1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ảnh trang 96, Video trang 97 - Mời các bác vào chém gió :D. OFFLINE tại Hà Nội: CN, 27/07/2008: Thàn

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi thieulam_vietnam, 23/09/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. songhongvnde

    songhongvnde Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2004
    Bài viết:
    579
    Đã được thích:
    1
    Tôi rầt xúc động khi xem hình ảnh đồng bào ta biểu tình phản đối trước đại sứ quán Trung Quốc về vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho thấy tinh thần yêu nước của đồng bào ta rất cao, dù là thời nào, chính quyền nào, quan điểm chính trị có khác nhau thế nào đi chăng nữa thì một tấc đất của tổ tiên chúng ta cũng phải quyết giữ gìn cho bằng được. Chúng ta không thể chỉ phản đối miệng mà phải có những biện pháp để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình, khi đất nước bị xâm phạm dân tộc ta luôn rất đoàn kết.
    Tẩy chay hàng Trung Quốc, đả đảo bọn bành trướng Bắc Kinh
  2. anhngayngo

    anhngayngo Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/12/2001
    Bài viết:
    288
    Đã được thích:
    0
    [/quote]
    Hiến kế ở đây là hiến kế cho phong trào biểu tình hôm tới kìa, cách thức tổ chức ra làm sao, phương tiện liên lạc như thế nào, cách bảo vệ các nhân vật cầm đầu phong trào như thế nào.....a b c x y z......
    [/quote]
    Đọc cái này = miạ sợ quá !
    Ông dính đến ba cái vụ này mệt lắm !
    Tớ xin cáo ốm !
    Tớ ko hô được khẩu hiẹu !
    Tớ TÉ !
  3. Vove

    Vove Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    1.048
    Đã được thích:
    0
    Một ý kiến của chị Hồ Lan Hương về bản thông báo nầy (http://360.yahoo.com/profile-B6dpT0o5dK4vLLmbVHuHTIogWDRT21w-?cq=1)
    http://www.tintuconline.vietnamnet.vn/vn/xahoi/175429/
    ?oVề vấn đề trên biển, hai bên thống nhất tăng cường nhịp độ đàm phán, phối hợp giải quyết thoả đáng các vấn đề nảy sinh trên tinh thần láng giềng hữu nghị, đồng chí anh em, không làm phức tạp thêm tình hình.
    - Quan điểm của Việt Nam về việc Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đã được Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ ngày 3/12/2007.
    Chúng tôi được biết sáng 9/12/2007, một số người dân đã tụ tập trước cửa Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Trung Quốc tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bày tỏ bất bình đối với các hành động gần đây của Trung Quốc liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
    Đây là việc làm tự phát chưa được phép của các cơ quan chức năng Việt Nam. Khi các vụ việc trên xảy ra, các lực lượng bảo vệ của Việt Nam đã kịp thời có mặt, giải thích và yêu cầu bà con chấm dứt việc làm này.?
    Bài viết trên đây đọc đi nhai lại tôi nhìn thấy cái thân phận của một nhóm lãnh đạo nước nhược tiểu in hằn trên từng con chữ, chua xót ngậm ngùi.
    Dân tộc Việt nam 4.000 năm lịch sử, bao lần chiến thắng ngoại xâm phương bắc, chúng ta có quyền tự hào về điều ấy.
    Lòng yêu nước của mỗi người dân nằm trong tâm khảm mỗi người và tình yêu ấy được quyền phát tiết bất cứ đâu, bất cứ khi nào.Tình yêu quê hương giống nòi không cần phải xin phép, và nó được quyền biểu lộ bất cứ đâu không cần phải xin phép. ?oĐây là việc làm tự phát chưa được phép của các cơ quan chức năng Việt Nam? !!!!!!! Các anh cho rằng các anh là ai? Mà ngạo ngôn với dân tộc Việt thế này? Các anh có sợ nhà cầm quyền Bắc kinh là quyền của các anh, nhưng các anh không có quyền hạ nhục con dân nước Việt bằng lời lẽ nhún nhường lấy điểm với ?oanh cả đỏ? bằng cách lẽo lự thế này. Lòng tự tôn của các anh đâu?
    [[[?oChúng tôi được biết?,]]] đây là hiệu triệu của hàng chục triệu con tim dân tộc Việt Nam đang bừng bừng phẫn nộ trước cảnh nước non của ông cha để lại đang từ từ bị cướp bởi quân Trung quốc, các ông biết rõ chứ không phải là các ông ?ođược biết?. Nhân dân Việt nam có quyền biểu tình để bày tỏ sự phẫn nộ và truyền lại lòng yêu nước cho con cháu giống nòi chứ không cần ai phải cho phép chúng tôi cả. Chúng tôi tập hợp nhau dưới cờ Tổ quốc của chúng tôi chứ không phải là một đám ô hợp vô công rồi nghề mà ?otụ tập? ăn chơi! Yêu nước không phải chỉ dành riêng cho một ai đó, hay một nhóm nào đó!
    ?oKhi các vụ việc trên xảy ra, các lực lượng bảo vệ của Việt Nam đã kịp thời có mặt, giải thích và yêu cầu bà con chấm dứt việc làm này.?
    Bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của con dân nước Việt !Chúng tôi không làm sai!!!! Không ai có quyền yêu cầu chúng tôi chấm dứt . Các ông can đảm thì hãy đối đầu với nhà cầm quyền Trung quốc, các ông không có quyền miệt thị lòng yêu nước của chúng tôi bằng những ngôn từ như trên !!!!!!!!!!!!
    Chúng tôi sẽ còn tiếp tục chứ không ngồi yên để nhìn Tổ quốc lâm nguy.

