹ của các tổ chức người Do thái, và giới truyền thông đại chúng buộc phải phụ họa lên án dữ dội 2 tác giả bản báo cáo. Sự kiện này là một trong những minh chứng tiêu biểu cho cái gọi là ?oQuyền lực Do Thái trong lòng nước Mỹ?.
  9. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Năm 1928, cụ PHAN KHÔI nhân việc ông Loewenstein đi máy bay sẩy tay rơi xuống biển Manche (cụ tiếu phết), có loại bài về người Do Thái trên thế giới, đại ý:
    « Do Thái là một dân tộc mất nước đã hai ngàn năm nay, hiện bây giờ họ không có một miếng đất cắm dùi, đi ở đậu hầu khắp các nước trên trái đất; thế mà họ có thế lực lớn lắm, cho đến người Âu Mỹ cũng phải lấy cái thế lực họ làm đáng lo. Như thế, há chẳng là một sự lạ mà người An Nam ta nên biết lắm ư?
    Đã lâu nay, chúng tôi có ý muốn đem cái dân tộc có vẻ thần bí khó hiểu ấy mà giới thiệu cùng độc giả, tiếc vì chưa có thì giờ mà nghiên cứu cho tường tất được. Nay nhơn trong bài nói sự ông Loewenstein trót đã nói đến, vậy chúng tôi cũng ước lược mà nói luôn cái hiện tình của người Do Thái cho đồng bào ta nghe qua. Chúng tôi không dám tự phụ là khảo cứu đã kỹ càng, chỉ biết được chừng nào thì chúng tôi nói chừng nấy.
    ?
    Có nhà làm sử đã nói rằng: Người Do Thái hiện nay cầm cả quyền kinh tế của thế gian trong tay họ; vả lại họ chỉ có túi vàng mà thôi, trong cuộc đại chiến tranh mới rồi, ai mất chi thì mất, chết mấy thì chết, còn họ không bị hại gì cả, mà cái túi vàng của họ nhơn đó càng nặng thêm. Nhơn vì không bị tổn hao và sự sanh hoạt được sung túc, cho nên người họ sanh sản ra đông lắm và mau lắm.
    Nhà sử gia ấy nói như vậy rồi kết luận rằng số dân Do Thái hiện thời đây có lẽ lên đến hơn hai mươi triệu chớ chẳng chơi. Như vậy là suýt soát với số dân An Nam ta rồi.
    ?
    Họ có những tánh tín ngưỡng, tự phụ, đoàn kết, và nhẫn nại.
    Thật không có dân tộc nào trong thế gian nầy có cái đức tin cho mạnh bằng người Do Thái. Hiện bây giờ người họ ở khắp các nước, mà ở nước nào thì nhập tịch nước ấy song chẳng hề chịu ảnh hưởng của văn hóa nước ấy chút nào. Bao nhiêu những sự thuộc về tôn giáo, chánh trị, pháp luật, vệ sanh, cả đến những của gì đáng ăn, của gì không đáng ăn nữa, họ cũng đều tuân theo lời trong sách Cựu ước mà Đức Chúa Trời đã phán truyền cho họ.
    ?
    Thử xem một đoạn trong sách Tư tưởng chiến thắng và người Do Thái của ông bác sĩ Penthatull, người Do Thái, xuất bản năm 1923 tại nước Autriche, thì đủ biết cái lòng tự phụ của họ là thế nào. Đoạn ấy như vầy:
    "Người Do Thái chúng tôi không có thành kiến chút nào; đối với mọi sự vật trên đất, chúng tôi xem xét rất rõ ràng; chúng tôi thường dám có cái tinh thần mà người khác không dám có.
    "Bởi có cái tinh thần ấy, cho nên, dầu ở trong các nước Âu Mỹ, không tấn tới được mấy chút, song giá ở trong một hòn cù lao nào thì chẳng qua trong 50 năm, chúng tôi sẽ làm chủ nhơn trong cù lao ấy. Trong thế giới không cứ việc gì cũng phải cần đến chúng tôi, vì mọi nơi dưới biển trên bờ đều có dấu chơn con nhà Do Thái. Con nhà Do Thái chúng tôi đã lanh lẹ lại siêng năng, cái chỗ mục đích kia một ngày chưa đạt đến thì chúng tôi còn chưa biết mỏi mệt..."
