1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Anh chị em mỗi người một câu nha , ( câu hỏi về môn CT)

Chủ đề trong 'Hỏi gì đáp nấy' bởi tinvuichomoinguoi, 08/11/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tinvuichomoinguoi

    tinvuichomoinguoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/10/2005
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0
    Anh chị em mỗi người một câu nha , ( câu hỏi về môn CT)

    Cám ơn mọi người bỏ chút thời gian với môn học trả lời nhanh này .

    Câu hỏi chính trị .
    1 . Tại sao định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học .
    2. Tại sao nói vận động của vật chất là tuyệt đối .
    3. Phân tích hình thức đứng im của vật chất .
    4. Sự thống nhất của thế giới vật chất ở tính chất nào .
    5. Phần tích trình độ phản ảnh của thế giới vật chất .
    6. Nguồn gốc hình thành ý thức
    7. Nêu bản chất của ý thức
    8. Dựa trên cơ sở nào nói vật chất quy định ý thức
    9 . Vật chất chịu tác dộng của ý thức như thế nào
    10. Ý nghĩa mối quan hệ giữa vật chất và ý thức .
    11. Tại sao nói trong thế giới khách quan các sự vật liên hệ với nhau 1 cách khách quan và phổ biến .
    12. Mối quan hệ giữa các sự vật trong thế giới khách quan có tính chất gì ( biểu hiện )
    13. Quan điểm toàn diện có tác dụng gì đối với hoạt động của bản thân .
    14. Sự phất triển của sự vật được biểu hiện như thế nào
    15. Quan điểm phát triển có tác dụng gì đối với bản thân .
    16. Quan điểm lịch sử vật thể có tác dụng gì đối với bản thân
    17. Những mặt đối lập như thế nào sẽ tạo thầnh mâu thuẫn .
    18. Quá trình mâu thuẫn diễn ra như thế nào
    19. Sự phát triển của sự vật có nguồn gốc từ đâu .
    20 . Tại sao giải quyết mâu thuẫn chủ yếu là từng buớc giải quyết cơ bản
    21. Tại sao có mẫu thuấn đối kháng . Khuynh hướng phát triển của nó .
    22. Thế nào là mâu thuẫn không đối kháng . Khuynh hướng phát triển của nó .
    23. Sự vật chuyển từ chất và sang chất mới diễn ra như thế nào .
    24. Nắm quy luật lượng chất có tác dụng gì đối với hoạt động con người .
    25 . Tại sao phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối .
    26 . Phân biệt khái niệm `phủ định ` và phủ định biện chứng .
    27 . Nêu đặc điểm của phủ định biện chứng .
    28 . Nắm vững quy luật phủ định có ý nghĩa gì với hoạt động của chúng ta . .
  2. thanh_07set

    thanh_07set Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/08/2005
    Bài viết:
    4.361
    Đã được thích:
    0
    ôi trời ...tòan là Triết
    mình cũng sắp phải chiến đấu với thể loại này để ra tr` rồi
    bác nào cao thủ trả lời đê
    bon chen ghi lại học hỏi cái nhể
  3. meoxxx

    meoxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    2.115
    Đã được thích:
    0
    Không trả lời dc hết . Mình biết ji post lên mọi người xem qua và bổ sung giúp nhé!
    1.phan tich va chung minh luan diem sau:"su phan doi cua cai thong nhat va su nhan thuc cac mat doi lap ...do la thuc chat cua phep bien chung...."
    - Sự phản đối của cái thống nhất: Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, ?ođồng nhất? với nhau. Với ý nghĩa đó, ?osự thống nhất của các mặt đối lập? còn bao hàm sự ?ođồng nhất? của các mặt đó. Tồn tại trong một một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn tác động qua lại với nhau, đấu tranh với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
    Sự nhận thức các bộ phận đối lập: là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
    Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Như vậy cũng có thể xem xét sự thống nhất của 2 mặt đối lập là tính không thể tách rời của 2 mặt đó.
    Thống nhất còn có nghĩa đồng nhất hay tác động ngang nhau.
    Thực chất của phép biện chứng: là những quy luật chung nhất của mọi sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
    Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập đề cập đến vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của phép biện chứng là vấn đề nguồn gốc của sự phát triển, nên Lênin đã xem lý luận về sự thống nhất của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng.
  4. meoxxx

    meoxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    2.115
    Đã được thích:
    0
    mình tìm thấy 1 số câu hỏi và có giải đáp về môn triết nên post cho mọi người tham khảo , biết đâu có câu các bạn cần hoặc lấy làm tư liệu dc ...
    Hỏi :
    vu khi cua su phe phan khong the thay the duoc su phe phan bang vu khi,luc luong vat chat chi co the bi danh do boi luc luong vat chat,nhung ly luancung se tro thanh luc luong vat chat,mot khi no da tham nhap vao luc luong quan chung
    Đáp
    Chỉ phê phán bằng lý luận không chưa đủ mà còn phải bằng bằng bạo lực quần chúng (thực tiễn chứng minh). "Vũ khí của sự phê phán không thay thế được sự phê phán bằng vũ khí?
    - Súng đạn thì phải dùng súng đạn mới giải quyết được, chứ không thể chỉ bị đánh bại bởi tinh thần. ?oLực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bằng lực lượng vật chất?
    - Cải tạo xã hội không phải bằng lý luận thuần túy mà bằng các đường lối chính sách đủ mạnh và đúng đắn để tác động vào quần chúng và được quần chúng nhiệt tình ủng hộ, thì quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực. ?oLý luận thì khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành sức mạnh vật chất?.
