1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Âm mưu và thảm hoạ chiến tranh

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi SSX, 25/02/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. SSX109

    SSX109 Guest

    Vụ đánh bom Lockerbie: Libya đã bị đổ tội


    Tình tiết quan trong là mảnh thiết bị hẹn giờ của quả bom. Đáng lẽ ra, vụ đánh bom đã diễn ra hoàn hảo nếu như chiếc máy bay này không cất cánh trễ 1 giờ, lúc đó các mảnh vụn của nó đã rơi hết xuống Đại Tây Dương thay vì là Lockerbie. Bọn chúng không ngờ đến tính huống này và đã vội vã cuống cuồng chế bằng chứng giả là thiết bị hẹn giờ Thụy Sĩ ném vào đống xác máy bay.


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cuộc sống tù

    Chủ hiệu, người đã bán mặt hàng này tuyên bố nghi can Al Megrahi chưa bao giờ là khách hàng của ông ta. Thay vào đó, ông ta nhận diện một kẻ người Ai Cập gốc Palestine tên Mohammad Abu Talb – kẻ này hiện đang bị tù ở Thụy Điển vì một vụ đánh bom giáo đường Do Thái.

    Giáo sư Hans Koechler, người được LHQ bổ nhiệm làm quan sát viên tại tòa án, đã gọi bản kết án của tòa là "một sai lầm ngoạn mục của công lý".

    Koechler đã nhiều lần kêu gọi tiến hành một cuộc điều tra độc lập, nhưng cho đến nay, chính phủ Anh vẫn từ chối.


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Oliver Miles, cựu đại sứ Anh tại Libya, khẳng định rằng "tòa án không có khả năng để có được sự thật, và bây giờ các cơ quan tình báo khác nhau có cơ hội để mua chuộc bằng chứng".

    Jim Swire, cha của một trong những nạn nhân Lockerbie, cho biết "Tòa án Scotland rõ ràng đóng vai trò hàng đầu trong một sai lầm đáng hổ thẹn nhất trong lịch sử tư pháp."


    Craig Murray, cựu đại sứ Anh, người đứng thứ hai trong hàng ngũ chỉ huy của hàng không của Anh và Cục Hàng hải từ 1989 đến 1992, viết về tình tiết kỳ lạ trên trang web của mình.


    Murray cho biết một đồng nghiệp nói với ông "theo một cách đầy lo lắng sâu sa" về một báo cáo tình báo cho biết Libya đã không hề dính líu vào vụ đánh bom Pan Am. Khi ông Murray đề nghị được xem nó, đồng nghiệp của ông cho biết nó đã được đánh dấu chỉ để xem, mà Murray mô tả là "cực kỳ bất bình thường". Trước đó, một báo cáo của CIA cũng đã đi đến một kết luận tương tự đã bị lãng quên nhanh chóng.


    Nếu Al Megrahi trắng án, như có thể, Libya sẽ được minh oan và có lẽ họ sẽ đòi lại khoản tiền bồi thường cùng với danh tiếng của mình.


    Điều này cũng sẽ là sự kiện khiến cho Anh và Hoa Kỳ rơi vào thế lúng túng, đó là chưa kể đến các cơ quan tình báo, và cũng sẽ để lại câu hỏi không có câu trả lời: kẻ nào đã đánh bom chuyến bay Pan Am 103? Trong một thế giới tử tế, Libya cũng sẽ nhận được một lời xin lỗi từ những kẻ đã buộc tội và họ có lẽ sẽ phải khởi kiện về những thiệt hại cho tất cả những gì họ bị thiệt hại là hậu quả của các biện pháp trừng phạt của LHQ.


    Nhưng trong một thế giới mà thủ đoạn chính trị thường chiến thắng, sự kháng cáo cũng đã bị định đoạt trước bất chấp các “bằng chứng” mơ hồ và các "nhân chứng" đáng ngờ đã bị vạch trần.


    TG: Linda S. Heard - chuyên gia về vấn đề Trung Đông.



  2. SSX100

    SSX100 Guest

    Tổ chức Giám sát nhân quyền - HRW: Lịch sử và Mục đích

    [​IMG]

    Human Rights Watch - HRW (Giám sát nhân quyền) — trên danh nghĩa là một tổ chức Phi chính phủ (NGO) có mục đích bảo vệ quyền con người trên 70 quốc gia và trụ sở chính đóng ở Mỹ. HRW về mặt hình thức không nhận đóng góp tài chính từ các cơ cấu của chính phủ Mỹ, mà chỉ từ các quyên tặng cá nhân. Cho dù là tự giới thiệu hay Wikipedia viết về HRW, thì tốt hơn hết cần hiểu vì cái gì mà các cá nhân gây quĩ cho HRW.

    Lịch sử thành lập

    Lịch sử HRW có thể tính đến là bắt đầu từ tháng 7 năm 1973 khi một nhóm 11 nhà văn, sử học và nhà xuất bản Mỹ thành lập Ủy ban bảo vệ Andrei Amalrik, một nhà nghiên cứu và xuất bản một số tác phẩm bất đồng chính kiến với CQ Xô viết bị xét xử. Trong số ủy ban kia, có các nhà văn Mỹ có tiếng là Arthur Miller, John Updike, Robert Penn Uorren, nhà sử học Harrison của Salisbury và các nhà xuất bản sách lớn như William Jovanovich, JohnWiley and Sons, Robert L. Bernstein (Random House), Vintrop Knoulton (Harper & Row).

    Vị chủ tịch nhà xuất bản Random House Robert L.Bernstein (người truyền cảm hứng và tổ chức ra ủy ban này) là một thương gia có quan điểm tự do, trước đó đã từng gây quĩ cho tổ chức “Tự do ngôn luận”.

    Ủy ban này tuyên bố Amalrik đã bị kết án vì “công khai bày tỏ suy nghĩ” và thúc giục CQ Xô viết “khôi phục các quyền hợp pháp, bao gồm cả quyền tự do ngôn luận và quyền tự do ra nước ngoài nếu anh ta muốn”. Năm sau, ủy ban này phát động chiến dịch ủng hộ nhà hoạt động đang bị quản chế Vladimir Bukovsky. Tuyên bố của ủy ban bao gồm phát ngôn về quyền tự do và quyền được bảo vệ của tù nhân cũng như quyền được thăm nom, thư từ, quyền có luật sư và quyền được chăm sóc y tế. Đặc biệt ủy ban này nhấn mạnh Bukovsky là nạn nhân bị đàn áp bởi chuyển công khai và hợp pháp cho phương Tây “tài liệu bằng chứng về xâm phạm quyền con người” trong chế độ Xô viết.

    Năm 1976 Robert đã đến Mat-xcơ-va thăm nhà vật lý hạt nhân bất đồng, hoạt động nhân quyền A.D.Saharov và một số các chuyên gia có tiếng khác. Buổi nói chuyện kéo dài nhiều giờ với họ đã làm cho Bernstein có ý tưởng tạo dựng ở Mỹ một tổ chức có thể hỗ trợ thường xuyên, có hệ thống cho các nhà hoạt động Xô viết. Hai năm sau thời điểm này, tại Mat-xcơ-va và nhiều thành phố Liên Xô khác xuất hiện các nhóm giám sát nhân quyền được CQ Xô viết cho phép hoạt động theo Thỏa thuận Helsinki. Robert Bernstein cũng thành lập tại New York tổ chức giám sát nhân quyền mang tên Ủy ban giám sát Helsinki Mỹ (US Helsinki Watch). Nhiệm vụ của nó được tuyên bố là bảo vệ các nhóm nhân quyền và ở Liên Xô, Đông Âu và hỗ trợ hoạt động của họ bằng con đường công khai hợp pháp dựa trên thực tế xâm phạm nhân quyền ở các quốc gia này.

    Khác biệt cơ bản của US Helsinki Watch với các nhóm nhân quyền Armenia, Ukrainia, Lithuania, Estonian và Liên Xô và các nước Xô viết khác là US Helsinki chỉ chú ý đến vấn đề nhân quyền của các nước Xô viết. Trong khi trách nhiệm giám sát nhân quyền theo Thỏa thuận Helsinki là ở tất cả các quốc gia đã ký kết. US Helsinki Watch công khai tuyên bố nhiệm vụ là ở Xô viết và Đông Âu. Họ không có trách nhiệm ở Mỹ và phương Tây.

    Tạo ra được Helsinki là thực sự cả một cuộc cách mạng. Cho đến lúc đó, vào cuối những năm1970 chỉ có các tổ chức quốc tế như Ân xá quốc tế (International Amnesty) hay Liên đoàn quốc tế về nhân quyền (International Federation for Human rights - FIDH) hoạt động. FIDH lập năm 1922 có trụ sở ở Paris bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên. Một tổ chức khác của LHQ là Ủy ban nhân quyền LHQ đóng tại Geneva hoạt động trong khuân khổ hiến chương LHQ.

