1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Asean, Trung Quốc, Biển Đông và Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi MMichelHung, 27/06/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. MMichelHung

    MMichelHung Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/12/2009
    Bài viết:
    7.599
    Đã được thích:
    7
    đúng vậy, mình cũng nghi ngờ như bác, nhưng có lẽ...dài dòng lắm haizzzzzzzzzzzzz
  2. cuchuoi_kt115

    cuchuoi_kt115 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2012
    Bài viết:
    4.230
    Đã được thích:
    2.113
    Vì vậy Tôi không bao giờ hi vọng vào điều đó!nhưng khi có người muốn giúp đỡ mình thì tai sao chúng ta lại từ chối nhỉ! chúng ta luôn mong muốn kẻ thù thành bạn chứ không phải là biến bạn thành kẻ thù.khi họ giúp đõ mình một cách chân chính....
    [:D][:D][:D]
  3. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    Tình hình Triều Tiên hiện nay chỉ là cái cớ để Mỹ đem tên lửa với tàu chiến vào TBD mà anh Khựa dù căm lắm nhưng không làm gì được. Mấy ông chính trị viên bên quân đội bảo nếu chiến tranh Triều Tiên nổ ra vì chắc chắn cả khối ASEAN dĩ nhiên là có Việt Nam cũng sẽ bị lôi vào vòng xoáy của cuộc chiến chứ chả đứng yên ở ngoài được. Vì thế lâu nay cả khối ASEAN đã sẵn sàng cho cuộc chiến nếu nó xảy ra.
  4. MMichelHung

    MMichelHung Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/12/2009
    Bài viết:
    7.599
    Đã được thích:
    7
    cũng có thể đó là dây mồi của thùng thuốc nổ Đông Á:-o:-))@-)
  5. cuchuoi_kt115

    cuchuoi_kt115 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2012
    Bài viết:
    4.230
    Đã được thích:
    2.113
    Cung đã gương thì không thể bắn![:D][:D] nhưng có thể nói đây là ngòi thuốc súng dễ châm lửa nhất ở TBD vi đây là kết quả của những Ông lớn ngày xưa để lại chưa giải quyết đc.LỚN hay không điều thùy thuộc vào những Ông này và nó sát ở ngay cạnh mình.:-?? Nhưng có thể Thằng cẩu làm lớn chuyện ở Đông á để âm thầm chơi lén ở BD. đây mới là điều quan ngại Khi chiến tranh xảy ra thì liên quan thì không bàn nữa rồi.
  6. MMichelHung

    MMichelHung Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/12/2009
    Bài viết:
    7.599
    Đã được thích:
    7
    cương nhu phải đúng lúc bác à? Chỉ nên cương khi cần cương. Còn khi chưa đủ lực mà cương thì bị dập tắt. Chúng ta không nên học theo khựa ở vấn đề này
  7. tdbang

    tdbang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/05/2009
    Bài viết:
    809
    Đã được thích:
    465
    6 nguyên tắc gây chiến của quân đội Trung Quốc


    1. Bất ngờ. Trung Quốc đặc biệt coi trọng yếu tố bất ngờ cho phép làm cho kẻ địch bị bất ngờ. Ý tưởng là ở chỗ làm cho kẻ thù bị bất ngờ về chính trị và tâm lý để giành những chiến thắng nhanh chóng trên chiến trường. Chiến thuật nhấn mạnh tính bất ngờ của cuộc tấn công này bắt nguồn từ quá khứ xa xưa. Hơn 2.000 năm trước, nhà lý luận quân sự Trung Quốc Tôn Tử đã nêu ra chiến thuật này khi ông khẳng định rằng “sự lừa dối là cơ sở cho mọi phép dùng binh”. Còn đây là những lời khuyên mà ông sẽ đưa ra cho các chiến lược gia: “Tấn công vào nơi kẻ thù không phòng bị, khai chiến lúc kẻ thù không ngờ tới. Đây là những yếu tố then chốt để giành thắng lợi”.

    Thật vậy, người Trung Quốc đã bắt đầu và kết thúc cuộc chiến tranh năm 1962, khi Ấn Độ ít ngờ tới nhất. Họ cũng hành động y như vậy khi xâm lược Việt Nam vào năm 1979.

    2. Tập trung toàn lực. Các tướng lĩnh Trung Quốc cho rằng, cần thực hiện các đòn tấn công càng nhanh, càng mạnh càng tốt. Chính chiến thuật tác chiến này đã được họ thể hiện khi tiến hành cuộc chiến tranh chớp nhoáng chống Ấn Độ vào năm 1962. Mục đích là áp đặt cho kẻ thù “những trận đánh có kết cục nhanh chóng”. Sự tập trung như thế vào mục tiêu là điểm đặc trưng cho tất cả các chiến dịch quân sự do nước Trung Hoa cộng sản tiến hành từ năm 1949.

