1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

An Dương Vương

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Ledung18, 24/02/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. gocLe

    gocLe Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2006
    Bài viết:
    183
    Đã được thích:
    0
    Báo cáo với bác là suy nghĩ trên, được tô vàng, có vẻ đơn quản quá và rất dễ làm người khác có ý nghĩ không tốt. Không phải vì cái tên Trương Thái Du hay Trần Quốc Vượng mà người có chút hiểu biết về hoạt động khoa học tin hay không tin những gì có trong bài viết mang hai cái tên đó. Uy tín chuyên môn dĩ nhiên cũng quan trọng, nhưng quan trọng hơn nữa là cung cách lập luận hay trình bày, chẳng hạn trình bày một chuyện gì đó có tính xác thực hay không.
    Tớ có một cuốn sách có ghi chú tác giả nào đã chỉ ra việc An Dương Vương được nhắc đến đầu tiên trong Giao Châu Ngoại Vực Kí, tớ cũng có một đọc một bài viết nhờ đó tớ biết sử gia Lê Mạnh Thát có viết một câu tạo ấn tượng là nguyên văn câu Hậu Hán Thư chỉ là "quận Giao Chỉ có 12 thành". Thế nhưng một số sự kiện khác khiến tớ nghĩ là thư tịch Trung hoa rất có thể đã nhắc đến An Dương ngay từ khoảng thế kỉ 5.
    Việc thư tịch TH nhắc đến sớm hay muộn 1, 2 thế kỉ hoàn toàn không có chi quan trọng trong cái nhìn của tớ về An Dương Vương, vì tớ đọc được những lập luận gián tiếp cho thấy là các tác giả tàu chỉ chép lại truyện An Dương theo những gì họ nghe biết từ người Việt xưa, khác với quan điểm của bác rằng truyện này có trước trong thư tịch Tàu sau đó dân ta mới biết đến rồi pha chế thế này thế kia.
    Sở dĩ tớ viết như đã viết lần trước là do không có hiểu biết về vấn đề văn bản học của Hậu Hán Thư. Cụ thể, trước khi được bổ chính v.v. vào đời nhà Thanh, và ngay sau Phạm Việp hoàn thành tác phẩm này, có hay không có những ghi chú thêm vào cho rõ nghĩa, nhưng sử gia đời nay, để ăn chắc, không nhắc đến ghi chú đó, trong khi TQV nói khác vì có những lí do để ông nghĩ khác, một điều cần phải tìm đến tận các bài viết năm 1969 của ông mới biết được.
    Nói ra chỉ để thấy, thiên hạ không đơn giản tin hay không tin một chuyện gì chỉ vì chuyện đó được ông này bà kia nói ra. Và khi trình bày trong bài viết mà link trên dẫn tới có vẻ rất xác thực, thiên hạ phải tạm tin rằng TQV có lí do để nghĩ khác với các tác giả tây, ta đã nói tác phẩm nhắc tới An Dương Vương đầu tiên - cho đến khi có lập luận cho thấy ông nói sai.
  2. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Trả lời bác Ledung18:
    - Về các tài liệu cổ TQ và VN nhà em ko có ý kiến, đó là nghiên kíu của Trần Quốc Vượng, nguồn đã đưa lên, bác có thể tham khảo thêm ở link do bác gocLe post.
    - Trần Quốc Vượng, Đào Duy Anh, Trương Thái Du ai đưa lên ko quan trọng, người nào nói năng có căn cứ, ko suy luận bừa bãi thì nhà em tin, thí dụ phản biện của bác về nguyên bản Hậu Hán Thư khá hợp lý, tuy nhiên thời Càn Long có vụ san định lại toàn bộ sách vở cổ, sách gốc bị huỷ rất nhiều, e rằng link mà bác đưa ra đều là sách đã san định lại. Bác có thể chứng minh thêm việc An Dương Vương được ghi trong bản gốc hay phần ghi thời Càn Long ko?