    Cho dù đã tồn tại một số tổ chức qua một vài nhiệm kỳ, thì sau đó cái tổ chức núp dưới cái tên Giám sát nhân quyền - HRW vẫn được thành lập. Cho đến tận ngày nay, chỉ duy nhất Ban lãnh đạo HRW và Hội đồng cố vấn có quyền xác định các mối quan tâm và đưa ra chính sách. Người nước ngoài tham gia vào ban lãnh đạo và cố vấn HRW rất ít ỏi và chỉ đếm trên đầu ngón tay. Không có bất cứ tổ chức có trách nhiệm chính danh nào khác đụng vào được HRW, cho dù là LHQ hay các tổ chức quốc tế, cũng như cả QH Mỹ, CQ Mỹ hay Tòa án Tối cao Mỹ.

    Ban đầu, tất cả các nhân viên của US Helsinki Watch chỉ gồm có vài người. Robert Bernstein tự mình làm chủ tịch, ông phó là vị luật sư của phố Wall Orville Hickok Schell, các thành viên thuộc các đoàn luật sư nổi tiếng Hughes, Hubbard & Reed, và Adrian DeWind, cũng như các đoàn Paul, Weiss, Rifkind, Wharton & Garrison. Trong đó cũng có cả vị luật sư nổi tiếng Aryeh Neier, từng là giám đốc quốc gia của Liên đoàn tự do dân sự Mỹ (American Civil Liberties Union - ACLU), và Jeri Laber, một kẻ đấu tranh cho quyền tự do dân sự Mỹ. Sau đó một chút, có cả vị luật sư Mỹ hàng đầu về luật quốc tế Jerome J. Shestack, ông này là người sáng lập và chủ tịch của Ủy ban luật sư dân sự Mỹ năm 1963 cũng như lập và làm chủ tịch Ủy ban luật sư về nhân quyền năm 1977.

    Nhắc lại
    Jeri Laber, cần phải nói là Robert Bernstein đã từng nói “Tiên đoán rằng nhóm nhỏ tập trung quanh bàn hội nghị của nhà xuất bản Random House, một ngày nào đó sẽ trải rộng khắp thế giới.” Dường như lúc đó, Bernstein đã thực sự có lý do quan trọng để phát biểu mạnh như vậy. Như tư liệu viết 20 năm sau, năm 1998, bởi vị chủ tịch HRW khi đó, cũng đồng chủ tịch quĩ Mac-Arthur là Dzhonatan Fanton, Robert L.Bernstein được Hội đồng ủy trị quĩ Ford, và Arthur Goldberg, một kẻ là chủ tịch Hội đồng Do Thái Mỹ, đại diện Mỹ tại LHQ dưới thời tổng thống L. B. Johnson đề nghị giữ cương vị chủ tịch US Helsinki Watch.

    Cũng cần phải nói đôi điều về quĩ Ford, được lập vào năm 1936 bởi nhà quản trị dây chuyền sản xuất xe hơi nổi tiếng Henry Ford. Tuy nhiên, đến thập kỷ 50, quĩ Ford đã chuyển giao cho Hội đồng ủy trị quĩ, những kẻ này không có liên hệ nào với gia đình ông Ford. Ngày nay, cái hội đồng ủy trị này gồm gần 20 vị, trong số đó gồm có những vị là giám đốc, chủ tịch các tổ hợp công nghiệp-tài chính lớn nhất Mỹ như XeroxCorp., АlcoaInc., Coca-ColaCo., Carlyle Asset Management Group. Cũng kể từ 1950 Quĩ Ford tài trợ cho các dự án tài chính, “tập trung vào Liên Xô và các nước Đông Âu”. Giai đoạn 1950-1988, đã có khoảng 60 triệu USD được dùng để “hỗ trợ tự do ngôn luận, đa dạng văn hóa, và giám sát nhân quyền”. Năm 1989, Hội đồng ủy trị Ford “đã quyết định ủng hộ trực tiếp các tổ chức tiến bộ tại Liên Xô, Ba Lan, Hungaria và sau đó là CH Czech, để thúc đẩy tiến bộ quá trình dân chủ hóa và cải tổ kinh tế ở các nước này. Cũng cùng mục đích như thế, giai đoạn 1989-1994 đã sử dụng khoảng 30 triệu USD.”

    Không chỉ có những chính trị gia tên tuổi theo xu hướng tự do (Arthur Goldberg, Are Nejer, Dzherom Shestak) tham gia trực tiếp vào hình thành tổ chức nhân quyền mới HRW, mà còn có các tổ hợp công nghiệp-tài chính lớn nhất Mỹ, do đó mà nói rằng HRW là tổ chức “quần chúng - grassroot” là không hề có bất cứ cơ sở nào. Vậy thì động cơ nào khuyến khích và thúc đẩy phe tự do Mỹ bảo vệ nhân quyền ở Liên Xô và Đông Âu? Chính sách đối nội đối ngoại trong bối cảnh US Helsinki Watch như thế nào?

    Năm 1989, các tổ chức nhân quyền Mỹ đã thống nhất trên cơ sở nhóm US Helsinki Watch lập thành một tổ chức lấy tên Giám sát nhân quyền (Human Rights Watch - HRW), các lãnh đạo và các cố vấn hợp nhất của HRW sau đó đổi tên thành Ban giám đốc HRW. Robert L. Bernstein trở thành chủ tịch HRW, phó là luật gia Adrian DeWind. Cựu lãnh đạo Liên đoàn tự do dân sự Mỹ - ACLU Aryeh Neier làm giám đốc điều hành, phó điều hành là “ngôi sao đang lên” về lập quyền con người-luật sư Kenneth Roth. Hội đồng cố vấn HRW gồm 22 vị, một phần là các quản lý, cố vấn các chi nhánh HRW, một phần là quản trị các quĩ hùng mạnh cũng như các tỷ phú hay làm “từ thiện” như là Dorothy Cullman và Irene Diamond.

    Robert Bernstein vẫn giữ chức chủ tịch US Helsinki Watch. Làm phó cho hắn ta là nhà sử học-chủ tịch New School University Jonathan Fanton và luật gia Alice H. Henkin, một trong những giám đốc của Viện “bộ não” có ảnh hưởng nhất Aspen. Trong cơ cấu của Hội đồng cố vấn US Helsinki Watch gồm cả các nhà khoa học tên tuổi Hans Bethe và Jerome Wiesner, nhà văn Ed Doctorow và Arthur Miller, mục sư Robert Drinan và giáo sĩ Do Thái Rolando Matalon, Farenthold và Stanley Sheinbaum là cựu hoạt động cho phong trào chống chiến tranh Pháp, luật gia quốc tế Marvin Frankel và Theodor Meron-vị chủ tịch tương lai của cái gọi là Tòa án quốc tế - international Tribunal trải rộng khắp cựu Nam Tư. Chưa hết, hiện còn có nhà băng tỷ phú Bernard Aidinoff, Ellen Futter, Felix Rohatyn, một số trong 3 kẻ này là giám đốc lâu năm của nhà băng Salomon Brothers, ông vua-tỷ phú phố Wall John Gutfreund. Giám đốc điều hành US Helsinki vẫn là Jeri Laber. Giám đốc “nghiên cứu” Catherine Fitzpatrick thì đã rời HRW vào cuối thập kỷ 80 do bất đồng chính sách chiến lược với ban lãnh đạo mới.

    Vấn đề tài chính của tất cả các nhiệm kỳ HRW hầu hết đều dựa vào các quĩ Do Thái. Trong số đó có thể kể tên Aaron Diamond Foundation, J.M. Kaplan Foundation, Revson Foundation, Scherman Foundation. Cũng như cuối thập kỷ 70 HRW được tài trợ từ quĩ Ford. Trong số các nhà “tài trợ” mới là quĩ tỷ phú có tiếng nhân đức như MacArthur Foundation, John Merck Fund, J. Mertz-Gilmore Foundation. Tài chính và hoạt động do Bernstein gây dựng từ đầu thập kỷ 70 được dùng cho “tự do ngôn luận” chi tiêu của các nhà văn, nhà khoa học, nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật có tiếng như Аrthur Miller, Kurt Vonnegut, EL Doctorow, John Updike, kể cả Dorothy Cullman, Irene Diamond, Mark Kaplan.

    Bạn biết, hay đã đọc/xem bao nhiêu tác phẩm của những cái tên trên?

    Nhưng những quyết định “trọng yếu” nhất ảnh hưởng không chỉ đến tính chất cũng như sự lựa chọn mục tiêu phê phán của HRW mà còn là nhiệm vụ của chính tổ chức này, khi HRW trở thành “đồng minh” của kẻ cơ hội kiếm chác từ các vụ đầu cơ khủng hoảng quốc tế (sát thủ kinh tế)-tỷ phú George Soros. Hắn ta đến với HRW không chỉ một mình, còn có vợ hắn là Susan, một nhà đầu tư của quĩ Quantum, các tỷ phú John Gutfreund và John Studzinski, vợ của nhà quản trị quĩ Stanleu Druckenmiller là Fiona Druckenmiller, và thậm chí các nhân viên các công ty và các quĩ mà Soros sở hữu, cùng các nhà phân tích chính trị nổi tiếng Barnett Rubin và William D. Zabel, cũng như nhân vật ngoại giao Warren Zimmermann.