    Nói về cái tánh đoàn kết của họ thì thật không có dân tộc nào bì được. Những dân tộc có lãnh thổ, có chánh phủ đã thành ra quốc gia rồi mà biết đoàn kết với nhau thì có lạ gì. Cái nầy người Do Thái bị tan lạc, bị xua đuổi, ở không yên ổn, rày đó mai đây, mà giữa họ nghiễm nhiên có một cái đoàn thể bền chặt và thiêng liêng, như vậy mới là đáng quý.
    ?
    Trong mấy đoạn trước đã nói rằng người DoThái ở khắp các nước trong thế gian, bởi vậy, nếu họ không có thế lực gì thì thôi, bằng đã có, thì cái thế lực ấy thật là bao la cả trên mặt đất.
    Một điều lạ nữa, là trong sách Cựu ước có nói tiên tri rằng người Do Thái về sau sẽ bị tan lạc, song được giàu có, thì quả như vậy, dân Do Thái bây giờ giàu hơn hết cả các dân khác. Cái thế lực của họ là ở đó.
    Như ông Loewenstein mới rồi chết vì té máy bay mà bổn báo đã nói đến hôm nọ, là một người giàu nhứt trong ba nhà triệu phú ở thế gian.
    Họ có nhiều tiền rồi, lại có người nữa. Nhơn tài của Do Thái không mặt nào là không có. Về kinh tế, về chánh trị, về văn học, về kỹ nghệ, bất kỳ phương diện nào, trong dân Do Thái cũng đều có người nổi tiếng về phương diện ấy.
    Bởi vậy, bao nhiêu những ngân hàng lớn ở các nước phần nhiều là tiền của người Do Thái bỏ ra, cái đó đã đành rồi, mà cho đến các chức vụ trọng yếu trong ngân hàng cũng về tay họ nữa.
    Họ đã cầm cả quyền tài chánh của thế giới vào trong tay, rồi thì các cuộc thiệt nghiệp lớn, như là mỏ sắt, mỏ dầu, cũng đều có người họ làm giám đốc. Rồi đến quyền ngôn luận, là như các nhà báo lớn, các sở thông tin, họ cũng xen vào. Thậm chí như ông Jaurès ở nước Pháp lập ra báo L''humanité, là báo binh vực cho công lý nhân đạo, có tiếng ở thế giới ngày nay, mà người ta nói rằng, lúc mới sáng lập ra, cũng có một vài nhà tư bổn Do Thái bỏ tiền vào giúp. Lại như các giáo viên trong các trường đại học bên nước Pháp hiện bây giờ, cũng có một phần đông là người Do Thái, điều đó đã có nhiều người Pháp lấy làm khó chịu.
    Cái thế lực Do Thái ở nước Pháp đã là mấy, ở nước Mỹ mới ghê cho. Nước Mỹ có tiếng là một nước rất giàu, song cũng có thể nói rằng cái giàu ấy là của người Do Thái, vì các cơ quan về tiền bạc, phần nhiều bị họ chiếm hết. Coi như hồi cuối thế kỷ thứ 17, chánh phủ New York có một lần ra lịnh đuổi người Do Thái ở đó đi, rồi có những người Do Thái giàu, có nhiều phần hùn trong các công ty thực dân, rập nhau nổi lên phản đối, làm cho chánh phủ phải tiêu hủy cái lịnh ấy. Hồi đó mà họ đã có thế lực như vậy rồi, huống chi là bây giờ; ở nước Mỹ mà còn như vậy, huống chi là các nước khác.
    Nói đến nước Tàu, các đô thành lớn của nước ấy mà có dấu chơn người Do Thái chỉ độ trong khoảng vài trăm năm nay, song cái thế lực ngầm ngấm của họ cũng chẳng vừa. Một người Tàu làm sách có nói rằng: "Nước Trung Hoa mỗi một năm mất cho ngoại quốc phỏng độ 12 triệu đồng bạc (nghĩa là tiền trả lời các món công trái), trong một số tiền lớn ấy, các nước khác chỉ hưởng được phần ít, còn người Do Thái thì hưởng được phần nhiều."
    Tóm lại, cái thế lực của người Do Thái đáng ghê nhứt là cái thế lực ở trong các ngân hàng. Cái thế lực trong ngân hàng có thể chỉ huy được các chánh phủ của các nước. Giả như một nước nào muốn vay một món tiền to của ngân hàng lớn nào đó, thì cái quyền muốn hỏi vay về làm chi và cho vay hay không, cũng lại ở trong tay "quân Giu-dêu" nầy. Xem bề ngoài thì cái thế lực ấy tưởng không lấy gì làm quan hệ lắm, song xét kỹ ra thì thật là đáng khiếp. Bởi vì, như người ta nói, có tiền thì tiên hay múa, nếu họ đem lòng hiểm độc bắt ngặt các chánh phủ rồi xoay qua đường khác để làm lợi cho họ, lại không có thể được hay sao? Cho đến đảng Cách mạng nào, đảng C ộng sản nào mà đã túng tiền phải vay của họ thì tất nhiên là khó mà thoát ra ngoài vòng thế lực của họ được.
