1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Arsenal được thành lập như thế nào, bạn hãy xem ở đây nhé.

Chủ đề trong 'Arsenal (AFFC)' bởi pires07, 15/02/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. pires07

    pires07 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    2.264
    Đã được thích:
    0
    Arsenal được thành lập như thế nào, bạn hãy xem ở đây nhé.

    LỊCH SỬ CLB BÓNG ĐÁ ARSENAL

    CLB Bóng đá Arsenal được khai sinh khi một nhóm công nhân của Xưởng sản xuất vũ khí đạn dược Woolwich đứng đầu là ông D. Danskin quyết định thành lập một đội bóng đá vào cuối năm 1886. Trận đấu đầu tiên của CLB dưới cái tên Dial Square là chiến thắng 6-0 trước Eastern Wanderers vào ngày 11 tháng 12 năm 1886. Sau đó CLB được đổi tên là Royal Arsenal và tiếp tục chơi những trận đấu giao hữu cũng như các cuộc tranh cúp địa phương trong vài năm sau đó. Bộ áo thi đấu đầu tiên được vay mượn từ CLB Nottingham Forest. Năm 1888 sân Manor Ground được coi là sân nhà của CLB nhưng 2 năm sau họ lại được chuyển đến Invicta Ground (thuộc vùng Plumstead).Năm 1891, CLB chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp và lại 1 lần nữa được đổi tên thành Woolwich Arsenal. Mùa bóng 1891-92 là năm đầu tiên của CLB thi đấu giải bóng đá chuyên nghiệp. Năm sau (1893), CLB chính thức gia nhập vào Liên đoàn bóng đá Anh và chơi ở giải hạng Hai. Cũng năm này, sân nhà của CLB lại được dời về Manor Ground. Năm 1896 đánh dấu bằng trận đấu tệ hại nhất trong lịch sử của mình là trận thua đậm Loughborough trên sân đối phương ngày 12 tháng 12 với tỉ số 0-8. Tuy nhiên chỉ 4 năm sau (1900), CLB đã trả lại sòng phẳng với chính đối thủ đã làm nhục họ trong chiều dài lịch sử của mình bằng trận thắng đậm 12-0 trên sân Manor ngày 12 tháng 3 năm 1900. Đây cũng là trận thắng đậm nhất của CLB kể từ trước đến nay.
    Năm 1904, sau khi về nhì ở giải vô địch hạng Hai, CLB được thăng hạng Nhất. Năm 1906 đội vào tới bán kết cúp FA lần đầu tiên trong lịch sử. Tuy nhiên đến năm 1910 thì CLB bị phá sản bởi tiền nợ quá nhiều. Một ý tưởng được đưa ra là CLB nên sát nhập với Fulham nhưng điều đó đã không xảy ra. Công ty mới được thành lập và CLB vẫn không bị giải tán. Mùa bóng 1912-1913 CLB bị xuống hạng với số điểm thấp nhất (18 điểm trong 38 trận) trong suốt 20 mùa bóng CLB thi đấu. Năm này (1913) sân nhà cũng được dời về Highbury và CLB chính thức lấy tên Arsenal. Trận đấu đầu tiên trên sân Highbury là gặp Leicester Fosse (Arsenal thắng 2-1). Giai đoạn này là giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử của mình nhưng cũng từ đây đánh dấu 1 trang sử mới với 1 tên gọi (Arsenal) và 1 sân vận động (Highbury) cho đến tận bây giờ.
    Các cuộc tranh tài bóng đá bị gián đoạn do chiến tranh thế giới (lần 1). Năm 1919 sau khi WW1 chấm dứt thì giải hạng Nhất được mở rộng lên 22 đội. Arsenal được đặc cách thăng lên hạng Nhất dù rằng họ chỉ đứng thứ năm trong giải hạng Hai mùa bóng trước. Kể từ đó Arsenal không bao giờ rớt hạng và trở thành 1 trong những CLB lớn của Liên đoàn Bóng đá Vương quốc Anh. Cũng năm này, ông Leslie Knighton được đề cử làm HLV của Arsenal. Khởi đầu cho những thành công của các pháo thủ (biệt danh của Arsenal là Gunners có từ năm 1925 do HLV Chapman đặt cho) chỉ đến từ khi ông Herbert Chapman làm HLV của Arsenal năm 1925. Năm sau (1926) Arsenal về nhì giải hạng Nhất của Liên đoàn và Rock Rutherford trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất chơi cho Arsenal (41 tuổi 236 ngày) trong trận gặp Manchester City ngày 20 tháng 3 năm 1926. Năm 1927 Arsenal vào chung kết cúp FA lần đầu tiên trong lịch sử nhưng lại thất bại trước Cardiff City với tỉ số 0-1. Tuy nhiên 3 năm sau (1930) họ được hưởng niềm vinh quang đầu tiên trong toàn bộ lịch sử khi chiến thắng Huddersfield Town trong trận chung kết cúp FA với tỉ số 2-0. Chưa hết, ngay năm sau (1931) Arsenal đã trở thành đội vô địch giải hạng Nhất của Liên đoàn (tức giải VĐQG) với số bàn thắng ghi được nhiều nhất trong 1 mùa bóng là 127 bàn. Đây là chức vô địch quốc gia đầu tiên của Arsenal. Năm sau (1932) họ chỉ về nhì giải hạng Nhất nhưng lại vào đến chung kết cúp FA lần thứ ba. Tuy nhiên Arsenal đành nhìn Newcastle United nâng chiếc cúp FA năm đó khi để thua 1-2 ở trận chung kết. Dù chỉ đứng nhì ở cả hai đấu trường VĐQG và cúp FA mùa bóng 1931-1932 nhưng không làm chùn bước các pháo thủ, họ đã nhanh chóng giành lại chức vô địch QG liền ngay mùa bóng 1932-1933 (VĐQG lần 2). Lại 1 mất mác nữa cho Arsenal khi HLV H. Chapman mất tháng Giêng năm 1934. Ông Goerge Allison được đề cử làm HLV thay thế và ông đã không phụ lòng các ủng hộ viên khi đưa Arsenal lần thứ 3 đọat chức VĐQG (lần thứ 2 liên tiếp) mùa bóng 1933-1934. Mùa bóng kế tiếp (1934-1935) ông đã hoàn tất ?ohattrick? 3 lần đoạt chức VĐQG liên tiếp cho CLB. Mùa bóng này còn ghi nhận 2 kỷ lục: 1 do Ted Drake thành lập khi trở thành cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong 1 mùa bóng của Arsenal với 42 bàn. Và 1 kỷ lục nữa do các fan Arsenal lập: 73,295 người có mặt ở sân Highbury trong trận gặp Sunderland ngày 9 tháng 3 năm 1935. Mùa bóng 1935-1936 họ không thể bảo vệ chức VĐQG nhưng lại lần thứ 2 trong lịch sử đọat cúp FA sau khi thắng Sheffield United 1-0 trong trận chung kết. Thập niên 30 là thập niên thành công nhất trong lịch sử của Arsenal với 5 chức VĐQG (trong đó có 3 năm liên tiếp) vào các mùa bóng 1930-31,1932-33, 1933-34, 1934-35, 1937-38; 2 cúp FA các năm 1930, 1936; 5 lần đoạt Charity Shield các năm 1930, 1931, 1933, 1934, 1938.
    Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã đình chỉ mọi hoạt động thể thao kể cả bóng đá từ năm 39 đến 46. George Allison về hưu năm 47, kế nghiệp ông là Tom Whittaker cũng đã đưa Arsenal đi đến những vinh quang kế tiếp cụ thể là chức VĐQG mùa bóng 1947-48 (lần thứ 6 trong lịch sử). Chiếc cúp FA lần thứ 3 được mang về sân Highbury năm 50 sau khi chiến thắng Liverpool 2-0 trong trận chung kết. Mùa bóng 1952-53 đánh dấu 1 kỷ niệm đẹp với Gerry Ward khi anh trở thành cầu thủ trẻ nhất khi mới có 16 tuổi 321 ngày trong trận gặp Huddersfield Town ngày 22 tháng 9 năm 1953. Mùa bóng này là lần thứ 7 Arsenal đoạt chức VĐQG. Tuy nhiên 3 năm sau, lần thứ 2 một HLV bị mất lúc tại chức trong lịch sử Arsenal: ông Tom Whittaker chết năm 1956, kế vị ông là Jack Crayston. Từ năm 56 đến 68 Arsenal thi đấu không thành công và đã nhiều lần thay đổi HLV: Jack Crayston (56-58), Goerge Swindin (58-62), Billy Wright (62- 66), Bertie Mee (66-68). Trong thời gian này Arsenal không có danh hiệu nào quan trọng ngoại trừ đoạt cúp Liên đoàn các quận hạt