    Trước khi hiểu được điều này bạn nên nghiên cứu các vấn đề này trong bài Lý luận nhận thức, trang 342, giáo trình triết học Mác ?" LêNin (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội ?" 2005. Do Hội đồng TW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, các bộ môn khoa học Mác- Lê nin, tư tưởng HCM:
    Ngoài ra Bạn nên tham khảo một số nội dung sau đây:
    Thực tiễn - theo quan điểm triết học duy vật biện chứng - là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử XH của con người làm biến đổi, cải tạo ,, tự nhiên và xã hội. Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể, là con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Thực tiễn cũng có quá trình vận động, phát triển, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên quá trình chinh phục tự nhiên, làm chủ xã hội của con người. Thực tiễn mang tính lịch sử xã hội bởi nó phát triển qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt động thực tiễn có thể chia làm 3 hình thức cơ bản : hoạt động SX vật chất, hoạt động biến đổi chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Ttrong đó, hoạt động SX vật chất là hoạt động có ý nghĩa quyết định các hình thức khác, hoạt động biến đổi chính trị xã hội là hình thức cao nhất và hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt nhằm thu nhận những tri thức về hiện thực khách quan.
    Lý luận ?" theo Chủ tịch Hồ chí Minh ?" là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy lại trong quá trình lịch sử của con người. Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức đồng thời thể hiện trình độ cao của nhận thức, của những tri thức về bản chất, quy luật của hiện thực và vì vậy, bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
    Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó, ,, thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ : chính thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức và lý luận, nó cung cấp chất liệu phong phú sinh động để hình thành lý luận và thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực. C. Mác đã chỉ ra :? Lực lượng vật chất chỉ có thể đánh bại bằng lực lượng vật chất nhưng lý luận thì khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành sức mạnh vật chất?. Lý ,, luận mặc dù được hình thành từ thực tiễn nhưng nó có vai trò tác động trở lại đối với thực tiễn. Sự tác động của lý luận thể hiện qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn (lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong thực tiễn cách mạng. Lênin viết ?okhông có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng?. Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn có sự liên hệ, tác động qua lại, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển và gắn bó hữu cơ với nhau do đó sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên lý cao nhất của triết học Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ ?oThực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng?, ?oLý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông?
    Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra được quan điểm thực tiễn. ,Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực tiễn, phải theo sát sự phát triển của thực tiễn để điều chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những kết luận của nhận thức, kiểm tra những luận điểm của lý luận. Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về sự vật phải được hình thành, bổ sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ không phải bằng con đường suy diễn thuần túy, không phải bằng con đường tự biện. Do thực tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường xuyên tổng kết quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn, xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp.
  5. meoxxx

    meoxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    2.115
    Đã được thích:
    0
    Hỏi: xin cho biet mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
    Đáp:
    Vật chất : theo quan điểm triết học Mác Lênin ?olà một phạm trù triết học đúng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác?. Thực tại khách quan (tồn tại khách quan) là sự tồn tại có thật, không phải do ý muốn của thần linh, thượng đế hoặc do ý thức chức quan của con người sản sinh ra, mà đó là sự tồn tại, vận động, chuyển hóa và phát triển theo những quy luật vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, dù con người có muốn, có biết hay chưa biết về sự tồn tại đó thì chúng vẫn tồn tại.
    Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện tượng thần bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt là bộ óc của con người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào bộ óc của con người trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo và được hiện thực hóa bằng ngôn ngữ. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
    Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
    Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung và xu hướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất cần thiết cho hành động.
    Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động, là quá trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò định hướng cho con người trong việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa chọn các phương án, hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng : Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật khách quan, có ý chí động cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức kìm hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, *********, nếu con người không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai ?Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
    Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, ?ophải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình?. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ cái ?ovật tự nó? (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật ? để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
    Như vậy, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau và mối liên hệ đó tuân theo các quy luật khách quan vốn có của nó. Nếu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta tuyệt đối hóa, cường điệu hóa vai trò của một trong hai mặt thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xã hội và rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí hoặc bệnh bảo thủ trì trệ.
  6. meoxxx

    meoxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    2.115
    Đã được thích:
    0
    Hỏi: -Dac diem cua xa hoi viet nam khi chuyen sang nen kinh te thi truong
    -thuc trang cua doi song dao duc xa hoi viet nam vua qua va trong nhung nam gan day
    -tai sao su phat trien cua cac hinh` thai'' kinh te xa hoilai la 1 qua trinh lich su tu nhien?
    Đáp:
    -Đặc điểm của xã hội Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường:
    Về vấn đề này, bạn có thể tham khảo văn kiện đại hội Đảng qua các thời kỳ từ 1986 đến nay . địa chỉ tham khảo http://www.cpv.org.vn/tulieudang/vankien.asp?topic=168&,,subtopic=7&,,tap=''''''''Tập%2047%20(1986)''''''''
    -Thực trạng của đời sống đạo đức xã hội Việt Nam vừa qua và trong những năm gần đây:
    Đạo đức là một trong những hình thái của ý thức ?" xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực hướng dẫn con người tự giác điều chỉnh hành vi ứng xử của mình trong quan hệ giữa người với người, giữa con người với xã hội nhằm đạt tới cái xấu, cái giả. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống trên nền tảng của hoạt động sản xuất kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: ?oChính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phảI ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức?. Như vậy, với tư cách là một nội dung của phạm trù ý thức xã hội, đạo đức cũng là sản phẩm của những điều kiện lịch sử - xã hội, vì vậy khi xã hội thay đổi thì đạo đức cũng có sự biến đổi thông qua cuộc đấu tranh lọc bỏ và kế thừa. Mặc dù là kết quả sự phản ánh của đời sống xã hội nhưng đạo đức cũng có tính độc lập tương đối, đến lượt nó có thể tác động lại làm cho xã hội không ngừng tiến bộ hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội.