    3. Tấn công trước tiên. Bắc Kinh chưa bao giờ lưỡng lự sử dụng vũ lực để giải quyết các nhiệm vụ chính trị. Ngược lại, Trung Quốc đã nhiều lần thể hiện là họ luôn sẵn sàng để “dạy một bài học” cho đối phương để đối phương không dám thách thức Bắc Kinh trong tương lai. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã giải thích rằng, cuộc chiến năm 1962 có mục đích “dạy Ấn Độ một bài học”. Đặng Tiểu Bình, người đầu tiên trong các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã đến thăm Mỹ, cũng đã sử dụng từ ngữ tương tự vào năm 1979, khi ông ta tuyên bố với Tổng thống Mỹ Jimmy Carter trong chuyến thăm Washington rằng, “cần dạy Việt Nam một bài học như Ấn Độ”. Chỉ vài ngày sau, quân Trung Quốc đã xâm lăng lãnh thổ của nước láng giềng. Điều trớ trêu là chính vào lúc đó, ngoại trưởng Ấn Độ lại đang có mặt ở Bắc Kinh để cố gắng khôi phục quan hệ song phương bị đóng băng từ năm 1962. Cuộc chiến kéo dài 29 ngày, sau đó Trung Quốc đã ngừng chiến và rút quân khỏi Việt Nam, sau khi tuyên bố rằng, Hà Nội đã được đặt về đúng chỗ của mình.

    4. Chờ đợi thời cơ. Người Trung Quốc cho rằng, cần phải chờ đến thời điểm thích hợp. Chiến tranh năm 1962 là một ví dụ điển hình của chiến thuật này. Cuộc tấn công của Trung Quốc diễn ra trùng về thời gian với cuộc khủng hoảng Caribe vốn đã đặt thế giới bên bờ vực của ngày tận thế hạt nhân. Bối cảnh đó đã thu hút sự chú ý của những nước có thể hỗ trợ Ấn Độ. Ngay khi Hoa Kỳ tỏ ý cuộc đối đầu với Moskva đã kết thúc, Trung Quốc ngay lập tức tuyên bố ngừng bắn đơn phương.

    Trong thời gian diễn ra chiến tranh Trung-Ấn, sự chú ý quốc tế đổ dồn vào cuộc xung đột Xô-Mỹ, chứ không phải vào cuộc xâm lược Ấn Độ của Trung Quốc đi kèm với sự đổ máu, mặc dù Delhi đã có quan hệ tốt đẹp với cả Mỹ và Liên Xô.

    Thủ đoạn hành động tương tự đã được Trung Quốc vận dụng cả về sau này. Sau khi Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, Trung Quốc đã chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa.

    Năm 1988, khi Việt Nam đã mất đi sự ủng hộ của Moskva, còn cuộc chiến tranh của Liên Xô tại Afghanistan đã điều trị tiệt nọc sự đam mê đối với các cuộc phiêu lưu quân sự ở nước ngoài, Trung Quốc liền chiếm đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa.

    Năm 1995, việc Philippines lâm vào tình trạng không được bảo vệ sau khi họ buộc người Mỹ đóng cửa các căn cứ quân sự ở vịnh Subic và các khu vực khác của quần đảo Philippines, đã cho phép Trung Quốc giành lấy quyền kiểm soát đá Vành khăn (rạn san hô Mischief).

    5. Biện minh cho các hành động của mình.
    Bắc Kinh thích ngụy trang che đậy các hành động xâm lược của họ bằng cái gọi là mục đích tự vệ. “Trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Trung Quốc đương đại có thể tìm thấy nhiều trường hợp, khi mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã gọi các cuộc tiến công phủ đầu là các chiến dịch phòng vệ (tự vệ) chiến lược”, một báo cáo của Lầu Năm góc đệ trình lên Quốc hội Mỹ năm 2010 viết.

    Trong tài liệu này có nhiều ví dụ về cách làm như vậy, trong đó có cuộc chiến tranh năm 1962, cuộc xung đột năm 1969 (khi Trung Quốc khiêu khích các cuộc đụng độ biên giới với Liên Xô), cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979, và thậm chí cả biến cố năm 1950, khi Trung Quốc can thiệp vào cuộc chiến tranh Triều Tiên.

    Cuộc tấn công Ấn Độ năm 1962 Bắc Kinh chính thức được gọi là “phản kích tự vệ” và thuật ngữ này cũng được sử dụng để biện minh cho cuộc xâm lược Việt Nam, cũng như việc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa, đá Gạc Ma và đá Vành khăn.

    6. Sẵn sàng mạo hiểm. Các hành động mạo hiểm từ lâu đã là yếu tố không tách rời của chiến lược quân sự Trung Quốc. Sự sẵn sàng cho những chiến dịch quân sự như vậy của giới lãnh đạo Trung Quốc là rõ ràng đối với tất cả không chỉ ở thời Mao Trạch Đông cầm quyền vốn đầy rẫy những đảo lộn phức tạp trong chính trị mà cả khi một kẻ đầy thực dụng như Đặng Tiểu Bình quyết định xâm lược Việt Nam bất chấp khả năng Liên Xô can thiệp. Hơn nữa, lần nào thì những hành động mạo hiểm cũng xác đáng và mang lại các kết quả cần thiết. Những thắng lợi đạt được trong quá khứ có thể tạo sự tự tin cho Bắc Kinh, thúc đẩy họ một lần nữa thử thách cơ hội của mình, nhất là hiện nay, khi mà Trung Quốc có khả năng đánh trả hạt nhân và có sức mạnh kinh tế và tiềm lực quân sự chưa từng có.

