1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Asean, Trung Quốc, Biển Đông và Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi MMichelHung, 27/06/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839
    yetkieuhuyphuc_ttvnol thích bài này.
  2. echditxanh

    echditxanh Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    02/02/2008
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    32
    Hừm, liên quân 50 nước áp sác sông Áp Lục một thời mà còn bị Mao chủ tịch và Ba Bành nguyên soái rượt cho chạy lòi kèng chứ nói gì mấy cái ASB của nghẹo Nhật Hàng !!!!!!!!
    sinofanhuyphuc_ttvnol thích bài này.
  3. phaphai

    phaphai Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/12/2004
    Bài viết:
    1.203
    Đã được thích:
    1.825
    Tầu khựa bây giờ chỉ lợi dùng là thị trường lớn dử mồi. Khi không có gì quan trọng mà chỉ là loanh quanh mấy vụ lính biên phòng sang nước láng giềng mấy phát súng trường, hô "quyết chiến" trên loa, trên báo... thì các nước sợ Mỹ lợi dùng nhẩy vào chiếm nhiều thị trường hơn, bóc lột được sức dân tầu làm cửu vạn nhiều hơn nên cũng bỏ qua để xông vào tranh giành, sức lực đàn ông tầu, con gái tầu,... Nhưng khi có 1 vấn đề gì nghiêm trọng hơn, không chỉ Mỹ phải bỏ qua kinh tế mà các nước khác cũng phải bỏ theo thì chưa chắc nước nào cần phải bắn phát đạn nào vào đất tầu, chỉ cần cách anh ba tầu hảo hán với nhau thì không chỉ tam quốc mà cửu,... quốc. Lúc ấy tầu như Syria bây giờ. Mỹ, tây Âu lại đứng ngoài tỏ ý thương hại dân hán hảo lập các đội cứu trợ phía trước, tuồn vũ khí phía sau,...!!!
    Dân hán ở nước tầu nếu biết lúc nào cũng đang sống trên kho thuốc súng của chính họ thì họ sẽ bớt hung hăng hơn!
    zzlovevnzzyetkieu thích bài này.
  4. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
  5. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Rồi Nga ngứa dái quát : "Mỹ lượn". Mỹ ném bao cao su và ****** Đỗ Sơn Hải ở học viện ngoại giao cho các chó dại xóc lọc, Mỹ lượn im re không một tiếng động.

    Cái nước Mỹ có những cuộc biểu tình triệu người, bắn chết tổng thống... hay bẫy gái tổng thống đem ra tòa.... mà cử chó dại giơ xxx ra xóc lọ về loạn chính trị với ác nước Đông Á chữ vuông.

    Quái thai sống trong bể cu't.


    Lần cập nhật cuối: 29/12/2013
    giamadai, LarvaNHsuhomang thích bài này.
  6. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839
    Đọc tiếp bài này cho nó sáng ra .

    http://thediplomat.com/2013/12/can-a-china-russia-axis-bankrupt-the-us/
    huyphuc_ttvnol thích bài này.
  7. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    BỨC TƯỜNG NGẦM VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH VĨ ĐẠI

    Quá khứ, hiện tại, tương lai tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc

    Năm 2014, Hải quân Cộng hoà nhân dân Trung Hoa kỷ niệm 2 sự kiện quan trọng, 60 năm ngày thành lập hải quân và 40 năm chiếc tàu ngầm nguyên tử đầu tiên.
    Những sự kiện đó của thành viên thứ 5 câu lạc bộ tàu ngầm hạt nhân sẽ được truyền thông thế giới phản ánh rộng rãi: Mỹ, Nga, Anh, Pháp và Trung Quốc.

    BẮT ĐẦU TỪ CẢNG ARTHUR

    Hải cảng Arthur nằm trong vùng tự trị Đại liên, gọi là cảng Lüshun vì gần thành phố này. 20 năm trước, người Trung Hoa đã hoàn thành lô tàu ngầm nguyên tử đầu tiên, làm thay đổi cán cân lực lượng hải quân Thái Bình Dương nói chung và khư vực Đông Á nói riêng.

    Tất cả đã bắt đầu vào ngày 24 tháng 6 năm 1954, khi tại cảng Arthur xuất hiện 2 chiếc tàu ngầm mang cờ Trung Quốc, đó là chiếc New China-11 và New China-12. Tên này được đặt cho 2 tàu ngầm diesel cũ S-52 và S-53 theo mẫu IX-b đóng năm 1943 Liên Xô chuyển giao (S-class). Sự kiện này đã khiến Đô đốc Chen Yi phấn khích, khi đến thăm chiếc China-11, ông đã tức cảnh sinh tình, bí khẩu xuất thơ, (dịch nôm na là):

    Những máy bay bay,
    Những tàu chiến bơi bơi,
    Những tàu ngầm ngầm đấy thứ ta cần,
    Lặn vào đại dương ngàn thước, hỡi kẻ thù kia ta không hề khách khí!


    Dĩ nhiên, các đồng sự của đô đốc Chen, không lặn sâu được đến thế, họ đo đạc tàu chỉ lặn được 576 mét, nhưng cảm hứng bột phát của đô đốc là hoàn toàn có thể hiểu được: phát triển (với sự giúp đỡ của Liên Xô) dù ngay cả tàu ngầm cũ hơn, cũng là bước tiến đá tảng đến tương lai.