    Một số nhân viên trong cơ cấu và vẫn giữ các chức vụ HRW đã cùng lúc làm việc và trở thành tay chân của Soros như Thành viên quản trị và Chủ tịch HRW chi nhánh châu Âu và Trung Á, cựu US Helsinki Watch, phóng viên Peter Osnos thành giám đốc điều hành nhà xuất bản của Soros. Thành viên Hội đồng cố vấn chi nhánh quyền phụ nữ đấu tranh vì quyền đồng giới Gara LaMarche trở thành phó Văn phòng New York của Viện Xã hội mở của Soros.
  3. SSX100

    SSX100 Guest

    Tổ chức Giám sát nhân quyền - HRW: Lịch sử và Mục đích

    Tiêu chuẩn kép của HRW

    Ngày nay, HRW có văn phòng ở trên 10 nước: New York, Washington, Los Angeles, Bruxelles, London, Rio de Janeiro, Moscow, Tbilisi, Dushanbe, Hong Kong. Số lượng nhân viên của tổ chức này là trên 180 với ngân sách hàng năm cỡ hơn 21 triệu USD. Nó thường xuyên phát ra các “tuyên bố” và các “báo cáo” về vi phạm nhân quyền hầu như ở mọi quốc gia.

    Tuy nhiên như George Orwell đã từng viết, "mọi người là bình đẳng nhưng một số bình đẳng hơn kẻ khác”. Để xem các lãnh đạo HRW “bình đẳng hơn” và ai “kém bình đẳng hơn” thì chỉ cần nhìn vào thống kê các tuyên bố và các báo cáo của chính HRW. Rõ ràng HRW đã áp dụng tiêu chuẩn kép và lựa chọn các đối tượng để chỉ trích. Cái thống kê này cũng giống như mảnh giấy quì, nó biểu thị mức độ bịa đặt và can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia.

    Chỉ tính các nước cựu Xô viết, trong giai đoạn 7 năm từ 1994 đến 2001, HRW phát ra 172 tuyên bố vi phạm nhân quyền, trong số đó rành riêng cho Nga đã là 117. Để so sánh, thấy rằng cũng giai đoạn này không có bất cứ tuyên bố nào về Ukraine, Kazakhstan có 6, TurkmenistanTurkmenistan thì nằm trong số các thông điệp về hạn chế tiếng Nga tại nhà nước và các tổ chức tư nhân và xét xử tội phạm các tổ chức Nga không phép. có 3. HRW cũng không có bất cứ tuyên bố nào về vi phạm nhân quyền đối với người Nga sinh sống tại Latvia và Estonia, không về bắt bớ phong tỏa ở nhà thờ Chính thống giáo ở Ukraine, không về bắt giữ nhà hoạt động Nga Cossacks ở Kazakhstan, không về thanh lọc chủng tộc ở Tajikistan và Kazakhstan. Hai tuyên bố về Turkmenistan thì nằm trong số các thông điệp về hạn chế tiếng Nga tại nhà nước và các tổ chức tư nhân và xét xử tội phạm các tổ chức Nga không phép.

    Vấn đề là gì? Tại sao lại có sự khác biệt? Trả lời cho câu hỏi này không nằm trong phạm trù nhân quyền. Mà là ở chỗ “Kazakhstan – đó là vị trí chiến lược của chúng ta ở Trung Á bởi tài nguyên dầu khí”. Câu đó không phải là cố vấn an ninh TT Mỹ viết, mà là giám đốc điều hành HRW chi nhánh châu Âu và Trung Á Elizabeth Andersen viết. Người Nga, chắc chắn muốn tự vị chủ tịch hội Memorial S.A. Kovaleva nói ra câu đó. Tương tự như vậy là Turkmenistan, nơi có nguồn dầu khí lớn và được CP cũng như QH Mỹ gây quĩ hàng năm cỡ 150-189 triệu USD. Bảo vệ nhân quyền lại có mùi hàng triệu, hàng tỷ đô la.

    Còn tại Trung Đông thì vấn đề bảo vệ nhân quyền là như thế này: nơi thường xuyên và thô bạo nghiêm trọng như Saudi Arabia chỉ có 8 tuyên bố trong cùng thời kỳ 8 năm 1994-2001, cũng thời kỳ đó chúng nói về Serbia là 122.

    HRW trong vấn đề Israel-Palestine rất đặc sắc: hàng năm chúng tung ra cùng một lượng như nhau tuyên bố về mỗi bên, 32 cho Israel và 33 cho Palestine thời kỳ 1994-2010. Tuy vậy cái “công bằng trong phán xử” này không hề giúp HRW thoát khỏi cáo buộc can dự và thiên vị với bên Israel trong cuộc xung đột này.

    Còn đây là các chuyên gia lão luyện HRW cung cấp người đọc phương Tây về các sự kiện ở CH Chechnya, từ 30-9-1999 đến 16-4-2000, HRW ra 41 tuyên bố vi phạm nhân quyền tại Chechnya. Trong đó Nga bị lên án trong 38 tuyên bố, phía “người Ichkeria” (phiến quân Chechnya theo cách gọi của HRW) chỉ có 1 lên án, còn lại 2 tuyên bố chỉ trích cả 2 phía. Cũng theo “tư liệu” HRW, CQ Nga xâm phạm nhân quyền ở Chechnya 13 lần, thường xuyên hơn đám phiến quân khủ ngbố Basayev-Maskhadov-Abu Valida! Còn trước chiến dịch Chechnya 2, phía Nga cũng bị các chuyên gia HRW chỉ trích 19 lần, phía Chechnya 1, bất cứ ai ở phương Tây cũng phải lo ngại về tình trạng “chiếm đóng” và “bạo lực thú tính” của nhà cầm quyền Nga đối với “nhân dân Chechnya yêu chuộng hòa bình thuộc CH Ichkeria”.

    Cuộc chiến tranh Iraq loại bỏ chế độ cầm quyền Saddam Hussein và cũng là loại bỏ mối nguy hiểm tiềm tàng của Israel. HRW đã bày tỏ lòng trung thành tận tụy bằng cách dội bão báo cáo vào dân chúng, biến Saddam thành quỉ dữ và dọn đường cho cuộc tấn công xâm lược của Mỹ vào Iraq. Vài tháng trước khi nổ ra chiến tranh, HRW bắt đầu tung ra một chuỗi các “báo cáo” và luận điệu bạo lực nhân quyền Iraq… từ thậm chí tận 10, 15 năm trước, trong đó có báo cáo Saddam Hussein sử dụng vũ khí hóa học chống người Kurd ly khai năm 1987. Những tuyên bố kiểu này có mục đích rõ ràng: làm cho cả thế giới khiếp sợ Saddam Hussein, và do đó làm “nhẹ đi” phản ứng tiêu cực của dân chúng đối với cuộc xâm lược của Mỹ vào CH Iraq. Còn sau đó, bất chấp một số hỏa mù, chẳng có lý do gì để nghi ngờ HRW đã “một lòng” với CQ Bush, HRW đã cố nhịn tuyên bố và báo cáo về cuộc chiến Iraq.

    Nguồn tham khảo: osradio.ru

    Bạn có biết bao nhiêu cái tên xuất hiện trong loạt bài này là Do Thái Zionist? Tôi không muốn mất thì giờ tính đếm nhưng có thể khẳng định: phần lớn trong số chúng. Quan trọng hơn cả, bạn có thấy cái bọn hô hào bảo vệ nhân quyền lương dân thế giới này na ná cái bọn ngày xưa hô hào bảo vệ, đấu tranh cho lương dân giai cấp cùng khổ bị bóc lột không? Câu hỏi rất thú vị và chắc chắn cũng rất đau đớn với nhiều người.




    [​IMG]
    Robert Bernstein - Zionist sáng lập ra HRW

    [​IMG]
    George Soros - Zionist sát thủ kinh tế thao túng HRW
  4. SSX100

    SSX100 Guest

    Tổ chức Giám sát nhân quyền - HRW: Lịch sử và Mục đích

    “Chúng ta là hy vọng cuối cùng của cả nhân loại…”

    Bên trên đã nói về vai trò phe tự do (đ. Dân Chủ) trong việc tạo và hoạt động HRW, đối với phe này, vấn đề nhân quyền Xô viết và Đông Âu là phù hợp với sự tự do lợi ích (được phe bảo thủ (đ. Cộng Hòa) chia sẻ). Khái niệm hợp tác hòa bình được chấp nhận đầu những năm 60 làm chiến lược quốc gia dưới thời TT John F. Kennedy. Khái niệm này khác với học thuyết kiềm chế CS mang tên Kennan và do cả 2 đ. cầm quyền Cộng hòa cùng Dân chủ nắm giữ từ 1947. Tuy vậy, phần chung trong vấn đề chính sách đối ngoại lớn hơn sự bất đồng, khi cả 2 học thuyết đều dựa vào khái niệm đặc trưng là tinh thần Mỹ.