    Được arsenal_boy sửa chữa / chuyển vào 20:03 ngày 20/02/2004
  2. pires07

    pires07 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    2.264
    Đã được thích:
    0
    miền Đông-Nam (của đội trẻ năm 56 với HLV Jack Crayston), đoạt cúp FA đội trẻ (năm 66 với HLV Billy Wright), 2 lần vào chung kết cúp Liên đoàn thua Leed United 0-1 năm 68, thua Swindon Town 1-3 năm 69.
    Mở đầu cho thập kỷ 70 là chiếc cúp European Fairs (về sau được gọi là cúp C3 hay UEFA Cúp hiện nay) sau khi thắng 1 CLB Bỉ là Anderlecht 4-3 sau 2 lượt đấu. Tuy nhiên niềm hãnh diện của các fan Arsenal không phải là chiếc cúp châu Âu đầu tiên đó mà là lần đầu tiên trong lịch sử của CLB, họ đoạt cú double trong năm khi mùa bóng 1970-71 họ đã thắng Liverpool 2-1 trong trận chung kết cúp FA (lần 4) và đoạt luôn giải VĐQG (lần 8). Năm này cũng là năm bội thu của CLB khi họ cũng chiến thắng cúp FA dành cho đội tuyển trẻ và 1 lần nữa nâng chiếc cúp Liên đoàn các quận hạt miền Đông-Nam. Mùa bóng kế tiếp (71-72) họ không thể bảo vệ được cú double năm trước dù rằng đã vào tới chung kết cúp FA (lần thứ 8 vào chung kết cúp FA) khi để thua Leed United 0-1. Ông Bob Wall, trợ lý HLV thời Jack Crayston được đề cử làm HLV và ông Ken Friar làm trợ lý. Tuy nhiên ông Bob đã không thể mang lại nhiều thành công cho CLB khi trong 4 năm cầm quyền (từ 72-76) ông chỉ có thể đưa Arsenal về nhì giải VĐQG năm 1973 và lọt vào bán kết cúp FA trong cùng năm đó. Bertie Mee lần thứ 2 lại lên nắm quyền thay Bob năm 76 nhưng vẫn không thể vực dậy 1 Arsenal cần phải thay máu. Ông Mee bị Terry Neill thay thế cũngngay trong năm đó. Ông Terry đã mang lại chút tự hào cho các fan hâm mộ Arsenal khi đưa Arsenal 3 năm liên tiếp vào chung kết cúp FA với 1 lần thắng trận: 1978 thua Ipswich Town 0-1, 1979 thắng MU 3-2 và năm 1980 thua West Ham United 0-1. Cũng trong năm 80, Arsenal lọt vào chung kết cúp các đội đoạt cúp quốc gia (tức cúp C2) gặp Valencia (TBN) nhưng lại thua bằng những quả đá phạt luân lưu.
    Từ năm 1983 đến 1986, Arsenal 2 lần thay HLV: Don Howe thay Terry Neill năm 1983, George Graham thay Don năm 1986. Khi G. Graham lên nắm quyền ở Arsenal thì CLB mới trở lại thời kỳ huy hoàng của họ. Thay thế Don năm 86 thì ngay năm sau ông đã đưa Arsenal đoạt cúp Littlewoods (tên gọi của cúp Liên đoàn lúc đó) sau khi thắng Liverpool 2-1 trong trận chung kết. Năm sau 1988 lại 1 lần nữa Arsenal có mặt ở trận chung kết cúp Littlewoods nhưng lần này thì thất bại 2-3 trước Luton Town. Tuy nhiên niềm vui của họ chỉ là không trọn vẹn mà thôi bởi vì mùa bóng kế tiếp, 1988-89, Arsenal đã vô địch QG (lần thứ 9) và đoạt cúp FA dành cho đội tuyển trẻ (lần thứ 3). Cùng năm đó, G. Graham được bầu là HLV xuất sắc nhất trong năm. Mùa bóng 1990-91, Arsenal vô địch giải QG (lần 10) chỉ với 1 trận thua và chỉ để lọt lưới 18 bàn suốt mùa giải. Một lần nữa G. Graham được bầu là HLV xuất sắc nhất. Năm này họ còn đoạt được cúp Liên đoàn các quận hạt miền Đông-Nam (của đội trẻ) và vào bán kết cúp FA.
    Năm 1992, Arsenal là 1 trong những thành viên sáng lập ra giải Ngoại hạng Anh (EPL). Mùa bóng 1992-93, Arsenal trở thành đội bóng đầu tiên chiến thắng cả cúp FA và cúp Liên đoàn (tức Littlewoods Cup trước đây hay còn gọi là Coca-Cola Cup bởi vì do hãng này tài trợ) trong 1 mùa bóng. Mà điều đặc biệt là đối thủ trong 2 trận chung kết (FA và League) đều là Sheffield Wednesday và đều thua với tỷ số 2-1. Mùa bóng năm đó còn chứng kiến 1 kỷ lục mới trong lịch sử của Arsenal: David O?TLeary là cầu thủ khoác áo Arsenal nhiều nhất 722 trận. Mùa bóng 1993-94, Arsenal lại 1 lần nữa có thêm được chiếc cúp châu Âu (lần trước là European Fairs Cup năm 1970) khi đánh bại Parma (Ý) trong trận chung kết cúp các đội đoạt cúp quốc gia tại Copenhagen (Đan Mạch) với tỉ số 1-0. Năm này họ cũng đoạt cúp FA dành cho đội tuyển trẻ (lần thứ 4). Qua năm sau, 1995, Arsenal không thể làm khác hơn được những đội bóng đã từng đoạt chiếc cúp C2 này khi không thể bảo vệ được cúp mặc dù đã vào đến chung kết tại thành phố Paris. Asenal đã thua Real Zaragosa 1-2 sau khi đá 2 hiệp phụ. Với mùa giải trắng tay, G. Graham đã bị thay thế bởi Bruce Rioch và mùa chuyển nhượng năm đó đã đem Dannis Bergkamp từ Internazional Milano với giá chuyển nhượng kỷ lục trong lịch sử chuyển nhượng của CLB lúc đó là 7.5 triệu bảng Anh. Mùa bóng 1995-1996 lần lượt Bruce Rioch rồi Stewart Houston bị sa thải vì thành tích yếu kém của CLB thì Arsene Wenger xuất hiện. (*).
    Dù đến Arsenal từ năm 96 nhưng đến mùa bóng 97-98 ông Wenger (là HLV đầu tiên của CLB Arsenal không phải người trong các nước Liên hiệp Anh) mới thực sự cầm quân trọn vẹn suốt mùa giải. Ông Wenger không cần phải mất nhiều thời gian như những người tiền nhiệm khi ông mang về cho Highbury cú double thứ 2 trong lịch sử CLB với việc giúp Arsenal đoạt chức vô địch quốc gia (lần thứ 11) từ tay MU- đội đã thống trị EPL từ khi giải này khai sinh với 4 lần chiến thắng trong 6 mùa giải- và thắng Newcastle 2-0 trong trận chung kết cúp FA (lần thứ 7). Chưa kể đầu mùa bóng họ cũng đã có được Charity Shield (lần thứ 9). Mùa bóng 1998-99 Arsenal thất bại trong cả 2 mặt trận giải VĐQG (về nhì) và cúp FA nhưng lại chiến thắng Charity Shield (lần thứ 10). Mùa bóng 2000-01 họ vẫn chưa thể lật đổ được MU-kẻ đã thống trị gần như toàn bộ EPL- khi 3 năm liên tiếp 1999,2000,2001 họ đều về nhì ở giải EPL. Ông Wenger cũng đã làm hơn người HLV tiền nhiệm là ông Terry Neill khi cũng đã 3 lần liên tiếp đưa Arsenal vào chung kết FA với 2 lần thành công: năm 2000-01 thua Liverpool 1-2, 2001-02 thắng Chelsea 2-0, và 2002-03 thắng Southampton 1-0. Không những thế ông Wenger còn là HLV duy nhất (tính đến thời điểm hiện nay) giúp Arsenal 2 lần đoạt cú double vào các năm 1998 và 2002. Mùa bóng vừa qua 2002-03, Arsenal cũng đã dẫn đầu gần như toàn bộ (31/38 vòng đấu) giải EPL nhưng đã để cho MU qua mặt trong những vòng cuối. Dù về nhì ở giải EPL nhưng họ suýt trở thành đội bóng đầu tiên trong lich sử bóngđá Anh bảo vệ thành công cả chức vô địch EPL và cúp FA. Thắng Southampton 1-0 ở trận chung kết để đoạt cúp FA (lần thứ 8) không làm cho họ phải trắng tay ở mùa giải này. Thành công của Arsenal nói chung và của Wenger nói riêng gắn liền với sự du nhập hàng loạt ngôi sao đến từ Pháp, những người đã thành danh từ World Cup 98 và Euro Cup 2000: Patrick Vieira (1996-nay), Emmanuel Petit (1997-2000), Nicolas Anelka (1996-99), Thierry Henry (1999-nay), Sylvain Wiltord (2000-nay), Robert Pires (2000-nay)?
  3. pires07

    pires07 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    2.264
    Đã được thích:
    0
    Đây là toàn bộ thành tích của họ từ lúc khai sinh ra đến hết mùa bóng 2002-03
    Vô Địch Quốc Gia
    1930-31, 1932-33, 1933-34, 1934-35, 1937-38, 1947-48, 1952-53, 1970-71, 1988-89, 1990-91, 1997-98, 2001-02
    Hạng Nhì Giải VĐ Quốc Gia
    1925-26, 1931-32, 1972-73, 1998-99, 1999-2000, 2000-01, 2002-03
    Community Shield
    1930, 1931, 1933, 1934, 1938, 1948, 1953, 1991, 1998, 1999, 2002
    Cúp FA
    1930, 1936, 1950, 1971, 1979, 1993, 1998, 2002, 2003
    Á quân cúp FA
    1927, 1932, 1952, 1972, 1978, 1980, 2001
    Cúp Liên Đoàn (League Cup)
    1987, 1993
    Á quân cúp Liên Đoàn
    1968, 1969, 1988
    Cúp Châu Âu
    European Fairs Cup (tức cúp C3)
    1970
    Á quân cúp C3
    2000
    Cúp C2
    1994
    Á quân cúp C2
    1980, 1995
    NHỮNG ĐIỂU THÚ VỊ VỀ ARSENAL
    - Arsenal là đội đầu tiên của lịch sử bóng đá Anh thắng 2 chiếc cúp nội địa trong 1 mùa bóng khi năm 1993 họ đoạt FA Cup và League Cup sau khi thắng Sheffiled Wednesday trong cả 2 trận chung kết cùng với tỉ số 2-1. Kể từ năm 1993 đến nay thì chỉ có 1 lần duy nhất trong cuộc tranh cúp FA và Liên đoàn có trường hợp như vậy: chỉ có 2 đội trong 2 trận chung kết.
    - Arsenal là đội duy nhất trong lịch sử bóng đá Anh đoạt chức vô địch quốc gia nhờ vào tỉ lệ bàn thắng bại. Mùa bóng 1988-89, trong trận cuối cùng của mùa bóng, họ cần phải thắng với tối thiểu là 2 bàn cách biệt trước Liverpool để qua mặt chính Liverpool để đoạt chức vô địch. Kết qủa họ thắng 2-0.
    - Arsenal là đội bóng có thời gian chơi trong giải hạng cao nhất (trước là hạng Nhất, sau này là EPL) lâu nhất: 85 mùa bóng (kể từ lần rớt hạng năm 1913 và trở lại chơi hạng nhất 1919).
    - Với 3 lần đoạt cú double các mùa bóng 1970-71, 1997-98, 2001-02, Arsenal cùng với MU là 2 đội bóng duy nhất tính tới thời điểm hiện nay của bóng đá Anh đã 3 lần đoạt được cú double.
    - Tony Adams là cầu thủ duy nhất trong lịch sử Arsenal đã 3 lần vô địch quốc gia trong 3 thập kỷ: 1989, 1998 và 2002.
    - Arsenal là đội (có lẽ là duy nhất nếu như ai đó không thể thống kê được điều này) giành được các danh hiệu trong mỗi ngày của tuần: từ thứ Hai cho đến Chủ nhật. Bạn không tin? Ta hãy thử xem:
    Thứ Hai: VĐQG mùa bóng 1971.
    Thứ Ba: đoạt cúp C3 năm 1970
    Thứ Tư: đoạt cúp C2 năm 1994 , VĐQG năm 2002
    Thứ Năm: đoạt cúp FA năm 1993
    Thứ Sáu: VĐQG năm 1989.
    Thứ Bảy: đoạt cúp FA 1998 và 2002
    Chủ Nhật: VĐQG 1998, Cúp Liên đoàn 1987 và 1993