    Sự chuyển giao không dừng ở đó, cũng năm 1954, Liên Xô tiếp tục chuyển cho Trung Quốc một số tàu ngầm cũ nữa thuộc lớp S và lớp M. Không những vậy, Trung Quốc còn được nhận bản vẽ kết cấu và kỹ thuật đóng tàu ngầm diesel dự án 613, 5 năm sau là thiết kế kỹ thuật tàu ngầm diesel dự án 633.

    Cho đến cuối 1950, đầu 1960, Trung Quốc đã đóng hơn 100 chiếc tàu ngầm theo những dự án này. Dựa vào Liên Xô người Trung Hoa đã có hạm đội ngầm qui mô lớn, đứng hàng thứ 3 thế giới lúc đó, và họ chỉ chịu đứng sau Nga và Mỹ. Điều quan trọng sau quá trình đóng và vận hành tàu ngầm: họ đã thu được những kinh nghiệm quí giá. Nhưng giới hạn của tàu ngầm diesel là thứ không thể vượt qua. Ngoài tàu ngầm diesel ra, họ chưa phải là đã thu hái được tất cả. Qua tin tức, họ biết người Mỹ đã thành lập hạm đội ngầm nguyên tử. Bắc Kinh tin chắc, người Nga cũng không thể chậm trễ. Dường như các lãnh đạo Thiên Triều biết người Nga đang làm gì, họ biết những chiếc tàu ngầm nguyên tử đầu tiên đang được đóng ở Severodvinsk và Komsomolsk-on-Amur. Năm 1958, Trung Quốc gửi yêu cầu đến Kremlin, đề nghị bản vẽ tàu ngầm nguyên tử. Nhưng đề nghị này đã bị từ chối. Mat-xcơ-va chưa bao giờ để ý đến việc chuyển giao tàu ngầm nguyên tử, dự án 659 lúc đó cho Bắc Kinh. Tàu ngầm dự án 656 mang tên lửa có đầu đạn hạt nhân P-5 tấn công các mục tiêu trên đất liền.

    Tên lửa P-5 lúc đó không được hiệu quả bởi độ chính xác thấp, cho dù đến bản P-5D độ lệch mục tiêu cũng có bán kính 4-6km. Có thể cho rằng, người Nga đã thực sự có ý định trang bị P-5 cho tàu ngầm diesel. Nhưng chỉ khi xuất hiện mối đe doạ trực tiếp từ Mỹ và các đồng minh. Còn trên những tàu ngầm diesel mà Trung Quốc có được, đã có tên lửa Yabch. Rất khó để giải thích, tại sao trong nửa cuối những năm 50, Bắc Kinh đã nhận được tài liệu thiết kế tên lửa đạn đạo tầm trung P-5M, còn trước đó là bản mẫu thiết kế tên lửa chiến thuật tầm ngắn R-2 và R-11. Từ R-2, Trung Quốc chế tạo hàng loạt Dongfeng-1, còn từ R-11 họ đặt tên là type 1060. Trên cơ sở P-5 cuối cùng Trung Quốc đã đưa được tên lửa Dongfeng-2 vào trang bị cho tàu ngầm năm 1966, phần đầu đạn hạt nhân họ tự phát triển. Hai tàu ngầm diesel khác thuộc dự án 629 có khả năng mang tên lửa đạn đạo mà một chiếc đóng dở phần tháp đã được giao cho Bắc Kinh năm 1960 và 1964. Cùng với 2 tàu ngầm này là 6 tên lửa đạn đạo R-11FM để rời, 3 quả nạp sẵn trên tàu và một quả dùng để huấn luyện.

    Tên lửa R-11FM được trang bị ở Liên Xô năm 1959 và là loại vũ khí đầu tiên như thế trên tàu ngầm. Ở Liên Xô lúc đó, nó chỉ trang bị đầu đạn hạt nhân tương đương 10KT và tầm bắn 150km, còn chuyển cho Trung Quốc thì không kèm đầu đạn hạt nhân.

    VÀ ĐÁM CƯỚI SẼ PHẢI CHỜ!

    Tuy nhiên, quan hệ lạnh nhạt giữa 2 bên bắt đầu và nhanh chóng chuyển sang giai đoạn đối đầu. Điều đó đã ngăn cản thực hiện những kế hoạch như tàu ngầm. Kể từ khi phát động phong trào chống các phần tử “xét lại Xô Viết” sau Đại hội ĐCS Liên Xô lần thứ XX, Mao Trạch Đông đã không còn muốn, không nghi ngờ gì mối quan hệ quân sự-kỹ thuật cấp cao lãnh đạo với Mat-xcơ-va sẽ đổ vỡ.

    Do đó, tháng 7 năm 1958, Bộ chính trị của ĐCS Trung Quốc đã quyết định: độc lập phát triển tàu ngầm nguyên tử và tên lửa đạn đạo cho hải quân. Rõ ràng, Trung Quốc đã nhằm mục tiêu đua tranh với Mỹ khi đó vừa thử nghiệm thành công tên lửa đạn đạo Polaris. Còn R-11 lúc đó, có tầm bắn thua kém Polaris 14,4 lần.

    Quyết định của Mao, chủ tịch đảng CSTQ được giải thích bằng khẩu hiệu cường điệu lâm ly thống thiết khác thường: “Chúng ta phải đóng tàu ngầm hạt nhân, cho dù chúng ta phải mất 10 ngàn năm!” Một số nguồn tin khi nói về điều này cho rằng, Người Cầm lái vĩ đại đã nói khẩu hiệu đó năm 1956 trước cả khi khởi động đóng tàu ngầm diesel.