    Đặc điểm cơ bản của CH Mỹ được kế thừa một cách có ý thức bởi cả giới tinh hoa cai trị và quần chúng đó là tư tưởng nước Mỹ là duy nhất và được chọn. Điều mà các nhà xã hội học nói, hệ tư tưởng khởi nguồn của một dân tộc được Chúa chọn, được đưa đến “miền đất hứa” bởi những người Anh tin lành, trở thành chất kết dính của hệ tư tưởng quốc gia Mỹ. Các bài viết, bài phát biểu của các tiền bối sáng lập Mỹ, kể cả TT Liên minh Bắc Mỹ đầu tiên Thomas Jefferson, hay John Monroe, Abraham Lincoln, Teddy Roosevelt âm vang không chỉ những thông điệp, mà còn cả những độc ngôn về sứ mệnh đặc biệt của nước Mỹ trong “thế giới này”. Abraham Lincoln có câu phát biểu trứ danh: "Chúng ta những người Mỹ - niềm hy vọng cuối cùng của cả nhân loại." Còn đây là một đoạn văn Mỹ cổ điển viết: "Chúng ta những người Mỹ - dân tộc đặc biệt được chọn, chúng ta - Israel của thời chúng ta, chúng ta chèo lái con thuyền tự do ra thế giới". http://www.fordfound.org/

    Tuy nhiên, khi mà nước Mỹ vẫn chỉ là sức mạnh lãnh đạo mỗi “Tân thế giới”, sứ mệnh “cứu thế” và “được chọn” của người Mỹ chỉ thấy được ở mỗi chỗ thiết lập kiểm soát lãnh thổ bắc và nam Mỹ cũng như thanh lọc chủng tộc lục địa bắc Mỹ khỏi người bản xứ India.
  5. SSX109

    SSX109 Guest

    Sự thật về Bờ biển Ngà - Nạn nhân NWO mới nhất


    Bờ biển Ngà (dân số 20,6 triệu) độc lập từ Pháp ngày 07 tháng 8 năm 1960. Trong 20 năm sau đó 1960-1980 đạt mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng với mức tăng GDP hàng năm 10%. Nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về ca cao, dứa và dầu cọ, họ cũng trở thành nước xuất khẩu lớn thứ ba thế giới về cà phê. Thậm chí người ta gọi thời kỳ này là Phép màu Bờ biển Ngà.

    Suy thoái toàn cầu những năm 1980 làm giá cả tụt giảm thảm hại, nạn hạn hán làm trầm trọng thêm vấn đề. Bờ biển Ngà nhanh chóng trở thành con nợ quốc tế, năm 1987 đã nợ của các tổ chức tài phiệt nước ngoài món nợ khó trả 14 tỷ USD và lãi hàng năm 1,4 tỷ USD tương đương với 2/3 ngân sách hàng năm! IMF sau đó đã đến Bờ biển Ngà và áp đặt một chương trình điều chỉnh cơ cấu với các điều khoản trừng phạt như thường thấy nhằm vào lĩnh vực tiền lương, dịch vụ công, các chương trình cơ sở hạ tầng bị cắt giảm như một sự chịu đựng bắt buộc. Mức sống dân chúng bị giảm sút để đảm bảo rằng lãi suất trên các khoản vay không gì khác hơn là được tạo ra trong các ngân hàng châu Âu sẽ được trả đúng thời hạn.

    Kể từ đó đến này khoản nợ nước ngoài đã cản trở phát triển kinh tế Bờ biển Ngà đến mức trả nợ vốn đã bị trì hoãn thường xuyên. Trong mười năm qua tăng trưởng GDP đã trở nên khập khiễng chỉ khoảng 1%/năm.

    Tháng 10 năm 2000, Laurent Gbagbo, lãnh đạo của đ. Mặt trận Quần chúng bờ biển Ngà được bầu làm Tổng thống. Không có cuộc bầu cử diễn ra vào năm 2005 khi cuộc nội chiến đang xảy ra chia rẽ bắc/nam của người Hồi giáo và Kitô giáo tương ứng. Trước cuộc bầu cử 2010, ông Gbagbo tuyên bố ông muốn kết liễu tình trạng nô lệ tài chính của Bờ biển Ngà đối với Pháp.

    Hiện tại Bờ biển Ngà lệ thuộc vào Ngân hàng Trung ương Tây Phi (CBWAS). Tất cả các dự trữ ngoại hối ngân hàng đều bị gửi tại nhà băng Banque de France, bị kiểm soát bởi tộc Rothschild kể từ khi chúng mưu mô phế truất Napoleon vào năm 1815. (Napoleon đã thành lập ra ngân hàng vào năm 1800 như là một ngân hàng nhà nước, mà trong đó chính phủ ban hành tất cả các khoản vay có lãi). Hơn nữa 85% doanh thu xuất khẩu của Bờ biển Ngà đã bị trả cho Banque de France để chúng đầu tư vào trái phiếu chính phủ Pháp.

    Trong cuộc bầu cử năm 2010, hàng loạt gian lận qui mô đã xảy ra ở phần phía bắc của đất nước. Cuối cùng, Hội đồng lập hiến đã tuyên bố phần thắng cử thuộc về Gbagbo, ông đã thu được 51% số phiếu bầu. "Cộng đồng thế giới" bắt đầu khẳng định rằng đối thủ của ông là Alassane Outtara (một kẻ được Mỹ đào tạo) mới là người chiến thắng. Bố của Outtara đến từ Burkino Faso và do đó một nửa là nước ngoài, nhưng đáng sợ hơn, hắn ta là cựu Phó tổng giám đốc của IMF và là thống đốc của CBWAS. Gbagbo đã đúng khi gọi Ouattara và các phiến quân là bù nhìn của cựu thực dân Pháp.

    Ngày 23 tháng 12 năm 2010, Gbagbo tịch thu 153 tỷ francs của nhà băng Tây Phi CFA (Communaute Financiere Africain) vì kiếm lời bất hợp pháp của đất nước từ chi nhánh Abidjan của CBWAS. Biện pháp trừng phạt tài chính đã ngay lập tức bị áp đặt và ngày 1 tháng 2 năm 2011, Bờ biển Ngà đã bị buộc phải vỡ nợ vì khoản vay lãi Eurobond 2.3 tỷ USD có mức lãi 10,18% /năm.

    Ngày 4 tháng 4 năm 2011 Liên Hợp Quốc và Pháp tấn công, phá hủy phần lớn lực lượng pháo binh hạng nặng của Gbagbo và trạm phát sóng radio chính ở Abidjan. Ngày 11 tháng 4 năm 2011 "lính đánh thuê trắng" (cách gọi lính Pháp), đã tấn công nơi cư trú của tổng thống Gbagbo và buộc ông phải đầu hàng. Hiện không rõ ông bị giam giữ ở đâu. Bờ biển Ngà không gì khác hơn là một nạn nhân khác nữa của TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI - NWO mà trong cái thế giới này, bọn tài phiệt nhà băng quốc tế một lần nữa lại thu lời từ những khoản vay hư cấu của chúng.

    TG Goodson Stephen

  6. SSX100

    SSX100 Guest

    Nạn nhân NWO và Globalization

    Saddam Hussein, Hosni Mubarak và Muammar Gaddafi và những sai lầm họ đã tạo ra. Có rất nhiều lý do rất tốt giải thích tại sao Mỹ và một số nước EU theo chỉ đạo của đám Do Thái quốc tế đã quyết định làm sạch Trung Đông và thế giới Ả Rập, phù hợp với cái Toàn cầu hóa-Globalization và chương trình nghị sự NWO. Đó là thời để thay đổi, đến lũ lợn cũng nói được như thế.


    [​IMG]

    Hiểm họa đến từ quá khứ.

    Saddam Hussein:

    Cho đến lúc chết vẫn phục vụ rất tốt đám người Do Thái và Tây. Ông ta thậm chí còn tiến hành cuộc chiến tranh chết người với người Hồi giáo hàng xóm, chống lại Iran vì lợi ích của Mỹ và Israel. Vì thế mà người dân Iraq, đặc biệt là người Shiat hết sức căm ghét ông ta.

    Tuy nhiên, trong thập niên 80, cuối cùng Saddam cũng đã thay đổi, giành được một số độc lập từ phương tây, đã cố gắng để làm điều gì đó cho dân chúng của mình, ông ta thậm chí còn quay lưng lại với Israel và ủng hộ người Palestine.

    Sau đó, ông đã cố gắng để giành lại cho Iraq, bằng vũ lực mảnh đất Kuwait, xứ mà lịch sử trước kia luôn luôn thuộc về Iraq cho đến khi thực dân Anh dựng nó lên một cách giả tạo. Và đó là một lý do hoàn hảo cho đám Do Thái và đám Tây trừ khử Saddam, thay thế ông ta bằng một con rối khác mới, ít độc lập hơn.

    Sai lầm duy nhất của Saddam là tấn công Iran theo mong ước của đám Do Thái phương Tây và nếu còn gì đó thì là không ký kết hiệp ước phòng thủ quân sự với Syria và Libya. Chia rẽ đã làm họ rơi rụng.

