1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Asean, Trung Quốc, Biển Đông và Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi MMichelHung, 27/06/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Tôi suy nghĩ lại thấy thế này cũng không ổn, cấm, xiết, hạn chế nhập cư có phải là trái hiến pháp, vi phạm quyền con người, công dân Việt Nam? Thay vì xử sự thiếu tính thuyết phục, bảo thủ, thiếu tình, thiếu đồng thuận xã hội ...như vậy thì CP nên cắt bớt đầu tư ở các TP lớn, dành cho các địa phương đảy nhanh tiến trình đầu tư phát triển kinh tế XH, để giãn khoảng cách vùng miền...tiến tới san dần chênh lệch thu nhập đầu người, được như thế tôi và các bác cần cái ch...óa gì mà phải nhập cư thủ đô HN, TP HCM hay ĐN...cứ duyên hải, đồng bằng hay trung du thênh thang dễ thở biết bao. Lại được tiếng yêu quê hương đất tổ, bác bác nhể.
    Không khéo các cụ LĐ đang tính "nhầm lẫn" cái gì đó chăng để mà đánh đồng mấy anh mặt to đó là địa chính trị quan trọng nhất nên phải hạn chế...giao du và tiếp nhận người nhà quê...[-X:-w
  2. Nguyen-Son

    Nguyen-Son Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/11/2012
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Bực thật đấy các đ.c [r37)]

    Trung Quốc sắp mở tour trái phép tới Hoàng Sa

    Báo chí Trung Quốc hôm qua đưa tin nước này đang gấp rút hoàn thiện những công việc cuối cùng để mở tuyến du lịch đến quần đảo Hoàng Sa, một hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam.

    [​IMG]
    Tàu Coconut Princess sẽ chở khách du lịch Trung Quốc ra thăm quần đảo Hoàng Sa mà VIệt Nam đã tuyên bố chủ quyền. Ảnh: Chinanews Tờ Thâm Quyến Thương báo của Trung Quốc cho biết ngoài con tàu Coconut Princess đã sẵn sàng phục vụ tuyến du lịch Hoàng Sa, Trung Quốc còn dự kiến sẽ sử dụng kết hợp với các loại tàu biển cao cấp, sang trọng hơn và máy bay trực thăng cho tuyến du lịch này.
    Quan chức ngành du lịch tỉnh Hải Nam, Trung Quốc, cho biết tàu Coconut Princess sẽ đưa khách xuất phát từ bến Hải Khẩu, Tam Á, đi các đảo ở phía bắc của quần đảo Hoàng Sa, các máy bay trực thăng và tàu cao cấp hơn sẽ đưa khách du lịch Trung Quốc đến những đảo còn lại.
    Chương trình du lịch gồm ngắm cảnh từ trên tàu, lên đảo tham quan, bơi thuyền đến đảo Phú Lâm của Việt Nam hoặc câu cá, lặn biển. Dự kiến kinh phí cho mỗi khách khoảng 10.000 Nhân dân tệ (33 triệu đồng).
    Trong cuộc họp công khai của đoàn đại biểu Hải Nam tại đại hội đảng Cộng sản lần thứ 18 của Trung Quốc, bí thư tỉnh ủy Hải Nam La Bảo Minh cho biết các điều kiện để khai thông tuyến du lịch đến Hoàng sa đã sẵn sàng, chỉ cần chờ thời điểm thích hợp để bắt đầu và sẽ trở thành tuyến du lịch đặc sắc của tỉnh Hải Nam.
    Hồi tháng 4, phó chủ tịch tỉnh Hải Nam Đào Lực Tăng cũng cho biết chắc chắn trong năm nay sẽ khai thông tuyến du lịch tới Hoàng Sa, tất cả các đơn vị ở Hải Nam đều gấp rút chuẩn bị cho mục tiêu này.
    Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng phản đối những hành động của Trung Quốc và lên án nước này đang làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông. Ngày 24/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị khẳng định việc Trung Quốc triển khai các hoạt động trong khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, và là vô giá trị.
    Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, chấm dứt và hủy bỏ ngay các hành động sai trái ở Biển Đông, đóng góp thiết thực vào việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông.


    http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2012/11/trung-quoc-sap-mo-tour-trai-phep-toi-hoang-sa/