    Và lịch sử hình thành hạm đội ngầm nguyên tử Trung Quốc đầy rẫy những tấn kịch. Cho dù chương trình phát triển tàu ngầm nguyên tử với những tham vọng trên trời là một ưu tiên quốc gia hàng đầu và tối quan trọng, có thể sánh với việc chế tạo bom hạt nhân đầu tiên (1964) và phóng vệ tinh đầu tiên Đông phương hồng-1 (1970). Việc triển khai chương trình đã gặp phải vô vàn khó khăn từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Điều đó có thể giải thích là bởi việc đoạn tuyệt với Liên Xô đã chấm hết sự giúp đỡ và cơ hội có được thiết kế tàu ngầm nguyên tử từ họ. Mặt khác, cũng nhờ sự giúp đỡ này, mà trong thập kỷ 1950, người Trung Hoa đã nhanh chóng có được các cơ sở công nghiệp đóng tàu ngầm, là giá trị quan trọng để họ có bước phát triển tiếp theo.

    Dự án 09 là tên chương trình đóng tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc đầu tiên. Nhóm nhiều các chuyên gia Trung Quốc đã tham gia vào dự án này. Họ là những nhà vật lý, nhà đóng tàu, nhà khoa học hạt nhân, chuyên gia, kỹ sư tên lửa trẻ tuổi. Lãnh đạo của họ là ông Peng Shinly, vừa mới tốt nghiệp Viên kỹ thuật năng lượng Mat-xcơ-va về, sau là viện sĩ, một chuyên gia hàng đầu Trung Quốc về khoa học và kỹ thuật hạt nhân. Pen lúc đó chỉ là chàng trai trẻ có tài với lòng nhiệt huyết lĩnh trách nhiệm dự án 09 trong bối cảnh bị quyền lực tinh thần chế ngự đã nói lên một tình tiết lý thú. Trong một bữa tiệc thân mật, một nhà phát triển dự án bỗng nhiên bỏ lại cô bạn lúc đang nhảy với tuyên bố: ”Tôi sẽ không cưới vợ, khi con tàu của chúng ta chưa hoàn thành!” Và để giữ lời, anh ta đã thề hẹn với cô bạn gái chờ đợi nhau 16 năm, chỉ sau khi đó, đám cưới chờ đợi nhiều năm mới được tổ chức.

    Thật không may, những vấn đề nội bộ đã xuất hiện và đó là chướng ngại to lớn nhất.

    Đầu tiên, thiếu những con người có trình độ chuyên môn cao và tài chính. Bởi ưu tiên lớn nhất của Trung Quốc lúc đó là bom hạt nhân, phát triển tên lửa đạn đạo và hệ thống hạt nhân mặt đất, vũ trụ. Một phần các chuyên gia buộc phải rút khỏi dự an 09 và trực tiếp tham gia vào giải quyết các vấn đề thuộc các dự án trên.

    Thứ hai, cuộc Cách mạng Văn hoá nổ ra cuối những năm 1960 đã phá hoại hết sức nghiêm trọng kinh tế và xã hội Trung Quốc, dẫn đến thái độ hoang dã thái quá đối với các chuyên gia hải quân, các nhà khoa học và tri thức kỹ thuật. Hậu quả của những cuộc trả thù tàn bạo đã làm mất hơn 3800 chỉ huy hải quân lành nghề, kể cả 11 cựu đô đốc. Năm 1965, cấp bậc trong QĐ Trung Quốc đã bị huỷ bỏ, và chỉ được khôi phục vào năm 1988.

    Trường huấn luyện thợ lặn ở Qingdao bị đóng cửa hoàn toàn từ 1963 đến 1973, một trong những lãnh đạo của dự án 09, là Juan Syuhua trở thành đối tượng bị đội quân Hồng vệ binh hành hạ tàn bạo. Chúng đã dàn dựng ra các cuộc thẩm vấn, cưỡng bức Syuhua bằng bạo lực buộc phải thú nhận là “gián điệp nước ngoài”. Chỉ có can thiệp cá nhân của Ttg Chu Ân Lai lúc đó mới cứu được mạng Syuhua khỏi bị đi đày ở một trang trại chăn lợn nào đó và chết mất xác. Bản án “đúng đắn” giành cho Syuhua đã được lập bởi bức cung. Nhà thiết kế tàu ngầm nguyên tử Xô Viết đầu tiên, dự án 627 "Leninsky Komsomol" Vladimir Peregoudov cũng tương tự, đã phải trải qua tù tội đàn áp bởi đám NKVD vì “làm gián điệp”.

    NÓI CHINA BẰNG GIỌNG PHÁP

    Juan Syuhua không phải là người duy nhất trong dự án tàu ngầm nguyên tử 09 nếm mùi cay đắng. Một lần nữa các thành viên trong dự án lại bị buộc tội gián điệp. Hiển nhiên, điều đó chỉ có thể giải thích một thực tế là đã có một khuynh hướng chủ đạo, đoạn tuyệt với khoa học và kỹ thuật có mối liên hệ với Xô Viết. Điều đó đã buộc người Trung Quốc phải tìm kiếm sự hỗ trợ kỹ thuật trong việc chế tạo tàu ngầm hạt nhân từ phương Tây. Đầu tiên là những người Pháp.