    Cuộc chiến tranh năm 1962 diễn ra vào thời kỳ CHND Trung Hoa còn là một quốc gia nghèo đói, chưa có vũ khí hạt nhân và bị đè nặng bởi những vấn đề nội bộ. Tuy nhiên, họ đã cho thế giới thấy các tướng lĩnh Trung Quốc tư duy theo những tiêu chí nào và giúp ta hiểu tại sao việc Trung Quốc hiện nay đang tăng cường tiềm lực quân sự của mình với tiến độ nhanh lại không thể không gây ra những lo ngại lớn.


    Nguồn: How China Fights: Lessons From the 1962 Sino-Indian War / Brahma Chellaney // Newsweek International, Vol.160, No.19, 2012, rus.ruvr, 30.10.2012.
  8. MMichelHung

    MMichelHung Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/12/2009
    Bài viết:
    7.599
    Đã được thích:
    7
    Xuy nghĩ như bác thì không làm chuyện lớn được vì cơ hội sẽ qua mau bá nên đọc cái này[:D]
    Cân đong lợi ích chiến lược Việt - Mỹ


    "Gia nhập tổ chức này sẽ tăng uy thế của Việt Nam không chỉ về phương diện kinh tế, mà chính trị cũng rất quan trọng".

    Tuanvietnam tiếp tục cuộc trao đổi với Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason (Hoa Kỳ), về triển vọng mối quan hệ "đối tác chiến lược" Việt - Mỹ.

    Ta thử bàn sang yếu tố thứ hai, là kinh tế, xem sao. Tất nhiên, không thể so với Trung Quốc được, nhưng lại nằm trong "ván cờ mới" của Mỹ được gọi là TPP (hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái bình dương), bao gồm những nước quan trọng nhất ở hai bên bờ Thái bình dương, trừ Trung Quốc, và chiếm tới 40% GDP toàn thế giới.

    Liệu Việt Nam, nếu tham gia được vào TPP, có làm cho yếu tố giá trị (thứ ba) sẽ được "lờ mờ" đi, theo cách nói của ông? Mặc dù, theo tôi được biết, còn hàng loạt các rào cản, về mặt nguyên tắc, như doanh nghiệp nhà nước, tự do hội đoàn, hay dệt may, mà Việt Nam khó vượt qua.

    Vả lại, có thêm những nước như Malaysia, Mexico, Canada, hay gần đây nhất là Nhật Bản, tham gia TPP, vị thế của những nước như Việt Nam sẽ không được như ban đầu. Hay nói như bà Virginia Foote, là đến một lúc nào đó ai rớt lại đằng sau thì chịu thôi.

    Trong trường hợp Việt Nam có khả năng thì vào TPP có ba điều lợi.

    Thứ nhất, TPP là tổ chức duy nhất ở Á châu-Thái Bình Dương Việt Nam tham dự, mà không có mặt Trung Quốc.

    Thứ hai, Việt Nam gia nhập một tổ chức mà các quốc gia hội viên đều theo chế độ kinh tế thị trương thực sự. Một khi hội đủ được điều kiện gia nhập thì đương nhiên Việt Nam đuợc coi là có nền kinh tế thị trường, một điều mà Việt Nam vẫn tranh đấu để Mỹ công nhận.

    Thứ ba, Việt Nam sẽ nằm trong một tổ chức mà tuyệt đại đa số các hội viên đều theo chế độ dân chủ. Gia nhập tổ chức này sẽ tăng uy thế của Việt Nam không chỉ về phương diện kinh tế, mà chính trị cũng rất quan trọng.


    Tham gia TPP, xuất nhập khẩu sẽ có lợi hơn
    Lợi thì rất lợi như vậy đấy. Nhưng câu hỏi chính đặt ra là Việt Nam có đủ điều kiện, và có quyết tâm tạo điều kiện, tham dự TPP hay không?

    Trong quá khứ, Việt Nam đã để mất nhiều cơ hội. Gần đây, Myanmar đã vượt Việt Nam về phương diện được thế giới chú ý đến. Bà Virginia Foote nói đúng, thế giới đi tới và không chờ ai, kẻ nào đi chậm sẽ bị bỏ rơi lại đằng sau.

    Có vẻ như với ông Tổng thống Barrack Obama, Việt Nam không nằm trong trọng tâm của ông, ít nhất trong năm nay. Thế còn với John Kerry, liệu tình cảm đặc biệt với Việt Nam, qua hàng thập kỷ qua, liệu ông sẽ có những nỗ lực cá nhân của riêng mình?

    Hoặc, ít ra, với quá khứ tốt đẹp với chống chiến tranh và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, ông sẽ là gương mặt dễ nói chuyện với Hà Nội hơn?

    Giai đoạn 2008-2010, thành công của Việt Nam trong vai trò hội viên không thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, và cả trong vai trò Chủ tịch ASEAN với việc củng cố sự cộng tác giữa các nước hội viên ASEAN đã gây ấn tượng đối với Mỹ. Vì thế, họ đã tích cực tìm cách củng cố quan hệ giữa hai nước.

    Nhưng gần đây, vấn đề nhân quyền trong nước lẫn sự chia rẽ trong ASEAN làm Mỹ thất vọng. Sự ưu tiên dành cho Việt Nam cũng giảm, nhất là khi chính quyền Obama phải đương đầu với nhiều vấn đề đối nội cũng như đối ngoại quan trọng hơn.