  4. thieulam_vietnam

    thieulam_vietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/08/2005
    Bài viết:
    2.121
    Đã được thích:
    1
    Mịa, không biết thằng cha Admin nào cấm cửa không cho mình vào Box_Thảo luận nữa, chim cú thật !

    Mịa, tôi đang bị 1 người ở Cơ quan (xếp) chụp cho cái mũ rất oách là *********, vì can tội dám có tư tưởng chống lại nhà nước Trung Quốc.
    Mịa nó, đời khốn nạn thật.
  5. Vove

    Vove Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    1.048
    Đã được thích:
    0
    Những Tôn Tử Binh Pháp chỉ là huyền thoại do Tàu dựng nên như là một bí kíp quân sự tuyệt vời (như kiểu lăng xê Thiếu lâm là cội nguồn võ học vậy), nhưng lịch sử Tàu cũng đầy dẫy chiến bại. Cái hay của Tàu là họ to quá, đông dân quá :-)
    Nhật từ cuối thế kỷ 19 đã "văn minh" hơn Tàu rồi. Đừng nghĩ mọi thứ của Nhật đều học từ Tàu. Nội trong phẩm chất hàng hóa, đã thấy 2 bên khác nhau rồi
  6. thieulam_vietnam

    thieulam_vietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/08/2005
    Bài viết:
    2.121
    Đã được thích:
    1
    Nó không phải là Huyền thoại gì đâu anh Vove à. Theo những gì tôi đọc thì các Triều đình phong kiến Việt xưa kia đều lấy các binh pháp gia của Tàu khựa + mời các Giáo đầu võ thuật Tàu về dạy trong quân đội,... Những điều này đều đã được ghi lại cả rồi, tất nhiên để phù hợp với Việt Nam ta thì tổ tiên đã cải biên đi chút đỉnh. Học của Tàu để chống lại Tàu mà.
    Nhật thì có 1 thứ vũ khí đáng sợ đó là TINH THẦN, kiểu như tinh thần của các Samurai. Kể từ thế kỷ 16, Nhật Bản đã bao lần làm cho Minh Triều của TQ hoảng sợ. Từ thời Minh Trị bên Nhật thì sau cải tổ theo đường hướng Phương Tây mới khá hơn lên. Nói chung Việt Nam ta muốn chống Tàu tốt thì nên theo gương Nhật Bản hay Hàn Quốc cũng được.
  7. Koone