    Giai đoạn tiếp theo, có sự tham gia của người Pháp trong dự án 091 và tàu ngầm hình hài hạt nhân Changzheng-1 đã nằm ở nhà máy đóng tàu Huludao năm 1967. Cái tên Changzheng có nghĩa là Trường Chinh-cuộc hành quân dài, vinh danh cuộc Vạn lý trường trinh PLA 1934-1935. Tất cả các tàu ngầm Trung Quốc đều có cái tên như thế cùng con số. NATO gọi dự án 091 là lớp Han.

    Việc đóng Changzheng-1 đã bị chậm trễ kéo dài vì nguyên nhân kỹ thuật và kinh tế. Mất 7 năm, ngày 1 tháng 8 năm 1974, con tàu này mới được đưa vào trang bị khi Trung Quốc phải chấp nhận những khiếm khuyết nghiêm trọng, kể cả thiếu sót trong vòng nước tải nhiệt sơ cấp của lò phản ứng hạt nhân. Việc khắc phục đi đến chỗ đã phải thiết kế một lò khác. Mất 6 năm nữa và chuyến hải trình đầu tiên Changzheng-1 chỉ có thể tiến hành vào năm 1980. Bốn tàu ngầm khác cùng loại lần lượt được hạ thuỷ trong các năm từ 1980-1990. Kinh nghiệm cxũng đã góp phần rút ngắn thời gian đóng tàu. Chiếc Trường chinh cuối cùng trong loạt đóng mất 4 năm.

    Kiến trúc của lớp tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của người Trung Hoa, dự án 091 rất giống và thường làm người ta nhớ đến loại tàu ngầm hạt nhân Pháp lớp Rubis được đóng trong thời kỳ 1976-1993 (6 chiếc), cái khác là 091 đã phóng to kích thước của Rubis. Tuy nhiên, cũng cần nói điều ngược lại. Dường như người Pháp khi tham gia đóng Changzheng-1 đã tối ưu hoá các giải pháp và đưa chúng vào Rubis. Sau tất cả, nỗ lực đóng chiếc tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Pháp, chiếc Q-244 cuối những năm 1950 đã kết thúc trong thất bại. Cũng như thời người Pháp đóng chiếc tàu ngầm chạy điện đầu tiên trên thế giới Gymnote năm 1888, họ đang phải hoàn thiện công nghệ đóng tàu ngầm của mình.

    Khác với sơ đồ truyền động kiểu Liên Xô. Ở type 091 cũng như Rubis, không có hệ thống truyền động bánh răng-hộp số chủ động từ turbine đến chân vịt. Turbine kéo máy phát AC, còn chân vịt được truyền động từ động cơ điện một chiều lấy nguồn từ máy phát AC qua bộ chuyển đổi. Công suất của lò phản ứng trên tàu đạt 48 MW.

    Theo người Nga, với sơ đồ này, truyền động điện và công suất lò phản ứng lắp đặt sẽ tương đối nhỏ gọn. Nhưng trên thực tế, chúng làm tăng tiếng ồn lên 2,68 lần so với truyền động bánh răng. Như loại tàu ngầm Los Angeles Mỹ cũng dùng sơ đồ truyền động bánh răng như của Nga.

    Tàu thuộc type 091 là loại thuần trang bị ngư lôi, chúng không có tên lửa chống tàu, tuy nhiên, 3 chiếc cuối cũng được trang bị tên lửa chống tàu YJ-8 phóng qua ống phóng đặt phía sau cabin và chỉ phóng được lúc nổi. Đó là một bất tiện vì dễ bị lộ.

    Cho dù vậy, type 091 đã trở thành niềm tự hào của người Trung Hoa. Điều rõ ràng, thiết kế type 091 còn nhiều bất cập, “bệnh tật con trẻ” nghiêm trọng, độ tin cậy của lò phản ứng hạt nhân kém, phải chữa trị nhiều trong thời kỳ hoạt động. Dù sao, Trung Quốc cũng đã tìm thấy công dụng to lớn của type 091 để biểu dương sức mạnh Hải quân Thiên Triều. Đầu tiên là ở những vùng biển xung quanh Đông Á và dải bờ biển. Trường hợp không thể chối cãi, thậm chí là không bị phát hiện khi tàu ngầm nguyên tử Trung Quốc đầu tiên type 091 đã đi theo nhóm tàu sân bay Mỹ ở khoảng cách rất gần.

    HÌNH HÀI BIỂN LỚN NGÀY MAI

    Ngày nay, Changzheng-1 đã được rút khỏi cơ cấu lực lượng hải quân Trung Quốc. Thay thế cho nó đã có tàu ngầm hạt nhân đa mục tiêu mới dự án 093 mà phương Tây gọi là lớp Shang được đóng từ đầu những năm 1990. Ít nhất đã có 1 chiếc type 093 chạy thử vào năm 2005 và 2 chiếc được đưa vào phục vụ hạm đội trong năm 2010. Như trông đợi, đến năm 2015 tất cả sẽ có 6 chiếc.

    Người ta đồn rằng, các yếu tố kỹ-chiến thuật của type 093 khá giống với tàu ngầm nước ngoài thời 70-80 của Liên Xô là dự án 671RTM (lớp Victor) thậm chí là lớp tàu Los Angeles những lô đầu tiên. Vũ khí mà type 093 được trang bị có thể sẽ là tên lửa hành trình có độ cơ động cao, tấn công mục tiêu mặt đất chính xác.