    Nhờ tiền bạc, nhơn tài, và tấm lòng đoàn kết của người Do Thái, nên hiện nay dầu họ chưa khôi phục hẳn được tổ quốc mình, song sự ấy cũng đã rõ manh mối ra một ít. Vì mấy lần Vạn quốc hội nghị vừa rồi, nhơn người Do Thái thỉnh cầu, đều có đem việc ấy ra bàn, và nghe như trong đất Palestine ngày nay, tuy về người Anh đại lý, song đã có một bộ phận thuộc về quyền người Do Thái ở đó.
    Có điều nầy ta nên biết, là về phần người Do Thái, họ tin ở lời hứa trong Cựu ước, cho nên họ quyết rằng thế nào rồi họ cũng sẽ về mà lập quốc lại trong đất Palestine. 
    ?
    Người Do Thái đã có cái thế lực lớn như đã nói trên kia, thì có khó gì mà chẳng vận động cho mình trở về cố quốc, chi đến nỗi ở gởi nằm nhờ đất người ta lâu như vậy? Đó là một vấn đề rất phiền phức về quốc tế, chúng tôi không đủ học thức mà giải minh được, chỉ nói đại lược mà thôi.
    Có lẽ cũng vì cái thế lực của Do Thái to quá, làm cho các nước lấy làm lo mà còn dùng dằng chưa dám cho họ trở về cố hương. Vì nghĩ rằng trong khi họ vong gia thất thổ mà còn lừng lẫy thế này, huống chi là khi đã có một miếng đất làm nơi căn cứ.
    Trong một đoạn trước đã nói rằng người Do Thái có cái dã tâm muốn thống nhứt thế giới, mà cái dã tâm ấy là sanh ra bởi tôn giáo của họ. Thật thế, đã lâu nay người Do Thái rắp toan cậy cái thế lực của mình mà thiệt hành mọi việc để cho ứng nghiệm những lời đã hứa trong Cựu ước, tức là "sẽ được trở về đất cũ và trở nên một dân làm chủ các dân". Bởi tôn giáo họ xui cho họ có lòng hy vọng lớn lao, có tánh kiêu căng lạ thường, cho nên bây giờ, cái chữ "Do Thái giáo", người ta không coi là tôn giáo nữa, mà coi như là một chủ nghĩa: khi nói đến chữ "Israélisme", tức là có bao hàm cái nghĩa xâm lược, áp bách ở trong, cũng gần gần như khi nói đến chữ "Impérialisme" là "đế quốc chủ nghĩa" vậy.
    Vì vậy, các nước bên Âu-Mỹ, bất luận nước lớn hay nhỏ, đối với người Do Thái đều có một tâm lý như nhau: một đường thì ghét dơ, một đường thì lo ngại. Cách hơn trăm năm về trước, người Do Thái đến đâu thì bị xua đuổi đến đó, vả lại còn bị người ta khinh rẻ đến điều, ba chữ "người Do Thái " đã thành ra một câu dùng để mắng trong các nước. (Tức như trong tiếng Pháp khi nào mắng ai mà dùng đến tiếng "C''est un Juif" thế là mắng độc lắm, còn hơn ta nói "đồ Mọi đồ Hời" nữa.) Mà sở dĩ người ta ghét dơ quá như vậy, lại là vì họ cho người Do Thái là tham lam, gian ác và nhứt là hay cho vay ăn lời.
    Cái lòng ghét dơ ấy bây giờ lại đổi ra lo ngại. Lo ngại vì cái thế lực và cái dã tâm của Do Thái. Đã lâu nay mấy chữ "Cái vấn đề Do Thái" (Le problème Juif) thường thấy ra trong báo chương sách vở của các nước luôn luôn, hình như họ muốn hiệp cả trí khôn của loài người lại để giải quyết vấn đề ấy mà đến nay cũng còn chưa có phương giải quyết.
    Trong khi chưa có phương pháp nào giải quyết được vấn đề Do Thái đó, thì người ta bất giác hốt hoảng kêu lên rằng: "Họa Do Thái! Họa Do Thái!" (Péril Juif).