    Trên đây chỉ liệt kê 1 số danh hiệu trong 1 ngày mà thôi. Arsenal vẫn còn nhiều danh hiệu nhưng đa số là vào các ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật.
    - Dù đã 12 lần VĐQG nhưng chưa có HLV nào của Arsenal 2 lần liên tiếp đoạt chức VĐQG. Trong lịch sử, Arsenal chỉ có 1 lần VĐQG liên tiếp (3 lần liền) nhưng lại do 3 HLV khác nhau nắm quyền. Mùa bóng 1932-33 do ông Herbert Chapman. Mùa bóng 1933-34, ông Chapman mất tháng Giêng 1934, ông Allison không lên nắm quyền ngay mà mãi đến đầu mùa bóng sau 1934-35, ông mới chính thức là HLV của CLB. Còn khi ông Chapman mất thì nữa mùa bóng còn lại 1933-34 thì ông Joe Shaw nắm quyền và ông đã đưa Arsenal VĐQG mùa bóng đó. Như vậy, Arsenal VĐQG mùa 1932-33 với Chapman, 1933-34 với Joe và 1934-35 với Allison.
    - Tổng cộng kể từ lúc thành lập đến nay, Arsenal đã chơi 4701 trận trên tất cả các giải đấu. Họ thắng 2148 trận, hòa 1171 trận và thua 1382 trận; ghi được 7829 bàn thắng (tỉ lệ 1.67 bàn/trận), để lọt luới 5861 bàn thua (1.25 bàn/trận).
    - Trận thắng đậm nhất: Arsenal 12 - 0 Ashford United (14/10/1893) và Arsenal 12 - 0 Loughborough T (12/03/1900).
    - Trận thua đậm nhất: Loughborough T 8 - 0 Arsenal (12/12/1896).
    - Số trận thắng liên tục: 14 trận (từ ngày 12/09/1987 - 17/11/1987).
    - Số trận bất bại liên tục: 24 trận (từ ngày 23/03/2002 - 06/10/2002)
    - Số trận không thắng liên tục: 19 trận (từ ngày 28/09/1912 - 11/01/1913)
    - Số trận thua liên tục: 8 trận (từ ngày 12/02/1977 - 12/03/1977)
    - Những cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong lịch sử CLB Arsenal
    01. Ian Wright 185 bàn
    02. C.Bastin 182 bàn
    03. J.Radford 150 bàn
    04. J.Brain 142 bàn
    05. E.Drake 141 bàn
    06. D.Lishman 139 bàn
    07. J.Hulme 128 bàn
    08. Thierry Henry 126 bàn
    09. D.Jack 126 bàn
    10. R.Lewis 118 bàn
    - Những cầu thủ khoác áo Arsenal nhiều nhất
    01. D.Oleary 772 trận
    02. Tony Adams 668 trận
    03. Lee Dixon 618 trận
    04. G.Armstrong 607 trận
    05. Nigel Winterburn 582 trận
    06. David Seaman 563 trận
    07. P.Rice 521 trận
    08. P.Storey 494 trận
    09. J.Radford 475 trận
    10. R.John 470 trận
    Được arsenal_boy sửa chữa / chuyển vào 20:11 ngày 20/02/2004
  4. pires07

    pires07 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    2.264
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG CẦU THỦ ĐÃ TỪNG KHOÁC ÁO ARSENAL
    George Allison (Manager) 1934-47
    Viv Anderson - Vivian Alexander Anderson 1984-87
    Nicolas Anelka 1996-99
    George Armstrong - George Armstrong 1961-77
    Jimmy Ashcroft - James Ashcroft 1900-08
    Alf Baker - Alfred Baker 1919-31
    Joe Baker - Joseph Henry Baker 1962-66
    Alan Ball - Alan James Ball 1971-77
    Wally Barnes 1946-56
    John Barnwell 1956-64
    Cliff Bastin - Clifford Sydney Bastin 1929-47
    Fred Beardsley 1886-1891
    Albert Beasley - Albert Edward Beasley 1931-37
    Rob Benson - Robert William Benson 1913-15
    Jimmy Bloomfield - James Henry Bloomfield 1954-61
    Billy Blyth - William Naismith Blyth 1914-29
    Stevie Bould - Stephen Andrew Bould 1988-99
    Ray Bowden - Edwin Raymond Bowden 1932-38
    Dave Bowen - David Lloyd Bowen 1950-59
    Frank Bradshaw 1914-23
    Liam Brady - William Liam Brady 1973-80
    Jimmy Brain - James Brain 1924-31
    Charlie Buchan - Charles Murray Buchan 1925-28
    Jack Butler - John Dennis Butler 1919-30
    Kevin Campbell - Kevin Joseph Campbell 1987-95
    Herbert Chapman - Herbert Chapman 1925-34 (Manager)
    Danny Clapton - Daniel Robert Clapton 1954-62
    Ernest Tim Coleman - Ernest Coleman 1931-34
    J G Tim Coleman - John George Coleman 1902-08
    Alf Common - Alfred Common 1910-13
    Denis Compton - Denis Charles Scott Compton 1936-50
    Leslie Compton - Leslie Harry Compton 1931-50
    Wilf Copping - Wilfred Copping 1934-39
    Freddie Cox - Frederick James Arthur Cox 1949-53
    Gavin Crawford 1891-98
    Jack Crayston - William John Crayston 1934-39
    Ray Daniel - Raymond William 1948-53
    David Danskin 1886-????
    Paul Davis - Paul Vincent Davis 1971-92
    John Dick - 1898-1910
    Bill Dodgin - William Dodgin 1952-60
    Ted Drake - Edward Joseph Drake 1934-39
    Andy Ducat - Andrew Ducat 1904-12
    George Eastham - George Edward Eastham 1960-66
    Denis Evans - Dennis Joseph Evans 1953-60
    Alf Fields - Alfred George Fields 1938-51
    Alex Forbes - Alexander Rooney Forbes 1947-56
    Charlie George - Frederick Charles George 1969-75
    Peter Goring - Harold Goring 1949-59
    Bill Gooing - William Henry Gooing 1901-05
    Bobby Gould - Robert Alfred Gould 1967-70
    Alex Graham - Alexander Graham 1912-24
    George Graham 1966-73
    George Graham - Manager 1986-95
    Archie Gray - Archibald Gray 1904-12
    Perry Groves 1986-93
    Vic Groves - Victor George Groves 1955-64
    Eddie Hapgood - Edris Albert Hapgood 1927-45
    Joe Haverty - Joseph Haverty 1954-61
    Martin Hayes 1981-90
    Jackie Hendeson - John Gillespie Hendeson 1958-62
    David Herd - David George Herd 1954-61
    Cliff Holton - Clifford Charles Holton 1947-56
    Don Howe - Donald Howe 1964-67 (player)
    Don Howe - Donald Howe (Manager / Coach) 1984-86
    Alan Hudson - Alan Anthony Hudson 1976-78
    Joe Hulme - Joseph Harold Anthony Hulme 1926-38
    David Jack - David Bone Nightingale 1928-34
    Jimmy Jackson - James Jackson 1899-1905
    Alex James - Alexander Wilson James 1929-37
    Caesar Jenkyns - Caesar Augustus Llewelyn Jenkins 1895-96
    Pat Jennings - Patrick Anthony Jennings 1977-85
    Johnny Jensen - John Jensen 1992-96
    Bob John 1922-37
    Bryn Jones - Brynmor Jones 1938-49
    Charlie Jones - Charles Jones 1928-34
    Leslie Jones - Leslie Jenkin Jones 1937-46
    Bernard Joy 1935-47
    William Julian - J William Julian 1889-1891
    Eddie Kelly - Edward Patrick Kelly 1969-76
    Jack Kelsey - Alfred John Kelsey 1950-62
    Andy Kennedy - Andrew Lynd Kennedy 1922-28
    Ray Kennedy - Raymond Kennedy 1969-74
    Alf Kirchen - Alfred John Kirchen 1934-39
    Jack Lambert - John Lambert 1926-34
    Tommy Lawton - Thomas Lawton 1953-56
    Charlie Lewis - Charles Henry Lewis 1907-1920
    Dan Lewis - Daniel Lewis 1924-30
    Reg Lewis - Reginald Lewis 1937-52
    Anders Limpar - Anders Erik Limpar 1990-94
    Andy Linighan - Andrew Linighan 1990-97
    Doug Lishman - Douglas John Lishman 1948-56
    Jimmy Logie - James Tullis Logie 1945-55
    John Lukic - Jovan Lukic 1983-90 1996-2001
    Archie Macaulay - Archibald Renwick Macaulay 1947-50
    Malcolm Macdonald - Malcolm Ian Macdonald 1976-79
    George Male - Charles George Male 1930-48
    Peter Marinello 1969-73
    Brian Marwood - Brian Marwood 1987-90
    Billy McCullough - William James McCullough 1958-66
    Jimmy McGill - James Morrison McGill 1965-67
    Roderick McEachrane - Roderick John 1902-14
    Angus McKinnon 1908-22
    Frank McLintock - Francis McLintock MBE 1964-73
    Bob McNab - Robert McNab 1966-75
    Bertie Mee - Bertie Mee OBE (Manager) 1966-76
    Joe Mercer OBE Joseph Mercer OBE 1946-54
    Paul Merson - Paul Charles Merson 1986-97
    Billy Milne - William Milne 1921-27
    Arthur Milton - Clement Arthur Milton 1950-55
    Frank Moss 1931-36
    Terry Neill - William John Terence 1960-70
    Terry Neill (Manager)
    Sammy Nelson - Samuel Nelson 1969-81
    Charlie Nicholas 1983-88
    Peter Nicholas 1980-83
    Sir Henry Norris (Chairman)
    Kevin O''Flanagan - Kevin Patrick O''Flanagan 1945-49
    David O''Leary - David Anthony - 1973-93
    Marc Overmars - 1997-2000
    Tom Parker - Thomas Robert Parker 1925-33
    Dr Jimmy Paterson MB MC - James A Paterson 1927-29
    Emmanuel Petit - Emmanuel Petit 1997-2000
    Vladimir Petrovic - Vladimir Petrovic 1982-83
    David Platt - David Andrew Platt 1995-98
    Joe Powell - Joseph Powell 1892-97
    Charles Preedy - Charles James Fane Preedy 1929-33
    David Price - David James Price 1972-81
    Niall Quinn - Niall John Quinn 1985-90
    John Radford - John Radford 1963-77 text to follow
    Pat Rice - Patrick James Rice 1967-81
    Kevin Richardson 1987-90
    Jimmy Rimmer - John James Rimmer 1973-77
    Graham Rix 1976-88
    Herbie Roberts - Herbert Roberts 1926-38
    Ralph Robinson
    Stewart Robson - Stewart Ian Robson 1981-87
    ''Rocky'' Rocastle - David Carlyle Rocastle 1985-92
    Ronnie Rooke - Ronald Leslie Rooke 1946-49
    Don Roper - Donald George Beaumont Roper 1947-57
    Jock Rutherford - John Rutherford 1913-26 or John James 1925-26?
    Jon Sammels - Jonathon Charles Sammels 1962-71
    Percy Sands - Percy Robert Sands 1903-15
    Kenny Sansom - Kenneth Graham Sansom 1980-88
    Charlie Satterthwaite - Charlie Oliver Satterwaite 1904-10
    Stefan Schwartz 1994-95
    Laurie Scott - Laurence Scott 1945-52
    Joe Shaw - Joseph E Shaw 1907-22
    Jimmy Sharp - James Sharp 1905-08
    Silvinho - Sylvio Mendes Campos Junior 1999-2001
    Peter Simpson - Peter Frederick Simpson 1963-78
    Alan Smith - Alan Martin Smith 1987-95 text to follow
    Lionel Smith 1947-54
    Frank Stapleton - Francis Anthony Stapleton 1974-81
    Peter Storey - Peter Edwin Storey 1965-77
    Harry Storer - Harold Storer 1894-96
    Geoff Strong - Geoff Hugh Strong 1960-65
    Davor Suker 1999-2000
    Alan Sunderland 1977-84
    George Swindon - George Hedley Swindon 1936-54
    Brian Talbot - Brian Ernest Talbot 1979-85
    Derek Tapscott - Derek Robert Tapscott 1953-58
    Michael Thomas - Michael Lauriston Thomas 1986-92
    Bob Turnbull - Robert Hamilton Turnbull 1921-25
    Ian Ure - John Francombe Ure 1963-70
    Paul Vaessen - Paul Leon Vaesson 1978-82
    Joe Wade - Joseph Samuel Wade 1945-55
    Gerry Ward - Gerald Ward 1953-63
    Tom Whittaker - Thomas James Whittaker 1912-25 1937-46
    Chris Whyte - Christopher Anderson Whyte 1981-86
    Steve Williams - Steven Charles Williams 1984-88
    Bob Wilson - Robert Primrose Wilson 1963-74 WILL BE APPEARING SOON
    Nigel Winterburn - Nigel Winterburn 1987-2000
    Tony Wood**** - Anthony Stewart Wood**** 1982-86
    Ian Wright - Ian Edward Wright 1991-98
    Willie Young - William David Young 1976-82
    ???
    Danh sách vẫn chưa đầy đủ, cần bổ sung trong tương lai.
  5. pires07