    Riêng ông John Kerry vốn có cảm tình cá nhân với Việt Nam, do đó có thái độ mềm mỏng hơn đối với Việt Nam, như ông đã tỏ ra trong quá khứ.

    Nhưng bây giờ đã trở thành ngoại trưởng, ông phải quan tâm đến nhiều vấn đề nóng bỏng trên thế giới, theo quyền lợi quốc gia của Mỹ, nên không thể xếp Việt Nam vào loại ưu tiên cao. Không những ông chịu trách nhiệm trước Tổng thống, mà chịu trách nhiệm trước Quốc Hội. Lấy vấn đề nhân quyến làm một thí dụ.

    Trước kia, với tư cách Thượng Nghị sĩ, ông có thể "ngâm tôm" luật nhân quyền chỉ trích Việt Nam, do Hạ Viện đã biểu quyết. Ngày nay, không những ông không có quyền "ngâm tôm" vấn đề nhân quyền, mà khi ra điếu trần trước Quốc Hội, ông còn phải chứng tỏ Việt Nam đã có tiến bộ về nhân quyền. Vì thế, tình hình nhân quyền ở Việt Nam sẽ đẩy tân ngoại trưởng Kerry vào thế khó xử.

    Nhưng, nói cho gọn lại, việc ông Kerry trở thánh người lãnh đạo chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn là một cơ hội tốt cho Việt Nam. Lợi dụng được cơ hội ấy hay không lại là một việc khác.

    Tựu trung, qua trao đổi với Giáo sư, Việt Nam chưa có vị trí tạm gọi quan trọng trên bàn cờ chiến lược của người Mỹ?

    Không có gì là không quan trọng cả. Nhưng còn xa mới quan trọng để xác lập một mối quan hệ mới, hay như các nhà ngoại giao vẫn nói là "nâng lên một tầm cao mới".

    Các lãnh đạo Việt Nam, từ chính phủ đến bộ ngoại giao, trong dịp nọ dịp kia, đều nhấn mạnh tới việc sớm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ. Nhưng dường như, bản thân Việt Nam hình như chưa có sự chuẩn bị tinh thần đầy đủ và quyết tâm cần thiết, nhất là một khái niệm rõ ràng về "đối tác chiến lược", để hướng tới mối quan hệ này?

    Tôi nghĩ đúng là lãnh đạo Việt Nam có ý muốn như vậy. Với Mỹ, hai bên chưa thống nhất được nội hàm. Ai cũng biết bên kia muốn gì, nhưng dường như chưa có sự thuận mua vừa bán.

    Thực ra Việt Nam đã từng bỏ lỡ thời cơ trong quan hệ với Mỹ khá nhiều, do chưa thực sự hiểu Mỹ, đơn cử là cơ hội bình thường hóa với Mỹ vào cuối những năm '70, hay trong quá trình đàm phán hiệp định thương mại song phương (BTA), rồi đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Ngay cả với hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái bình dương (TPP) hiện nay dường như sự hiểu biết này của Việt Nam vẫn còn khá hạn chế, tuy đã khá hơn trước rất nhiều. Ông có nghĩ vậy không?

    Phải nói cho khách quan, chính trị nội bộ của Mỹ thực sự rắc rối. Khi Trung Quốc mời tôi sang nói chuyện vào đầu những năm '90, họ cũng không hiểu gì về vấn đề này. Họ cứ hỏi tại sao thế này, tại sao thế kia, hỏi liên tục.

    Tôi giải thích từng trường hợp cụ thể một. Và, tựu trung, chính trị nội bộ vẫn là vấn đề quyền lợi mà thôi. Dần dần, Trung Quốc có nhiều học giả học học tập và nghiên cứu về chính trị nội bộ của Mỹ, nên họ biết khá rành mạch.

    Đối với Việt Nam, cũng có nhiều người học ở Mỹ, nhất là được thực tập ở Mỹ, nên sự hiểu biết chắc chắn là khá hơn ngày xưa, khá hơn rất nhiều. Vấn đề ở đây là họ có dám nói với lãnh đạo một cách thẳng thắn không né tránh không.

    Nhưng, quan trọng nhất, là chỉ có lãnh đạo mới biết rằng họ thực sự muốn gì, tôi hy vọng như vậy, và nếu muốn cái đó phải trả giá thế nào. Và họ có sẵn sàng trả giá hay không, nếu có, đến mức độ nào. Chuyên viên chỉ nói về khía cạnh kỹ thuật, còn nhà chính trị thì quyết định theo quyền lợi chính trị.

    Vì vậy, nên cái giỏi của nhà chính trị là chọn được chuyên viên giỏi, và biết chọn lựa lời khuyên tốt. Ta đành phải hy vọng thôi.

    Xin cám ơn ông.
    nguồn Tuần Việt Nam
  9. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839
    Thấy bài viết hay mang về cho các bác nghiên cứu :-w

    Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á. “Chiếc bẫy” chiến lược hay tiềm lực phát triển?



    Trung Quốc và mười nước ASEAN vốn có mối quan hệ lâu dài. Vậy ban lãnh đạo mới ở Trung Quốc dự định phát triển các liên lạc ra sao? Những trọng tâm chính trị, quân sự và kinh tế như thế nào sẽ chiếm ưu thế trong chính sách tại khu vực? Mức độ tác động của "các vấn đề biển đảo" trên biển Đông vào quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN?