    Trong bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay, kỹ thuật công nghệ đang dần trở thành nhân tố thống trị J. Ellul trong bài viết: ?oNghiên cứu về một nền đạo đức trong một xã hội kỹ thuật? đã viết: ?oKỹ thuật là môi trường phức tạp và đầy đủ trong đó con người sống, theo đó con người phải tự xác định mình? xem xét lại hoàn toàn các phương thức ứng xử cũ, kể cả những giá trị đạo đức truyền thống?. Thực tế cho thấy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng mang tính hai mặt. Bên cạnh việc tạo ra động lực thúc đẩy sự biến đổi căn bản to lớn về các mặt vật chất kỹ thuật, phương pháp sản xuất, tạo điều kiện cho con người trở nên tích cực năng động hơn, thì công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng tác động lên những mặt nhân cách con người, tạo cho con người tâm lý sùng bái vật chất, khao khát sự hưởng thụ. Mặt khác, trong đại công nghiệp, xu hướng toàn cầu hoá là điều tất yếu, nhưng điều đáng lo ngại là nó sẽ kéo theo sự nghèo nàn của nhân cách, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc khó giữ được sự bền vững trong quá trình hội nhập, dễ trở thành bản sao của dân tộc khác.
    Ở nước ta, sau hơn 10 năm đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội cũng đạt được một số thành tích đáng kể, đời sống xã hội có sự thay đổi rõ nét. Bên cạnh đó thanh giá trị đạo đức cũng có sự chuyển đổi, nhưng sự chuyển đổi đó biểu hiện của sự văn minh tiến bộ, hay là sự thoái hoá, đổ vỡ? Có hai loại ý kiến trái ngược nhau trả lời vấn đề trên.
    Loại ý kiến thứ nhất xuất phát từ hiện thực, cho rằng đạo đức trong xã hội ta giờ đây đã mất định hướng, nhiều giá trị đạo đức mới được chấp nhận một cách dễ dàng, vai trò cá nhân với tư cách là con người thành đạt được đề cao, đồng thời trở thành thước đo của phẩm chất nhân cách. Đồng thời những giá trị đạo đức cũ dù nay không còn phù hợp với cuộc sống mới vẫn tiếp tục được bảo lưu, ca ngợi. Tất cả tạo thành một nghịch lý, đánh mất niềm tin của con người trong xã hội chúng ta.
    Loại ý kiến thứ hai cho rằng, sự biến động những chuẩn mực của giá trị đạo đức hiện nay có tính tích cực. Từ chỗ chỉ biết đề cao những giá trị tinh thần thì nay đã coi trọng cả những lợi ích vật chất của con người. Vai trò cá nhân được coi trọng, tính tập thể được xác định đúng mức.
    Nhìn chung thang giá trị đạo đức Việt Nam hôm nay dù chưa được xác định một cách rõ ràng, song vẫn có thể thấy được sự biến động chung đó:
    - Từ chỗ coi trọng những giá trị chính trị - xã hội chuyển sang sự chú ý các giá trị lợi ích vật chất. Từ chỗ lấy con người tập thể làm mẫu mực chuyển sang đề cao con người cá nhân.
    - Từ chỗ lấy đạo đức làm thước đo nhân cách trong quan hệ xã hội, chuyển sang coi nhẹ đức dục, lấy đồng tiền làm vật chuẩn trong đối nhân xử thế. Trong tương lai nếu không có sự định hướng thì sự bùng nổ những xung đột nhân sinh quan xoay quanh những giá trị đạo đức như việc làm, gia đình, giới tính, giáo dục? sẽ khó kiểm soát.
    - Từ chỗ sống vì lý tưởng chuyển sang lối sống thực dụng, chạy theo sự cám dỗ vật chất, buông thả trụy lạc. Nhiều giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục bị coi thường, xâm phạm.
    Như vậy, những vấn đề xoay quanh đạo đức đang diễn ra những biến động phức tạp thể hiện ở sự bất cập giữa lý luận với thực tiễn xã hội, mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý trí với tình cảm, giữa lý tưởng và hiện thực. Quả thật, trong thời khắc chuyển giao giữa hai thế kỷ, con người đã đạt được nhiều thành tựu tiến bộ trong cuộc cách mạng công nghệ hiện đại, tạo ra những biến đổi sâu sắc trong quan niệm, nhân cách, lối sống ở mỗi cá nhân trong thời đại mới. Việt Nam đang từng bước theo xu thế chung hội nhập vào các nước trong khu vực và thế giới với yêu cầu được xác định là hội nhập nhưng không hoà tan, chúng ta đi theo xu hướng tiến bộ chung của nhân loại mà không lệch hướng, vấn đề là giá trị chuẩn mực đạo đức mới là gì? Cái đó có thể tạo ra nền tảng bản sắc riêng của dân tộc để không thành bản sao của người khác. Từ thực tiễn của đời sống xã hội, nhiều ý kiến cho rằng để phù hợp với thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta cần phải khẳng định một hệ thống giá trị đạo đức vừa mang bản sắc văn hoá dân tộc, vừa có tính hiện đại. Ở nước ta, bản sắc văn hoá ấy chính là ?olòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý ?oThương người như thể thương thân?, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động?. Thiết nghĩ, các giá trị truyền thống cực kỳ quý báu ấy ngày hôm nay vẫn cần được tiếp tục bồi dưỡng phát huy.
    -Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên:
    Sự thay thế nhau và phát triển của các hình thái kinh tế - XH trong lịch sử từ thấp đến cao là do những quy luật khách quan chi phối, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
    Nguồn gốc của sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế - XH ở chính trong lòng nó. Đó là các mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mâu thuẫn giữa các giai cấp trong XH có giai cấp .v.v? Giải quyết các mâu thuẩn trên đã làm cho lịch sử xã hội trải qua các giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp lên cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn đó là một hình thái KT ?" XH. Như vậy, sự vận động thay thế nhau của các hình thái KT-XH là quá trình lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn của con người.