    Chắc chắn đây là hành động của 1 bộ phận thiểu số trong nội bộ lãnh đạo TQ, thuộc thành phần xét lại già nua, tư duy lỗi thời người VN trong nước cũng đâu còn căm phẫn "tàu khựa" nữa đâu. Cam đoan sẽ chẳng có người Trung Hoa tiến bộ nào thèm đi tour này đâu :)
  3. Nguyen-Son

    Nguyen-Son Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/11/2012
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Mừng trang 1000, mừng cho con số 1000. Bước sang trang thứ 1000 chúng ta vẫn cùng nhau quyết tâm đoàn kết chống CNTB chứ hầy [r32)]
  4. HaNoiOld

    HaNoiOld Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    13/06/2010
    Bài viết:
    1.059
    Đã được thích:
    199

    con dog Khựa này bày trò kích đểu ah[-X biến ngay đi dog[r37)]

    Nè, coi cái này mà về nói chuyện với dân Háng cẩu nhà mày nhá >:)
    "Trung Quốc chấn động tin về kẻ sát nhân ăn thịt gần 20 người


    Trương Vĩnh Minh đã ăn thịt gần 20 người, hãi hùng hơn nữa là do thịt nhiều quá ăn không hết, hắn còn mang ra chợ giả làm thịt đà điểu để bán.

    “Hắn khai đã giết tổng cộng 20 người, nạn nhân đa số là thanh thiếu niên, tất cả đều bị lóc thịt. Tại nhà thủ phạm, cảnh sát đào lên được rất nhiều xương, có 40 tròng mắt được ngâm trong các bình rượu thuốc, thịt khô phơi trong nhà hắn đều là thịt đùi người, 3 con chó nuôi trong nhà đã lớn lên nhờ ăn thịt người…”. Đây không phải là cảnh tượng trong một bộ phim Hollywood, mà là vụ án kinh hoàng vừa được phát hiện tại Tấn Ninh (Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc) trong thời gian qua.

    Ngày 25/4, Hàn Diệu (19 tuổi) người ở Tấn Ninh, Vân Nam bị mất tích gần kho trữ lạnh Hâm Vân ở làng Nam Môn. Khi gia đình Hàn Diệu đi tìm con ở khu vực xung quanh, họ phát hiện ra một sự thật kinh hoàng, đã có một số thiếu niên cũng bị mất tích ở vùng này và đều biến mất ở gần kho trữ lạnh Hâm Vân.

    Thế là họ liền đến các gia đình kia, cùng nhau đi báo công an để yêu cầu tìm kiếm những thiếu niên bị mất tích. Tới đầu tháng 5 -2012, phía công an bắt đầu thành lập tổ điều tra, và từ đó đã khám phá ra một vụ án giết người hàng loạt hết sức kinh hoàng. Nghi phạm của vụ án là Trương Vĩnh Minh – cũng là nông dân sống ở làng Nam Môn.

    Theo nhiều nguồn tin, những người mất tích đều bị Trương Vĩnh Minh phanh thây rồi ăn thịt. Tổng cộng số người bị hại lên tới 20 người nhưng thực tế số lượng những đôi giầy đào lên từ vườn nhà hắn lên tới 50, thịt người nhiều quá ăn không hết, hắn còn mang ra chợ giả làm thịt đà điểu để bán.
    [​IMG]
    Những người bị mất tích được đăng báo

    Cùng làng với Trương Vĩnh Minh, em Tạ Hải Tốn (16 tuổi) cũng bị mất tích năm ngoái. Bố em cùng với các gia đình có con mất tích khác liên tục có mặt trước nhà của Trương Vĩnh Minh – lúc đó đã bị công an niêm phong. Tại đây, họ nhìn thấy cảnh công an đem cuốc xẻng vào nhà rồi mang rất nhiều bao tải ra, nghe nói ở trong là những mảnh chân tay còn sót lại của các nạn nhân.“Công an không tiết lộ gì với chúng tôi, chỉ lấy AND” – bố của Tạ Hải Tốn cho biết. Về chuyện kẻ giết người có phanh thây, ăn thịt nạn nhân hay không, công an không có bình luận gì. Bộ Công an Trung Quốc đã tiếp nhận vụ án và cho biết số người mất tích là 17 người nhưng chỉ có em Hàn Diệu là được xác nhận đã bị giết hại. Tại nhà của Trương Vĩnh Minh, công an đã tìm ra điện thoại, thẻ ngân hàng của em Hàn Diệu. Trương Vĩnh Minh đã bị bắt giữ ngay sau đó.