    Hosni Mubarak:

    Cũng kiếp nô lệ còn tệ hơn hẳn Saddam, từ đầu ông ta đã muốn làm bạn đám NWO và bảo vệ lợi ích của phương Tây - Israel bằng mọi cách có thể. Không cần phải nói, dân chúng ghét cay ghét đắng ông ta vì lẽ rằng, với sự giúp đỡ tiền bạc của đám tài phiệt quân sự-tài chính Mỹ, ông đã dã man đàn áp dân nước mình.

    Trong những năm 90 ông ta đã phạm sai lầm chết người khi cùng hội cùng thuyền với đám IMF WTO thỏa mong ước đám Tây Do Thái tham gia vào toàn cầu hóa và trong thời kỳ 5 năm, các hãng tây lớn như GE, Caterpillar đã thực sự yên ổn làm ăn ở Trung Quốc thì Ai Cập tràn ngập hàng giá rẻ sản xuất tại Trung Quốc. Nền sản xuất Ai Cập đã bị xóa sổ, tỷ lệ thất nghiệp trong giới trẻ tăng lên đến 40%. Và bây giờ, khi đã đổ thì giới trẻ Ai Cập thậm chí còn ghét ông ta hơn.

    Con rối Mubarak của đám DT-Tây đã hết hữu dụng, phương Tây đã quyết định đẩy Mubarak cho đám đông giận giữ xử tội. Một con rối khác đang được dựng lên, đảm bảo rằng dân Ai Cập sẽ làm hắn sống ngắn hơn các đời trước. Chúng nó gào lên: Ai Cập cắt nguồn dầu khí đến Israel và phương Tây!!! Bạn nào chỉ cho tôi xem cắt ở đâu? cắt lúc nào?

    Sau khi tất cả, bất kể con rối nào trèo được lên đầu dân Ai Cập, thì hắn ta cũng sẽ phải trở về với IMF, WTO của đám nhà băng Do Thái và với những Toyota, Fords, Caterpillar, GE, Bridgestone, Apple, thậm chí ngay cả Gasoline, tất cả đang đua tranh Made in China. Bù nhìn mới rồi sẽ phải hợp tác, như người ta biết thập kỷ dưới sự cai trị của IMF 1995-2005, ngành công nghiệp Ai Cập đã hoàn toàn bị phá hủy. Ngày nay, người Ai Cập không thể làm cho mình cái lốp xe hoặc thậm chí khẩu AK 47! Mọi thứ họ nhập từ đám kẻ thù của họ Jew-USA!

    Cùng trong 1995-2005, công nghiệp Tunisia và Yemen cũng đã hoàn toàn bị xóa sổ bởi nhập khẩu hàng hóa chất lượng quá thấp giá rẻ từ các nhà sản xuất phương Tây Made in China. Tỷ lệ thất nghiệp trong giới trẻ ở các nước đang phát triển thậm chí trên 50%! Không ai hài lòng khi thất nghiệp.

    Trên tất cả, một ngày đẹp trời năm 2000, bù nhìn Mubarak nhận ra và đã từ chối hành động chống lại lợi ích Libya, Syria và Iran. Ông ta thậm chí còn dám xem Gaddafi và Al-Assad như bạn bè thân thương của mình. Ông cũng đánh bạn thân thiện với Ahmedinejad. Đám tài phiệt Do Thái làm sao chấp nhận nổi. Thế là vai trò của ông ta trong NWO kết thúc, cho dù vẫn giữ hợp đồng đã ký với đám DT đến cùng là không chịu giúp dân Gaza-Palestine trước nạn bị Israel tàn sát hàng ngày, điều đó càng làm người Hồi Ai-Cập chán ghét ông ta. Ông ta đã phải ra đi! Tính hữu dụng trong nghị sự NWO đã hết! Ông đã thành cái của nợ cần phải loại bỏ!

    Lỗi lầm duy nhât của Mubarak là: sát cánh cùng IMF thực thi Globalization, một thập kỷ cưỡng bức 1995-2005 đã hủy hoại hoàn toàn hủy sản xuất Ai Cập. Không chịu ký hiệp ước quân sự với Libya và Syria thành một NATO nhỏ để tự bảo vệ như Putin đã khuyên nhủ. Ngoài ra, ông ta đã có cơ hội để ký hiệp ước kinh tế-quân sự riêng với Iran. Nhưng thay vào đó ông ta đã chọn phương Tây viện trợ. Sai lầm chết người là ở đây!!!

    Đại tá Muammar Gaddafi: (Xin Chúa nếu có thể thì ban phước cho ông ấy)

    Có vẻ già và mệt mỏi vì chiến đấu với đám người Do Thái - Phương Tây, hơi lầm tưởng rằng phương tây sẽ để cho mình được yên.

    Đó là sai lầm! Ông ta lẽ ra phải biết rõ hơn! Đừng nói chuyện với đám ký sinh trùng Do Thái, Giết chúng khi có thể là bài học có đã được.

    Những gì người ta thấy ở Libya là không khác gì cách mạng màu ở Đông Âu, ở nam Nga và hoạt động CIA 1975-1980 ở Afghanistan. Tất cả được tài trợ và trả tiền bởi đám Do Thái-Mỹ và đám Ả Rập giấu mặt. Giờ là lúc chúng đang tái thuộc địa cả Libya để thống trị như đã từng ngày hôm qua.

    Trong nỗ lực để nâng cao hơn nữa mức sống của dân chúng, Gaddafi đã mở cửa với phương tây. Ông ta đã dừng các chương trình vũ khí hóa học và hạt nhân của mình. Giá mà bây giờ ông ta có chúng thì Bắc Triều Tiên đã không phải kêu lớn quá sai lầm! Lại còn sai lầm hơn khi cho phép các tổ chức phi chính phủ - NGO phương tây như: Quỹ bảo trợ Dân chủ (National Endowment for Democracy - NED), Hội đoàn tự do (Freedom House) , Mặt trận CIA (CIA Fronts), Đại học Harvard (Harvard University; đám ngu xuẩn khoác áo Harvard này đã bị Nga ngố cấm cửa từ năm 1990, trong khi Vịt cạp thì lại được tung lên tận mây xanh). Ông ta thậm chí còn thú nhận tội ác không bao giờ làm chỉ để xoa dịu đám Do Thái -Tây, cho dù vẫn ủng hộ mạnh mẽ Palestine vì thấy ghét Zionist.

    Sai lầm của Gaddafi là, phá hủy chương trình Nuke của mình (nếu ông ta có dù chỉ một quả thì lũ chúng nó đã không bao giờ dám tấn công) và mở cửa cho đám NGO và University vào để nhồi sọ dân chúng trong nước, cho chúng sang Tây nhồi sọ kỹ nghệ hút sách ma túy và ăn chơi. Giờ tất cả đã thành một lũ bại não sủa theo hiệu lệnh chủ Tây rồi thì ông còn có thể làm gì? Lẽ ra ông cũng phải biết điều này, hay là ông làm điều này chính vì áp lực của một số trẻ ăn chơi nhà ông?

    Giờ thì chỉ còn cách đếm hậu quả.

    Nếu như... nếu như là dưới trướng Trung Quốc thay vì đám Do Thái, thì tình trạng ngày nay có lẽ đã tốt hơn. Vẫn sẽ có các cuộc cách mạng nhưng sẽ không bạo lực hơn so với các cuộc cách mạng đã nổ ra. Bất kỳ hoàn cảnh nào mà người Hồi giáo là giết người Hồi giáo là khúc nhạc ưa thích đến tai đám Do Thái. Chúng yêu thích mỗi phút của nó.

    Syria và Iran có lẽ sẽ sống còn nhưng họ phải xích lại gần nhau hơn và gần với Nga cũng như Trung Quốc. Libya cũng sẽ tồn tại nếu như họ có sự giúp đỡ từ Nga và Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc.

    TG: Bulov
  7. Freedom_Fighter

    Freedom_Fighter Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/03/2011
    Bài viết:
    725
    Đã được thích:
    0
    Bài tuy hay nhưng quá phiến diện, mang sặc mùi bài Do thái của chủ nghĩa cực đoan mới (có thể lão Bulov tác giả bài này liên hệ gì đó với bọn Neo-Nazi chăng)

    Nếu như... nếu như là dưới trướng Trung Quốc thay vì đám Do Thái, thì tình trạng ngày nay có lẽ đã tốt hơn. Vẫn sẽ có các cuộc cách mạng nhưng sẽ không bạo lực hơn so với các cuộc cách mạng đã nổ ra. Bất kỳ hoàn cảnh nào mà người Hồi giáo là giết người Hồi giáo là khúc nhạc ưa thích đến tai đám Do Thái. Chúng yêu thích mỗi phút của nó.

    hô hô hóa ra cũng lại muốn làm nô lệ à !!

    Syria và Iran có lẽ sẽ sống còn nhưng họ phải xích lại gần nhau hơn và gần với Nga cũng như Trung Quốc. Libya cũng sẽ tồn tại nếu như họ có sự giúp đỡ từ Nga và Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc.

    Vậy câu trên là bản lề cho câu dưới, hóa ra muốn dân Hồi thay tự do Mỹ = pháp quyền Nga Tàu à !!