    Sự phân cực của ASEAN. "Bạnbè" và "kẻthù" củaTrung Quốc trong nhóm mười nước

    Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là "lát cắt" khu vực đầy thú vị. Xét về địa chính trị, ASEAN luôn chịu sức ép của người hàng xóm cận kề là Trung Quốc, cũng như ảnh hưởng lớn từ "đối tác" từ xa là Hoa Kỳ. Tổ chức ASEAN đang nỗ lực chứng tỏ tính độc lập và phát triển tự chủ, duy trì cam kết về "đa nguyên nội bộ", đồng thời tôn trọng bất cứ sự lựa chọn ý thức hệ và kinh tế của các nước thành viên. Tuy nhiên, khó nói rằng giữa Trung Quốc và ASEAN tồn tại sự hài hòa.

    Các tranh chấp biển đảo trong khu vực đang tạo nên bối cảnh chính trị tiêu cực cho quan hệ Trung Quốc-ASEAN. Trong khi ấy, các chủ đề cơ bản của chính sách khu vực mà Trung Quốc theo đuổi ở Đông Nam Á, bao gồm hội nhập qui mô (ASEAN+Trung Quốc, Khu vực Mậu dịch tự do), dự án Tiểu vùng sông Mekong, các dự án thương mại và đầu tư lại ngày một bị đẩy lùi.

    Tất nhiên, Trung Quốc cũng như các nước đối thủ đều có lỗi gây nên những căng thẳng khu vực. Như một số chuyên gia phương Tây ghi nhận, đối với các nước ASEAN xung đột lãnh thổ là phản ứng tự vệ và cảm tính của các tầng lớp lãnh đạo Đông Nam Á, nảy sinh trước nguy cơ bành trướng từ Trung Quốc.

    Cần thừa nhận rằng, đây là phản ứng của một số quốc gia ASEAN chứ không phải từ "tất cả các tầng lớp cầm quyền". Sự phân cực chính trị diễn ra trong khu vực dưới những yếu tố áp lực là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Một bên, thái cực chống Trung Quốc là các nước Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei. Trong dự báo năm 2013, cơ quan phân tích Stratfor có uy tín đã gọi Việt Nam và Philippines là những "đối thủ nhất quán” của Trung Quốc, ngày một tích cực “ủng hộ sự hiện diện kinh tế và quân sự của Mỹ." Đây là một dự báo không khó diễn ra.

    Mặt khác, các nước Campuchia, Thái Lan, Lào và Myanmar thuộc về nhóm thân Trung Quốc. Indonesia và Singapore chưa công khai bày tỏ sự thù địch hay trung hòa, nhưng xét về phương diện chính trị họ gần giống các đối thủ của Trung Quốc.

    Trong dự báo năm 2013, giới chuyên gia đặc biệt lưu ý đến Myanmar. Xu hướng nhận định của các phân tích gia có xu hướng tin rằng người Mỹ sẽ dần dần lấn át ảnh hưởng truyền thống của Trung Quốc ở đất nước này. Các ý kiến đã không loại trừ khả năng kịch phát đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ ở Myamar, hay phát sinh những "căng thẳng sắc tộc” dọc biên giới Trung Quốc và Myanmar.

    Cơ sở chỗ dựa vào những "người anh cả" của hai nhóm "thân Trung Quốc" cũng như "thân Hoa Kỳ" đều là những mô típ kinh tế và chính trị. Cán cân các mô típ lại là một vấn đề khác. Nhưng chắc chắn, trong các triển vọng ngắn hạn và trung hạn, sự phân cực của khu vực ASEAN sẽ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới tình hình ở Đông Nam Á.

    Những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc trong vùng biển Nam Hoa

    Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Đông Nam Á trở thành bản chất chính trị mới, làm nảy sinh làn sóng phản ứng của khu vực. Ban lãnh đạo Trung Quốc nhiệm kỳ trước của nguyên Chủ tịch Hồ Cẩm Đào có thể đã không đánh giá đúng mức độ phản ứng.

    Giáo sư Tương Lan Hân, Đại học Phúc Đán (Trung Quốc) nhận định rằng, Bắc Kinh đã thực hiện sai lầm chiến thuật khi tuyên bố sự hiện diện "các lợi ích cốt lõi ở biển Hoa Nam." Theo chuyên gia, điều này cho phép các đối thủ diễn giải phát biểu của giới chính khách Trung Quốc như sự kỳ vọng lập toàn quyền kiểm soát biển Hoa Nam, biểu lộ "sự bành trướng... xuống phía Nam theo hướng ASEAN." Như vậy theo giáo sư Tương Lan Hân, ông Tập Cận Bình vô tình trở thành "con tin" chính sách khu vực của ông Hồ Cẩm Đào ở Đông Nam Á.

    Một số ý kiến thậm chí đã đề cập tới "chiếc bẫy" mà dường như tân lãnh đạo Trung Quốc đã mắc phải. Để duy trì tính thừa kế, ông Tập phải tiếp tục "đường lối cứng rắn” về biển đảo của ông Hồ Cẩm Đào ở biển Hoa Nam, ngẫu nhiên làm tăng thêm tâm lý bài Trung Quốc ở một số nước ASEAN.