    - Về các nghiên kíu tại thực địa, đây mới là cái nhà em tin cậy nhất, bác có phản biện gì ko? Bên cạnh cấu trúc tường thành, ở Cổ Loa còn đào được vô số hiện vật đủ loại nữa, đấy là mới chỉ đào 1 tí vì thiếu kinh phí thôi đấy. Những hiện vật này hiện vẫn được bày đầy tại Cổ Loa và Viện Bảo tàng LS VN và chúng đều khác hoàn toàn với các hiện vật gốc TQ, kể cả gốc Nam TQ, bác có thể tham khảo 1 số topic cũ ở box này để xem hình, sau đó bác hãy đưa ra các suy luận mới cũng ko muộn. Sở dĩ em khuyên như vậy vì 1 người trong gia đình ở Pháp trước đây cũng có nghiên kíu cổ sử VN theo cách tương tự bác, 1 số suy luận ông đưa ra cũng giống bác, cãi thế nào cũng ko nghe, chỉ đến khi về VN, đi thăm Viện Bảo tàng LS 1 lần duy nhất là ông ấy dzục tất tần tật những nghiên kíu của mình vào sọt rác, hy vọng bác ko đến nỗi cực đoan thế.
    Quả thật là dân sử trong nước quá kém trong việc đưa các nghiên kíu, hình ảnh lên mạng để những người ko có điều kiện đến bảo tàng dễ đi đến những ngộ nhận. Mong rằng những topic như thế này sẽ giúp phần nào cho những người có lòng với lịch sử VN. Cái này thì phải chân thành cảm ơn bác.
    Chào thân ái và quyết thắng!
  3. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Các sách Hoài Nam Tử (của Lưu An), Sử Kí (của Tư Mã Thiên) là những sách sử đầu tiên ở TQ gần như cùng thời An Dương vương nhưng không nói đến vùng đất Bắc bộ Việt Nam. Họ chỉ viết là:
    Trong Sử Kí: Tây Âu Lạc là xứ cởi trần mà cũng xưng làm vua. Triệu Đà dùng tiền của đút lót các nước Tây Âu Lạc, Mân Việt để bắt họ thần phục. (Chương "Nam Việt uý Đà liệt truyện").
    Trong Hoài Nam Tử có viết là về cuộc xâm chiếm của quân Tần trên đất Lưỡng Quảng ngày nay, giết quân trưởng Tây Âu (Quảng Tây). Người Tây Âu bầu người kiệt tuấn lên thay. Người đó là An Dương vương.
    Có điều lạ là Lưu An, Tư Mã Thiên không ai nhắc đến thành Cổ Loa, nếu như thành Cổ Loa ở Quảng Tây thì không nhắc đến là điều lạ? Còn lạ hơn, An Dương vương theo lời Lưu An thì rõ ràng ở Quảng Tây, tại sao bây giờ ở Bắc Bộ Việt Nam lại có truyền thuyết và có đền thờ, mà ở Quảng Tây bây giờ lại không có truyền thuyết và đền thờ nào, ít ra cũng phải có nhắc đến cái thành Cổ Loa, với "nỏ thần" chứ?
    Các sách như Giao Châu Ngoại Vực Kí, Thuỷ Kinh Chú sau này là của các tác giả sau thời Mã Viện, họ đến du lịch ở Bắc bộ Việt Nam (tức là quận Giao Chỉ thời Đông Hán, Giao Châu thời Đông Ngô), họ lại ghi An Dương vương và thành Cổ Loa.
    Các bác lí giải tại sao lại thế xem?
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 17:42 ngày 03/03/2007
  4. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Tôi cũng đã tìm hiểu rất nhiều tài liệu khảo cổ, và nói nghiêm túc tôi không tin. Sử học VN đã dựng nên những kiểu hình tượng đương thời sáng ngời như LÊ VĂN TÁM, thì làm sao tin được họ nữa.
    Tôi tiếp cận bằng cách khác, tìm hiểu nghĩa của địa danh, qua đó xác định thực tế, phủ nhận những gì bịa đặt.
    Giao Chỉ, Tượng quận, Cửu chân, Nhật nam đều là khái niệm liên quan đến thiên văn, liên quan đến sự quan sát từ kinh đô Trung Quốc. Do đó nó sẽ phủ nhận sự có mặt của các đoàn quân Tần - Hán viễn chinh trước công nguyên đến đồng bằng sông Hồng. Nói cách khác, Triệu Đà có đụng độ với An Dương Vương ở Tây Âu Lạc hiển nhiên phải đụng độ ngoài VN, tức Quảng Tây.