    Koone Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/12/2006
    Bài viết:
    370
    Đã được thích:
    0
    Không phải chỉ mình bác không vào được box thảo luận đâu.
    Làm người khó. Làm người Việt lại còn khó hơn.
  8. vithuymylove

    vithuymylove Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/05/2007
    Bài viết:
    1.170
    Đã được thích:
    1
    Hóa ra cũng có người bị cấm như mình, cứ tưởng bị làm sao, thằng cha admin bên box thảo luận sao cấm cả mình nữa nhỉ, sẽ có một chủ nhật mình lên chiến đấu cùng các bạn cho nó máu!

  9. danhaiphong

    danhaiphong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/05/2006
    Bài viết:
    1.537
    Đã được thích:
    0
    Hơ hơ, em cũng cóc vào được bác ạ
    Chắc các cụ ra đòn rồi!!!
  10. haio

    haio Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2004
    Bài viết:
    1.979
    Đã được thích:
    0
    http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai12/200712_LeMinhNghia.htm
    ----------------
    Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ
    giữa Việt Nam và các nước láng giềng

    Lê Minh Nghĩa
    (cố Trưởng ban Ban Biên giới của Chính phủ)

    LỜI TÒA SOẠN: Đây là báo cáo của tác giả Lê Minh Nghĩa tại Hội Thảo mùa Hè về ?oPhát triển khu vực châu Á Thái Bình Dương và tranh chấp Biển Đông? tổ chức tại New York City gần mười năm trước, vào ngày 15 và 16 tháng 7, 1998. Dủ có nhiều chi tiết (nhất là liên quan đến các nước ASEAN) cần được cập nhật, để tôn trọng tác giả (đã qua đời năm 2004), Thời Đại Mới xin đăng lại nguyên văn, không cắt xén. Cũng xin lưu ý rằng khi trình bày báo cáo này, tác giả đã về hưu, không còn giữ một chức vụ nào trong Chính phủ Việt Nam.

    Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi đân tộc. Trong đó lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với nhau như hình với bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia. Cho đến đầu thế kỷ 20, pháp luật quốc tế vẫn còn thừa nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một bộ phận hay toàn bộ lãnh thổ của một nước là hợp pháp. Nhưng ngay sau chiến tranh thế gìới thứ haì, Hiến chương Liên Hợp Quốc được thông qua năm 1945 có điều 2, khoản 4 cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một Quốc gia. Cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ và quyết liệt của các dân tộc thuộc địa sau chiến tranh thế giới thứ hai mà dân tộc ta là một đội ngũ tiên phong với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ đã dẫn tới nghị quyết cụ thể và đầy đủ hơn của Liên Hợp Quốc về vấn đề này.
    Nghị quyết 1514 ngày 14/12/1960 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về việc trao trả nền độc lập cho các nước và các đân tộc thuộc địa đã viết: "Mọi hành động vũ trang và mọi biện pháp đàn áp, bất kể thuộc loại nào, chống lạỉ các dân tộc phụ thuộc sẽ phải được chấm dứt để các dân tộc đó có thể thực hiện quyền của họ về độc lập hoàn toàn một cách hoà bình và tự do, và toàn vẹn lãnh thổ của họ sẽ được tôn trọng".
    Nghị quyết 26/25 năm 1970 của Liên Hợp Quốc lại viết: "Các quốc gia có nghĩa vụ không được dùng đe doạ hoặc dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên gỉới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hoặc như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các Quốc gia".
    "Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe doạ hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp".
    Theo những tài liệu hiện có thì triều đình Việt Nam quan tâm chỉ đạo vấn đề biên giới - lãnh thổ từ khoảng thế kỷ thứ 10 sau khi giành lại quyền độc lập tự chủ với chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 và ngày càng củng cố nền độc lập tự chủ đó.
    Theo Tống sử, Tông Cảo sứ giả nhà Tống được phái sang nước ta năm 990 sau chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai năm 981 đã báo cáo rằng khi họ đến "hải giới Giao Chỉ" thì Lê Hoàn (Vua Lê Đại Hành) đã phái 9 chiến thuyền và 300 quân lên đón và dẫn họ đến địa điểm quy định. Trong cuốn Lĩnh ngoại đại đáp (1178), Chu Khứ Phi một viên quan nhà Tống ở Quảng Đông, Quảng Tây đã viết rằng: dòng nước Thiên Phân Dao là định giới giữa ''bíển Giao Chỉ" và biển Quỳnh - Liêm (tức vùng biển Quỳnh Châu, Liêm Châu của Trung Quốc).
    Như vậy là ngay từ thế kỷ thứ 10 và 12 , sứ thần Trung Quốc và quan lại Trung Quốc đã biết đâu là vùng biển Giao Chỉ (tức Việt Nam), đâu là vùng biển Trung Quốc.
    Trong thế kỷ 11 đã diễn ra một số cuộc đàm phán biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc để đòi lại những vùng đất mà Trung Quốc còn chiếm, sau khi phải rút quân trong cuộc chiến tranh xâm lược năm 1076-1077, cuộc chiến tranh đã xuất hiện 4 câu thơ của Lý Thường Kiệt mà hai câu đầu khẳng định chủ quyền lãnh thổ:
    Nam Quốc sơn hà nam đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
    (Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Rành rành định phận tại sách trời).
    Trong các cuộc đàm phán đó có cuộc đàm phán về biên giới năm 1078 do Đào Tòng Nguyên dẫn đầu và cuộc đàm phán năm 1084 do Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh dẫn đầu. Trong thư gửi cho vua nhà Tống đòi đất, vua Lý Nhân Tông viết: "Mặc dầu những đất ấy nhỏ bé nhưng vẫn khiến lòng tôi đau sót luôn luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng."