    Cần lưu ý rằng, khác với các quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự phát, các quy luật xã hội được diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người. Hơn nữa, mỗi nước lại có các yếu tố địa lý, văn hóa, truyền thống riêng. Vì vậy, sự phát triển của các hình thái KT XH vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ, trong cùng một giai đoạn lịch sử như nhau nhưng các dân tộc có thể không ở cùng một hình thái KTXH nhưng ở mỗi dân tộc, mỗi nước cũng có thể có sự phát triển không như nhau ? Nhung, dù có đặc thù đến đâu chăng nữa, thì sự thay thế nhau của các hình thái KTXH từ thấp lên cao vẫn là một quá trình lịch sử tự nhiên.
  7. meoxxx

    meoxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    2.115
    Đã được thích:
    0
    Hỏi: tai sao su ra doi cua triet hoc MAC la mot tat yeu lich su,vai tro cua triet hoc MAC trong cong cuoc xay dung va phat trien nuoc ta hien nay.
    ¤ Đáp:
    * Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử
    - Triết học Mác không phải là một sản phẩm có tính chất chủ quan đồng thời nó không phải từ trên trời rơi xuống, nó là sản phẩm của tất yếu lịch sử
    - Triết học Mác đã kế thừa, có phê phán toàn bộ TH trước đó nhất là TH duy vật và phép biện chứng đó là tiền đề lý luận không thể thiếu được của TH Mác
    - Tríêt học Mác ra đời còn gắn liền với những điều kiện khách quan của sự phát triển KT XH và sự phát triển của KH đương thời.
    Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là thời kỳ CNTB đã bước sang giai đoạn phát triển mới nhờ tác động của cuộc CM công nghiệp. Nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa lớn nhất với lực lượng công nghiệp hùng mạnh. Cuộc CM công nghiệp ớ Pháp đang được hoàn thành. Ở Đức và một số nước Tây Âu khác, cuộc CM công nghiệp cũng làm cho phương thức sản xuất TBCN lớn lên nhanh chóng trong lòng XH phong kiến. Nhờ vậy, tính hơn hẵn của chế độ TBCN so với chế độ phong kiến được thể hiện một cách rõ rệt. ?oGiai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại?.
    Mặt khác, sự phát triển của CNTB làm cho những mâu thuẫn XH vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã mang ý nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyong (Pháp) năm 1831 và sau đó lại nổ ra năm 1834 đã ?ovạch ra một điều bí mật quan trọng, đó là cuộc đấu tranh bên trong, diễn ra trong XH, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những người không có gì hết?. Ở Anh có phong trào hiến chương vào cuối những năm 30 là phong trào CM vô sản lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. nước Đức đang còn ở vào đêm trước của cuộc CM tư sản, song phong trào vô sản đã được phát triển: từ cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt Xilêdi năm 1844 đến sự xuất hiện đồng minh những người chính nghĩa - một tổ chức CM vô sản.
    Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp CM. ở Anh và pháp, giai cấp tư sản đang là giai cấp thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là lực lượng CM trong quá trình cải tạo dân chủ. Còn giai cấp tư sản Đức vốn đã khiếp sợ bạo lực CM khi nhìn vào tấm gương cuộc CM tư sản Pháp năm 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức.Nó mơ tưởng biến đổi nền quân chủ phong kiến thành nền quân chủ tư sản một cách hòa bình. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử không chỉ là kẻ phá hoại CNTB mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ. Nền dân chủ được mở ra bởi các cuộc CM tư sản, nhưng quá trình cải tạo dân chủ trên các lĩnh vực đời sống của XH TBCN từ nay lại được thực hiện với những động lực XH mới là giai cấp vô sản, tiểu tư sản thành thị và nông dân.
    Thực tiễn XH, đặc biệt là thực tiễn CM của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời của CN Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản CM.
    Sự ra đời của triết học Mác là sản phẩm tất yếu của những điều kiện kinh tế - XH của XH TBCN giữa thế kỷ XIX, đồng thời là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại. ?olịch sử triết học và lịch sử khoa học XH chỉ ra một cách hoàn toàn rõ ràng rằng CN Mác không có gì là giống ?ochủ nghĩa tông phái?, hiểu theo nghĩa là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Học thuyết của Mác ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong CNXH. Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và CNXH không tưởng Pháp là những thành tực tư tưởng mà nhân loại đã sáng tạo ra hồi thế kỷ XIX đã trở thành nguồn gốc lý luận của CN Mác nói chung, của triết học Mác nói riêng.
    Trong quá trình phát triển học thuyết của mình, Mác và Ăngghen đã tiếp thu, kế thừa và phát triển các luồng tư tưởng trước đó. Mác và Ăngghen đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen. Mác cho rằng, tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở triết học Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất, chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đàng sau lớp vỏ thần bí. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Mác đã dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tiónh siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. Từ đó, Mác và Ăngghen xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất nhau một cách hữu cơ là chủ nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học.
    Sự hình thành tư tưởng triết học mới ở Mác diễn ra trong sự tác động qua lại với quá trình ông kế thừa và cải tạo các lý luận về kinh tế và về CNXH. Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là A.Xmít và Đ.Ricácđô là một nhân tố không thể thiếu được góp phần làm hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của triết học Mác. Trong chủ nghĩa Mác, những quan điểm triết học được hình thành không tách rời với những quan điểm chính trị - XH qua việc cải tạo một cách có phê phán chủ nghĩa XH không tưởng Pháp với những đại biểu là Xanh Ximông và Phuriê. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo XH bằng cách mạng.
    Cùng với những nguồn gốc lý luận trên đây, những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể thiếu được cho sự ra đời triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
    Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên thời đó, Ăngghen nêu bật ý nghĩa của 3 phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đácuyn. Với những phát minh lớn của khoa học tự nhiên đã làm cho ?oquan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thhời, và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu?. Đến lượt mình, khoa học tự nhiên không thể tiếp tục phát triển nếu không từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư duy biện chứng bằng cách này hay cách khác. Nhưng nếu như tư duy biện chứng ở triết học cổ đại chỉ mới là một trực kiến thiên tài thì đối với chúng ta nó là kết quả của một công trình nghiên cứu khoa học chặt chẽ dựa trên kinh nghiệm và vì vậy nó thể hiện ra dưới một hhình thức dứt khoát và rõ ràng hơn nhiều.