    Trước đó, chiếc duy nhất type 092 của Trung Quốc được đóng có trang bị các ống phóng tên lửa đạn đạo là chiếc Changzheng-6, tên NATO là lớp Xia được đưa vào hoạt động năm 1987 sau quá trình phát triển dài khi hạ thuỷ vào năm 1981 (nó bắt đầu được đóng năm 1978). Tàu dự án 092 có chung mô hình mẫu với type 091. Người ta cho rằng, 2 chúng là 1, ngoại trừ type 092 có thêm khoang chứa tên lửa. Trên thực tế, cả 2 có chung kiểu lò phản ứng hạt nhân, tổ hợp ngư lôi, các thiệt bị điện tử vô tuyến. Khác biệt duy nhất mà các chuyên gia Trung Quốc đưa vào type 092 là 12 tên lửa đạn đạo nhiên liệu rắn Julang-1. Thử nghiệm lần đầu tiên năm 1985 Jl-1 đã thất bại, sau đó họ chỉ phóng thành công vào năm 1988. Tên lửa một tầng Jl-1 có đặc điểm gần giống với Polaris bản A-1 Mỹ, nhưng có tầm bắn kém hơn (chỉ cỡ 1700 km).

    ảnh: type 092 type 093 và type 094
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    Rõ ràng, 1 chiếc duy nhất Changzheng-6 mà sự tin cậy kỹ thuật còn xa mới được như kỳ vọng không thể lấy làm cơ sở cho lực lượng hạt nhân hải quân chiến lược Trung Quốc. Theo bất cứ cách nào, một chiếc duy nhất không đủ đảm bảo có mặt và duy trì kiểm soát thường xuyên các vùng biển và hải quân Trung Quốc phải cần ít nhất 3 chiếc như thế. Vấn đề có thể được giải quyết khi lớp tàu phóng tên lửa đạn đạo mới (SSBN, lớp Jin-type 094) được phát triển. Type 094 lại quay về với kỹ thuật Nga và là bước tiến tiếp theo của Trung Quốc để thay cho type 092.

    Type 094 mà Trung Quốc kỳ vọng có nhiều đặc điểm tương tự dự án 667BDRM của người Nga. Khác kẻ tiền nhiệm ở chỗ hệ thống kiểm soát bắn nhỏ gọn hơn, lò phản ứng tin cậy hơn, độ ồn nhỏ, sonar và hệ thống điện tử tiên tiến, tin cậy. 12 tên lửa nhiên liệu rắn Jl-2 của type 094 có thể phóng ngầm dưới mặt nước và tầm bắn không ít hơn 8000 km. Julang-1 có thể bắn ngầm dưới mặt nước nhưng đã lạc hậu ngay từ khi đưa vào trong bị. Julang-2 là loại tên lửa liên lục địa, mang nhiều đầu đạn và được dẫn đường độc lập.

    Theo những đặc điểm được công bố, Jl-2 có thể so sánh với ICBM Mỹ Trident C-4 năm 1979. Khi phóng từ bờ phía đông quần đảo Kuril, Julang-2 có thể với tới 75% lãnh thổ nước Mỹ. Theo nguồn tin thân cận với giới nghiên cứu Mỹ, việc thử nghiệm type 094 đã bắt đầu năm 2004 và hiện tại, hải quân Trung Quốc đã có 2 chiếc lớp này. Tổng cộng, sẽ có từ 4 đến 5 chiếc type 094 được đóng trong giai đoạn 2015-2020.

    Như vậy, Trung Quốc đã triển khai có hạn chế chương trình xây dựng hạm đội ngầm nguyên tử, về số lượng có thể so sánh với Anh và Pháp, phù hợp với mục tiêu tổng thể phát triển hải quân trong giai đoạn hiện tại, mà theo đó đến năm 2020 sẽ đủ sức kiểm soát một vùng biển rộng lớn từ quần đảo Kuril đến các đảo Mariana và Caroline, từ New Guinea đến quần đảo Malaysia. Còn trong dài hạn, tham vọng của họ là sẽ có đủ khả năng để hoạt động trên tất cả các đại dương.

    Nói về viễn cảnh, các chuyên gia Trung Quốc bây giờ đang kể đến chiếc tàu ngầm tương lai, dự án 095 sẽ được triển khai để hình thành sức mạnh biển cùng với với lực lượng tàu sân bay tương lai, dự án 096 tương tự với lớp Ohio của Mỹ. Khả năng sức mạnh của một hạm đội như thế thì chỉ có thể phỏng đoán, nhưng không nghi ngờ gì, đất nước Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng đã có đủ các điều kiện và đang chuẩn bị để cho một hạm đội như thế hình thành. Vấn đề còn lại là liệu họ đã có đủ trình độ, đã vượt qua được cái tai tiếng chuyên copy và làm hàng nhái đã bao lâu qua? Chúng ta phải chờ xem.

    Bạn có nhớ nhiều vụ đụng độ Mỹ-Trung trên biển? Thật đáng tiếc khi phần thua lại thuộc về Mỹ. Như một qui luật tất yếu, mỗi khi người Mỹ yếu đi, thì người Trung Hoa lấn tới. Người Trung Hoa đã đổ máu xương xây Vạn Lý Trường Thành để chống ngoại xâm, nhưng Vạn Lý Trường Thành không ngăn được sự sụp đổ từ bên trong. Liệu Bức Tường Vạn Lý Trường Thành Ngầm vĩ đại có viết nên trang sử mới hay mang một ý nghĩa mới?
    sinofan, suhomang, halosun3 người khác thích bài này.
  8. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Trung Quốc phát triển tầu ngầm như vậy là đương nhiên. Họ đã hợp tác với Pháp trong điện hạt nhân dân sự. Trung Quốc mở ra các con đường hợp tác hạt nhân dân sự lớn với Nhật, Pháp, Mỹ, Canada, sau này lớn nhất là Nga, nhưng đó là sau này.