    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Tôn giáo: Đạo hồi vs đạo Do Thái. Đạo Do Thái thờ Davis, lấy biểu tượng sao 6 cánh, chi tiết về Davis thì ai chịu khó xem Kinh Cựu Ước nhé.

    Đất thánh: Jerusalem là đất thánh của Do Thái giáo, Hồi và Thiên chúa giáo. Do thái giáo và thiên chúa chung Kinh thánh (Kinh cựu ước nhưng Thiên Chúa có thêm Kinh Tân Ước). Vì là đất thánh nên 3 đạo trên đánh nhau hơn 1000 năm để chiếm đất thánh (Có hơn 1 chục cuộc Thập Tự Chinh của Thiên chúa, v.v các cuộc đánh nhau khác nữa...).

    Thế kỉ 16, Thiên Chúa tách thành Tin Lành và Kitô, Tin Lành chỉ học theo Kinh Tân Ước phát triển ở Anh và các thuộc địa của Anh (Mĩ, Úc...), còn Ki tô theo đường lối cũ phát triển ở Nga và mấy nước Đông Âu theo đường cũ tức theo cả Kinh Cựu và Tân Ước. (Phân biệt 2 đạo thiên chúa nè: Tin lành lấy cây thập tự 2 gạch như ta thấy ở khắp nơi còn Ki tô lấy 3 gạch, tớ mô tả thánh giá 3 gạch tức là 1 gạch dọc và 2 gạch ngang)


    Trong Thế chiến 2 người Do thái bị truy sát tương đối mạnh phần chết trong trại tập trung, phần chạy tứ tán (sắc dân này cũng phiêu bạt tứ xứ ở Châu Âu - thường gọi là Digan ) Hội quốc liên (hay Liên hiệp quốc mới có một quyết định giúp đỡ cho sắc dân này có một trại (nơi sinh sống) để qui tụ những người Do Thái (Digan) đang còn lang thang khắp nơi lại. Lúc đó Yaser Araphat đang là chủ tịch hay tổng thống Palestin đã đồng ý sang nhượng hay cho muợn chi đó 1 khu đất (phía Bắc Palestin thì phải) của mình theo nghị quyết của liên hiệp quốc. Bản chất của người Do Thái vốn cần cù ,lanh lợi ,thông minh ... lại được Hoa Kì và các nước Phương Tây giúp đỡ nên nó phát triển rất nhanh và mạnh đến nỗi" Khách biến thành chủ "

    Họ liên tục mở rộng bằng vũ lực lan xuống phía nam đói đầu với cả thế giới Hồi Giáo, o ép và đuổi cả những Ông chủ ra khỏi đất của mình để thành lập nhà nước Ixrael ngày nay. Kể cả Araphat cũng phải lưu vong (cho nên rất dễ hiểu những ngày cuối cùng của Araphat dứt khoát không chịu rời khỏi dinh tổng thống mặc dù nguy hiểm như một lời tạ lỗi vì sơ suất của mình "trót" tin LHQ và người Do Thái "

    Coi LHQ chẳng là cái "đinh" gì vì đứng sau chống lưng có Mĩ và Phương Tây rồi ...nên các giải pháp như đổi đất lấy hòa bình vv.. vẫn không có mấy hiệu quả. Nhất là từ khi sở hữu các "hàng nóng " và kinh tế đã mạnh lên thì ngay cả Mĩ cũng phải ngại thằng em Do Thái khó bảo. Và cũng hiển nhiên rằng cuộc chiến tranh về đất đai , tôn giáo vẫn sẽ chẳng có hồi kết ở khu vực này. Còn những người anh em Hồi Giáo thì cho rằng chính Mĩ nuốt lời dàn xếp của LHQ là thủ phạm dung dưỡng nuôi béo tạo điều kiện cho thằng em Ixrael đánh những đồng minh hồi giáo của họ


    Tuy vậy cũng chỉ là con người cả thôi, đều vì quyền lợi, tôi vẫn luôn luôn quý trong người Do Thái
  8. SSX109

    SSX109 Guest

    Tổ chức Giám sát nhân quyền - HRW: Lịch sử và Mục đích

    Lần đầu tiên khái niệm rõ ràng, cắt nghĩa cho tuyên bố các tiền bối Mỹ về vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ được TT Woodrow Wilson đưa ra đầu thế kỷ XX. Khái niệm này đề ra 3 giá trị Mỹ quan trọng mà nước Mỹ phải “chèo lái” ra phần còn lại của thế giới: địa cầu, thị trường và dân chủ. Nhưng cho đến tận WW-II, ý tưởng “tự do” vẫn không có khả năng phổ biến rộng và được ủng hộ ở xã hội Mỹ. Sau chiến tranh, tư tưởng định mệnh cứu thế và độc nhất Mỹ, Tin lành tự nhiên đã được “gia cố” quan trọng từ những kẻ mang giáo điều “Chúa chọn” khác dựa trên tôn giáo Judaic. Số lượng ít (6-8 triệu) nhưng tầm ảnh hưởng cao độ, cộng đồng DT Mỹ trong thập kỷ 70 đã chiếm lĩnh hàng đầu Mỹ trong kinh doanh, tài chính, khoa học, luật gia, truyền thông, những năm gần đây chiếm nốt CP Mỹ, QH Mỹ, Tòa án Mỹ,CQ Liên bang. Do đó mà chẳng phải tình cờ, số lượng lớn các đức tin Mỹ lại quay lại - như TG viết: "Càng không dung tha cổ điển Cựu ước và đức tin vào dân tộc chúa chọn hơn là phổ biến Tân ước, gần với khiêm tốn và ăn năn Cơ đốc hơn”.

    Ngay khi Mỹ tiến ra “mức độ quốc tế”, thì cũng là lúc gia tăng sự mở rộng cái tuyên bố của họ về vai trò lãnh đạo thế giới và vai trò “cứu tinh” nhân loại khỏi đủ mọi loại “thách thức”. Sau WW-II, khi Mỹ trở thành quốc gia đầy sức mạnh về chính trị, kinh tế, kỹ thuật, quân sự của thế giới phi xã hội. Mỹ bắt đầu cho rằng mình đúng là thượng đẳng trên tất cả các quốc gia, các dân tộc khác, không chỉ ý niệm tôn giáo mà còn văn hóa và văn minh. Mỹ lúc này bắt đầu đóng vai trò kẻ bảo lãnh “tự do dân chủ” toàn cầu và phổ biến giá trị Mỹ ra khắp thế giới.


    Bốn khái niệm cơ bản trong chính sách đối ngoại Mỹ

    Liên Xô đối với tầng lớp thống trị Mỹ không đơn giản chỉ là quốc gia thù địch hay xa lạ với Mỹ, xét trên các nguyên lý xã hội, kinh tế, chính trị và tư tưởng. Người Mỹ hiểu đó như một nền văn minh khác, và khi mà Liên Xô tỏ ra không thừa nhận tuyên bố bá chủ Mỹ, kiểu mẫu Mỹ và vai trò lãnh đạo thế giới Mỹ. Giới tài phiệt thống trị Mỹ không thể chấp nhận Liên Xô cả như một thực thể lớn và cả như mối đe dọa đến nước Mỹ, do đó chúng bằng mọi cách phải phá hoại Liên Xô hay ít nhất cũng phải làm cho Liên Xô chỉ có thể đứng thứ 2. Tương tự như Nhật Bản, cuối thập kỷ 80 Nhật đang đà vươn lên là nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới, thì chúng đánh sập đồng yên và gây khủng hoảng Nhật bằng các thủ đoạn tiền tệ năm 1987.

    Tuy nhiên, các nhóm tài phiệt Mỹ khác nhau có các phương pháp ưa thích khác nhau để quét sạch “toàn trị CS” ra khỏi thế giới. Hai phái thống trị lớn nhất Mỹ sau WW-II: tự do (đ. Dân Chủ) và bảo thủ (đ. Cộng Hòa) có cách hiểu, tiếp cận và định đoạt khác nhau trong việc đối nội và vấn đề kinh tế. Nhưng đối ngoại, cho đến tận ngày nay thì 4 khái niệm cơ bản, tương ứng với 4 loại chủ nghĩa vẫn là “hiện thực” ở Mỹ, cho dù là phe nào cầm quyền: biệt lập, thực dụng, can thiệp và quốc tế.

    Biệt lập: người cầm đầu khái niệm này ngày nay là Pat Buchanan bên CH. Khẩu hiệu của nó là “Mỹ đầu tiên và trên hết”. Tuy nhiên, trước WW-II thì khái niệm này phổ biến hơn ngày nay. Sau WW-II nó mất dần ảnh hưởng khi Mỹ can dự vào chiến tranh thế giới và Liên Xô xuất hiện. Khi Liên Xô tan rã nó lại nổi lên 1 lần nữa và gây tranh cãi trong một bộ phận CH-thủ cựu. Những người theo khuynh hướng biệt lập thường hay chỉ trích tuyên bố tham vọng thống trị thế giới của Mỹ và hối thúc Mỹ không can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia khác, giới hạn chính sách ngoại giao trực tiếp vào việc bảo vệ lợi ích Mỹ.