    Đụng đến vấn đề này là đụng đến chính trị... Người TQ sẽ không bao giờ cho phép khảo cổ VN tìm thành Cổ Loa ở Quảng Tây.
    Chữ Thành (trì), phải hiểu cách đây hơn 2000 năm nó như thế nào. Vương quốc Nam Việt tập quyền hùng mạnh, để lại mộ táng xa hoa như của Văn Vương tại Quảng Châu, mà cũng chỉ có 1 cái thành tựa như lũy (mô tả trong Sử Kí, người trong thành chạy ra hàng rồi lại vào thành chiêu dụ người khác hàng theo...)
    Với chế độ xã hội chậm tiến hơn, liệu An Dương Vương có thể xây dựng một thành trì như tài liệu bạn dẫn mô tả không? Tư tưởng duy ý chí đến vô lí...
  5. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Vụ Lê Văn Tám hay chính trị, tư tưởng chẳng có liên quan gì đối với những vấn đề cách đây 2000 năm cả. Thành của Triệu Đà thế nào em ko rõ và e rằng chính bác cũng chẳng rõ nó thế nào ngoài 1 dòng ngắn ngủi trong Sử Ký nhưng thành Cổ Loa thì nó vẫn lù lù ở Đông Anh, ngoại thành HN, ảnh chụp các thể loại tường thành của nó bác có thể search trên mạng nếu bác ko có điều kiện đến xem trực tiếp. Nếu bác nghĩ rằng bằng mấy cái suy luận từ ngữ nghĩa từ vựng cổ mà chính bác cũng còn đang tìm tòi xem nó thực sự được viết thế nào để đòi đánh đổ các bằng chứng đào được tại thực địa thì e là rất khó khăn cho bác.
    Về các nghiên kíu thiên văn cổ TQ thì em cũng chưa nghe có nghiên kíu nào phát hiện Trái Đất hình cầu để đặt Nhật Nam = Nam Bán Cầu, bác có biết 1 nghiên kíu nào như thế chăng?
    Xã hội thời An Dương Vương chậm tiến đến mức nào bác có biết ko? Những nghiên kíu về từ vựng của bác làm rõ được điều đó chắc? Cái tài liệu của em và bác gocLe đưa lên mô tả cái thành Cổ Loa đúng như những gì em thấy, em sờ, em trèo lên trèo xuống ko biết bao nhiêu lần nên em tin và gửi cho bác, việc tham khảo nó hay ko đương nhiên là quyền bác, nhưng tin tưởng vào bác hay ko lại là quyền mọi người, phỏng ạ!
    Chào thân ái và quyết thắng!
  6. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    1. Thiên văn: Bạn ơi, có lẽ nên gọi sự trao đổi của bạn và tôi thành hỏi đáp cho rồi. Quá nhiều thứ bạn không biết... Sách Đại Cương lịch sử VH TQ, NXB VH-TT 1994, trang 345: Công cụ quan sát và đo đạc hiện tượng trong không trung chủ yếu là Hỗn Nghi, ước chừng đã có từ thời Tiên tần. Bạn tìm sách đọc nhé. Muốn xem hình Hỗn Nghi, bạn qua box Thiên Văn. Không có bất cứ tài liệu TQ nào nói trái đất hình tròn và tự quay quanh trục của nó, nhưng Hỗn Nghi là 1 chiếc máy có những vòng tròn, có vòng tý ngọ, vòng hoàng đạo..v.v. Người TQ cổ chỉ quan sát thiên nhiên và ghi nhận chúng, không dựng lí thuyết, nhưng nhìn vào cái Hỗn Nghi sẽ biết họ mô tả bầu trời, trái đất, mặt trời, mặt trăng và các vì sao ra sao
    2. Bạn chỉ cần so sánh 1 cái mộ cổ hoành tránh nhất của thời An Dương Vương với mộ Văn Vương, sẽ biết thời ADV chậm tiến cỡ nào.
  7. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Kiến thức thiên văn tối giản:
    http://www.thienvanvietnam.com/KienThuc.htm
    Phần một QUAN SÁT THIÊN VĂN