    "Họa Do Thái!" tiếng kêu ấy cũng như tiếng kêu "Họa da vàng!" (Péril jaune), nghĩa là sợ người Do Thái hoặc giả rồi đây sẽ cậy thế lực kim tiền mà thống nhứt thế giới được chăng, cũng như người ta lo cho Nhựt Bổn hoặc Tàu là giống da vàng, rồi đây hoặc sẽ đứng phắt dậy mà làm lôi thôi cho giống da trắng vậy.
    Thật vậy, giống Do Thái là giống rất nguy hiểm; người ta sợ rằng hoặc giả rồi đây họ sẽ hiệp hết thảy đồng bào tan lạc lại cùng nhau choán cả tiền bạc trong thế giới, nhơn đó mà mở buộc quyền tài chánh của các nước, làm quân sư cho đám thợ thuyền các nước, rồi có thể xoay cái quyền Vạn quốc hội nghị vào trong tay mình, như thế há chẳng nguy cho các dân tộc khác hay sao? ấy vậy, hiện nay liệt cường đương lo mà giải quyết cái vấn đề Do Thái là phải lắm, vì nó là cần kíp lắm.
    Có nhiều người biết chuyện nghĩ đến hiện tình thế giới mà bật cười. Số là hết thảy các dân tộc bị áp bách ngày nay, số người phỏng là 200 triệu rưỡi, trong số ấy người Do Thái chiếm hết một phần mười hai (1/12); thế mà một phần mười hai số người bị áp bách ấy trở lại làm cho các dân tộc áp bách phải lo ngay ngáy như có cái tai vạ gì lớn hầu đến cho mình mà không biết khi nào. Rút lại, ta chỉ có thể đoán ước chừng rằng nếu trong vũ trụ này mà quả có Đức Chúa Trời, và nếu Đức Chúa Trời quả là chúa riêng của dân Do Thái, thì cái vấn đề Do Thái thật cũng khó lòng lấy trí lực loài người mà giải quyết được vậy.
    Ấy thế mà, hiện thời nay, trừ An Nam ta ra không kể, còn các nước, không nước nào là không kiếm cách để ngăn ngừa cái họa Do Thái về sau; cho đến nước Tàu, có người đã lo đến rằng phải gấp gấp thiệt hành cái chủ nghĩa Tam dân để có chống cự lại với chủ nghĩa Do Thái, tức là chủ nghĩa Đế quốc mà biến hình ra vậy.« 
  10. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Ngày ấy cụ Phan Khôi đã viết ra như vậy, chứng tỏ thế lực Do Thái hùng mạnh thế nào.
    Ngày nay trong hàng ngũ các quan chức cao cấp Chính phủ Mỹ có không ít bóng dáng người gốc Do thái như cựu Ngoại trưởng thời chiến tranh Việt Nam Henrep Kissingger, Cựu nữ Ngoại trưởng Albiight các nhân vật thuộc phái Diều hâu khét tiếng trong Chính phủ cha con nhà Bush có Paul Wolfowits, gã tướng võ biến được mệnh danh là ?oHung thần chiến tranh Irag? v.v? Chánh văn phòng Nhà trắng của tân Tổng thống Obama tên Emanuel cũng là một người Mỹ gốc Do thái. Không một vị Tổng thống Mỹ nào dám coi thường thế lực của cộng đồng người Do thái tại nước Mỹ. Nếu tới một ngày nào đó mà một người Mỹ gốc Do thái lên làm Tổng thống thì cũng chẳng ai ngạc nhiên, lấy đó làm điều kỳ lạ.
    Cộng đồng Do Thái chỉ chiếm 3% dân Mỹ nhưng hiện chiếm 7% số hạ nghị sĩ và 13% số thượng nghị sĩ. Bởi sức ảnh hưởng cực lớn của cộng đồng người Do thái, nên trong tất cả các cuộc tranh cử bầu Tổng thống Mỹ, họ đều là đối tượng số 1 (mà dân gian gọi là ?ochiếc bánh ngọt thơm ngon?) tranh thủ lấy lòng cả 2 Đảng Dân chủ và Cộng hòa.
    Do ảnh hưởng của cộng đồng người Do thái ở Mỹ đối với nền kinh tế Mỹ, đặc biệt là quyền chủ động về cơ cấu tiền tệ Mỹ nằm trong tay người Do thái. Mà trong tranh cử tại nước Mỹ, giành thắng lợi hay không hoàn toàn quyết định bởi quỹ tranh cử của ứng cử viên Tổng thống nhiều hay ít. Bởi vậy, có thể nói, số lượng viện trợ kinh tế mà các nhà tư bản Do thái khống chế vận mạng kinh tế Mỹ cung cấp cho ứng cử viên Tổng thống Mỹ sẽ quyết định ứng cử viên đó có đắc cử hay không.