    Thực dụng: khái niệm này cũng có sự khác nhau giữa thực dụng CH và thực dụng DC, gắn với đường lối ngoại giao thịnh hành trong thập kỷ 60-70 và cùng chia sẻ ý tưởng sau WW-II, nước Mỹ trên nguyên tắc là người bảo lãnh và che chở của “thế giới tự do”. Do vậy mà khi mối đe dọa lớn nhất đối với lợi ích Mỹ được nhìn nhận là Liên Xô và CS Trung Quốc, nhận thức được hậu quả của chiến tranh hạt nhân đối với Mỹ và thế giới, cho nên cả hai nhánh thực dụng đã có chung chính sách hợp tác hòa bình, như đề xuất về vai trò lãnh đạo của Liên Xô trong những năm giữa thập kỷ 50. Hòa giải và mở cửa với TQ thập kỷ 70. Thiết lập quan hệ kinh tế, chính trị văn hóa với LX và TQ.

    Khác biệt của 2 phái thực dụng CH và thực dụng DC là, phái CH thực dụng và dân tộc thành chủ nghĩa hơn phái DC, không tự đặt cho mình vấn đề toàn cầu thay đổi thể chế chính trị ở các quốc gia khác. Mức độ thù địch với các quốc gia CS không xác định dựa trên mức độ toàn trị hay cạnh tranh, cụ thể là địa chính trị đối với LX và TQ, kinh tế đối với LX, Czech, Đông Đức. Việc phê phán chính sách đối nội các quốc gia CS không chỉ dựa trên vấn đề vi phạm nhân quyền mà dựa trên sự kém phát triển, mức độ dân chủ, thương mại tự do, quan hệ tư bản-thị trường, cũng như thái độ với tôn giáo.

    Chủ nghĩa thực dụng (CNTD) là chính sách đối ngoại của phe CH, thể hiện ở sự ủng hộ của CQ Mỹ đối với các “chế độ áp bức”, nếu các chế độ này thực hiện chính sách đối ngoại theo Mỹ, hay cung cấp, tạo điều kiện thuận lợi để các công ty Mỹ đầu tư và làm ăn. Đối với các tổ chức quốc tế như UN hay OSCE (An ninh và hợp tác châu Âu), CNTD cũng chỉ coi là công cụ sử dụng cho các mục đích quốc gia Mỹ, vì thế phe CH dễ dàng vi phạm hay phá vỡ các thỏa thuận quốc tế, sẵn sàng can thiệp quốc tế hay gây chiến nếu như như điều đó mang lại lợi ích cho Mỹ. Điển hình của CNTD cộng hòa bảo thủ chính là Do Thái Henry Kissinger thời chiến tranh Việt Nam.

    DC thực dụng thì định hình chính sách đối ngoại sao đó để bảo vệ lợi ích quốc gia mà không va chạm với các giá trị chung theo hiểu biết của họ. Do vậy mà, ông TT DC John Kennedy tuyên bố bảo vệ triết lý Mỹ về tự do và nhân quyền còn DC bảo thủ thì chẳng cần phân biệt các chế độ độc đoán toàn trị kiểu “cánh tả thân Nga” hay “cánh hữu thân Mỹ”. Điều đó cho họ lý do cực hữu để tin rằng hầu hết DC cấp tiến đều là gián điệp CS. Chỉ trích các chế độ CS, phe DC ít tập trung vào hệ thống chính trị “phi-dân chủ” hay vấn đề thị trường tự do mà tập trung vào vi phạm nhân quyền: tự do ngôn luận, hội họp lập hội, cư trú…

    Không như CH bảo thủ thẳng thắn tuyên bố lợi ích quốc gia Mỹ là ưu tiên vô điều kiện, trên cả các tổ chức và thỏa thuận quốc tế. Phe DC lại nhấn mạnh ưu thế của luật lệ và thỏa ước quốc tế như Thỏa ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights), Tuyên bố chung về quyền con người (Universal Declaration of Human Rights). Tương tự, phe DC ủng hộ luận điểm hạn chế độc lập của tất cả các quốc gia kể cả Mỹ, ưu tiên nhân quyền trên độc lập quốc gia. Hậu quả là luận điểm này đã phát triển thành “can thiệp nhân đạo” như ở Nam Tư, Đông Ti-mo, Sierra Leone. Phe DC có John Kennedy, Jimmy Carter, Bill Clinton, Edward Kennedy, John Kerry…


    Can thiệp: hay chủ nghĩa can thiệp còn gọi với cái tên khác là “diều hâu”. Khởi đầu vào giữa thập kỷ 70, một nhóm trong phe CH, chủ yếu là phe CH nhưng cũng có cả bên DC như nghị sĩ Henry Jackson hay Jacob Javits. Phải nói là chủ nghĩa can thiệp có từ trước mà lãnh đạo là nhóm CS Do Thái Trotskist những năm 30-40, là Do Thái toàn tòng Irwing Kristol, Norman Podhoretz, Sidneu Hook, Frank Mayer.

    CNCT đã phê phán mãnh liệt CQ dân chủ thời Carter vì “tư tưởng hão huyền” và CN không tưởng trong vấn đề “mối đe dọa CS” cũng như chính sách “giải trừ quân bị” khi phải đương đầu với cuộc tấn công của thế giới CS vào “thế giới tự do” mà đứng đầu là Liên Xô. Phái can thiệp CH thì chỉ trích lập trường “phòng thủ”, chính sách thương mại và hợp tác kinh tế với các quốc gia CS thuộc “đế chế quỉ dữ”.

    Tư tưởng gây hấn chiến tranh của CNCT thường mang các biểu hiện của tôn giáo truyền thống dựa trên Ki-tô, tiêu biểu là “CS” là hệ tư tương vô thần, còn LX là hiện thân rõ rệt của “đế chế quỉ dữ”. Do vậy mà Chiến tranh lạnh với LX mang đặc điểm của một cuộc thập tự chinh và là sự giao phó cho CNTB. Khát vọng thống trị của CNCT được mang vỏ bọc đạo đức và tôn giáo.

    Bước vào cuối thập kỷ 70, CNCT từ Irwing Kristol bắt đầu có cái tên "tân-bảo thủ” hay tân diều hâu. Một số trong bọn chúng như Paul Wolfowitz, Jeane Kirkpatrick, Donald Rumsfeld, Douglas Feith, Elliot Abrams, Richard Perle, Abram Shulsky vào đầu những năm 80 đã tham gia vào CQ Ronald Reagan mặc dù không nắm giữ những vị trí quan trọng. Cho đến thời CQ Bush, chúng đã nắm giữ hầu hết các vị trí quyết định để phát động can thiệp toàn cầu đội lốt “chống khủ ngbố”.

    [​IMG]

    Quốc tế: dân chủ cánh tả và phái XHCN thuộc đ. DC, các thành phần phi đ. phái và đ. Xanh cũng gia nhập cái chủ nghĩa quốc tế này, tuy nhỏ nhưng hoạt động tích cực trong lĩnh vực thanh niên, sinh viên. Mặc dù hầu hết phủ nhận mình không phải là Mác-xít nhưng trong nhiều hoạt động chính trị có chung mục tiêu với phong trào CHXH và các đ. phái ở Mỹ Latinh, Cuba, Sandinistas, Nicaragua, El Salvador và nhóm cánh tả Colombia. Các nhà quốc tế chủ nghĩa Mỹ lên án đế quốc Mỹ ủng hộ các chế độ độc tài, lên án bóc lột các nước thế giới thứ 3 và phản đối chạy đua vũ trang… tiêu biểu là Noam Chomsky và Alexander
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} [FONT=&quot][/FONT]Coc kburn.
  9. SSX109

    SSX109 Guest

    "Vấn đề Do Thái” tại Liên Xô thập kỷ 70-80

    Phong trào hồi hương về Israel của DT Xô viết (DTXV) trở thành yếu tố quan trọng làm Mỹ càng tăng cường mối quan tâm vấn đề nhân quyền ở Liên Xô thập kỷ 70. Cần nhắc lại là 2 cuộc hồi hương/di cư lớn của DT châu Âu là trong/sau WW-II và thập kỷ 70-80, đã có hàng triệu DT di cư mỗi đợt như vậy.

    Xét xử các vụ “tự làm phi công” cướp máy bay hồi hương ở Leningrad và Riga làm dấy lên các cuộc biể utình rầm rộ của DT Mỹ yêu cầu CQ Xô viết “hãy để đồng bào của tôi ra đi!” Cuộc đấu tranh của DTXV đòi hồi hương được tiếp ứng từ Israel, DT bắc Mỹ, tây Âu. Israel nhắc lại “hậu quả” DT chống Ai-cập 1967 và giúp đỡ người DT “cự tuyệt” trở thành mối quan tâm và khoan dung của mỗi người DT.