    Tác giả: Bùi Dương Hải
    2. NHỮNG NHÀ THIÊN VĂN CỔ ĐẠI

    ?oMỗi người nông dân đều là một nhà thiên văn nghiệp dư? ?" nhận xét đó không hẳn là quá đáng đối với những kiến thức thiên văn của cư dân Hoàng Hà. Tuy nhiên, để đạt đến trình độ mà thế giới phải ghi nhận, không thể không nhắc đến công lao của những nhà thiên văn chuyên nghiệp thực thụ, mà tác phẩm của họ còn đến ngày nay. Dưới đây giới thiệu một số người có nhiều thành quả nhất.

    Thạch Thị (350 TCN)

    Những nhà thiên văn học chuyên sâu đầu tiên được thực sự ghi nhận trong lịch sử Trung Hoa là từ thời Chiến quốc (400 - 200 TCN), trong đó nổi tiếng nhất là Thạch Thân. Trong Sử Ký rằng: Thạch Thân (khoảng 350 TCN) là nhà thiên văn lịch pháp của nước Vệ, đã viết các tác phẩm gồm: Thiên văn (8 chương), Thiên Văn Chiêm (8 quyển), Thạch thị Hỗn Thiên đồ (1 quyển), Thạch thị Kinh bạc Tinh chiêm (thường gọi là Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm - 1 quyển). Tập bản đồ vẽ khoảng 800 ngôi sao chia theo 122 chòm, theo truyền thuyết thì 28 chòm đã được Vu Hàm đời nhà Thương phân định.

    Tuy nhiên, theo một số thuyết về sau, Thạch Thị là tên gọi chung cho một nhóm học giả thời đó chứ không phải chỉ 1 người. Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm bị thất lạc trong những thế kỷ sau, chỉ còn một số đồ hình các vì sao của nó được sao chép lại trong các thư tịch khác, mà còn giữ đến nay là Khai nguyên Chiêm kinh (thời đại Khai Nguyên nhà Đường ?" 729). Một bản sao khác của cuốn sách hiện được dòng họ Wakasugi ở Tokyo ?" Nhật Bản gìn giữ.

    Cách giải thích các hiện tượng của Thạch thị không tránh khỏi những hạn chế, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, chẳng hạn như đoạn sau: ?oKhi thiên tử sáng suốt, mặt trăng sẽ đi theo đúng hướng, khi thiên tử không minh, đại thần chiếm quyền, mặt trăng sẽ đi chệch đường?.

    Cùng thời với Thạch Thân là Cam Đức cũng là nhà thiên văn học, đã quan sát rất kỹ về các hiện tượng trên mặt trời, từ vết đen, vết trắng. Ông mô tả vết đen như đồng xu trên mặt trời, và giải thích Nhật thực chính là do vết đen ăn từ một phía ra, chiếm hết mặt trời.


    Tư Mã Thiên (145 ?" 87 TCN)
    Tư Mã Thiên
    Vẽ đời Nguyên


    Trong tác phẩm Sử Ký đồ sộ, Tư Mã Thiên - sử gia vĩ đại, đồng thời là một nhà thiên văn, địa lý kì tài thời thời Hán Vũ đế - đã dành hẳn một quyển là Thiên Quan thư để ghi chép về thiên văn, tập hợp kiến thức từ tiền nhân cũng như của bản thân ông. Tư Mã Thiên đã liệt kê hơn 1000 ngôi sao, cũng như ghi lại các hiện tượng đặc biệt của bầu trời. Thiên quan thư của ông là tác phẩm hoàn chỉnh sớm nhất còn đến nay, hầu như kết quả thiên văn trước đó đều được hệ thống lại, thêm vào đó là các kiến thức của bản thân ông. Những quan sát đó cho thấy những gì đã xảy ra hơn 2000 năm trước. Có thể ông đã tham khảo các bản của Thạch thị, nhưng những nhận xét đánh giá riêng của ông về Thiên tượng cũng có giá trị rất lớn, chẳng hạn trong việc phân chia màu sắc các sao .