    pires07 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    2.264
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG KỶ LỤC DO ARSENAL THIẾT LẬP VÀ NẮM GIỮ
    Phần1: Những kỷ lục trong bóng đá Anh
    NHỮNG KỶ LỤC ĐANG TRÊN ĐÀ THIẾT LẬP
    1. Số trận bất bại nhiều nhất kể từ đầu mùa bóng tại giải Ngoại hạng: 21 trận. Sau trận thắng Middleborough ngày 10 tháng 1 vừa qua, Arsenal đã nâng kỷ lục bất bại của họ trong khuôn khổ EPL lên con số 21.
    Kỷ lục cũ cũng do Arsenal đồng nắm giữ cùng với Liverpool (mùa bóng 2002-2003), Aston Villa (1998-99) và Nottingham Forest (1995-96) với 12 trận bất bại.
    Đây là năm thứ 3 khởi đầu thành công nhất trong lịch sử của Arsenal. Lần đầu là vào mùa bóng 1947-48 với 17 trận. Lần thứ 2 là mùa bóng 1990-91 với 23 trận. Trong cả 2 lần đó Arsenal đều đoạt chức vô địch quốc gia.
    2.Số mùa bóng liên tục trong giải VĐQG hạng cạo nhất (hạng I trước đây và EPL ngày nay) nhiều nhất: 85 mùa bóng. Được đặc cách thăng hạng năm 1919 sau khi rớt xuống hạng II năm 1913, Arsenal đã không bị rớt hạng cho đến bây giờ để thiết lập nên 1 kỷ lục khó lòng bị đánh đổ.
    Đội có khả năng tiếp cận kỷ lục của Arsenal là Everton nhưng để đạt được điều đó thì Everton phải mất 35 năm nữa (với điều kiện là Arsenal rớt hạng năm nay) bởi vì hiện tại Everton chỉ có mặt liên tục ở giải VĐQG (hạng I & EPL) 50 mùa bóng mà thôi.
    NHỮNG KỶ LỤC ARSENAL ĐÃ VÀ ĐANG NẮM GIỮ
    1. Số trận ghi bàn liên tục nhiều nhất trong giải VĐQG (hạng I & EPL): 55 trận. Kỷ lục được thiết lập từ trận thua Southampton 2-3 ngày 19/5/01 cho đến trận thắng Aston Villa 3-1 ngày 30/11/02. Cột mốc cho kỷ lục này là trận hoà Newcastle 0-0 ngày 15/5/01 (trước kỷ lục) và thua MU 0-1 ngày 07/12/02 (chấm dứt kỷ lục).
    Kỷ lục cũ do Mancheter City nắm giữ với 44 trận ghi bàn liên tục tại giải hạng I trước đây vào năm 1936 đến 1937. Việc liên tục ghi bàn trong thời gian này đã giúp Man City đoạt chức vô địch mùa bóng 1936-1937 từ tay Arsenal (Arsenal về nhì mùa bóng đó). Tuy nhiên mùa bóng năm sau 1937-38, Man City lại bị rớt hạng. Một đội rớt hạng là chuyện bình thường. Đội rớt hạng là đương kiêm vô địch cũng không phải là hiếm nhưng Man City rớt hạng còn với tư cách là đội ghi nhiều bàn thắng nhất mùa bóng đó với 80 bàn (để lọt lưới 77 bàn) trong khi Arsenal là đội vô địch năm đó chỉ về nhì với 77 bàn thắng. Điều này cũng có nghĩa là Man City rớt hạng với tỷ lệ bàn thắng bại là dương 3. Có lẽ đây là trường hợp có 1 không 2 trong lịch sử bóng đá Anh và có thể của cả thế giới.
    Cũng với 55 trận ghi bàn liên tục này , Arsenal còn là đội giữ kỷ lục cho tất cả các giải đấu của bóng đá Anh (gồm tất cả các hạng EPL, I, II, III?). Đội giữ kỷ lục cũ là Chesterfield (hạng III) từ năm 1929 đến 1931 với 46 trận.
    2. Số trận ghi bàn liên tục trên sân đối phương nhiều nhất: 27 trận được thiết lập trong 2 mùa bóng 2001-02 đến 2002-03. Kỷ lục cũ do MU thiết lập với 24 trận trong 3 mùa bóng 2000-01, 2001-02, đến 2002-03.
    Đây có lẽ cũng là kỷ lục của bóng đá Anh được ghi nhận.
    3. Số trận bất bại liên tục nhiều nhất trên sân đối phương tại giải VĐQG:23 trận được thiết lập trong mùa bóng 2001-2002 kéo dài sang mùa bóng 2002-2003 và được chấm dứt trong trận thua Everton 1-2 ngày 19/10/02.
    Đây cũng là 1 kỷ lục của bóng đá Anh trong tất cả các hạng. Kỷ lục cũ do Nottingham Forest giữ từ tháng 11/1977 đến 12/1978.
    4.Số trận bất bại nhiều nhất tại giải EPL: 30 trận được bắt đầu bằng trận thắng Liverpool 2-1 (tại Anfield) ngày 23/12/2001 đến trận thua Everton 1-2 ngày 19/10/02.
    Kỷ lục cũ do MU nắm giữ từ năm 1998-99 với 29 trận.
    5. Số trận thắng liên tục nhiều nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I & EPL): 13 trận. Kỷ lục được thành lập từ nửa cuối mùa bóng 2001-02 bắt đầu bằng trận thắng tại Everton 1-0 ngày 10/2/02 và kết thúc bằng trận thắng trên sân nhà 4-3 trước ?Everton (trận cuối cùng của mùa bóng) ngày 11/5/02.
    Kỷ lục cũ doTottenham giữ ở mùa bóng 1960-61 là 11 trận.
    6. Số trận thắng liên tục nhiều nhất tại giải VĐQG (hạng I & EPL): 14 trận được thành lập từ trận thắng Everton 1-0 ngày 10/2/02 (mùa bóng 2001-02) đến trận thắng Birmingham 2-0 (trận đầu tiên của mùa bóng 2002-03) ngày 18/8/02.
    Kỷ lục cũ cũng do Tottenham giữ với 13 trận trong thập niên 60.
    Với 14 trận thắng liên tục này trong giải VĐQG, Arsenal cũng đã cân bằng kỷ lục 14 trận thắng liên tục được tính cho mọi hạng đấu do MU (1904-05), Bristol City (1905-06), và Preston North End (1950-51). Tất cả đều thiết lập tại giải hạng II
    7.Số trận thắng liên tục nhiều nhất trên sân đối phương tại giải EPL: 8 trận. Kỷ lục thành lập trong mùa bóng 2001-02 được bắt đầu bằng trận thắng tại Leicester 3-2 ngày 23/1/02 và kết thúc bằng trận thắng 1-0 tại MU ngày 8/5/02. Sau đó là trận hòa 2-2 tại West Ham.
    8.Số trận thua ít nhất trong 1 mùa bóng tại giải EPL: 3 trận trong mùa bóng 2001-02. Kỷ lục này còn do MU (1998-99, 1999-2000), và Chelsea (1998-99) đồng nắm giữ.
    9.Số trận thua ít nhất trong 1 mùa bóng ở giải VĐQG trong thế kỷ XX (từ mùa bóng 1900-91 trở về sau kể cả EPL): 1 trận ở mùa bóng 1990-91.
    Nếu tính toàn bộ thời gian (trước và sau thế kỷ XX) thì Preston North End mới là đội có số trận thua ít nhất trong 1 mùa bóng: 0 trận ở mùa bóng 1888-89 nhưng khi đó họ chỉ đấu có 22 trận mà thôi trong khi Arsenal là 38 trận.
    10.Số bàn thua ít nhất trong 1 mùa bóng tại giải EPL: 17 bàn (38 trận) trong mùa bóng 1998-99.
    Kỷ lục cho toàn bộ giải VĐQG (hạng I & EPL) là 16 bàn thua (42 trận) do Liverpool thiết lập ở mùa bóng 1978-79. Đây cũng là kỷ lục trong toàn bộ VĐQG các hạng của bóng đá Anh.
    11. Số lần lọt vào chung kết cúp FA nhiều nhất: 16 lần.
    Kỷ lục cũ do MU nắm giữ với 15 lần vào chung kết.
    12. Số lần vào bán kết cúp FA nhiều nhất: 23 lần.
    Kỷ lục này ngang bằng với kỷ lục mà Everton nắm giữ khá lâu.
    13. Số ần đoạt cú double (VĐQG và cúp FA) nhiều nhất: 3 lần vào các mùa bóng 1970-71, 1997-98 và 200-02.
    Kỷ lục này đồng nắm giữ cùng với MU ở các mùa bóng 1993-94, 1995-96 và 1998-98.
    14. Số lần đoạt cú double (cúp FA và cúp Liên đoàn) nhiều nhất: 1 lần được thiết lập trong năm 1993 khi thắng Sheffield Wednesday trong cả 2 trận CK đều với tỉ số 2-1.
    Kỷ lục này sau đó cũng được Liverpool gia nhập trong mùa bóng 2001.