    Trong quá trình đấu tranh tìm “lối thoát” cho DTXV, ở rất nhiều bang bên Mỹ Do Thái cải tiến tự do (một nhánh cải lương của đạo Judaism) đã thành lập “Hội đồng bảo vệ DTXV”. Năm 1972, hội đồng kiểu này đã liên kết với Liên minh các hội đồng DTXV bao gồm cả các “hội đồng” từ Anh, Mỹ, Canada. Mỗi “hội đồng” có trách nhiệm cung cấp tài chính, tin tức, sự ủng hộ chính trị và tinh thần cho một số DTXV di cư, ghi tên họ thành một danh sách đặc biệt trình lên TT Mỹ và Q. hội. Đến cuối thập kỷ 70, gần như ở mỗi bang Mỹ đã hình thành một “hội đồng” có đến vài trăm DTXV.

    Sau Hội đồng bảo vệ ở Mỹ là Hội nghị quốc tế DTXV, tổ chức này có liên hệ gần về tư tưởng và tài chính với Israel. Năm 1972 lại một hội đồng nhà khoa học DT được lập chuyên về giúp đỡ các khoa học gia DTXV di cư. Những người có bằng cấp, dù là bị ngược đãi ở LX, bị thải hồi, hay phạm tội đều được khuyến khích và giúp đỡ di cư.

    Năm 1974, một số tổ chức sinh viên DT đã tổ chức biể utình phản đổi để bảo vệ DTXV, các tổ chức này ở Mỹ thường là biể utình ngồi trước lãnh sự LX tại Mỹ. Cuối cùng, tổ chức luật sư là Ủy ban luật sư về nhân quyền đã được lập tại New York năm 1978 để giành sự trợ giúp cho DTXV nhập cư vào Mỹ. Tổ chức luật sư này toàn là dân DT.

    Ở trung tâm của truyền thông Mỹ mà hầu hết đều do dân DT nắm như New York Times, Washington Post, Los Angeles Times, San Francisco Chronicle, Wall Street Journal, New Republican, Newsweek, US News và World Reports – vị trí của DTXV ví như vị trí của người da đen miền nam nước Mỹ trước khi chấp nhận luật cấm phân biệt đối xử. Một chiến dịch khổng lồ đã đem lại kết quả: bắt đầu thập kỷ 80, cuộc đấu tranh để di cư DTXV từ LX đã không chỉ gây sự chú ý của cộng đồng DT Mỹ mà còn cả các nhà lập pháp Mỹ không DT, cả những người theo Tin lành có truyền thống tin tưởng “dân tộc chúa chọn” và coi việc DT di cư đến Israel là lối thoát thánh kinh.

    Hoạt động quần chúng, nỗ lực lôi kéo ảnh hưởng của truyền thông, vận động hành lang đã làm cho CQ R. Nixon thực dụng, QH Mỹ năm 1974 chấp nhận luật bổ xung của nghị sĩ chủ trương can thiệp Jackson&Venika. Áp đặt Jackson&Venika trong quan hệ thương mại với LX vì chính sách di cư của LX chống người DT chứ không phải vì LX thù nghịch hay vì LX ủng hộ VN đánh Mỹ.

    Đó là sắc lệnh đầu tiên của CQ Mỹ được đem ra sử dụng, đổi một vấn đề nội bộ của LX thành vấn đề chính trị và đối ngoại.
  10. SSX109

    SSX109 Guest

    Tổ chức Giám sát nhân quyền - HRW: Lịch sử và Mục đích


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Mục đích vẫn vậy, nhưng biện pháp thì khác

    Năm 1975, trong cuộc họp của các lãnh đạo hàng đầu các nước châu Âu, Mỹ và Canada tại Helsinki, Thỏa thuận Helsinki giữa các quốc gia châu Âu đã được ký kết và như vậy, Liên Xô đã thừa nhận nó là "hợp pháp". Đổi lấy sự nhượng bộ từ NATO, CQ Liên Xô đã đồng ý bao gồm trong Thỏa thuận điều khoản bổ xung, bắt buộc với tất các các nước ký kết, là giám sát nhân quyền theo cách hiểu của Tuyên bố chung về quyền con người. Với hiệp định này, LX đã chuyển đổi vấn đề quyền con người từ công việc nội bộ thành vấn đề liên quốc gia, và những chỉ trích của các chuyên gia pháp lý phương tây về hành vi xâm phạm nhân quyền tại Liên Xô thay đổi về cơ bản, nó trở thành chính đáng và hợp pháp.


    Hơn nữa, các chỉ trích hợp pháp không còn bị coi là tuyên truyền thù địch như những tuyên truyền từ quan điểm “lợi ích Mỹ”, các chuyên gia hoạt động nhân quyền bắt đầu thể hiện quan điểm trước thế giới không còn như những người bảo vệ lợi ích Mỹ mà như những nhà bảo vệ quyền con người.

    Jimmy Carter (phe DC) bước vào Nhà Trắng với tuyên bố lấy vấn đề bảo vệ nhân quyền làm yếu tố trung tâm trong chính sách đối ngoại, áp lực thông tin và tư tưởng lên các nhà lãnh đạo Liên Xô đã tăng lên. Vấn đề quyền con người đã không còn là mối quan tâm của "thế giới bảo vệ nhân quyền" nhưng đã được thêm vào kho vũ khí của chính phủ Mỹ. Nhưng điều này không có nghĩa là trong những năm 1970, một mặt là US Helsinki Watch và Hội luật sư nhân quyền, mặt khác là CP Mỹ và các tổ chức nửa chính thức của Mỹ như CIA, Rand Corp, hoặc Hội đồng Quan hệ đối ngoại (CFR) chuyên nghiệp về xô viết và các tổ chức khác lúc này, đã thu xếp để có chung hành động. Mặc dù CQ của phe Dân chủ, các nhà hoạt động nhân quyền tự do có chung những nhiệm vụ cụ thể - ví dụ để tạo ra ở Liên Xô một cơ sở địa chính trị cần thiết về ý thức hệ để thay đổi cấu trúc kinh tế/chính trị - thì các tổ chức này vẫn hiểu những nhiệm vụ một cách khác nhau.

    CQ dân chủ Jimmy Carter với cố vấn TT người DT Zbigniew Kazimierz Brzezinski về an ninh quốc gia đã cân nhắc đến việc truyền bá tư tưởng “tự do ngôn luận, nhân quyền và dân chủ” trong bối cảnh chung của cuộc đấu tranh tư tưởng của phương Tây với “CNCS quốc tế” và sự đối lập địa chính trị giữa LX và Mỹ.


    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Theo đó, tuyên truyền ý tưởng nhân quyền được nhóm “nhân công” của “mặt trận tư tưởng” tiến hành (chúng gồm: Freedom House, Rand Corp, Hội đồng quan hệ đối ngoại-Council for Foreign Relations, Viện nghiên cứu Mỹ về hòa bình-US Institute for Peace, Đài phát thanh Tiếng nói Mỹ- Voice of America, Đài phát thanh Tự do và nhiều tổ chức chính phủ, viện nghiên cứu khác) với mục đích tạo ra ở LX và đông Âu các điều kiện “chủ quan” thuận lợi để thay đổi kinh tế-chính trị theo hướng có lợi cho Mỹ.

    Các nhà dân quyền phương tây mang tư tưởng tự do, mà nhiều trong họ có chung quan điểm chống tư bản và thậm chí là thân CNXH, coi việc “giới thiệu” những tư tưởng chung về nhân quyền tại LX như là yếu tố cần thiết để đấu tranh vì “giải phóng toàn nhân loại”, một dạng hoạt động truyền giáo. Cùng lý do như thế, họ muốn bảo vệ nhân quyền tại tất cả các nước trên thế giới, bất kể thể chế chính trị và khuynh hướng của các nước. Nói cách khác, nhà dân quyền Mỹ không xuất hiện chỉ như các công dân Mỹ lo lắng cho quyền lợi của người Mỹ mà như người bảo vệ cho nhân loại toàn thế giới. Cánh dân quyền này, thường được công chúng Mỹ gọi bằng cái tên “phe tự do toàn cầu- liberal cosmopolitan”.

    Cũng không thể quên, rất nhiều nhà dân quyền phương tây và Mỹ, kể cả các thành viên US Helsinki Watch (Catherine Fitzpatrick, Aryeh Neier), đã tham gia rất mạnh mẽ vào phong trào chống chiến tranh, lúc đó đã lan rộng ra toàn thế giới đầu những năm 1980.

    Sự không nhất quán mục tiêu giữa CQ Mỹ và các nhà dân quyền Mỹ trở nên rõ rệt sau khi R.Reagan lên nắm quyền. Là một tân diều hâu với chủ trương can thiệp, Reagan thực hiện chính sách gây áp lực lên LX và các nước theo XHCN, sử dụng “tiêu chuẩn kép” trong vấn đề bảo vệ nhân quyền. Như miệng lưỡi Jeanne Kirkpatrick, đại diện Mỹ tại LHQ tuyên bố rằng Mỹ sẽ phê phán nhẹ nhàng vi phạm nhân quyền ở các quốc gia mà “quyền lực” là đúng đắn, và chỉ trích mạnh mẽ hơn cũng vấn đề đó ở các quốc gia theo chế độ “cánh tả”.

Chia sẻ trang này