    Kế tục Tư Mã Thiên, thái sử Ban Cố, tác giả bộ Hán Sử, cũng là một nhà thiên văn. Chính ông là người đã tìm ra chu kỳ 76 năm của sao chổi Halley, cũng như viết về quĩ đạo của các hành tinh. Tiếp theo ông, Đổng Trọng Thư cũng để lại dấu ấn của mình qua việc đoán được hiện tượng Nguyệt thực, thông qua việc tính toán từ các văn bản giáp cốt. Cho đến cuối thời Tam Quốc (200), các nhà thiên văn đã hệ thống lại các tài liệu, ghi lại tổng cộng 1464 sao trong 283 chòm.


    Trương Hoành (78 ?" 139)
    Đỉnh cao nhân loại về Thiên văn học cổ đại là Trương Hoành, đồng thời cũng là nhà địa lý, toán học, làm việc tại kinh đô Lạc Dương của nhà Hán. Sau nhiều năm dành cho nghiên cứu

    Trương Hoành
    (Phóng tác)


    thiên văn, ông đã tìm ra quĩ đạo chính xác của 5 hành tinh trong Hệ mặt trời, ghi lại vị trí các sao được nhìn thấy bằng mắt thường. Những nhận định chính xác của ông về Hệ mặt trời khiến người thời đó không thể hiểu được. Ông cho rằng trái đất phải có hình tròn chứ không phải phẳng dẹt, bầu trời bao bọc bên ngoài, ánh trăng là phản chiếu của mặt trời, Nguyệt thực là do mặt trăng đi vào bóng của trái đất, và hình dáng tròn khuyết của mặt trăng là do góc độ nhìn khác nhau từ mặt đất.
    .
    Trương Hoành viết hơn 20 tác phẩm, trong quyển Hỗn Thiên chú ông viết:

    ?oTrời tròn giống như quả trứng, mà Đất giống như lòng đỏ, nằm lơ lửng ở chính giữa, bầu trời lớn hơn bao bọc xung quanh?
    Còn trong tác phẩm thiên văn Linh Hiến, ông đã vẽ vị trí các chòm sao và viết:

    ?oTrong bầu trời từ Bắc đến Nam có 124 chòm sao, gồm 2500 ngôi sao tỏa sáng, trong đó 320 ngôi đã được đặt tên; đó là chưa kể những sao mà những người đi biển nhìn thấy. Kể cả những sao rất bé thì tổng số là 11.520 ngôi?.

    Đặc biệt nhất là ông đã chế tạo một dụng cụ quan trắc thiên văn là Hỗn Thiên Nghi. Theo Hán Sử, Hỗn thiên nghi gồm những vòng đồng có chia khoảng, một Thiên cầu bằng đồng. Đường Hoàng đạo của Thiên cầu lệch với xích đạo một góc 24 độ ( chỉ sai 0,5 độ so với thực tế). Một chiếc ống thẳng để nhìn giúp ông xác định vị trí các sao theo hướng không sai lệch và không bị ánh sáng khác ảnh hưởng. Nhờ đó, các ngôi sao được đo đạc vị trí chính xác, điều mà chưa ai làm được trước đó. Sau đó, ông còn dùng sức nước đẩy quả cầu quay, mô tả chuyển động các sao, hiện tượng tròn khuyết của mặt trăng và Nguyệt thực được giải thích chính xác.