    Như vậy triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác đã ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì nó là sự phản ánh thực tiễn xả hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mà còn là sự phát triển hợp logic của lịch sử tư tưởng nhân loại.
  8. meoxxx

    meoxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    2.115
    Đã được thích:
    0
    * Vai trò của triết học Mac_Lenin trong cong cuoc doi moi dat nuoc ta hien nay...
    Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, cái giúp cho con người vượt qua những khó khăn, thử thách, giải thoát con người khỏi những thách đố và vướng mắc của cuộc sống, đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại không chỉ là kinh tế, kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao, mà còn là triết học. Triết học giúp cho con người tìm ra lời giải không chỉ cho những thách đố muôn thuở, mà còn cho những vấn đề hoàn toàn mới do quá trình toàn cầu hoá đặt ra. Triết học không chỉ giúp con người nhận thức rõ địa vị của mình, lối sống xứng đáng với con người, mà còn giúp họ xác định mục tiêu và lý tưởng sống để từ đó, góp phần biến đổi hiện thực nhằm phục vụ cho chính mình. Không chỉ thế, trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, triết học còn giúp cho con người có được sự định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố quyết tâm hành động, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, triết học cũng đang thực hiện chính những vai trò to lớn đó.
    Nhân loại đang chứng kiến những biến động to lớn, phức tạp và có tác động sâu sắc, nhiều mặt không chỉ đến con người và xã hội, mà còn đến cả giới tự nhiên. Các sự biến trong xã hội dồn dập xảy ra làm cho có những cái tưởng như hết sức vững chắc bỗng đột ngột sụp đổ, cái mới có khi chưa kịp phát huy tác dụng, thậm chí chưa định hình rõ rệt, thì lại đã có những cái mới hơn nảy sinh bổ sung hoặc chực chờ để thay thế.
    Cùng với những biến động đó, sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, các thành tựu tuyệt vời của khoa học và công nghệ trong kỷ nguyên toàn cầu hoá đang tạo nên những bước tiến mới trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống đương đại, đang tác động mạnh đến tất cả các nền văn hoá dân tộc và đến văn minh nhân loại nói chung. Công nghệ thông tin, các phương tiện liên lạc và giao thông hiện đại cực kỳ thuận lợi và hiệu quả dường như đang thu nhỏ trái đất lại và biến nó thành "ngôi làng toàn cầu?. Trong một bối cảnh như vậy đã có người nghĩ rằng, trong giai đoạn hiện nay, chỉ có kinh tế kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao mới có thể là cứu cánh giúp cho con người vượt qua những khó khăn, giải thoát con người khỏi những thách đố và vướng mắc của cuộc sống, mới có thể đáp ứng được cả các nhu cầu thường nhật lẫn lâu dài của nhân loại còn triết học có lẽ đã hết thời(!)
    Phải chăng đúng là như vậy?
    Mọi người đều hiểu rằng, sẽ không thể có toàn cầu hoá hiện nay, trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế, còn bộ mặt của thế giới cùng với đời sống của từng cá nhân cũng sẽ rất khác nếu như không có kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao. Song, nếu tỉnh táo mà xem xét thì chúng ta sẽ thấy nhận định trên là khá hời hợt và nông cạn. Rất dễ dàng nhận ra rằng, trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay, các thành tựu to lớn mà nhân loại đạt được trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là trong khoa học và công nghệ, trong kinh tế, một mặt, là những động lực cơ bản và quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển nhanh hơn, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau hơn, làm tăng khả năng khám phá và khai thác giới tự nhiên của con người. Song, mặt khác, chính con người và xã hội lại cũng đứng trước những sự bất thường, những mối đe dọa và những rủi ro khó lường do hậu quả của việc chiếm dụng, sử đụng và nhất là sự lạm dụng những thành tựu ấy của con người. Toàn cầu hoá, một mặt, là thắng lợi cực kỳ to lớn, không thể chối bỏ của khoa học và công nghệ, của sự phát triển kinh tế, mặt khác, chính nó cũng góp phần huỷ hoại nặng nề đối với thiên nhiên và ẩn chứa đầy nguy cơ đối với con người.
    Dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, xuất phát từ thực tế cuộc sống đương đại, con người đã có thể tự giải đáp được rất nhiều vấn đề mà họ quan tâm. Song, đúng như Ph.Bêcơn (1561- 1626) đã từng nhận xét, những điều mà con người đã biết được chưa thấm vào đâu so với những điều mà con người còn chưa biết. Vì vậy, con người vẫn vừa phải tiếp tục tìm kiếm lời giải cho những thách đố muôn thuở, vừa phải trả lời cho những câu hỏi hoàn toàn mới do quá trình toàn cầu hoá đặt ra. Đó là những câu hỏi đại loại như: thế giới này là gì? Vị trí của con người trong thế giới đó ra sao? ý nghĩa của cuộc sống con người trong thế giới đầy tính cạnh tranh và rủi ro này là gì? Số phận con người do ai quyết định? Con người có thể tránh được những tai hoạ thảm khốc do thiên nhiên đang bị chính con người tàn phá nặng nề gây ra hay không? Liệu mỗi con người và các dân tộc có thể làm chủ được vận mệnh của mình trong điều kiện toàn cầu hoá khi các nước phụ thuộc lân nhau ngày càng chặt chẽ hơn hay không? Hạnh phúc trong thế giới đầy bất ổn này là gì? Tại sao có nước quá giàu và có người lại quá nghèo? Có thể xoá bỏ được sự bất công và thiết lập được sự công bằng xã hội và công lý có thể thực thi hay không? Cuộc sống của con người trong tương lai sẽ như thế nào? Bằng cách nào để có thể ngăn chặn được các loại bệnh lây lan rất nhanh trong kỷ nguyên toàn cầu hoá? Có phải cái ác đã cắm rễ sâu trong con người không và có thể chế ngự được cái ác không? Làm sao để lòng khoan đung có thể ngự trị được trong con người nhằm góp phần ngăn chặn hoặc giảm bớt cảnh tàn sát lẫn nhau vẫn đang diễn ra trên trái đất? Con người được tự do đến đâu và có trách nhiệm đối với xã hội và đối với đồng loại ra sao cả về mặt luật pháp lẫn về mặt đạo đức? Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay liệu có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển khoa học và công nghệ mà không làm tổn hại đến con người, đến xã hội và đến giới tự nhiên hay không? Làm sao và bằng cách nào để các nước kém phát triển như nước ta có thể tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, ổn định được xã hội để phát triển, để đuổi kịp các nước khác? Làm sao để sử đụng được một cách tất nhất các nguồn lực, các lợi thế mà toàn cầu hoá tạo ra cho các nước đi sau? Bằng cách nào chúng ta có thể tạo được các động lực cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên toàn cầu hoá mà không làm mất đi các giá trị dân tộc đã được các thế hệ trước tạo dựng nên?...
    Rõ ràng là, nếu đứng về mặt xã hội mà xét thì đang tồn tại những nghịch lý mà mọi người rất dễ nhận ra nhưng lại không dễ gì đưa ra các giải pháp hoặc phương hướng giải quyết. Cụ thể là, trong lúc thế giới ngày càng giàu lên nhanh chóng nếu tính về tổng số sản phẩm và giá trị của cải làm ra được và tích luỹ được, xã hội có thêm sức mạnh vật chất và nhất là một khối lượng khổng lồ những tri thức mới, thì lại cũng chính là lúc có rất nhiều nước vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, có nhiều người không chỉ ở các nước kém phát triển, mà cả ở những nước giàu, thậm chí là nước giàu nhất thế giới, ít có cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ xã hội bình thường nhất, vẫn đang sống trong cảnh nghèo khó, đói hoặc thiếu ăn. Chẳng hạn, theo một công trình nghiên cứu, năm 2005, ở nước Mỹ, có 88 triệu người, tức là gần 10% số gia đình, trong đó có 13 triệu trẻ em, đang bị đói hay gần với cái đói. Nếu tính số chịu đói thường xuyên cũng ở nước Mỹ thì con số đó là 3,1% số gia đình với 8,5 triệu người, trong đó có 2,9 triệu trẻ em. Một nửa dân số thế giới, tức là gần 3 tỉ người, thu nhập không quá 2 USD/ngày và 1,2 tỉ người đang phải sống dưới mức 1USD/ngày. Tình trạng này xảy ra là do 82% tổng thu nhập toàn thế giới thuộc về 20% những người giàu nhất, trong khi 20% số người nghèo nhất chỉ chiếm có 1,4% tổng số thu nhập đó.
    Như vậy, ngay trong thời đại chúng ta, nếu nói theo cách nói của C.Mác, thì của cải và sự giàu có vẫn đang tiếp tục tập trung về một phía, còn sự nghèo khó lại đang tập trung dồn vào một phía khác. Tính chung toàn thế giới, khoảng cách giàu nghèo hiện nay của 20% số người giàu nhất và 20% số người nghèo nhất đã gấp tới hơn 70 lần.
    Nhân loại đang phải chứng kiến một nghịch lý khác. Đó là, một mặt, thế giới vừa ra sức xây dựng và thực thi những chương trình xoá bỏ đói nghèo cho nhiều nước kém phát triển và đang phát triển, mặt khác, song song với việc làm đó, các nước giàu lại đang thực hiện một việc khác là tạo ra sự đói nghèo bằng không ít các chính sách bảo hộ, như quy định giá cả cố định thấp đối với nông sản và nguyên liệu xuất xứ từ các nước nghèo, ưu đãi thuế quan cho các nguồn vốn từ các nước nghèo hơn vào các nước giàu nhằm thu hút đầu tư mà thực chất là rút ruột các nguồn vốn đã quá ít ỏi của các nước nghèo... Vô hình trung, những việc làm này càng làm cho các nước nghèo ngày một khó khăn hơn, trở nên nghèo hơn và phụ thuộc vào các nước giàu nhiều hơn. Sự thật là, trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay, các nước nghèo và con người ở đó vẫn đang phải đối diện với không ít những sự đe doạ và thách thức, đang chưa đủ sức để thoát ra khỏi vô vàn khó khăn, đang chứng kiến không chỉ những cơ hội thực sự thuận lợi và những điều tốt lành, mà còn đối diện với cả những thách thức, những nguy cơ và hiểm họa, cả những bi kịch lẫn những sự bất công ghê gớm trong xã hội. Không thể khắc phục tình trạng này bằng khoa học kỹ thuật hay bằng công nghệ cao mà chỉ có thể giải quyết trên cơ sở đấu tranh xã hội, nghĩa là tiến hành cải tạo, biến đổi xã hội, biến đổi thế giới như C.Mác đã từng khẳng định.
    Một điểm khác cũng rất rõ nét là, so với vài ba thập kỷ trước đây, có nhiều đấu hiệu và nhiều con số thống kê cho thấy, giới tự nhiên tỏ ra ngày càng khắc nghiệt hơn với con người, dường như giới tự nhiên đang trả thù lại sự lạm dụng, sự khai thác bừa bãi và sự tàn phá vô độ bằng kỹ thuật và những công cụ sản xuất hiện đại nhất của con người đối với nó. Môi trường sống ngày một xấu đi, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt, nguồn nước nuôi sống con người đang có nguy cơ trở thành nguyên nhân của các cuộc xung đột giữa các quốc gia, các khu vực. Tiên đoán của C.Mác cách đây hơn một thế kỷ rằng, chủ nghĩa tư bản đang huỷ hoại hai cơ sở tồn tại của chính nó là con người và giới tự nhiên được thể hiện rõ trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay.