    Canada xây ở Trung Quốc lò Candu, nhưng họ không chuyển giao kỹ thuật khâu then chốt. Nhật Bản văng vì quá tồi. Trung Quốc đã triển khai sâu hợp tác với Pháp qua lò Vịnh Đại Á . Nhà máy Vịnh Đại Á do Hồng Công mua, nhưng đặt trên đất Tầu. Thùng lò của Vịnh Đại Á là cái thùng lò dự định làm cho nhà máy điện Iran-sau đó Đức bỏ, đến 199x Nga thầu lại có vỏ nhà lò.

    Sau đó, Framatome của Pháp phá sản vì lò Super Phenix cháy, trị giá lò này khoảng 10 tỷ USD ngày nay, lơn hơn tổng số giá trị của Avera ngày nay. Framatome=công ty hạt nhân Pháp Quốc, đã bán 1/3 cổ phiếu cho Siemens, lập liên doanh Areva, cho ra lò đội mồ sống lại EPR-1. Nhưng ngay từ năm 2006, Siemens đã chấm trượt vỏ thùng lò Framatome. Từ đó, phần lớn ác khâu được chế tạo bởi điện hạt nhân Đông Âu. Các cấu tạo lò được gia công ở nhà máy Tiệp Khắc cũ Skoda (xem các lò Pháp-Nhật gia công tại đây). CÒn giá trị lớn nhất trong cấu hình điện là lõi lò, cả nhiên liệu, dịch vụ... là Nga.

    Nhìn lại nhà máy Vịnh Đại Á. Từ đó, Trung Quốc mua rẻ kỹ thuật của con điếm Tây. Lò Pháp là lò mua lại li-xăng Westinghouse năm 1974, sau 2 lần Pháp thất bại hạt nhân với nước nặng và than chì. Tầu nhái lại là nhái của nhái. Từ 800 mw, lò nén lõi lại được 1100mw. Pháp chuyển giao dần dần cho đến khi chuyển cả khâu gia công ống nhiên liệu Fuel Rod = hết.

    Như vậy, Trung Quốc đã độc lập làm được lò nước nhẹ nén PWR. Và như thế, họ hoàn thiện tầu ngầm hạt nhân là điều đã trở nên khả thi. Năm 2012-2013 đanh dấu 094 thức vận hành hoàn hảo.



    Đó là tầu chở đạn. Đạn trên tầu thì không bàn. Ngày nay Trung Quốc là nước đứng thứ 2 thế giới về tên lửa vũ trụ. Trung Quốc đã vượt Mỹ. Đặc biệt, Mỹ chỉ có 2 vụ bắn Falcon là xuất khẩu, nhưng xuất khẩu bằng biểu tình chó dại bên Thái Lan, còn Trung Quốc xuất khẩu tên lửa sang Âu-Mỹ rộng rãi.

    Như vậy, đạn tầu ngầm Trung Quốc dễ kiếm hơn nhiều Mỹ. Mỹ từ 30 năm nay dừng ở Ohio và Trident, đến nay đã quá lạc hậu. Vậy nên Trung Quốc sánh ngang Mỹ là hết sức đơn giản.



    Còn cuối cùng, là đầu đạn. Chỉ riêng cái lò bỏ hoang mở cửa cho khách du lịch Trung Quốc đã to bằng toàn bộ các lò náu bom nước nặng của Mỹ. Tuy nhiên, các lò Mỹ đã dừng từ lâu vì thiếu tiền. Số đầu đạn của Trung Quố khó đoán, nhưng không nhỏ, riêng số Pluton của họ thì đương nhiên đủ làm hàng vạn đầu đạn, đều là Pu tốt. Trung Quốc không được Liên Xô viện trợ kỹ thuật lò nấu bom, đã thông qua Hoa Kiều nhập khẩu kiểu lò nước nặng ống đứng của Mỹ.

    Riêng Mỹ, tình trạng thiếu triti làm cho phần lớn số đầu đạn của Mỹ hiện nay không nổ được.
    2 Chuyên đề về Triti: bom Mỹ không có Triti nên chỉ còn rất ít nổ được, hầu hết kho bom Mỹ là giả.
    1. 6.2.1 Bên Liên Xô, có một vụ thử bom , thiết bị RDS-27 (РДС-27), 6-11-năm 1955, bắt đầu bom khinh khí không dùng triti.
    2. 6.2.2 Vấn đề triti và bom hạt nhân Mỹ ? Nó kéo dài từ 188x. Chúng ta đã biết các hiệp định Start, cắt giảm vũ khí hạt nhân.
    3. 6.2.3 Ai cũng đã biết cấu tạo bom khinh khí. Nó gồm một qủa bom phân rã (fission), tức bom A làm ngòi cho một quả bom tổng hợp=nhiệt hạch (fusion).
    4. 6.2.4 Ban đầu, Mỹ nấu triti trong các lò Savannah River Site SRS.
    5. 6.2.5 Vậy cái gì đã làm w88 ngòi để ở ngoài, phải dùng triti, và nước Mỹ không nuôi nổi bom, à, đó là cor***e 188x.
    6. 6.2.6 Bom hạt nhân kiểu súng.
    .