    Một phần ra ngoài đề một chút, là các phát minh của Trương Hoành. Cũng giống như các nhà Thiên Văn học phương Tây thông thường là nhà Vật lý ?" Toán học, Trương Hoành còn có các phát minh trong nhiều lĩnh vực khác.


    Dụng cụ đo Địa chấn của
    Trương Hoành

    Một sáng chế đáng chú ý của ông là thiết bị đo động đất. Nó gồm một bình đồng, có những cơ cấu nhậy với độ rung ở trong, bên ngoài là 8 con rồng ngậm hờ một quả cầu ở miệng, bên dưới là 8 con cóc quay về 8 hướng. Nếu có chấn động, quả cầu sẽ rơi xuống, và tùy tiếng động to hay nhỏ mà đoán động đất mạnh hay yếu.
    Hậu Hán thư viết lại rằng: năm 138, khi thấy quả cầu ở phía tây rơi xuống, Trương Hoành đã vội yến kiến và trình với vua rằng có động đất ở phía tây Lạc Dương. Vào ngày hôm đó không có gì xảy ra ở kinh đô, khiến ông bị những quan lại khác chỉ trích. Nhưng 2 ngày sau thì có tin báo là có động đất mạnh ở 1000 dặm phía tây Lạc Dương. Sự kiện này gây xôn xao triều đình.

    Ông cũng là người đã nêu ra cách tính tỉ số pi (p) bằng căn bậc 2 của 10, sai số với thực tế là khoảng 0.02. Đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, chỉ còn rất ít trong số các công trình của ông còn lại đến nay.


    Tổ Xung Chi (429 ?" 501)
    Tổ Xung Chi là nhà toán học và Thiên văn ?" Lịch pháp thời Nam Bắc triều.

    Tổ Xung Chi
    (Phóng tác)

    Ông là người đã tính toán chính xác các ngày Hạ chí, Đông chí hàng năm thông qua việc đo độ dài bóng của một cây gậy cắm thẳng đứng trên mặt đất. Từ đó hình thành cơ sở cho việc tính một loại lịch mới chính xác hơn Âm-dương lịch mà các vị vua đang dùng. Năm 462, ông đưa ra loại lịch mới, tính được độ dài năm giữa hai lần Xuân phân kế tiếp là 365,24281481 ngày (sai lệch 50 giây so với tính toán hiện đại), và độ dài của tháng mặt trăng là 27,21233 ngày (lệch 9 giây). Ông phát hiện thấy sự tiến động của ngày Xuân phân khiến cho năm nhiệt đới ngắn hơn so với năm mặt trời thực 21 phút, cũng như thấy rằng sau 7 chu kỳ 12 năm, Sao Mộc lại dôi ra khoảng 1/20 quỹ đạo của nó.

    Phát hiện đặc biệt quan trọng của ông trong Toán học là cách tính p bằng phân số 355/113, chính xác đến 6 số thập phân, và khá giản tiện. Sau một đo đạc chính xác khác, ông tuyên bố một vòng tròn có đường kính 10 triệu trượng thì có chu vi lớn hơn 31.415.926 và nhỏ hơn 31.415.927 trượng (tức là 3,1412516 < p < 3,1415927). Tên của ông được đặt cho một ngọn núi trên Mặt trăng.

    Trong thời Đường, Nhất Hành là một hòa thượng, cũng được ghi nhận với kết quả tính toán độ dài một cung 1 độ trên kinh tuyến là 351,27 dặm (tương đương 123,7 km) Ông cũng dựng một thiên cầu ở Trường An, mô tả chuyển động các sao, và vẽ đường biểu kiến chuyển động các hành tinh và các ngôi sao rất xa một cách chính xác.