  9. meoxxx

    meoxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    2.115
    Đã được thích:
    0

    (tiếp theo phần trên)
    Tuy nhiên, trên đây mới chỉ là một phần rất nhỏ trong số các vấn đề mà nhân loại đang phải đối điện, song chính chúng lại là những vấn đề mà triết học không thể không góp phần giải đáp và để giải đáp chúng cũng không thể không có triết học. Việc giải đáp và chỉ ra nguyên nhân của tình trạng mâu thuẫn, của những nghịch lý trên hoàn toàn nằm ngoài tầm chú ý và khả năng của kỹ thuật và công nghệ. Triết học và các khoa học xã hội có khả năng và có trách nhiệm phải giải đáp chúng.
    Giải đáp những vấn đề đó chính là từng bước xác định thái độ, xác định cách nhìn về cuộc sống hôm nay và về cách thức hoạt động sinh sống của mỗi người trong những điều kiện và hoàn cảnh mới. Giải đáp những vấn đề tưởng như hết sức cao xa nhưng thực ra lại rất cấp yếu đối với con người, với "thân phận con người" đó chính là sứ mạng không thể thoái thác của triết học. Nói như I.Cantơ (1724-1804), triết học cần làm sáng tỏ những điều trước đây ta chưa thấy hết, đó là "những vấn đề liên quan thiết thân đến mọi ngưỡng và mục đích tối hậu của triết học không có gì khác lơn là toàn bộ vận mệnh của con người", bởi vì, suy đến cùng, "tất cả chỉ là vấn đề con người", nghĩa là, triết học phải giúp con người nhận ra địa vị của mình và cách ông sao cho xứng đáng với con người.
    Như vậy, sự mở mang tri thức nói hung, và tri thức triết học nói riêng, chính là điều kiện giúp cho con người tự giải đáp các vấn đề mà họ quan tâm, là cơ sở để hình thành thế giới quan khoa học. Song, việc giúp con người nhận thức chính xác về bản thân mình và giải thích đúng đắn thế giới xung quanh mình mới chỉ là một mặt. Bởi vì, còn một mặt khác quan trọng hơn, mà triết học trước C.Mác chưa đặt ra và được C.Mác khẳng định, đó là triết học phải góp phần "cải tạo thế giới". Điều đó có nghĩa rằng, những tri thức mà con người thu nhận được chỉ trở nên yếu tố cấu thành của thế giới quan đầy đủ và hoàn chỉnh khi nó đã hoà vào niềm tin, khi nó biến thành niềm tin, biến thành động cơ và đi vào hành động của con người, giúp con người xác định mục tiêu và lý tưởng sống, từ đó góp phần biến đổi hiện thực nhằm phục vụ con người.
    Tương tự như vậy, con người cũng thường phải trả lời các câu hỏi khi tự mình hành động, chẳng hạn, làm sao để đạt được kết quả tốt nhất? Cách hành động như vậy là đúng hay là sai? Liệu bằng cách đó có thể tìm ra chân lý hay không?... Từ xưa đến nay, những tri thức triết học không chỉ giúp con người nâng cao năng lực nhận thức, mà còn giúp con người nâng cao năng lực hành động, bởi vì, như I.Cantơ nói, lý trí không chỉ là năng lực nhận thúc tốt nhất, mà còn là năng lực hướng dẫn hành động của con người. Điều đó có nghĩa rằng, khi trả lời các vấn đề trên, triết học có vai trò phương pháp luận rất lớn. Chính triết học cung cấp cho con người các quan điểm, các nguyên tắc xuất phát và những phương pháp để tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả. Trước I.Cantơ, R.Đêcáctơ (1596 - 1650) cũng đã từng nói rất đúng rằng, "thà không đi tìm chân lý còn hơn là đi tìm nó mà không có phương pháp".
    chính trong thế giới đang toàn cầu hoá với những mối liên hệ chằng chịt, đan xen nhiều chiều như hiện nay thì phương pháp nhận thức biện chứng duy vật giúp người ta nhìn nhận những gì đang diễn ra trong mọi lĩnh vực của thế giới đương đại, của đời sống xã hội một cách khách quan hơn, toàn diện và cụ thể hơn, tránh được sự chủ quan, phiến diện, cứng nhắc, giáo điều và đồng thời cũng tránh được cả sự thiếu nhất quán, chao đảo, ngả nghiêng từ thái cực này sang thái cực khác. Khi triết học giúp cho con người có được cái nhìn tổng quát, có cách lý giải đúng đắn về chiều hướng và về những biến động trên thế giới, về xã hội, về bản thân mình thì chính triết học đã giúp con người có được sự định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố sự quyết tâm hành động để hoàn thành mục tiêu đã đề ra với kết quả cao nhất.