    15.Số điểm thắng được trên sân đối phương nhiều nhất trong 1 mùa giải: 47 điểm thu được trong mùa bóng 2001-02.
    16. Số trận thua ít nhất trên sân đối phương trong 1 mùa bóng: 0 trận cũng trong mùa bóng 2001-02.
    Chỉ có 1 đội bóng khác không bi đánh bại trên sân đối phương trong suốt 1 mùa bóng là Preston North End ở mùa bóng 1888-89. Tuy nhiên lúc đó Preston NE chỉ đấu có 11 trận (trên sân đối phương) trong khi Arsenal là 19 trận.
    17. Số lần VĐQG liên tục nhiều nhất: 3 lần vô địch ở các mùa bóng 1932-33, 1933-34 và 1934-35.
    Kỷ lục này cũng có tên của Hudderdfield Town (1923-24, 1924-25 và 1925-26), Liverpool (1981-82, 1982-83 và 1983-84) và MU (1998-99, 1999-2000 và 2000-01).
    18. Số cầu thủ da đen nhiều nhất trong 1 trận đấu của CLB: 9 cầu thủ. Trong trận gặp Leed United ngày 2/9/02 thì trong đội hình của Arsenal có mặt của Cole, Campbell, Lauren, Toure, Vieira, Gilberto, Wiltord, Henry và Kanu.
    19.Số cầu thủ có mặt trong 1 trận đấu của đội tuyển Anh nhiều nhất: 7 cầu thủ. Trong trận gặp Ý ngày 14/11/1934 Arsenal đóng góp tất cả 7 cầu thủ (dĩ nhiên là trong đôi hình chính thức bởi vì trong thời gian đó luật bóng đá vẫn chưa cho phép thay cầu thủ): Frank Moss, George Male, Edris Hapgood, Wilfred Copping, Raymond Bowden, Ted Drake, Clifford Bastin. Đây cũng là trận khoác áo lần đầu tiên của Drake cho tuyển Anh.
    20. Số bàn thắng ghi được nhiều nhất cho tuyển U-21 Anh: 13 bàn do Franny Jeffers cân bằng kỷ lục của Alan Shearer trong trận hòa Thổ Nhĩ Kỳ 1-1 ngày 1/4/03 trong khuôn khổ vòng loại Euro 2004. Lúc này Jeffers còn khoác áo Arsenal.
    21. Số trận ghi bàn liên tục của 1 cầu thủ trong giải EPL: 7 trận do Henry thiết lập.
    Kỷ lục này cũng có tên của Alan Shearer và Mark Stein.
    22. Số bàn thắng ghi được nhiều nhất của 1 cầu thủ Pháp dưới màu áo của 1 CLB nước ngoài: 130+ bàn thắng của Thierry Henry.
    Kỷ lục cũ do huyền thoại Michel Platini nắm giữ với 104 bàn thắng dưới màu áo Juventus. Henry cân bằng kỷ lục này (104 bàn) trong trận gặp Newcastle ngày 9/2/03.
    23. Số bàn thắng ghi được nhiều nhất của 1 cầu thủ trong 1 trận tại giải VĐQG (hạng I & EPL): 7 bàn do Ted Drake thiết lập trong trận thắng tại Aston Villa 7-1 ngày 14/12/1935. Tất cả các bàn thắng của Arsenal trong trận này đều do Ted ghi.
    Lẽ ra thì trong trận này kỷ lục không dừng lại ở con số 7 nếu may mắn hơn. Ngoài 7 bàn thắng ghi được, Ted còn có 2 cơ hội ăn bàn: 1 cú sút trúng xà ngang và 1 cú sút do thủ môn phá ra.
    24. Cầu thủ lớn tuổi nhất lần đầu tiên khoác áo tuyển Anh: Leslie Compton ở tuổi 38. Tiền vệ trung tâm của Arsenal chính thức được khoác áo đội tuyển Anh lần đầu tiên trong trận gặp Wales ngày 15/11/1950.
    25. Bàn thắng ghi được nhanh nhất trong lịch sử giải Champions League: 20.07 giây do Gilberto thiết lập trong trận gặp PSV Eindhoven.
    Kỷ lục cũ do Del Piero nắm giữ là 20.12 giây.
    Phần 2: Những kỷ lục trong phạm vi CLB Arsenal:Bao gồm tất cả các kỷ lục trong bóng đá Anh
    1. Cầu thủ trẻ tuổi nhất: Cesc Fabregas lúc 16 tuổi 177 ngày trong trận gặp Rotherham tại cúp Liên đoàn ngày 28/10/03.
    Kỷ lục cũ do Jermaine Pennant giữ.
    2. Cầu thủ ghi bàn trẻ tuổi nhất: Cesc Fabregas.
    Cesc Fabregas đã ghi bàn trong trận thắng Wolves 5-1 tại cúp Liên đoàn vào ngày 2/12/03 lúc Cesc mới có 16 tuổi 212 ngày.
    Kỷ lục cũ do huyền thoại Cliff Bastin giữ khi ông ghi bàn lúc 17 tuổi 296 ngày.
    3. Trận thắng đậm nhất trong giải VĐQG (hạng !, II và EPL): 12-0 trước Loughborough ngày 12/3/1900 tại giải VĐQG hạng II.
    4. Trận thua đậm nhất trong giải VĐQG (hạng !, II và EPL): 0-8 trước Loughborough ngày 12/12/896 cũng tại giải hạng II.
    5. Trận thắng đậm nhất trong giải cúp FA: 11-1 trước Darwen tại vòng 3 năm 1931-32.
    6. Trận thua đậm nhất trong giải cúp FA: 0-6 trước Derby County tại vòng 1 năm 1899; 0-6 trước West Ham tại vòng 3 (lượt đi) năm 1945-46.
    7. Trận thắng đậm nhất trong giải cúp Liên Đoàn: 7-0 trước Leed United tại vòng 2 (lượt về) mùa bóng 1979-80.
    8. Trận thua đậm nhất trong giải cúp Liên Đoàn: 0-5 trước Chelsea tại vòng 4 mùa bóng
    1998-99.
    9. Trận thắng đậm nhất trong giải cúp châu Âu: 7-0 trước Standard Liege (Bỉ) tại vòng 2 (lượt đi) cúp C2 mùa bóng 1993-94.
    10. Trận thua đậm nhất trong giải cúp châu Âu: 2-5 trước Spartak Moscow (USSR) tại vòng 1 (lượt về) cúp C3 mùa bóng 1982-83.
    11. Số bán thắng ghi được nhiều nhất trong 1 mùa tại giải VĐQG: 127 bàn ở mùa bóng 1930-31.
    12. Số trận thắng liên tục trên sân nhà nhiều nhất: 12 trận được bắt đầu từ trận thắng Fulham 4-1 ngày 25/2/02 đến trận thua Blackburn Rovers 1-2 ngày 26/10/02.
    13. Số bàn thắng ghi được ít nhất trong 1 mùa bóng: 26 bàn ở mùa bóng 1912-13.
    14. Số bàn thua nhiều nhất trong 1 mùa bóng: 86 bàn trong các mùa bóng 1926-27 và 1927-28.
    15. Số trận thắng nhiều nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I, II và EPL): 29 trận ở mùa bóng 1970-71.
    16. Số trận thắng ít nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I, II và EPL): 3 trận ở mùa bóng 1912-13.
    17. Số trận thua ít nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I, II và EPL): 1 ở mùa bóng 1990-91.
    18. Số trận bất bại nhiều nhất kể từ đầu mùa bóng: 23 ở mùa bóng 1990-91.
    19. Số trận thắng liên tục nhiều nhất trong 1 mùa bóng tại giải VĐQG (hạng I, II và EPL): 13 trận ở mùa bóng 2001-02.
    20. Số điểm thu được cao nhất trong 1 mùa bóng ở giải VĐQG: 66 điểm ở mùa bóng 1930-31 (với 2đ/trận thắng) và 87 điểm ở mùa bóng 2001-02 (với 3đ/trận thắng).
    21. Số điểm thu được cao nhất trên sân đối phương trong 1 mùa bóng ở giải VĐQG: 47 điểm mùa bóng 2001-02 (với 3 điểm/trận thắng).
    22. Số trân thắng liên tục nhiều nhất trên sân đối phương trong 1 mùa bóng: 8 ở mùa bóng 2001-02. Đây cũng là kỷ lục của EPL.
    23. Số điểm thu được ít nhất trong 1 mùa bóng: 18 điểm ở mùa bóng 1912-13.
    24. Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất cho CLB: Ian Wright với 185 bàn thắng từ 1991-98.
    25. Cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất cho CLB trong 1 mùa bóng: Ted Drake với 42 bàn thắng ở mùa bóng 1934-35.
    26. Ghi nhiều bàn thắng nhất trong 1 trận đấu: 7 bàn doTed Drake thiết lập ở trận gặp Aston Villa ngày 14/12/135.
    27. Số trận ghi bàn liên tục nhiều nhất của 1 cầu thủ: 10 trận do Ian Wright (mùa bóng 1994-95) và Thierry Henry (1999-2000) cùng giữ.