    Tô Tống

    Một nhà lịch pháp và thiên văn đời Tống là Tô Tống đã quan sát mặt trời, mặt trăng và các vì sao, tạo ra một chiếc đồng hồ thiên văn chạy

    Tranh cổ mô tả đồng hồ Tô Tống

    bằng nước rất tinh xảo. Trong Tống sử, sau khi đi sứ sang phía Tây và nhận ra sự khác biệt giữa cách tính ngày rằm giữa Trung hoa và một nước khác, ông về kinh năm 1090 và chế tạo chiếc đồng hồ thiên văn ở kinh đô Biện Lương. Chiếc đồng hồ thiên văn này cao gần 10m, ở tầng trên cùng có khung Hỗn thiên nghi và thiên cầu chạy bằng sức nước, dựa trên một hệ thống cơ khí rất phức tạp bên trong, cứ mỗi giờ lại có các tượng đồng gõ chuông, thiên cầu quay theo sự vận động của mặt trời mặt trăng. Theo ghi chép thì có đến hàng chục tượng đồng, vận hành hoàn toàn bằng sức nước.

    Tiếc rằng khi triều đại sau nối tiếp, ông vua mới đã không hiểu được ý nghĩa của phát minh trên, chiếc đồng hồ bị phá dỡ để lấy đồng.

    Ngày nay, ở Đài Loan vẫn còn trưng bày một phiên bản nhỏ hơn của chiếc đồng hồ Tô Tống.

    Nhất Hành (683 ?" 722)

    Nhất Hành là pháp hiệu của một hòa thượng đời Đường. Tại kinh đô Trường An khi đó ông cùng các đồ đệ đã dựng lên một Thiên cầu lớn được vận hành và chuyển động cùng với các thiên thể ban đêm trên bầu trời. Ông đã vẽ đường chuyển động của các hành tinh so với các vì sao khác một cách chính xác. Cho đến trước công trình của Halley năm 1718, đây là quỹ đạo chính xác nhất mà con người tìm ra


    Còn nhiều nhà Thiên văn ?" Lịch pháp nữa trong các triều đại sau, mà mỗi người đều để lại dấu ấn nhất định cho nền công việc nghiên cứu Vũ trụ, thiên nhiên. Những đóng góp của họ trong thời gian dài đã đem lại những kết quả lớn, đặc biệt trong việc tính lịch pháp
  8. gocLe

    gocLe Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2006
    Bài viết:
    183
    Đã được thích:
    0
    Như một số tác giả từng ghi nhận, điều đó (không kể đoạn tô vàng!) cho thấy người Hoa thời Tần không biết gì về vùng Bắc Bộ hiện nay. Đoạn tô vàng tạo ấn tượng bác nói sách Hoài Nam Tử có nói đến An Dương Vương, làm tớ nhớ đến sự nhập nhằng, lầm lẫn trong Việt Sử Toàn Thư v.v.

    Đấy là một trong các bằng chứng cho thấy dân ta không học truyền thuyết về An Dương Vương từ sách của các tác giả TH, mà kể truyền thuyết này cho các tác giả đó để họ làm sách
  9. gocLe