    Đồng thời, toàn cầu hoá đang dẫn đến sự biến đổi mạnh mẽ về mọi mặt của thế giới, đang tạo ra những cơ hội cho các nước lạc hậu có thể nắm lấy để phát triển và hội nhập. Tuy nhiên, để nắm được những cơ hội ấy, và hơn thế nữa, để biến chúng thành hiện thực trong điều kiện mọi thứ đều đổi thay nhanh chóng thì cần có nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là biết thích ứng nhanh. Nguồn nhân lực ấy luôn phải đối diện với vô vàn các sự kiện, các tình huống phức tạp, các cách đánh giá khác nhau, thậm chí rất trái ngược nhau về bản chất, đặc trưng và khả năng mà toàn cầu hoá có thể mang lại, phải tìm cho được câu trả lời tốt nhất về những vấn đề đang được đặt ra trước đất nước mình. Nguồn nhân lực như vậy không tự nhiên mà có, hơn nữa, nó không chỉ cần có trình độ nghề nghiệp, có kiến thức chuyên môn hẹp vững vàng, mà còn phải được đào tạo, bồi dưỡng cả về thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan và phương pháp nhận thức. Nguồn nhân lực đó không chỉ phải có khả năng thích ứng nhanh với các tiến bộ của khoa học và công nghệ, mà còn phải thích ứng nhanh với những biến động nhiều mặt của xã hội. Chính triết học sẽ giúp con người rèn luyện khả năng tư duy mềm dẻo, nhạy bén, vừa là để tự nhận thức bản thân mình, hiểu được cả những khả năng vốn có lẫn cả những hạn chế của mình để tự vươn lên, vừa là để nhận thức đúng đắn và chính xác hoàn cảnh khách quan và dự báo được những sự biến động nhanh chóng của xã hội
  10. meoxxx

    meoxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    2.115
    Đã được thích:
    0
    Hỏi: co so triet hoc cua duong loi giao duc:''''Hoc di doi voi hanh ,giao duc ket hop voi lao dong sanh xuat ,giao duc nha truong gan lien voi giao duc gia dinh va xa hoi ,li luan thong nhat ,lien he voi thuc tien ''''
    Đáp
    Để đào tạo nên những người tài đức cho công cuộc kiến thiết nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Học phải đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Quan điểm này của Người có ý nghĩa từ vi mô đến vĩ mô trong việc hoạch định các chương trình giáo dục, mục đích đào tạo, giải quyết mối quan hệ giữa chính sách, chế tài của Nhà nước với xã hội hóa giáo dục.
    Do đó, tôi sẽ nêu cho bạn Tư tưởng Hồ Chí Minh về ?oHọc phải đi đôi với hành?
    Tư tưởng của Người về giáo dục là một trong những tài sản giá trị, là viên ngọc quý cho nền giáo dục của nước nhà. Một trong những cống hiến của Hồ Chí Minh cho nền giáo dục, khoa học giáo dục Việt Nam trong tiến trình phát triển là những ý tưởng về sự phát triển nhà trường Việt Nam. Hồ Chí Minh đã gắn việc xây dựng nhà trường Việt Nam mới với công cuộc xây dựng đời sống mới của đất nước. Đó là: ,,,Học phải đi đôi với hành ,,,và ,,,cần cù đi đôi với tiết kiệm .
    Hồ Chí Minh thấy được vai trò và tầm quan trọng của việc học trong quá trình làm cách mạng và lãnh đạo cách mạng. Làm cách mạng là phá bỏ cái cũ để xây dựng cái mới mà muốn làm được điều đó thì đòi hỏi phải có ,,,tri thức ,,,mà muốn có tri thức thì phải ,,,học . Ngay từ đầu, V.l Lênin đã chỉ ra 3 kẻ thù nguy hiểm của chủ nghĩa cộng sản, đó là: bệnh kiêu ngạo cộng sản, nạn hối lộ, và tệ quan liêu (đặc biệt là quan liêu trong thể chế Nhà nước).
    Trong đó, bệnh kiêu ngạo cộng sản, được thể hiện như: lười biếng, không chịu học, không chịu tiếp thu văn hoá...Vì vậy, người làm cách mạng phải đặt việc học lên hàng đầu: ,,,Học, học nữa, học mãi? tiếp thu những tư tưởng đó của Lênin. Hồ Chí Minh đã coi việc học là quyển sách không có trang cuối cùng. Người cũng nhấn mạnh, học ở đây là phải gắn với thực tế, lý luận phải gắn với thực tiễn, đem việc học những gì học được trong sách vở để hành trong xã hội.
    Hồ Chí Minh đã có những lời bàn sâư sắc về cái học đích thực, cái học hữu dụng và khái niệm về tri thức hoàn toàn. Người đề cao và coi trọng yếu tố ?otri? và ?ohành?. Người viết:. Một người học xong đại học có thể gọi là tri thức. Song, y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế y không biết làm gì cả. Thế là y chỉ có tri thức một nửa. Tri thức của y là tri thức học sách chưa phải là tri thức hoàn toàn. Y muốn thành người tri thức hoàn toàn thì phải đem tri thức đó áp dụng vào thực tế".
    Còn đối với học sinh ,,,học đi đôi với hành" nghĩa là: khi ở nhà phải thương yêu cha mẹ giúp đỡ cha mẹ về công việc, giúp đỡ về tinh thần (học được điều gì tình hình trong nước và thế giới thì nói lại cho cha mẹ nghe). Ở trường thì phải đoàn kết giúp đỡ anh chị em thi đua học tập. Phải đoàn kết giữa thầy và trò làm cho trường mình luôn luôn tiến bộ xã hội: các cháu có thể giúp được gì nhiều việc có ích. Thí dụ tuyên truyền vệ sinh, giúp đỡ các em nhi đồng, xung phong dạy bình dân học vụ". Hồ Chí Minh khuyên thế hệ trẻ phải biết kết hợp lao động trí óc và lao động chân tay, Người dạy: Lao động chân tay cũng phải có văn hóa, mà người lao động trí óc cũng phải làm được lao động chân tay và lao động chân tay không có trí óc thì đó là người lao động bán thân bất toại.
    Với Hồ Chí Minh, học và hoạt động cách mạng phải thực hiện suốt đời. Người luôn luôn căn dặn: ,,,Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng . Đó là tính nhất quán của việc thực hiện triệt để nguyên tắc kết hợp lý luận với thực tiễn của Hồ Chí Minh.
    Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục đã trở thành cơ sở tư tưởng và lý luận cho đường lối, chính sách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta, nền khoa học giáo dục Việt Nam, việc xây dựng và phát triển nhà trường Việt Nam mới và chiến lược xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chia sẻ trang này