    “Chúng tôi đã từng báo công an về trường hợp của tên khốn ấy!” – Bố Tạ Hải Tốn phẫn nộ kể lại. Năm ngoái từng có đứa trẻ thoát được khỏi tay Trương Vĩnh Minh sau khi bị hắn bắt cóc nhưng công an cho rằng tên đó bị bệnh thần kinh, không cần điều tra. 5 năm trở lại đây, các làng, xóm bên cạnh cũng có nhiều người bị mất tích nhưng bên công an nói là không có bằng chứng rõ ràng nên không điều tra gì cả.
    [​IMG]
    Trương Vĩnh Minh (thời trẻ)

    Trương Vĩnh Minh đã ngoài 50 tuổi. Nhà của hắn chỉ cách nơi các nạn nhân mất tích khoảng 700 mét. Năm 1974 khi 15 tuổi, Trương Vĩnh Minh từng vào trại giáo dưỡng nửa năm vì nửa đêm cầm dao chém người, đánh nhau. Năm 1978 hắn bị án tù chung thân vì tội giết người, nhưng tới năm 1997 thì được hưởng khoan hồng cho ra tù, về quê làm nông.

    Dân làng cho biết, bình thường tên này sống dựa vào công việc đồng áng, thích nuôi chó, đánh cờ tướng. Người ta thường thấy hắn đi lại ở đầu làng, có lúc cầm cuốc xẻng đi vào làng nhưng vì hắn vốn không bao giờ chào hỏi ai nên cũng không ai thèm để ý hành vi của hắn. Chỉ tới tháng 5 năm nay, dân làng mới giật mình khi nghe kể về trường hợp em Trương Kiến Nguyên 17 tuổi suýt bị hại trong tay hắn.

    Bố Trương Kiến Nguyên kể cuối tháng 12 năm ngoái, Kiến Nguyên đi học thêm về buổi tối, còn cách nhà 10 mét thì bỗng bị một người dùng bao tải chụp lên đầu, thít cổ từ phía sau. Kẻ đó chính là Trương Vĩnh Minh. Khi cảnh sát tới, Trương Vĩnh Minh lại nói rằng hắn chỉ đùa. Vì không gây ra thương tích gì nên hắn không bị điều tra.

    Theo afamily, Báo Mới

    Đúng là bọn Hán cẩu man di mọi rợ[:P]
  5. cuchuoi_kt115

    cuchuoi_kt115 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2012
    Bài viết:
    4.231
    Đã được thích:
    2.113
    Điều nguy hiểm nhất hiện nay là TQ dùng đồng tiền để ve vãn,mua chuộc,các nước láng giềng của VN và các nước thành viên ASEAN không có trang chấp chủ quyền với TQ.
    http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2012/11/trung-quoc-se-do-tien-vao-thai-lan/.
    http://vnexpress.net/gl/the-gioi/phan-tich/2012/11/campuchia-ngay-cang-than-trung-quoc/
    ...
    còn đối với VN thì TQ nhập hàng thải, hàng kém chất lượng, đầu độc người dân việt nam. dùng con buôn phá hoại nền kinh tế.
    Ý đồ nó là muốn bao vây cô lập Vn . phá hoại nền kinh tế, đầu độc người dân .Chiếm biển- đảo VN.ô ép Dân tộc VN dần đến kiệt quệ và diệt vong .
  6. AK-74

    AK-74 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/06/2012
    Bài viết:
    743
    Đã được thích:
    182
    [​IMG]

    QĐNDVN phối hợp hoạt động xa bờ cùng với các quân đội các nước, liên quan trực tiếp đến vấn đề biển Đông :D
  7. thanh3d

    thanh3d Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/11/2003
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    0
    Phản đối Trung Quốc đưa 'lưỡi bò' vào hộ chiếu

    Bọn Trung Quốc đúng là thâm thiệt, thâm từ trong trứng thâm ra, loại người này nó giống như 1 con con sâu , ăn mòn ăn mòn,... loại virus cực độc.