    Mỹ phải ký các START vì điều đó, bom Mỹ là bom giả. Mỹ không thể duy trì các lò sản xuất triti, triti hao đi nhanh chóng, phải dỡ đầu đạn ra đốt. Nhưng các START lại không liên quan đến Trung Quốc.

    Do đó, đương nhiên là Trung Quốc hết sức đơn giản trong việc vượt xa Mỹ về vũ khí hạt nhân.

    ========



    Bài của Jenna hình như của Pháp viết. Về huyện máy tầu ngầm thì họ nói ngược. Chính máy tầu ngầm hiện đại ủa Pháp mới dùng bánh răng. Có nhiều loại tầu Liên Xô không ó motor điện hoặc motor điện rất bé, như Lira-705. Nhưng các Yasen có 3 chế độ chạy: chạy pin được 4 knot, chạy turbine truyền động điện được 28 kn, chạy hết tốc độ bằng truyền bánh răng được 35 kn.

    Vấn đề với Pháp là nếu như chạy motor điện thì máy của họ quá cồng kềnh, vì bản thân lò cũng đã cồng kềnh.

    Trong số các đặc điểm lò hạt nhân Mỹ có một điểm hết sức ăn cắp. Đó là Mỹ duy trì chu kỳ thay đảo rất lâu. 10-20 năm. Điều này làm các lò trở nên nguy hiểm, cơ học mòn mỏi, hóa học rỗ to như bóng bàn. Nhưng điều này đảm bảo sự duy trì của giun sán giòi bọ ăn cắp.

    Các tầu ngầm ít hao nhiên liệu nhất đương nhiên là Lira có tỷ số tái sinh cao, nó thừa đủ nhiên liệu hạy hơn 40 năm. Đây là tầu duy nhất chạy neutron nhanh. Tuy nhiên, người ta ban đầu thay đảo 3 năm, rồi nâng dần lên 8, để đảm bảo.

    Bây giờ thì tầu tấn công=thú săn của Mỹ, không lặn sâu đi nhanh bằng tầu chở đạn hiến lược=mồi săn của Nga. Tầu tấn công Mỹ Seawolf và Virginia có tốc độ 25 sâu 240. Tầu chở đạn Nga Borei nhanh 29 sâu 400. Tầu tấn công Nga Yasen nhanh 35 sâu 600. Đó là Liên Xô đã không đóng thêm các tầu lặn sâu đi nhanh nhất. Anchar 44,7 knot. Lira 41 knot. Plavnik sâu 1000.

    Như thế, thì Trung Quốc có kho vũ khí hạt nhân và đội tầu ngầm hiện đại hơn Mỹ là điều đương nhiên.
    Lần cập nhật cuối: 29/12/2013
    suhomang, halosunLarvaNH thích bài này.
  9. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Những thế hệ trước thì hộp số bánh răng êm hơn điện, vì điện dùng chổi than. Sau này kỹ thuật phát triển mới chuyển sang các động cơ điện, và điều khiển bán dẫn, bỏ hộp số đi. Như vậy là có 2 giai đoạn ứng dụng ngược nhau.

    Bài này vẫn của Nga thôi.
  10. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047

    Chính xác. Ví dụ như từ đời 705 thì

    Ngày nay người ta hay có khái niệm Burushless và biến tần. Brushless là động cơ gần giống động cơ điện một chiều cũ nhưng thay chổi than bằng mạch switch công suất bán dẫn, mạch ấy đo vị trí của rotor để đấu điện lại cho các cuộn dây stator.

    Còn biến tần dùng để lắp cho các động cơ vốn sinh ra đã là động cơ điện 2 chiều, để thay đổ công suất. Trước đây, các động cơ điện xoay chiều chỉ thích nghi với một tốc độ vòng quay nhất định, khi tốc độ rotor quá lệch với tốc độ từ trường quay thì sẽ hao điện, như vậy chỉ có thể điều khiển công suất một cách tiết kiệm điện cho tầu xe bằng truyền động bánh răng. Biến tần dùng để thay đổi tốc độ quay của từ trường. Cả hai cách đều dùng được cho motor, nhưng các motor lớn thường chơi bài brushless hơn. Mạch biến tần quá phức tạp=dễ hỏng hiệu suất thấp, thật ra là để tận dụng các động cơ điện hai chiều phổ thông trong các ứng dụng riêng, ví như bơm nước nhà cao tầng, xe chạy điện lưới... Vì thế, mạch biến tần chỉ kinh tế khi dùng động cơ phổ thông, khi đã phải dùng động cơ thửa như tầu ngầm = tốt nhất là thửa luôn cả mạch brushless.

    Chính vì thế, khi chưa có các mạch bán dẫn công suất rất lớn thì chưa thể làm motor điện chạy êm. Một là phải bánh răng, hai là lại chổi than, không trốn đi đâu được. Các mạch bán dẫn hay được gọi là solidstate vì lý do đó, nó ở thể hoàn toàn rắn, đặc, không có các chuyển động cơ học, kể cả là khớp hay chổi, hay các giãn nở của sợi đốt đèn chân không... đều chưa phải "hàng hiệu solidstate".