    gocLe Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2006
    Bài viết:
    183
    Đã được thích:
    0
    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ:
    Bạn chỉ cần so sánh 1 cái mộ cổ hoành tránh nhất của thời An Dương Vương với mộ Văn Vương, sẽ biết thời ADV chậm tiến cỡ nào.
    [/QUOTE]
    Tùy nhận thức về thế nào là văn minh mà so sánh như thế, cũng như so sánh giữa thành Cổ Loa (có thật) và lăng mô Văn Vương, sẽ đưa đến kết luận nào.
    Theo một nghiên cứu tổng hợp chưa công bố, thành Cổ Loa rất có thể đã được xây dựng do đòi hỏi thiết thực - một trung tâm kinh tế, hành chính thành hình với một quá trình lâu dài *vì lợi ích thiết thực của cư dân Cổ Loa* chứ không phải trung tâm chính trị hay đơn giản là một công trình phòng thủ.
    Lăng mộ Văn Vương (hay Tần Thủy Hoàng nếu muốn) thì trái lại không vì lợi ích của dân. Nó có thể cho thấy dân Hoa khổ sở, vất vả thế nào để cung phụng, thỏa mãn đòi hỏi của các nhà thống trị.
    Dân Cổ Loa có lẽ cười hề hề chén chú chén anh vổ vai lãnh tụ của mình, và lãnh tụ chắc cũng mặt mũi lem luốc đen thui cùng dân đắp thành chứ ko đứng chỉ tay năm ngón.
    Dân Nam Việt hay dân Tần thì lao động mút chỉ ngoài đồng hay trên rừng, dưới biển để tháng tháng có đủ số sản vật, tiền của mà dâng lên cho chủ xây cung vàng điện ngọc, và dĩ nhiên chủ ở xa tít tắp trên cao, trong vòng bảo vệ của gươm đao, ko thôi dân nó thịt mất!
    Được gocLe sửa chữa / chuyển vào 22:23 ngày 04/03/2007
  10. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Thành Cổ Loa không đuợc nhắc đến vì nó ở vùng các tác giả trên và người Hoa bấy giờ nói chung chưa biết đến. Còn Quảng Tây thì họ đã biết tương đối, Thế nhưng họ không nhắc đến Cổ Loa Quảng Tây vì một cái như thế không có
    Bác Du nghĩ phải đào bới đất Quảng Tây mới thấy nhưng các anh túng của hong đời nào cho. Nhưng than ui cái thành Cổ Loa nó bự nghìn lần hơn những kênh lạch, đường sá mà quân Tần khơi, đào, xây dựng trong khi bình định phương nam - mấy cái này vẫn còn dấu tích sờ sờ ra, thế nhưng tường thành Cổ Loa Quảng Tây thì chìm sâu thăm thẳm dưới lòng đất hay mục nát không còn dấu tích???

    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ: Các sách như Giao Châu Ngoại Vực Kí, Thuỷ Kinh Chú sau này là của các tác giả sau thời Mã Viện, họ đến du lịch ở Bắc bộ Việt Nam (tức là quận Giao Chỉ thời Đông Hán, Giao Châu thời Đông Ngô), họ lại ghi An Dương vương và thành Cổ Loa.[/QUOTE]
    Đấy là một trong các bằng chứng cho thấy dân ta không học truyền thuyết về An Dương Vương từ sách của các tác giả TH, mà kể truyền thuyết này cho các tác giả đó để họ làm sách
    [/QUOTE]
    Có một điều ngẫu nhiên, cũng tại vùng Đông Anh sau này, Mã Viện lại xây thành Kiển (thế kỉ 1 sau Công nguyên) ở đó nên dựa vào đây ta có thể biện luận: lỡ di tích ta thấy hiện nay là dấu tích của thành Kiển thì sao?
    Tại sao cái thành Cổ Loa lớn như thế (theo bác là phải có dấu tích cho đến nay, ít ra là cho đến thời Hai Bà Trưng), ít ra thời Hai Bà Trưng vẫn còn dấu vết chứ? Tại sao chẳng có sách nào dẫn lên cả? Mã Viện nếu xây thành Kiển thì cũng thừa kế cái nền móng của thành Cổ Loa, sao chẳng có sách Việt Nam hay Trung Quốc nào đề cập đến?
    Các tác giả sách Giao Châu Ngoại Vực Kí, Thuỷ Kinh Chú sau này đến Bắc bộ Việt Nam nhìn thấy "thành Cổ Loa" cũ, thực ra là thành Kiển khi đó đã xây xong rồi, và các ông ấy nhìn thấy (thành Kiển khi ấy hoặc có thay đổi, ít ra vẫn còn dấu tích) là thành Kiển của Mã Viện xây, nhưng việc về thành Cổ Loa và An Dương vương là do dân gian truyền tụng lại.
    Theo sử hiện nay, trên các phương tiện của nhà nước và sách giáo khoa đều bảo là An Dương vương dẹp Tần. Nếu như thành Cổ Loa ở Đông Anh, An Dương vương đóng đô ở đó rồi "tạm biệt Âu Lạc" lên đường giúp (hoặc người Tây Âu bầu cử, cầu cứu) người Tây Âu (Quảng Tây) thì thật khó hiểu.
    An Dương vương lo môi hở răng lạnh, xứ Tây Âu mất thì Âu Lạc cũng nguy theo?

Chia sẻ trang này