    Khó thể chỉ ra sự hiện diện của "chiếc bẫy", nhưng một số sự kiện trực tiếp phản ánh đường lối cứng rắn mà ông Tương Lan Hân nhắc đến. Như chúng ta biết, ông Tập Cận Bình công bố Trung Quốc sẵn sàng với "cuộc chiến cục bộ" và sự cần thiết của "lực lượng hải quân hùng mạnh", một điều gián tiếp xác nhận luận đề "những lợi ích cốt lõi của quốc gia" ở Đông Nam Á.

    Cũng không nên bỏ qua tuyên bố chính thức của cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton hồi đầu năm 2012. Theo bà Clinton, Hoa Kỳ cũng sở hữu "lợi ích quốc gia quan trọng" trong khu vực (biển Nam Hoa) và "mong rằng mọi kỳ vọng khai thác tiềm năng sẽ đều tôn trọng quyền tự do hàng hải, thực hiện giải quyết các tranh chấp phù hợp luật pháp quốc tế. "

    Trung Quốc - ASEAN. Liệu Trung Quốc có phương án mới?

    Nói cách khác, đối với ban lãnh đạo mới của Trung Quốc vấn đề không phải "đi lùi lại" trong giải quyết biển đảo, mà hợp lý chuyển hướng tranh chấp sang bình diện mới. Trung Quốc phải nỗ lực xây dựng môi trường chính trị và thể chế đáp ứng sự phát triển song song hai đường đua. Đó là thảo luận những bất đồng về vấn đề lãnh thổ và thúc đẩy hệ thống hợp tác của định dạng Trung Quốc - ASEAN.

    Như đã rõ, xung đột trên biển Hoa Nam /biển Đông/ tồn tại đã nửa thế kỷ nay. Đã từng diễn ra những tình huống bi kịch vào nhiều thời điểm khác nhau, ví dụ, xung đột vũ trang Trung-Việt ở quần đảo Trường Sa năm 1974. Tuy nhiên, chưa bao giờ các tranh chấp dẫn đến nỗ lực kháng cáo lên Tòa án Trọng tài Quốc tế hoặc Tòa án Quốc tế về Luật Biển.

    Trong khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm 2012 ở Campuchia, các phái đoàn Philippines và Việt Nam đã nỗ lực đưa luận điểm "sự xâm lược của Trung Quốc” vào dự thảo tuyên bố chung. Nước chủ nhà hội nghị thượng đỉnh và một số quốc gia khác quyết định chặn đề xuất này. Lần đầu tiên suốt 45 năm hoạt động, ASEAN đã không thông qua được tuyên bố chung tại hội nghị cấp cao. Nguyên nhân chính là bất đồng quan điểm về vấn đề đường lối của Trung Quốc ở khu vực.

    Đường đua quan trọng cơ bản thứ hai đối với Trung Quốc đòi hỏi Bắc Kinh vận dụng mọi nỗ lực thúc đẩy như “luồng chiến lược chủ lực” trong chính sách ở Đông Nam Á. Đó là phát triển các dự án hội nhập kinh tế với ASEAN, hỗ trợ cơ chế và thể chế đối thoại.

    Bên cạnh những công cụ chính trị và kinh tế, chính phủ Trung Quốc có cơ hội sử dụng ảnh hưởng của cộng đồng Hoa kiều. Cộng đồng người Hoa ở các nước ASEAN lên đến 25 triệu người, trong đó có 7,3 triệu ở Indonesia, 5,7 triệu ở Thái Lan (chiếm 10% dân số), v.v…

    Đối với Trung Quốc và Hoa Kỳ, ASEAN ngày càng giống miếng bánh hấp dẫn về cả kinh tế, quân sự, lẫn chính trị. Tất nhiên Bắc Kinh và Washington khó thể thâu tóm toàn bộ khu vực cả mười quốc gia. Những tiềm năng kỹ thuật cũng như chính trị để thực hiện điều này đều vắng bóng trong tương lai gần.

    Mặc dù vậy, một số chuyên gia không bỏ qua triển vọng Trung Quốc bành chướng Đông Nam Á. Ví dụ, giáo sư Nga D. Mosyakov, một chuyên gia khu vực, đã viết về điều này.

    Sự căng thẳng tình hình ở Đông Nam Á làm suy yếu an ninh chung tại khu vực, không khỏi ảnh hưởng đến chính sách của Nga tại đây. Nga cần giữ khoảng cách trong các vấn đề biển đảo của Trung Quốc vì lợi ích quốc gia, nhưng đồng thời phải duy trì các "ô cửa" và "điểm nhấn" ở ASEAN, ví dụ như Việt Nam và một số nước khác, bất kể họ thuộc nhóm nào, thân Trung Quốc hay bài Trung Quốc.
  10. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Nhật khiến TQ ‘rụng rời tay chân’, Châu Á lo ngại
    (ĐVO) - Tại hội nghị Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ ngày 25/4/2013 đã đưa ra Tuyên bố chung có nội dung “nhấn mạnh tính phi nhân đạo của vũ khí hạt nhân, không sử dụng vũ khí hạt nhân trong bất cứ trường hợp nào”, nhưng Nhật Bản, nước duy nhất bị hại bởi vũ khí hạt nhân, đã không ký Tuyên bố này.