    Các motor điện điều khiển bán dẫn là một cuộc cách mạng lớn trong tầu ngầm, thay đổi từ Lira-705 những năm 197x thành Paltus-877 những năm 198x. Đến bây giờ, việc chế tạo các motor như thế còn khó chứ không nói đến ngày đó. Paltus-877 dùng motor đồng tốc, nó nối với trục đẩy chỉ bằng khớp đệm giảm chấn-cách âm (như moay-ơ bánh sau xe máy) . Motor đồng tốc với chân vịt, không có bánh răng, thay đổi tốc độ bằng switch.



    Từ Lira-705 đến Paltus-877 còn có nhiều điểm thay đổi khác liên quan đến âm thanh và dẫn đến việc thay đổi các loại tầu ngầm khác. Lira chỉ là tầu ngầm tấn công chiến thuật.

    CHủ yếu trong thời gian đó là người ta số hóa được âm thanh. Do đó, nhờ các máy tính sử lý, tạo điều khiện dễ dàng phát hiện các tín hiệu và so với bảng mẫu để biết tham số mục tiêu (hướn, tầm, độ sâu, tốc độ.... và loại tầu gì). Ban đầu, việc điện tử hóa chỉ là các băng-đĩa từ, người ta ghi âm rồi phát lại với tốc độ cao để nghe hạ âm, hay hiển thị lên máy hiện sóng để lấy mắt thay tai "xạ thủ". Nhưng vào những 198x thì máy âm thanh số đặc chủng xuất hiện, 199x thì âm thanh số dân dụng phổ biến.

    Vì thế, các hạ âm thời số hóa được nghe rất rõ. Năng lượng của tầu ngầm chủ yếu được phát ra bởi các mặt xoáy nước- hạ âm-âm thanh nghe thấy. Hạ âm coi mặt biển nhắn như gương, nên nó pản xạ ôm theo mặt biển đi rất xa, và có công suất lớn hơn nhiều âm thanh nghe thấy. Vì vậy, từ lúc đó các tầu ngầm đời cổ bị phát hiện từ xa. Còn âm thanh nghe thấy thì giúp định vị chính xác mục tiêu ở gần, dẫn bắn chính xác.

    Vì vậy, phải thay đổi lớn cấu tạo tầu ngầm. Các Lira-705 luôn phải chạy máy trong lòng biển, ít nhất là bơm nước của các lò phản ứng và tuốc bin phụ phát điện kéo bơm đó. Máy phát của nó là 2 máy phụ 1500 kw mỗi, (máy chính 30 mw). Khi đổi sang các tầu chạy điện Paltus-877 thì khi phục kích không chạy máy cơ nào.

    Với các tầu ngầm tấn công chiến lược như Barrakuda thì không thể bỏ lò hạt nhân. Chúng là các tầu theo đuổi các tầu chạy máy hạt nhân của địch, chờ tín hiệu báo đã xảy ra chiến tranh. Vì vậy, phải chia cho chúng các chế độ chạy êm và làm tầu lặn sâu hơn.

    Về độ sâu, trước đây có các Plavnik lặn 1000. Nhưng điều đó là thừa. Plavnick đắt và không nhanh lắm. Mỹ không có tầu nào lặn sâu đến thế. Kết hợp giữa tốc độ của Anchar và độ sâu của Plavnick, các tầu tấn công hạt nhân của Nga hiện nay chạy nhanh 35 sâu 60, quá lớn so với Mỹ 25-240. Ở độ sâu lớn, âm thanh phản xạ mặt biển bị dội xuống đáy=hấp thụ nhanh hơn.

    Về các tốc độ thì như Jenna đã nói. Người ta dùng kỹ thuật bán dẫn để điều khiển công suất. Các tầu ngầm hạt nhân chia ra 3 dải tốc độ: cực êm chạy ắc quy, êm chạy máy qua motor điện, hết cỡ chạy máy qua bánh răng+motor điện. Chế độ cực êm chỉ 4 knot (các tầu mới nhất có thể đến 7), chế độ êm khoảng 15 (các tầu mới nhất đến 29). Chế độ chạy pin của các tầu ngầm hạt nhân có từ lâu đời, nhưng chỉ là cứu hộ hơn là chạy, vì từ lúc tắt lò thì điện rất hao để chạy máy bơm làm mát (ít nhất 3 ngày sau khi tắt lò vẫn phải chạy). Chế độ chạy máy phụ trước cũng có, nhưng sau tăng lên, máy phụ kéo máy phát điện, máy phát điện kéo motor, né được bánh răng.

    Vấn đề là hầu như không thể tắt cái lò hạt nhân, vì hiệu quả mang lại không nhiều mà khởi động lại nó không đơn giản, điều đó sẽ gây nguy hiểm hết sức nếu có động. Chính vì thế, luôn có tối thiểu một chút tuốc bin và các quạt làm máy lò là vẫn chạy. Chúng tạo ra âm thanh không thể tắt được cho tầu ngầm hạt nhân.

    Vì vậy, các thay đổi lớn song song với chuyển từ 705 hạt nhân sang 877 không hạt nhân, là các tầu không thể bỏ được lò hạt nhân. Các tầu này có máy phát điện to hơn, motor to hơn, trước có thể không có-hay có nhưng bé. Các motor này được điều khiển bán dẫn. Nhưng vấn đề là Liên Xô trang bị tầu ngầm hạt nhân rất chậm, một số lượng lớn các tầu là cứ hoán cải đi hoán cải lại tầu cũ rích (như các 671 hay các 667), nên không thể thay được lớn cấu tạo máy tầu.
    suhomang, halosunLarvaNH thích bài này.

Chia sẻ trang này