    28. Khoác áo CLB Arsenal nhiều nhất trong lịch sử: với 722 lần từ năm 1973-1993 của David O''''Leary.
    29. Khoác áo CLB Arsenal nhiều nhất trong giải VĐQG: 552 lần của David O''''Leary.
    30. Số lượng khán giả đông nhất tại SVĐ Highbury: 73295 người trong trận gặp Sunderland ngày 9/3/1935.
    31. Phí chuyển nhượng phải trả cao nhất: 13 triệu bảng Anh cho Bordeaux (Pháp) để mua Sylvain Wiltord tháng 8/2002.
    32. Phí chuyển nhượng thu được cao nhất khi bán cầu thủ: 23.5 triệu bảng Anh từ Real Madrid khi bán Nicolas Anelka tháng 8/1999. Và 30 triệu bảng Anh từ Barcelona khi bán Marc Overmars và Emmanuel Petit tháng 8/2000.
    (còn tiếp)
    .....................hiện nay chúng ta đã 25 trận bất bại tại GNH đã là 1 kỉ lục nữa,hy vọng sẽ còn tăng thêm.
    Được arsenal_boy sửa chữa / chuyển vào 20:29 ngày 20/02/2004
  6. pires07

    pires07 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    2.264
    Đã được thích:
    0
    1.Arsène Wenger:
    Thành phố Strasbourg nước Pháp, ngày 22 tháng 10 năm 1949, cậu bé Arsène chào đời. Sớm yêu bóng đá nhưng không thể dành hết tuổi thơ cho bóng đá, với Wenger giáo dục và tri thức cũng rất quan trọng. Chính vì vậy đến năm 20 tuổi (1969) Wenger mới bắt đầu chơi cho CLB nghiệp dư Mutzig và đồng thời theo học Kinh tế tại trường ĐH Strasbourg; đến 1974 thì tốt nghiệp ĐH. Cho đến năm 1978, sau 9 năm chơi nghiệp dư, Wenger bắt đầu chơi chuyên nghiệp cho đội Strasbourg trong trận gặp Monaco. Mùa bóng đó Strasbourg vô địch nhưng hichic, ngài Arsène Wenger chỉ được chơi có 3 trận!!! Chơi tiếp cho Strasbourg trong 2 năm và ông cũng song song theo học đào tạo HLV . Đến năm 1981 thì ông được cấp chứng chỉ và được bổ nhiệm làm HLV đội trẻ (youth team coach) cho Strasbourg. Năm 1983 ông làm trợ lý HLV ( assistant coach) cho Cannes. Với sự tiến bộ của mình thì năm sau (1984) ông được mời làm HLV cho Nancy nhưng mà cái bọn ngu ấy lại sa thải ông -> với trình độ nhận thức như thế thì thảm nào nó chả lẹt đẹt ở giải Pháp
    Sự nghiệp Arsène Wenger được đánh dấu khi năm 1987 ông trở thành HLV trưởng (manager) của Monaco. Ԯg đã mua về hai cầu thủ người Anh là Glenn Hoddle và Mark Hateley, và tuyệt vời làm sao khi mùa giải năm đó (87-88) Monaco vô địch và ông được bầu là HLV xuất sắc nhất nước Pháp. Các năm tiếp theo tại Monaco tóm tắt như sau:
    -89: vào tứ kết C1, thứ nhì League và cúp QG.
    -90: vào bán kết C1, thứ 3 League.
    -91: thứ 2 League nhưng đoạt cúp QG.
    -92: thứ 2 League, vào chung kết cúp QG nhưng trận đó hình như không được tổ chức(finalists in unplayed French Cup final) và thua Bremen trong trận chung kết C2.
    -94: vào bán kết cúp C1. Năm đó Wenger được giải thưởng HLV xuất sắc nhất do thành tích tốt trong 6 năm với Monaco. Wenger được Bayern Munich và cả đội tuyển QG Pháp mời làm HLV trưởng nhưng Wenger đã từ chối vì ông đã nhận trọng trách lãnh đạo Monaco và ông không muốn bỏ giữa chừng. Nhưng cái bọn vô ơn đó lại cách chức ông vài tuần sau đó vì Monaco chỉ đứng thứ 9 trong bảng xếp hạng.
    Đi tìm một sự thay đổi, năm 1995 Wenger sang Nhật với đội Nagoya Grampus và ngay lập tức được bầu là HLV xuất sắc nhất. Năm sau ông đoạt siêu cúp nước Nhật và Emperor''s Cup (cái này hình như của Thái Lan). Chính nhờ kinh nghiệm làm việc tại Nhật mà bây giờ Liên đoàn bóng đá Anh đang nhờ ông cố vấn cho Erickson về nước Nhật.
    Và tháng 10 năm 1996, Arsène Wenger đến với Arsenal, mang lại một phong cách mới cho đội bóng.Phần tiếp theo thì chắc là ai cũng biết cả rồi nhưng tôi cũng xin viết tiếp vào lần sau.
    Tôi xin tạm dừng ở một vài thông tin cá nhân về Arsène Wenger :
    - sinh 22/10/1949 tại Strasbourg nước Pháp
    - trình độ: tốt nghiệp ĐH về Kinh tế, nói thành thạo nhiều thứ tiếng, ngoài tiếng Pháp và tiếng Anh ông còn nói được tiếng Đức, Tây Ban Nha và một ít tiếng Nhật. Với khả năng như vậy tạo điều kiện dễ dàng cho ông trong công việc. Đúng là có học thì có hơn! Một con người có tri thức!
    - cao 5feet10 (1m78) nặng 12st9 ->ai xem hộ là bao nhiêu?
    - vợ con ??? tôi không thấy thông tin gì cả
    Khi Arsène Wenger đến Arsenal, các CĐV của Arsenal vẫn còn hoài nghi về khả năng của ông vì dù đã thành công ở Pháp và Nhật nhưng với Premier League thì đây là lần đầu tiên. Nhưng Wenger đã chứng tỏ mình là HLV đẳng cấp.
    Trước khi chính thức ký kết hợp đồng, với lời khuyên của Arsène Wenger, Arsenal đã mua về hai cầu thủ người Pháp là Remi Garde(free) từ Strasbourg và Patrich Vieira(1tr) từ AC. Rồi các cầu thủ khác như Petit (3,5tr-Monaco), Anelka(chỉ có 500 nghìn bảng!!! -Paris SG) và Marc Overmars(5tr-Ajax) cũng sớm gia nhập. Wenger đã mang đến cho Arsenal một thứ bóng đá hấp dẫn mà từ lâu rồi mới thấy. Các cầu thủ mới chơi ngày càng hay, Vieira và Petit làm nên một hàng tiền vệ vững chắc, Overmars tốc độ và kỹ thuật. Wenger còn xây dựng nên hàng hậu vệ ''bất khả chiến bại'', ''công thủ toàn diện'' với Adams, Keown, Bould, Dixon và Winterburn, Wenger khuyên các trung vệ hãy tấn công khi có thể. Ԯg đề ra phương án luyện tập rất tập trung, còn có lời khuyên về chế độ ăn uống sao cho đạt hiệu quả cao nhất . Steve Bould nói nhờ đó mà anh kéo dài sự nghiệp thêm được 2 năm -> thảm nào mấy bác ''già'' nhà ta đá còn máu lắm, chưa chịu nghỉ hưu.
    Năm đầu tiên, do không làm HLV đủ cả mùa giải nên Arsenal chỉ về thứ 3( mặc dù bằng điểm New nhưng kém hiệu số thắng thua) và dành một suất dự cúp UEFA.
    Đến năm sau (mùa giải 97/98) khởi đầu có phần chậm chạp. Nhưng rồi cặp Bergkamp - Anelka thi đấu một cách tuyệt vời, ghi bàn như rạ và đẹp như mơ. Ai mà xem năm đó thì thấy họ sinh ra như là để đá với nhau, Bergkamp giữ bóng, múa may quay cuồng làm cho hậu vệ đội bạn tức điên lên mà không làm gì được, trong khi đó Anelka chạy chỗ, nhanh và đầy bất ngờ; rồi Bergkamp xỉa một cú điêu luyện và thế là công việc của Anelka vô cùng đơn giản. Tiếc là Anelka đã ra đi (do cái bọn Anh lắm điều, thảm nào tôi cứ thấy ghét ghét ĐT Anh dù có cho có mặt mấy bác nhà ta) chứ tôi còn khoái Anelka hơn Henry nhiều, Henry tuy kỹ thuật và tốc độ hơn nhưng dứt điểm thì còn kém xa. Hàng tiền vệ cũng miễn chê luôn, không bao giờ bị mất thế trận, Petit và Vieira đá cặp quá tốt, tôi khoái cái cảnh thằng nào dám lao vào Vieira thế là bắn luôn, không thấy ai chơi tay bo mà ăn được Vieira. Và năm đó ta đoạt cú đúp, còn ngài Arsène Wenger là HLV xuất sắc nhất
    Nhưng năm sau (98/99) thì đen quá, mà không, do cái bọn mù nó xuân nên ta chỉ về thứ nhì ở League. Nhưng ta vẫn được thấy Berg-Anelka , Petit-Vieira , và hàng hậu vệ trứ danh . Năm đó Arsenal là đội phòng thủ tốt nhất mà ghi bàn thì cũng chả kém ai.
    Hai mùa bóng tiếp theo ta cũng chỉ về nhì nhưng đó có thể là quá trình chuẩn bị cho mùa giải năm nay và các năm sau nữa. Bán Anelka(29tr), Overmarc+ Petit(27), Silvinho (vụ này hơi tiếc vì phải bán rẻ 3,5tr, hình như do vấn đề hộ chiếu)và mua về Henry(10,5tr), Pires(6tr), Edu(6tr), Kanu(4,5tr), Wintord(tận 13tr). Hihi, rõ ràng có học có khác, ông Wenger chứng tỏ mình là một tay buôn tài tình, bán giỏi ,mua giỏi, mà ''mông má'' hàng cũng giỏi luôn :
    - A+O+P ban đầu mua về hết 8tr thế mà sau hai năm bán đi được 56 triệu.
    - Vieira mua hết 1tr thế mà bây giờ đến 50tr cũng không bán.
    -Còn Henry, Pires bây giờ nổi như cồn, Edu năm sau(2002) sẽ là một tài năng mới.
    Hic, biết thế này tôi đi thi trường Kinh tế để học tập Mr Wenger, kiếm lấy ít tiền cưới vợ.
    Và cái gì cần rồi cũng sẽ đến. Năm nay, mùa giải 01-02, điều kỳ diệu đã đến với đoàn quân của Arsène Wenger, lần thứ 2 trong vòng 4 năm Arsenal sẽ đoạt cú đúp. Đến với chiến thắng này, Wenger đã có những bổ xung thật sự hợp lý cho Arsenal. Một vụ chuyển nhượng chấn động thành London, Sol Campbell chuyển(free) từ Totenham sang Arsenal, Lauren đến từ Marlorca đã thay thế tốt Dixon bị chấn thương, rồi Van Bronchkost, Jeffers, Wright. Chính nhờ lực lượng thật hùng hậu này mà năm nay và chắc chắn cả năm sau nữa Arsenal sẽ tiến đến những đỉnh cao của bóng đá, xây dựng một chế độ thống trị mới trên đất nước ''ban ngày đi xe cũng phải bật đèn'' và trên đấu trường quốc tế.
    ...........Wenger:xin cảm ơn ngài vì những đong góp cho CLB,rất mong ngài gắn bó lâu dài với CLB!
    2.Herbert Chapman .
    Bắt đầu sự nghiệp cầu thủ và chẳng để lại dấu ấn gì đặc biệt mặc dù cũng chu du hết Sheppey Enited , Grimsby Town , Swindon Town , Sheffiefld United , Tottenham Hotspur đến Northampton . Năm 1907 , Chapman khởi nghiệp HLVvới CLB Northammpton nhưng lại phải chạy ngay sang Leeds City và rồi người ta thấy ông trong...tù vì dính dáng đến gian lận tiền lương ở Leeds trong thế chiến thứ I .Chapman may mắn thoát tội vì người trực tiếp quản lí Leeds trong thời chiến là trợ lí của ông .
    Vẫn bền bỉ theo đuổi sự nghiệp HLV , sau khi thoát tù , Chapman chuyền đến Huddersfield năm 1921 , đúng khi CLB này bị tống cổ khỏi Football League do gian lận tài chính .Anh nghéo kiết xác Huddersfield giành cúp FA ngay trong mùa bóng đầu tiên ông dẫn dắt . Nhờ Chapman , gã tý hon bỗng trở thành người khổng lồ với 3 danh hiệu VĐ Anh .
    Câu chuyện về Chapman chỉ thực sự bắt đầu khi ông chuyển tới Arsenal năm 1925 . Arsenal cho ông thời gian 5 năm để đưa Arsenal có danh hiệu đầu tiên . Đúng 5 năm sau , Arsenal lần đầu tiên đứng trên đỉnh cao nhất giải VĐ Anh,1 cúp FA và ngay sau khi Chapman qua đời , CLB có thêm 3 lần VĐQG cùng 1 cúp FA .
    Vừa rồi Chapman đã được bình chọn là HLV xuất sắc nhất mọi thời đại của vương quốc Anh .
    GCL:..........đây là baì viết về 2 HLV thành công nhất với CLB Arsenal của chúng ta,nên tôi cũng xin post tặng pires07 luôn.Hy vọng chúng ta sẽ cùng phát triển forum chính của chúng ta vững mặnh hơn "OK"
  7. Arsenal_boy