    Giải thích về điều này, đại diện Chính phủ Nhật Bản là Đại sứ Mari Amano nói: “Tuy bày tỏ tán thành với tính chất phi nhân đạo của việc sử dụng vũ khí hạt nhân, nhưng việc không sử dụng vũ khí hạt nhân trong bất cứ trường hợp nào không phù hợp với chính sách bảo đảm an ninh của Nhật Bản”. Chấm hết.
    Rõ ràng, những quốc gia có VKHN thì họ không bao giờ ký vào Tuyên bố này, bởi vì hoặc là vô nghĩa, không ai tin hoặc là họ phải hủy bỏ ngay toàn bộ VKHN, giữ làm gì cái đồ vô dụng, “không được dùng trong bất kỳ trường hợp nào” nhưng tốn kém và vô cùng nguy hiểm đó? Điều này có bao giờ xảy ra không? Xin thưa là không bao giờ.

    Rốt cuộc, trong 74 quốc gia ký vào tuyên bố này, đương nhiên là những quốc gia không có và không có khả năng chế tạo được VKHN. Vì thế, tuyên bố của 74 quốc gia này giống như một lời “cầu xin Chúa ban phước lành” mà thôi, không hơn không kém.

    Nhưng Nhật Bản thì không, dù không có VKHN. Tại sao? Có 2 lý do.

    Trước hết, cho đến lúc này, khối mâu thuẩn Trung Quốc – Nhật Bản có từ quá khứ và hiện tại đã bộc lộ đỉnh điểm và không thể che giấu được nữa. Đó là sự hận thù dân tộc bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang thắng thế đẩy lên cao; đó là sự đối đầu về địa chính trị, đia quân sự và địa kinh tế không thể dung hòa bởi tham vọng quá lớn trong sự trỗi dậy của Trung Quốc.

    Nhật Bản, một cường quốc kinh tế, nhưng tại sao Trung Quốc lại tỏ ra hung hăng, xem thường, coi như “con gà” muốn giết lúc nào thì giết để dọa “khỉ” Mỹ, trong khi hơn 30 năm nín nhịn, chờ thời, mới đuổi kịp Nhật Bản năm 2010 về GDP?

    Đơn giản dễ hiểu là vì Trung Quốc có 2 thứ mà Nhật Bản không có (vì Nhật Bản dựa vào ô của Mỹ và đang bị trói buộc bởi Hiến pháp hòa bình), đó là tên lửa đạn đạo (TLĐĐ) và vũ khí hạt nhân (VKHN).



    Mục tiêu của tên lửa DF-21C của Trung Quốc đang nhắm tới Nhật Bản, trong khi Nhật Bản có TLĐĐ để nhắm vào Trung Quốc hay không?

    Mới đây, một vị tướng Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng VKHN nếu “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc bị uy hiếp, trong khi quần đảo Điếu Ngư/Senkaku đang bị Nhật Bản quản lý, là nơi xảy ra tranh chấp quyết liệt cũng được Trung Quốc cho là “lợi ích cốt lõi”…

    Đành rằng trên đất Nhật Bản có căn cứ quân sự của Mỹ, nhưng khi sử dụng đòn hạt nhân hay TLĐĐ, Trung Quốc đâu có dại nhằm vào đó để buộc Mỹ không còn sự lựa chọn nào khác là thực hiện đòn trả đũa. Trung Quốc sẽ nhằm vào chỗ khác trên đất Nhật Bản để Mỹ có thời gian lựa chọn mà “tính toán thiệt hơn”.

    Tất cả những điều trên liệu Nhật Bản có biết cái “thiệt, hơn” trong đầu của Mỹ là gì? Và do đó có yên tâm dựa vào “ô hạt nhân” của Mỹ không?...

    Với tình thế đó, việc Nhật Bản không ký vào tuyên bố “không sử dụng vũ khí hạt nhân trong bất cứ trường hợp nào” là “đừng có ngạc nhiên”.

    Với tình thế đó Nhật Bản không thể ngây thơ để “xin Trung Quốc ban phước lành, đừng dùng đòn hạt nhân, tên lửa tầm xa vào đất Nhật Bản”.

    Cuối cùng, Nhật Bản dù bị bại trận trong thế chiến thứ 2, nhưng là một cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới suốt hơn nửa thế kỷ qua trong khi Trung Quốc mới đuổi kịp (chỉ về tiêu chí GDP) năm 2010, cho nên Nhật Bản đang tích trữ một nội lực hùng hậu, một “thế năng” rất lớn.

    Chẳng hạn như về năng lượng hạt nhân. Theo tiết lộ, kế hoạch của Ủy ban Năng lượng nguyên tử Nhật Bản năm 1990 định ra thì đến năm 2010, Nhật sẽ cung ứng 85 tấn plutonium. Nhưng theo tính toán, lượng plutonium mà Nhật yêu cầu đến năm 2010 nhiều nhất cũng chỉ hơn 20 tấn. Như vậy, đến năm 2010 Nhật sẽ dư thừa hơn 60 tấn plutonium.

    Được biết, cứ khoảng 1 tấn plutonium có thể chế tạo được 120 đầu đạn hạt nhân thì Nhật Bản có đủ nguyên liệu chế tạo ra 7200 đầu đạn hạt nhân.