    Ngoài việc dùng quân sự đánh úp, giải phóng Châu Quang Lang, ngay sau khi đại quân Tống rút lui, đấu tranh kiên trì của triều đình kết hợp với đấu tranh của nhân dân: bắn lén, bỏ thuốc độc cộng thêm khí hậu khắc nghiệt, khiến cho, theo Tống sử, đội quân đồn trú của nhà Tống mỗi năm tổn thất 70%-80% và năm 1079 mặc dầu đã đổi tên Châu Quảng Nguyên thành Thuận Châu vẫn đành coi là vùng "Đất độc" và trả lại cho ta và năm 1084 trả lại cho ta vùng Bảo Lạc, Túc Tang. Khi đi đàm phán biên giới, sứ thần ta đã tặng cho nhà Tống 5 thớt voi khiến cho, theo Đại việt sử ký toàn thư, người Tống có thơ rằng "Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim" nghĩa là vì tham voi của Giao Chỉ mà bỏ mất vàng của Quảng Nguyên (họ đã đánh giá sai nguyên nhân dẫn đến việc trả lại đất).
    Trong Lịch triều Hiến chương Loại Chí viết năm 1821, Phan Huy Chú nhận xét là trong đàm phán về biên gìới đời Lý có hai mặt mạnh: một là có "oai thắng trận", hai là "sứ thần bàn bạc, lời lẽ thung dung, khôn khéo".
    Nhà Trần đã bố trí các trọng thần phụ trách các hướng biên giới: Tướng quốc Thái sư Trần Thủ Độ phụ trách hướng Lạng Sơn, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật phụ trách hướng Hà Giang, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phụ trách hướng Đông Bắc (Người thay Nhân Huệ Vương là con Hưng Đạo Đại Vương, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng).
    Thế kỷ 15 Vua Lê Thái Tổ đã cho khắc vào vách núi đá ở Hoà Bình để nhắc con cháu:
    "Biên phòng hảo vị trù phương lược
    Xã tắc ưng tư kế cửu an"
    (Tạm dịch: việc biên phòng cần có phương lược phòng thủ; đất nước phải lo kế lâu dài).
    Năm 1473, vua Lê Thánh Tông chỉ thị cho những người đi giải quyết vấn đề biên giới với nhà Minh "Chớ để họ lấn dần, nếu các ngươi dám lấy một thước núi, một tấc sông tổ tiên để lại mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di".
    Năm 1466 khi quân Minh cướp bóc vùng Thông Nông, Bảo Lạc thuộc tỉnh Cao Bằng, một mặt nhà vua phản kháng đòi nhà Minh phải bồi thường, mặt khác ra lệnh đầy 2 người chỉ huy ở Cao Bằng đi xa về tội phòng giữ biên giới không cẩn mật và ra sắc dụ cho các tỉnh biên giới: "Người bầy tôi giữ đất đai của triều đình, chức phận là phải bảo toàn cảnh thổ, yên uỷ nhân dân, bẻ gẫy những mũi nhọn tiến công, chống lại những kẻ khinh rẻ nước mình"
    Luật Hồng Đức công bố năm 1483 có điều khoản 74, 88 về bảo vệ đất đai ở biên giới như sau: "Những người bán ruộng đất ở biên cương cho người nước ngoài thì bị tội chém"; Quan phường xã biết mà không phát giác cũng bị tội; "Những người đẵn tre, chặt gỗ ở nơi quan ải thì bị xử tội đồ" (đồ là đầy đi làm khổ sai).
    Chính nhờ cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ, thông minh, khôn khéo của các thế hệ Việt Nam nối tiếp, mặc dầu trong tình hình so sánh lực lượng rất chênh lệch, phong kiến phương Bắc luôn luôn có ý đồ thôn tính, lấn chiếm nhưng biên cương phía Bắc nước ta vẫn hình thành rõ rệt và ổn định về cơ bản từ ngàn năm nay.
    Tạp chí Géographer của Vụ tình báo và nghiên cứu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 29/10/1964 thừa nhận: "Sau hơn 10 thế kỷ bị đô hộ, năm 939 Bắc Kỳ phá vỡ ách đô hộ của Trung Quốc và thành lập vương quốc Đại Cồ Việt ... Nhà nước mới này đã bảo vệ được nền độc lập của mình ... Một đường biên giới gần giống như ngày nay dường như đã tồn tại giữa hai quốc gia" cách đây 10 thế kỷ.
    Trong bài "Tổng Tụ long và đường biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ" năm 1924, Bonifacy, tư lệnh đạo quan binh Hà Giang đầu thế kỷ 20 viết: "Đường biên giới lịch sừ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được xác định một cách hoàn hảo (parfaitement défini). Khi cần người Việt Nam biết bảo vệ các quyền của họ, mặc dầu người Trung Quốc cho rằng không thể có đường biên giới giữa Việt Nam và Thiên Triều".
    Điều mà con cháu ngày nay vô cùng cảm kích, khâm phục, biết ơn là ông cha ta chẳng những chăm lo bảo vệ vững chắc biên cương đất liền mà còn rất quan tâm xác lập và bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên vùng biển.