    Arsenal_boy Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/02/2002
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Arsenes Wenger : đỉnh cao sự nghiệp gắn bó với Arsenal
    Trước khi tới ANH , Arsene có một sự nghiệp lẫy lừng tại Pháp - với Monaco và Nhật - với Nagoya Grampus Eight . Tại cả hai nơi này , ông cùng dành được danh hiệu HLV hay nhất năm . Với Monaco , ông đã giành được chức vô địch Pháp năm 1988 , Cup QG năm 1991 và lọt vào chung kết C2 năm 1992 . Với Nagoya , ông giành được cúp Nhat Hoàng 1996 . Nhưng đỉnh cao sự nghiệp của Wenger gắn với Arsenal bởi cùng với CLB này , bởi cùng CLB này , ông được thi tài một cáhc bình đẳng tại những giải đấu quan trọng nhất châu lục
    Chỉ trong vòng 4 năm , Wenger đã biến Arsenal thành một đội hoàn toàn khác . Nếu như trước đây Arsenal chỉ biết chiến thắng bằng lối chơi ?o khô như ngói ?o thì nay họ đã biết hciến thắng bằng lối chơi tấn công đa dạng và đẹp mắt . Arsenal đã trở thành kẻ cacnhj tranh đáng sợ nhất của Mu và Liv tại giải VĐQG . ?o Cú đúp ?o năm 1998 và năm 2002 là bằng chứng hùng hồn nhất về ảnh hưởng của Wenger tại nước Anh . Sau mấy mùa bóng lận đận , Arsenal giờ đây đã sẵn sàng cho cuộc chinh phục Champions League ở mùa bóng năm nay với chuỗi thành tích rất tốt ở giải ngoại hạng và trận thắng rạng sáng ngày 18 ?" 9 ?" 2002
    Wenger là con ng` thâm trầm ít nói nhưng trong ông luôn cháy bỏng khát khao chiến thắng . Là ng` cải tổ triệt để lối chơi kiểu Anh truyền thống của Arsenal , Wenger lại luôn nhận mình đã làm tất cả để bảo vệ bóng đá Anh ( lời phát biểu trong cuộc phỏng vấn cvủa tạp chí France Football đầu mùa bóng 1999 ?" 2000 ) . Càng khám phá về Wenger ta càng thấy HLV Wenger có sức lôi cuốn kì lạ
    Điều đầu tiên ng` ta thấy ở ông là ?o cặp mắt thần ?o . Ngày ở Monaco , chính ông đã fát hiện ra George Weah khi cầu thủ này đang thi đấu ?o vật vờ ?o tận Cameroon . Dưới sự dìu dắt của Wenger , Weah dần trở thành tiền đạo mẫu mực và sau đó dành quả bóng vàng Châu Âu . Weah chỉ là một trong số rất nhiều ngôi sao bóng đá Pháp và thế giới được Wenger fát hiện . Tại Monaco , đó là những Djorkaeff , Henry , Petit . Còn tại Arsenal là những : Ljungberg , Anelka , Pires ?.. . ông còn có thể phát hiện ra những cầu thru chơi tốt hơn ng` ta nghĩ , như trường hợp Parlour chẳng hạn
    Chính nhờ ?o cặp mắt thần ?o ấy của Wenger , Arsenal ko bao giờ lo ngại mỗi khi các ngôi sao của họ ra đi . Khi Anelka rời Highbủy , ông lập tức mua ngay về Henry với giá rẻ hơn vài lần mà hiệu suất ghi bàn của cả hai là ?o một chín một mười ?o và rõ ràng bây giờ Henry xuất săc hơn . Ở mùa bóng trước . Sau khi bán Petit và Overmars với khoản tiền kếch xù thì Wengẻ lập tức kiếm được hai sự thay thế hoàn hảo mà rẻ tiền hơn nhiều : Lauren thay Petit và Pires thay Overmars , cả hai cầu thủ này mới đáng giá 14 triệu bảng . Muà giải này ông đã đưa về Gilberto silva một tiền vệ tài năng có mặt trong tất cả các trận đấu của đội Brazin tại WC , giá tiền vệ này chỉ có 4, 5 triệu bảng . Wenger quả là một nhà kinh tế đại tại
    Wenger đối xử với các cầu thủ của mình bằng tình cảm cha con . các cầu thủ luôn timg thấy chỗ dựa tinh thần ở Wenger . Còn nhớ chính ông đã đứng ra bênh vực cho Vieira khi anh bị thẻ đỏ và buộc tội chơi bẩn với Ruddock của Westham ( nhổ nước miếng vào mặt ?o ,. Chính nhờ tình cảm đó mà Vieira ko còn mặc cảm và chơi tốt chở lại . Còn Henry cũng được ông bênh vự trong vụ ânh buộc tội đã đánh trọng tài . Weah và Henry hơn một lần nói rằng Wenger là ng` cha tinh thần của họ , giúp họ vượt qua lúc khó khăn . Chính nhờ sự quan tâm đến các cầu thủ , Wenger có sức hút thật lớn : nhiều ngôi sao như Henry , Wiltord , Pires ?.. đều nói rằng tới Arsenal chẳng qua là để được đầu quân cho Wenger
    Một con ng` luôn thẳng thắng và kiên quyết . Câu nói nỏi tiếng của Wengẻ về Fair ?" Play là : ?o Tôi ko fải là hình mẫu của Fair ?" Play . Tối thích sự thực tế bởi nếu cứ Fair ?" Play để rồi thua trận thì cũng chẳng ra sao ?o
    Sau đã được khá nhiều quốc gia mời về làm HLV nhưng Wenger đã từ chối để tiếp tục gắn bó với sân Highbury

  8. Arsenal_boy

    Arsenal_boy Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/02/2002
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0

    Một bài dịch khác về lịch sử Arsenal:
    Phần I: Sự khởi đầu

    Arsenal là một câu lạc bộ luôn làm hết sức mình để đạt được thành công. Câu chuyện của chúng ta là một câu chuyện về thành công vượt lên trên những khó khăn nhờ sự quyết tâm tuyệt đối và ý chí sắt đá. Chúng ta là một câu lạc bộ tự hào về quá khứ vẻ vang và về những con người đã đem đến cho chúng ta quá khứ vẻ vang đó. Chúng ta là Arsenal và đây là lịch sử của chúng ta ...
    Tất cả mọi thứ bắt đầu cách đây 115 năm vào năm 1886 tại Royal Arsenal , một căn cứ đạn dược lớn tại Woolwich, Kent. Vì vậy hãy quay trở lại những ngày mà chiến tranh còn bao phủ. Một nửa dân số đang sống trong London và các công nhân từ khắp Anh quốc đang tụ tập ở phía nam để tìm việc. Hãy tưởng tượng rằng Jack Humble đang kiên trì đi suốt từ County Durham tới để tìm việc. Ông tìm được việc làm, bắt đầu làm việc tại công xưởng Dial Square ?" trung tâm của nhà máy. Và chẳng bao lâu sau, ông và một nhóm nhỏ những người đàn ông khác tại công xưởng nhận ra rằng họ có cùng một sở thích, cùng một niềm say mê : BÓNG ĐÁ.
    Bóng đá hiện đại chỉ thực sự bắt đầu vào thế kỷ 19 và vào giữa những năm 1840 nó chỉ được chơi tại Anh quốc. Và vấn đề nảy ra là, các khu vực có các luật chơi khác nhau. Có rất nhiều sự khác nhau về chiều cao và rộng của khung gỗ và các trận đấu có thể kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Một vài luật lệ dựa vào chơi tay hơn là chân. Và để thi đấu với nhau, tất cả các khu vực phải cùng có một luật lệ chung. Đá vào đối thủ và ôm bóng sẽ là phạm luật, và sự sáng lập ra Rugby Football Union (tạm dịch là Liên đoàn bóng đá, chữ rogby trên thực tế là bóng bầu dục). Vào năm 1880 có 128 câu lạc bộ gia nhập vào FA, 80 từ phía nam Anh, 41 từ phái bắc Anh, 6 từ Scotland và thậm chí 1 từ Australia
    Vậy ai là những con người đó, những con người đi vào lịch sử bóng đá thời kì đầu tiên với tình yêu bóng đá và những sáng kiến. Đó là Fred Beardsley và Morris Bates, cả hai cùng chơi chuyên nghiệp cho Nottingham Forest - đoạt cú đúp vô địch Châu Âu về sau này. Richard chơi cho Bolton và Đavi Danskin từ Fife đều là các cầu thủ tuyệt vời. Và có con người gan dạ và kiên quyết Jack Humble đã đóng góp một phần công lao lớn, rồi Elijah Watkins ?" thư ký câu lạc bộ đầu tiên.
    Họ quyết định hợp nhau lại và mua một quả bóng. Việc này là một cố gắng rất lớn bởi vì khi đó tiền bạc là vô cùng khó khăn đối với họ. Điều kiện nhà ở thì vô cùng tội tệ, quá đông người trong một căn nhà quá nhỏ, quả thật là rất nhỏ. Cả mấy gia đình cùng chung sống trong 2 căn phòng và thực phẩm thì khan hiếm ?" bánh mỳ, bơ, khoai tây, một tí thịt. Không có nước máy và cả khu phố phải san sẻ với nhau hai toa lét và một cái máy bơm nước, mà nước bơm lên thường bẩn. Bóng đá lúc đó có ý nghĩa hơn một trò chơi nhiều. Đó là niềm khuây khoả làm nhẹ bớt những gian khổ của cuộc sống thực tại.
    Một thời gian sau, những người đàn ông này nhận ra rằng họ có tiềm năng. Và họ không muốn chơi bóng để giải trí đơn thuần nữa. Họ muốn chơi bóng thật sự và họ đã sắp xếp trận đấu đầu tiên của mình. Và vào ngày 11 tháng 12 năm 1886 Dial Square FC đánh bại East Wanderers với tỉ số 6-0.
    Với những tài năng thực sự như vậy, họ muốn điều gì đấy để thể hiện tài năng của mình hơn là chơi vài trận lẻ tẻ. Và họ muốn lập ra một câu lạc bộ chính thức và nâng cao tài năng của mình đến hết mắc có thể. Một vài người có kĩ năng đỉnh cao của bóng đá còn số còn lại thì đang cố gắng phát triển. Nhưng bất kể tài năng của họ cao thấp thể nào, họ đều có ?omột sự ràng buộc chung?. Đó là họ muốn chơi một thứ bóng đá đỉnh cao.
    Và cuộc họp đầu tiên để bàn bạc diễn ra tại quán rượu Royal Oak :rolleyes: (bây giờ gọi là The Pullman) vào ngỳa giáng sinh năm 1886. Và những lời đồn về một câu lạc bộ mới thành lập với biết bao điều lý thú trong đó đã lan đi từ công xưởng ra khắp nơi trong nhà máy.
    Bên trong quán rượu rất nóng. Dầy đặc khói thuốc và gương mặt đỏ gay của những người đàn ông trong những bộ đồ mòn cũ đang nhấm nháp từng ngụm rượu. Nhiều lời tranh luận giữa mọi người diễn ra vô cùng sôi nổi. Đó là không khí của một sự chờ đợi. Dĩ nhiên, mọi người đều đồng ý với ý kiến lập ra một câu lạc bộ. Nhưng vấn đề là ở chỗ họ cần thêm nhiều chữ kí và các biên bản chính thức. Họ cần quần áo, một sân vận động và tiền. Tại nơi này không có sự dư thừa và mọi người đều phải vật lộn với chỉ 4 si ling một ngày (si ling, đồng tiền Anh có giá trị 12 penni cổ cho đến 1971, bằng một phần hai mươi của đồng pao). Và cái đầu tiên, và đội bóng cần phải có một cái tên. Cái tên Dial Square không còn hợp lý nữa vì các cầu thủ sẽ là từ khắp các nơi trong nhà máy. Và kể từ ngày giáng sinh năm 1886, ROYAL ARSENAL ra đời. Giấc mơ của chúng ta bắt đầu....................
  9. Arsenal_boy