    Về kỹ thuật, Nhật Bản có đủ đội ngũ chuyên gia giỏi và nhân viên kỹ thuật trình độ cao, tay nghề chắc trên mọi lĩnh vực chuyên môn liên quan đến nghiên cứu chế tạo VKHN

    Nhật Bản đã nghiên cứu thành công máy tính siêu cao tốc, vận hành tốc độ 600 tỉ lần/giây; với loại máy này hoàn toàn có thể mô phỏng thực thử nghiệm nổ hạt nhân giúp cho việc tiếp tục nghiên cứu chế tạo và hoàn thiện VKHN kiểu mới.

    Nhật Bản nhanh chóng có thể nắm vững bí quyết vận dụng máy tính tiến hành thử nghiệm nổ hạt nhân phi giới hạn, đồng thời qua đó có thể tiến hành thử nghiệm chế tạo và cải tiến tính năng của đầu đạn VKHN mà không ai biết , không giống như Triều Tiên hay Iran.

    Như vậy có thể nói việc Nhật Bản không ký vào tuyên bố “không sử dụng VKHN trong bất kỳ trường hợp nào” (lưu ý là trong khi Nhật Bản không có VKHN) với lời giải thích ngắn gọn nhưng đầy hàm ý đã gửi đến cho các quốc gia có VKHN và quốc gia đòi lăm le sử dụng VKHN, một thông điệp mà chắc rằng không ai có thể nghĩ khác đi, đó là:

    “Hãy cẩn trọng với VKHN, sử dụng nó là vô nhân đạo nên đừng đem nó ra dọa nạt nhau. VKHN hay TLĐĐ đối với Nhật Bản là không thành vấn đề. Vấn đề của Nhật Bản là tuyên bố có lúc nào, bao nhiêu và sự hiện đại tiên tiến ở mức độ nào mà thôi”.

    Người Mỹ sẽ làm gì? Mỹ chắc là OK, Ixrael hay Nhật Bản có gì là khác nhau với Mỹ, vả lại, đâu phải dễ dàng khống chế được Nhật Bản khi Trung Quốc càng ngày càng hung hăng.

    Người dân khu vực châu Á-TBD chẳng thích thú gì việc quốc gia nào cũng sở hữu VKHN, nhưng khi có quốc gia sở hữu VKHN lại tỏ ra hung hăng, bất chấp, đe dọa giáng vào quốc gia không có VKHN thì hết sức thông cảm với Nhật Bản… tuy hết sức lo ngại.

    Báo chí Trung Quốc chẳng có bình luận nào sâu vào động thái này của Nhật Bản bởi vì bình luận càng sâu khiến càng “rụng rời tay chân”. Việc ông tướng về hưu La Viện hô hào đòi LHQ “bóp chết tiềm lực hạt nhân của Nhật Bản từ trong trứng” là đã quá muộn. “Trứng” đã đủ lông đủ cánh và chỉ cần một cái nhún chân nhẹ là con đại bàng Nhật Bản tung cánh.

    Vấn đề chỉ là thời gian khi nào?

    Thủ tướng Nhật Bản, ông Shinzo Abe tuyên bố: "Chỉ trong vòng 2 năm nữa thôi, tương quan sức mạnh quân sự Trung - Nhật sẽ bị phá vỡ triệt để".

    Trung Quốc có hiểu điều gì không hay là bất chấp hay là như không nghe thấy để che dấu sự hoảng hốt?

    Tại sao Trung Quốc biết thực hiện sách lược “giấu mình, chờ thời”, bắt tay nhún nhường với Mỹ, Nhật Bản để “trỗi dậy” mà Nhật Bản lại không?

    Thật ra, sau thất bại trong cuộc tranh thế giới lần 2, hơn ai hết Nhật Bản đã hiểu bài học về thói ngạo mạn, hung hăng, về ý muốn “mặt trời không bao giờ lặn trên đất Nhật”.

    Từ những nỗi đau đầy máu và nước mắt khi bị 2 quả bom nguyên tử, nhưng người Nhật đã làm cho cả thế giới phải sững sờ khi họ biết cách để nuốt nước mắt lẫn máu vào trong trái tim câm lặng của mình để bắt tay với người Mỹ.

    Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật năm 1951 đã giải phóng cho nước Nhật khỏi mọi gánh nặng chạy đua vũ trang và nước Nhật, đất nước vừa nhỏ (377.600km2) lại vừa chật chội (130 triệu dân – 2005), 4.000 hòn đảo nhưng chỉ có chưa đầy 10% đất đai có thể canh tác, tài nguyên chủ yếu là “động đất và sóng thần” có được vị trí, vai trò như bây giờ khiến thế giới ngưỡng mộ, kính trọng.

    Xem ra dù đang còn non nớt nhưng Trung Quốc cũng đang cố tập tễnh đi vào con đường mà Nhật Bản đã đi, đã từng biến mình thành nạn nhân.

    Tham vọng quá lớn, khả năng hạn chế, bộc lộ quá sớm Trung Quốc khó có thể vượt qua được “lời nguyền Nhật Bản”.
    source
    He he he vậy thằng tung cẩu đừng honh2 giở cái giọng chơi VKHN ra khè Nhật nhá =D>

Chia sẻ trang này