    Mặt khác, tỷ lệ bỏ phiếu của người Do thái Mỹ có tác dụng không thể coi thường đối với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. Tuy cộng đồng người Do thái di cư tới Mỹ cho tới nay cũng chỉ chiếm có 3% tổng dân số nước này, nhưng số phiếu bầu của người Do thái 3% này lại thường quyết định số phận của ứng cử viên Tổng thống. Nhìn chung, chỉ có khoảng một nửa dân Mỹ đi bầu, trong khi đó tỉ lệ người Do Thái đi bỏ phiếu tới 90%, cao nhất trong các cộng đồng ở Mỹ. Hơn nữa họ lại sống tập trung tại các bang có tiếng nói quyết định kết quả bầu cử như New York, California, Pennsylvania...
    Thường thì người ra tranh cử Tổng thống Mỹ đều hiểu rất rõ rằng, cộng đồng người Do thái công dân nước Mỹ vẫn luôn ủng hộ một bộ phận nhà tư bản dân tộc thiểu số có thế lực của nước Mỹ, bởi vậy mà các ứng cử viên Tổng thống của cả Đảng Dân chủ và Cộng hòa đều đua nhau vuốt ve mơn trớn nâng bi người Do thái, bởi làm như vậy không những có thể giành được sự ủng hộ cả về mặt kinh tế và tuyên truyền của người Do thái mà còn nhận được sự ủng hộ của các nhà tư bản dân tộc thiểu số khác vốn được người Do thái đồng tình giúp đỡ, điều này đối với thắng lợi của ứng cử viên Tổng thống là mang tính then chốt.
    Trong mỗi khóa bầu cử Tổng thống tại Mỹ, ứng cử viên nhảy ra tranh cử bởi muốn giành được sự ủng hộ của cộng đồng người Do thái, đã không tiếc áp dụng bất kỳ một biện pháp, một con đường nào. Trong bầu cử Mỹ lần này, 78% cử tri Do thái đều bỏ phiếu cho Obama. Obama với vai trò là một ứng cử viên người da đen, mà nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng người Do thái tại Mỹ là một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử!
    Tuy thế lực Do thái rất lớn, nhưng phần lớn chính khách Do thái Mỹ vẫn ưu tiên chú trọng bảo vệ lợi ích Mỹ tại khu vực Trung Đông. Thái độ của Mỹ đối với Israel ở mỗi thời kỳ khác nhau không giống nhau xuất phát từ suy nghĩ về cân bằng thế lực tại khu vực Trung Đông, chính khách Do thái Mỹ tuy cũng gây tác dụng nhất định trong đó, nhưng dù sao thì người Do thái Mỹ trước hết vẫn là người Mỹ, thứ đến mới là người Do thái, lợi ích chiến lược chỉnh thể của Mỹ tại Trung Đông luôn luôn và mãi mãi được đặt ở vị trí đầu tiên.
    Người Do thái khiến cho nước Mỹ trở thành đồng minh thân thiết nhất của Israel. Một số người Mỹ thậm chí còn cho rằng, một khi nước Mỹ ngộ nạn, thì trên thế giới này chỉ có 2 quốc gia dốc toàn lực ra viện trợ cho nước Mỹ là Anh và Israel (!?). Chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất, Golda Meir (Golda Mabovifz, 1898-1878, cố nữ Thủ tướng Israel) trong túi chỉ có 15 USD lên đường sang Mỹ quyên góp chiến phí, đã đem về tới 70 triệu USD và vô số vũ khí. Chính nhờ vào sự giúp đỡ của cộng đồng người Do thái sinh sống tại Mỹ mà Israel đã vượt qua hết khó khăn này đến hoạn nạn kia, tới nay, Israel mỗi năm nhận được từ nước Mỹ ít là 5 tỷ USD.
    Thật không ngoa khi nói rằng cộng đồng người Do Thái ở Mỹ là lực lượng có tiếng nói quyết định đường lối kinh tế - chính trị nước Mỹ, nhất là chính sách đối ngoại về Trung Đông
    (từ hầm bà lằng xắng cấu các nguồn từ nước ngoài đến nước trong)
    Được DinhPhDc sửa chữa / chuyển vào 13:49 ngày 27/11/2009

Chia sẻ trang này