    Arsenal_boy Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/02/2002
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Phần hai: Tại đấu trường chung.
    Chỉ với một cái tên, Royal Arsenal phải có các kế hoạch vạch trước. Việc đầu tiên là đồng phục sẽ là như thế nào. Và tiền sẽ ở đâu ra. Những ngườit trong câu lạc bộ đang phải sống giữa sự khắc nghiệt, và gần như một phần tư dân số phải sống dưới mức nghèo khổ. Những đứa trẻ kiệt sức vì nghèo túng, chơi chân không trên các con phố ẩm ướt, hôi thối mùi nước cống và bồ hóng. Chỉ có chủ hiệu cầm đồ là phát đạt tại nơi đây.
    Vào thời điểm vô vọng đó là lúc cần đến các quyết định liều lĩnh. Để trái bóng được lăn, Beardsley và Bates đã thuyết phục để viết cho câu lạc bộ cũ của họ và kêu gọi sự giúp đỡ. Và đó là một bước đi đúng đắn, Forest đã hào phóng đáp ứng băng 11 chiếc áo đỏ (thủ môn mặc áo giống cầu thủ) và một quả bóng. Đó là thời kì mà cái áo sơ mi đúng là áo sơ mi, tức là có cả khuy và cổ áo, và phần còn lại của bộ quần áo: chiếc quần soóc, tất dài tới đầu gối và chiếc giày da với đinh sắt. Trọng tài khi đó thường mặc quần áo bằng vải tuyn.
    Tìm ra một nơi để chơi bóng không khó như đã tưởng. Vào thời điểm đó, một sân bóng chỉ có bốn cột cờ, 2 cột cờ cho mỗi bên và khung gỗ với xà ngang cho đến nay được phát minh. Có bao nhiêu tiền đạo trung tâm lóng ngóng ước rằng nó giã mà cái xà ngang đã có ở đó. Nhưng dù thế nào đi nữa, tất cả những gì cần là một sân toàn cỏ. Plumstead Common đã được chọn lựa. Mọi thứ đều sẵn sàng. Mọi người đều sẵn sàng.
    Sáu chiến thắng trong 9 trận giao hữu đã thúc đẩy câu lạc bộ phát triển nhanh chóng. Nhưng có vấn đề phát sinh; Plumstead Common trở nên hoàn toàn không thích hợp bởi nó không chỉ là một sân công cộng mà nó còn là nơi diễn tập quân sự. Sau mỗi buổi tập cái sân bị tan tành bởi các pháo binh, kỵ binh đã dày xéo lên hết sân. Và một sân vận động mới cần phải tìm ra.
    Việc chuyển đến sân Plumstead Marshes cũng không giúp ích được bao nhiêu. Sân này quá ẩm ướt và đội bóng phải đá trong màn sương mù lạnh giá với những vũng nước đông cứng lại, đôi khi còn không thể chơi được. Và một sân vận động mới là yêu cầu cấp bách nếu đội bóng muốn chơi ở mùa giải tới. The Manor Field
    Sân vận động thứ hai với mùa giải thứ hai, và 22 trận bóng đá. Mọi thứ càng ngày càng tốt đẹp và Royal Arsenal chỉ chịu 4 trận thua. Nhiều cầu thủ từ các khu vực khác được thu hút về đây, đặc biệt là từ rất nhiều căn cứ quân sự ở đó, và số lượng fan thì càng ngày càng đông. Có tới 1000 khán giả đang theo dõi Woolwich Red ( Biệt danh của Arsenal lúc đó)
    Chúng ta đang ở mùa giải 1888/89, và mùa giải English Football League, mùa giải lâu đời nhất trên thế giới, sắp bắt đầu. 20 đội bóng từ trung là tây bắc đang tập hợp để làm nên lịch sử. Trong lúc đó, tại phương nam, Royal Arsenal FC đang chơi 24 trận giao hữu để chuẩn bị cho màn trình diễn đầu tiên tại F.A Cup
    Lại một năm tốt đẹp nữa cho câu lạc bộ. Woolwich Reds đoạt được chiếc cúp đầu tiên, Kent Senior Cup, và đặt chiếc cúp này trang trọng vào trong tủ trưng bày cúp với hy vọng chiếc tủ sẽ kín đầy những chiếc cúp vượt xa khỏi tưởng tượng của bất kì ai. Và Kent Cup nhanh chóng có thêm người bạn mới, chiếc cúp bạc London Charity Cup. Arsenal lần đầu tiên đạt cú đúp ! Và cho dù câu lạc bộ có rất nhiều gương mặt mới thì Beardsley và Bates vẫn là những nhân vật quan trọng cùng với Danskin và Humble
    Câu lạc bộ ngày càng mạnh hơn và nếm vinh quang chiến thắng với cú đúp đầu tiên. Và đó là lúc phải có một sân vận động thực sự. vào tháng 9 năm 1890 câu lạc bộ chuyển tới sân Invicta Ground với nền đất cao và phòng thay đồ - thay vì trước đây phải dùng toilets của quán rượu địa phương! Vào mùa giải đó, Arsenal đã đá trên sân mới đầu tiên tại vòng đầu cúp F.A, trận đấu đó đã chứng tỏ hiệu quả tác động của quyết định đúng đắn nhất trong lịch sử câu lạc bộ. (Và bi h đây ?" trong vài năm tới, chúng ta sẽ lại có sân vận động mới)
    Đó là bởi vì Arsenal không chỉ thua Derby trên sân nhà mà với tỉ số 2-1 mà còn mất 2 cầu thủ chơi tốt. Derby là một câu lạc bộ chuyên nghiệp, họ đang chơi ở giải chuyên nghiệp và không gì có thể ngăn cản họ câu trộm các cầu thủ tốt nhất của Royal Arsenal. Và phải làm một điều gì đó, nhất là với số fan đã tăng lên 12000. Jack humble biết điều đó.

  10. Arsenal_boy

    Arsenal_boy Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/02/2002
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0

    Dennis Bergkamp - Người Hà Lan không bay

    tên đầy đủ : dennis nicholaas maria bergkamp
    ngày sinh : 10-5-1969 tại amsterdam
    cao: 1m83
    nặng: 78kg
    nickname:Dennis The Menace, The Iceman, God, The Non-flying Dutchman, Bergy hơi nhiều nhỉ

    sở thích: chơi snoocker , tennis , glof. ăn cá và thích nghe nhạc của phil colin
    thân tượng của bergkamp là glenn hoddle
    các câu lạc bộ đã qua: ajax, inter và asernal
    trận đấu đấu đàu tiên ngày 14-12-1986 gặp roda jc năm anh 17t
    gia đình : vợ là henrita có 2 con : con trai là Mitchel & con gái Estelle Deborah
    anh về asernal ngày 3-7-1995 với giá 7,5 triệu bảng
    thành tích
    ở ajax : Dutch Championship 1990
    Dutch Cup 1987, 1993
    European Cup Winners Cup 1987
    UEFA Cup 1992 (Ajax), 1994 (Inter)
    English Championship 1998
    English FA Cup 1998
    Dutch Topscorer 1991, 1992, 1993
    Dutch Player of the Year 1992, 1993
    European Footballer of the Year -3rd place 1993
    English Player of the Year 1998
    English Football Writers Player of the Year 1998
    Goal of the Season 1997/1998 Award
    Arsenal FC Player of the Year 1998
    FIFA 3rd best Player of the Year 1993, 1997
    Cái tên Dennis có xuất xứ từ một cầu thủ rất nổi tiếng của scotlan denis law người mà cha anh rất hâm mộ nhưng cha anh đã thêm một chữ "n" bởi vì theo tiếng hà lan thì sẽ đọc là "denise"
    Dennis yêu bóng đá ngay từ khi còn rất bé anh thường xuyên ra vườn nhà mình tập bóng bằng cách sút bóng vào tường hay là dê bóng qua 3 người anh của mình . Năm 12t anh được nhận vào học tại trường đào tạo bóng đá trẻ của ajax . Berkamp đã phải chịu nhiều năm vất vả tại đó , nhưng họ nói " anh ta còn quá trẻ và quá nhẹ cân anh ta không đủ tố chất để làm một cầu thủ " và chỉ vài năm sau đó bergkamp đã có mặt ở đội hình trẻ của ajax . Huyền thoại bóng đá johan cruyff đã phát hiện ra tài năng của anh va` đã đưa anh vào đội hình chính trong trận gặp roda jc nagy 14-12-1986 . ở ajax bergkamp đã đạt được rất nhiều thành tích nhưng cũng chính vì vậy ma` bergkamp đã bị nhiều clb nhòm ngó , năm 92 bergkamp chuyển về inter nhưng ở đây bergkamp không được ra sân thường xuyên vì anh không thể vượt qua đươc bộ 3 người đức lúc đó ở inter . để rồi năm 95 anh chuyển đến asenal voi giá kỉ lục lúc đó 7,5 triệu bảng .
    bergkamp là một người rất sợ đi máy bay Bergkamp có nói " mọi người nghĩ rằng tôi chưa bao giờ bay điều đó không đúng trước đó tôi vẫn bay chỉ sau tai nạn đó tôi mới không bay , trước trận đấu ngày hôm đó tôi đã rất lo lắng cho tôi và cho cả đội tuyển có một vụ doạ đặt bom trên máy bay của chúng tôi " nhưng đó chỉ là một lý do . một người bạn của anh thân đã chết trong một chuyến bay ở WC 94 đến để xem anh thi đấu . Vì vậy người ta hay goi anh mới biệt danh là " The non-flying Dutchman" - người hà lan không bay.

Chia sẻ trang này