    Thế mà gần đây có thằng ác ôn: ô bế thằng Trung Quốc. Mấy bác xem hội nghị Asean + 3 nước Đông Á, thì biết hành động đó, thật thừa thải.
  8. HaNoiOld

    HaNoiOld Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    13/06/2010
    Bài viết:
    1.059
    Đã được thích:
    199
    Đọc bài này thấy hay nên xin phép các Bác cho post nguyên bài [:D]
    KINH DỊCH: Di sản sáng tạo của Việt Nam

    10:07 PM Kim Thuy Tran No comments
    Người Việt đã từng có một nền văn minh đồ sộ. Lãnh thổ rộng lớn, kể từ thời lập nước Xích Quỷ, các tộc người Việt cổ (Bách Việt) lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang của Trung Quốc hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền bắc Việt Nam. Ngày nay, từ lãnh thổ rộng lớn đến những sáng tạo văn hóa, chữ viết đặc sắc của các tộc người Việt đã bị hầu hết mọi người nghĩ là của Trung Quốc.

    KINH DỊCH – DI SẢN SÁNG TẠO của VIỆT NAM.
    (Nguyễn Thiếu Dũng)

    [​IMG]Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề "tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam.

    Từ hai ngàn năm trước khi chúng ta bị Hán tộc, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng căn bản cho văn hóa Việt Nam, nhờ thế trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hóa như các dân tộc ở Hoa Nam.

    Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã thủ đắc Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hóa của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một ngàn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều nhận lầm là mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng.


    [​IMG]
    Chu kỳ dòng khí luân phiên trong 12 đường kinh trong KINH DỊCH
    Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn.

    Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch.

    1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một ngàn năm trước khi có mặt tại Trung Hoa:

    Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thủy Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong sao được sống một đời an bình không có họa thủy tai. Lôi Thủy Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hóa Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hóa Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hóa Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93).

    Nếu tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Hoa, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579).

    Về phía Trung Hoa, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Hoa tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Hoa Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Hoa là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thủy Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Hoa Kinh Dịch đã có ở nước ta trước Trung Hoa cả ngàn năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước ngàn năm trước Trung Hoa.

    2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Hoa:

    Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Hoa muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ.

    Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hán nên tìm mãi vẫn không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lỹ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lỹ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng nghĩa của nó.

    3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch.

    Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa số đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Hoa thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thủy, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Hoa đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai ngàn năm nay, Trung Hoa chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Hoa mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Hoa không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai ngàn năm đã được trưng ra ánh sáng.

    Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam.

    Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý:

    a) Con người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả.

    Con người siêu lý

    b) Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thủy), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên.

    Con người đạo lý

    c) Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích lũy như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thủy tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo).

    4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết

    Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thủy có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc).

    Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ.

    Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Hoa nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Hoa chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thủy phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thủy) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ.

    5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch:

    a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và Hỏa Thủy Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thủy giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành.

    Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật.

    b) Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Hoa khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ vì người Trung Hoa trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu.

    c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc).

    Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Hoa vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.

    Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi.

    6/ Kết luận:

    Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Hoa không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Hoa đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Hoa chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hóa sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch.

    Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Hoa căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được.

    Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau.

    Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam.
    http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=1281&Itemid=99999999[r2)]
  9. zzsubmarinezz

    zzsubmarinezz Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/04/2012
    Bài viết:
    763
    Đã được thích:
    63
    Không biết là nếu hộ chiếu "không hợp lệ"... thì có được nhập cảnh không nhỉ ???

    Philippines loan báo tổ chức Hội nghị 4 nước ASEAN về Biển Đông

    Không đầy 24 tiếng đồng hồ sau khi Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Phnom Penh bế mạc, ngày 21/11, Philippines loan báo sẽ tổ chức một hội nghị vào tháng 12 tới, tập hợp bốn thành viên ASEAN đang có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông: Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines...

    http://biendong.vntime.vn/Tin-Bien-Dong/ee458f52-533f-4929-9198-ed9dd15a159f/Philippines-loan-bao-to-chuc-Hoi-nghi-4-nuoc-ASEAN-ve-Bien-Dong.html
  10. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    Bây giờ lợn tính chơi trò gì đây, khóc mướn hay tự bóp dái. :-w

Chia sẻ trang này