    Tiếp theo hành động buộc sứ thần Trung Quốc phải thừa nhận "hải giới" Việt Nam cuối thế kỷ thứ 10, nhà Lý đã thành lập trang Vân Đồn để quản lý vùng biển Đông Bắc; nhà Trần nâng trang Vân Đồn thành trấn Vân Đồn trực thuộc triều đình; Nhà Lê đặt tuần kiểm ở các cửa biển để quản lý biển, thu thuế các tầu thuyền nước ngoài. Do vậy chủ quyền Việt Nam trên các đảo vùng biển Đông Bắc được xác lập sớm. Đến thế kỷ 19, khi Pháp yà nhà Thanh đàm phán về vùng biển trong Vịnh Bắc bộ thì không có tranh chấp về chủ quyền đối với các đảo ở vùng này, nhà Thanh phải thừa nhận tất cả các đảo ở phía Tây đường kình tuyến Paris 105o43'' Đ là thuộc chủ quyền của Việt Nam.
    Năm 1171, 1172, vua Lý Anh Tông đích thân đi "tuần tra các hải đảo ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam, Bắc, tìm hiểu đường đí, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật".
    Ở phía Nam, các chúa Nguyễn sau khi xác lập chủ quyền Việt Nam đối với các đảo dọc bờ biển miền Trung và miền Nam: Cồn Cỏ, Ly Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, đầu thế kỷ 18 đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên các đảo trong Vịnh Thái Lan. Khi đặt ách thống trị trên Nam Kỳ và Campuchia, các quan chức Pháp đã tiến hành khảo sát vùng biển giữa hai nước Việt Nam, Campuchia và đứng trước tình hình tất cả các đảo trên vùng biển này về mặt hành chính đều thuộc tỉnh Hà Tiên của Việt Nam. Ngày 25/3/1873 chuẩn đô đốc thống đốc Nam Kỳ Krantz đã thừa nhận thực tế đó trong nghị định quy định đảo Phú Quốc và tất cả các đảo trên vùng biển giữa Nam Kỳ và Campuchia được tách khỏi tỉnh Hà Tiên, lập thành một quận trực thuộc thống đốc Nam Kỳ.
    Đối với các đảo xa bờ, theo chính sử Việt Nam và theo nhiều nhân chứng nước ngoài, từ thế kỷ 17, các chúa Nguyễn với. danh nghĩa Nhà nước đã thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hàng năm ra khai thác và quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Tiếp đó triều Nguyễn rất quan tâm đến việc củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo, các hoàng đế Gia Long, Minh Mạng liên tiếp phái thuỷ quân ra Hoàng Sa - Trường Sa khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ, lập miếu, dựng bia. Theo Đại Nam Thực Lục Chính biên, trong 3 năm: 1833, 1835, 1836 vua Minh Mạng liên tiếp có chi thị về Hoàng Sa.
    Không chỉ chăm lo khai thác hai quần đảo, nhà vua Việt Nam còn lo bảo đảm an toàn cho tàu thuyền Việt Nam và các nước qua lại vùng biển xung quanh hai quần đảo, năm 1833 vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công rằng: "Trong hải phận Quảng Nghĩa, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một mầu; không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm phái người tới đó trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nạn mắc cạn".[1]
    Trong một tài liệu viết năm 1768, đô đốc Pháp D''Estaing, người nhận nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch tiến công vào Việt Nam đã viết rằng: "Việc đi lại giữa quần đảo đá Paracel (tức Hoàng Sa) và đất liền còn khó khăn hơn việc đi lại ngoài biển khơi. Thế mà các thuyền nhỏ của xứ này thường qua lại vùng quần đảo". D''Estaing đánh giá các thủy thủ Việt Nam là "những người quen sông nước và là các thuỷ thủ giỏí". Trong một tài liệu khác viết vào cuối năm 1758 đầu năm 1759, D''Estaing còn nói ở Huế có tới 400 khẩu pháo hầu hết là của Bồ Đào Nha thu lượm từ các xác tầu đắm ở Paracel[2].
    Trong cuốn "Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" xuất ở Paris năm 1996, giáo sư Monique Chemillier Gendreau, chủ tịch Hội luật gia Châu Âu đã vìết; "Khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm 1884, Việt Nam đã nắm giữ không có cạnh tranh và trong khoảng gần hai thế kỷ, một quyền (un droit) đối với các quần đảo (Hoàng Sa, Trường Sa), theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó".[3]
    Từ 1884, Chính quyền Pháp ở Đông Dương đã tiếp tục thực hiện và củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: tiến hành khảo sát khoa học, dựng bia chủ quyền, dựng đèn biển, lập trạm khí tượng, đài vô tuyến điện, đưa quân ra đồn trú, thành lập đơn vị hành chính trên quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa thiên và sát nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.

Chia sẻ trang này